Tải bản đầy đủ (.docx) (106 trang)

Cái tôi trữ tình trong thơ nguyễn khuyến và trần tế xương từ góc nhìn so sánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.26 KB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN

LÝ THỊ NGỌC MAI

••

“CÁI TƠI” TRỮ TÌNH TRONG THƠ
NGUYỄN KHUYẾN VÀ TRẦN TẾ XƯƠNG TỪ GĨC NHÌN SO SÁNH

Chun ngành : Văn học Việt Nam
Mã số

: 60 22 01 21

Người hướng dẫn: TS. PHẠM THỊ NGỌC HOA


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan cơng trình này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn của TS. Phạm Thị Ngọc Hoa. Các số liệu, kết quả nêu
trong luận văn là trung thực và chưa được cơng bố trong bất cứ một cơng trình
nghiên cứu nào.


TRANG PH ÌA
LỜI CAM ĐOAN
M C C Trang
1.
3.3.1.
3.3.2.



Sự khác biệt trong phương thức thể hiện “cái tôi” “cổ điển”

2....................................................................................................................
3..........................................................................................................
4.

QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI UẬN V N THẠC S ản sao


4

5.

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn chương không chỉ là bức tranh đời sống mà còn là bức chân
dung tinh thần của chủ thể sáng tạo. Chủ thể ngoài tư cách là người
sáng tạo ra những giá trị tinh thần còn là đối tượng miêu tả, biểu
hiện; chủ thể không chỉ được xem như là một yếu tố tạo nên nội dung
tác phẩm mà còn được xem như là một phương tiện bộc lộ nội dung
của tác phẩm, là một thành tố của thế giới nghệ thuật do tác phẩm tạo
ra. Ở những nhà thơ có cá tính sáng tạo độc đáo thì chủ thể càng in
đậm trong sáng tác của họ. Một số nhà thơ tiêu biểu cho giai đoạn
văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX càng minh chứng rõ điều đó.
6.

Xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX có nhiều biến động ngay


khi mở đầu tiếng súng xâm lược của Thực dân Pháp vào năm 1858. Một xã hội
hiện diện với nhiều hình thái ý thức, tư tưởng, cái cũ chưa mất đi, cái mới chưa
được hình thành. Cái mới chen lẫn cái cũ, kiểu Tây hòa trộn kiểu ta..., tất cả
lẫn lộn, đan chen vào nhau cùng với bao sự nhố lăng, kệch cỡm. Đó chính là
một trong những ngun nhân cơ bản cho một bộ phận văn học trào phúng
xuất hiện.
7.

Văn học trung đại từ thế kỷ X đến cuối thế kỷ XIX về cơ bản phát

triển trong môi trường xã hội phong kiến với ý thức hệ nho giáo. Từ trước thế
kỷ XVIII, tiếng cười của các nhà nho, nhà thơ “bật ra” sau nỗi ưu tư đã xuất
hiện trong thơ văn, đặc biệt là trong nhiều sáng tác khuyết danh. Song, phải
đến thế kỷ XIX, khi Nho giáo đã bộc lộ những mặt hạn chế không thể khắc
phục trước sự xâm nhập của thực dân phương Tây thì đằng sau tấc lịng ưu ái,
tiếng cười châm biếm, đả kích mới đến độ cao trào.
1.2. Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương là đại biểu xuất sắc của làng thơ
trào phúng Việt Nam những thập niên cuối thế kỷ XIX. Một trong


5

những lý do làm cho thơ trào phúng Nguyễn Khuyến và Trần Tế
Xương có sức sống trường tồn và ngày càng khẳng định vị thế của
mình trên văn đàn nghệ thuật chính là chất trữ tình ẩn sau tiếng cười
đả kích sâu cay theo hướng phản tỉnh, trào phúng và phủ định thực
tại.
8.

Tuy có sự chênh lệch về tuổi tác, về đường công danh, nhưng


Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương có một số điểm gần gũi trong cách nhìn
nhận và đánh giá thời cuộc. Bức tranh thời đại qua cái nhìn của hai nhà thơ
cùng thời là một bức tranh xã hội với nhiều mảng màu đậm, nhạt, trắng, đen...
Ở đó, dung chứa một trái tim sâu lắng với đời và cả tiếng cười u mua, trào
lộng...
9.

Tuy nhiên, thể hiện niềm đau và tiếng cười chua cay trước thời đại

của những nhà nho vẫn có những “cung bậc” khác nhau. Với Nguyễn Khuyến,
nhà Nho “đại nhân quân tử”, đằng sau nỗi niềm trầm lắng ưu tư thời cuộc là
tiếng cười nhẹ nhàng thâm thúy, kín đáo “khuyên răn”. GS. Dương Quảng
Hàm nhận định: “Nguyễn Khuyến chỉ trích thói đời một cách nhẹ nhàng kín
đáo, rõ ràng bậc đại nhân quân tử muốn dùng lời văn trào phúng để khuyên răn
người đời” [19, tr.38]. Nhà nho thị dân, Trần Tế Xương “ban ngày” ln dí
dỏm sâu cay, cười cợt đả kích vào mọi đối tượng để rồi “ban đêm” lại trở về
với chính mình trong thui thủi, cơ đơn. GS. Nguyễn Đình Chú nhận xét: “Có
hai Tú Xương trong thơ: Một ban ngày và một ban đêm, ban ngày thì xơng
xáo, quan sát nghe ngóng săn tìm mọi thứ để rồi phá lên những trận đòn cười
như muốn xé xác chúng ra. Nhưng ban đêm khi một mình với bóng thì chao ôi!
Buồn ôi là buồn!” [5, tr.62].
10.

Như vậy, hai nhà nho Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương trong

cùng thời đại lịch sử đầy giông bão đều mang hai tâm sự buồn vui trước thế sự
nhân sinh và cùng trải lòng trên những trang thơ đậm tiếng cười trào lộng lẫn



6

những tâm sự sâu kín u uẩn. Cùng khóc, cùng cười trước con người, cuộc đời
và số phận dân tộc, nhưng giọng thơ của hai nhà nho cùng thời chẳng hề giống
nhau, nói như nhà thơ Chế Lan Viên: Yên Đỗ khóc dẫu cười khơng thể giấu/
Tú Xương cười như mảnh vỡ thủy tinh.
11.

Thơ văn Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương được coi là thành tựu

cuối cùng của nền văn học trung đại Việt Nam. Nghiên cứu thơ văn Nguyễn
Khuyến và Trần Tế Xương, hơn trăm năm nay đã được quan tâm trên nhiều
bình diện. Kế thừa thành tựu những cơng trình đi trước, chúng tơi tiếp tục tìm
hiểu một khía cạnh khác về sự đan xen các tâm trạng của hai nhà nho trong
sáng tạo nghệ thuật được thể hiện qua thơ. Từ đó, chúng tơi nhận diện hình
tượng “cái tơi” trữ tình được thể hiện trong thơ qua sự phức hợp các giọng điệu
của mỗi nhà thơ, từ góc nhìn so sánh.
12.

Đề tài “Cái tơi” trữ tình trong thơ Nguyễn Khuyến và Trần Tế

Xương - Từ góc nhìn so sánh của chúng tơi được hình thành, xuất phát từ
những lý do trên.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
13.

Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương là những nhà thơ lớn, những

nhân cách lớn của dân tộc. Sự nghiệp thơ ca của Nguyễn Khuyến và Tú Xương
được đánh giá cao. Việc nghiên cứu thơ văn của hai nhà thơ cũng đạt được

nhiều thành tựu trên nhiều phương diện: sưu tầm, dịch thuật, giới thiệu, nghiên
cứu... Trong phạm vi liên quan đến đề tài, chúng tơi lược thuật một số cơng
trình nghiên cứu sau.
14.

Nghiên cứu sự nghiệp thơ ca của nhà Nho Nguyễn Khuyến, một

người luôn coi trọng danh dự và tỉnh táo với cơng danh phú q, trong cơng
trình nghiên cứu “Thi hào Nguyễn Khuyến - đời và thơ” do Nguyễn Huệ Chi
(chủ biên), tác giả nhận ra con người “thực” Nguyễn Khuyến được thể hiện
trong thơ khá rõ. Đó là một nhà nho có nhân cách trong sáng, tâm hồn cao


7

thượng tồn tại giữa một xã hội nhố nhăng tốt xấu, thực hư lẫn lộn. GS. Nguyễn
Huệ Chi nhận định: “Nhận thức ra được sự bất lực của bản thân và cả lớp
người cùng thế hệ, Nguyễn Khuyến châm biếm, phê phán, chê trách những mặt
hạn chế của lớp người đó. Vì thế mà trong đối tượng bị phê phán kia có chính
hình bóng con người nhà thơ'... Sự bộc lộ cái tơi trữ tình tác giả đã thực sự góp
phần tạo cho thơ trào phúng Nguyễn Khuyến có bản sắc độc đáo” [1, tr.46].
Nhận định trên đã chỉ ra trong thơ trào phúng độc đáo của Nguyễn Khuyến có
“hình bóng” con người nhà thơ với “cái tơi trữ tình” độc đáo. Nhận xét này gợi
dẫn chúng tơi tìm hiểu cái tôi nhà nho Nguyễn Khuyến trong sự đối sánh với
cái tơi nhà Nho cùng thời Trần Tế Xương.
15.

Tìm hiểu tâm sự Nguyễn Khuyến qua một số bài thơ “Thu”, GS.

Lê Trí Viễn khẳng định: “Nhà thơ say vì nỗi buồn trước vận nước và bứt rứt

khơn ngi trong lịng. Mượn vài chén rượu cho khuây nhưng uống vào lại
thấy nỗi niềm ấy hiện ra rõ rệt hơn, làm lảo đảo đến cả cảnh vật đêm thu. Có
những lúc khơng rượu và tâm trạng chừng vui hơn, cụ Tam Nguyên đã tự cười
mình và cũng thấy người mình như say: “Khấp khểnh ba chân dở tỉnh say” kia
mà!” [22, tr.359]. Có hai con người trong một Nguyễn Khuyến; con người
“tâm trạng” đầy ưu thời mẫn thế và con người “tự trào”. Hai con người ấy, đơi
khi khó tách bạch, nó hịa vào nhau, đan cài vào nhau trong tình huống “dở
tỉnh say”, và dù hiển hiện kiểu“con người” nào, “cái tơi” trữ tình nhà thơ cũng
bộc lộ trên những trang thơ khá rõ.
16.

Nghiên cứu về những nhà thơ cổ điển Việt Nam, nhà thơ Xuân

Diệu dành cho Nguyễn Khuyến những lời nhận định trân trọng: “Nguyễn
Khuyến luôn nghĩ đến danh tiết. Ngồi trước đèn, ơng nhìn con thiêu thân nghĩ
ngợi về phẩm chất của nó, thấy ở nó một tượng trưng: Biết tìm đến nơi sáng
mà chết, và khơng chết hăng máu một lúc, ung dung bay lượn như suy nghĩ
trước rồi mới chết (Xuân dạ liên nga) (.). Cái tâm huyết Nguyễn Khuyến bàng


8

bạc trong thơ, kết đọng lại trong nhiều bài thơ Nơm rất hay (Nghe cuốc kêu).
Tiếng kêu có máu, khắc khoải, tiếng huyết kêu: mất nước! nhớ nước!”[10,
tr.65]. Đó là hình ảnh nhà nho cao nhã ln kín đáo, thâm thúy gửi gắm tâm sự
nặng lòng trên những trang thơ. Bên trong một nhà nho un thâm, cịn có
bóng dáng của nhà thơ trào phúng làng Yên Đỗ sâu sắc. Hai “con người” này
hòa vào nhau trong một bậc “đại nho, cao sĩ” Nguyễn Khuyến giữa thời kỳ lịch
sử xã hội rối ren tạo cho thơ ông một phức điệu thơ trữ tình và trào phúng đặc
sắc.

17.

Trong cơng trình nghiên cứu “Việt Nam văn học sử yếu”, GS.

Dương Quảng Hàm đặt vị trí Nguyễn Khuyến vào hàng ngũ các nhà thơ trào
phúng nổi tiếng của văn học dân tộc. Nhìn ở góc độ con người tự trào trong thơ
Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu cũng nhận định: “Nguyễn Khuyến cười chế nhẹ
nhàng, hóm hỉnh khơng cấu xé vào nhân vật, sự vật như Tú Xương (...). Đây
cũng là một thứ u mua (humour) “phớt ăng lê”, và đây là một thứ cười “mát”,
nói “mát”, chửi “mát” theo lối của Việt Nam, nói ngọt mà lọt đến xương, rất
sâu sắc !” [6,tr.102]. Nhận xét trên cho thấy trong tiếng cười u mua, “chửi
mát”, “cười mát” của Nguyễn Khuyến khác với tiếng cười “cấu xé vào nhân
vật” của Tú Xương. Rõ ràng, hai nhà nho cùng thời này đã cất lên tiếng cười
“chua chát” như nhau, nhưng trong sắc thái giọng điệu có phần riêng biệt khác
nhau.
18.

Trong Cơng trình nghiên cứu “Văn học trung đại Việt Nam” (GS.

Nguyễn Đăng Na chủ biên), nhận định về Nguyễn Khuyến, tác giả cho rằng:
“Nguyễn Khuyến là một gương mặt độc đáo, đại diện cho lớp nho sĩ cuối thế
kỷ XIX, yêu nước thương nhà nhưng bế tắc về lý tưởng và lúng túng trong
hành động (...) Nhẹ nhàng, trân trọng, sâu lắng và không khỏi pha chút đắng
cay suy ngẫm..., tất cả được thu kết lại trong “hạt lệ” cạn kiệt khổ đau của thơ
ơng. Đó là tâm huyết của một tài năng xuất chúng, một tâm hồn trong sáng,


9

bình dị, nhân ái đầy tin yêu” [55, tr.306]. Một Nguyễn Khuyến đại diện cho lớp

nho sĩ cuối thế kỷ XIX, yêu nước thương dân nhưng “bế tắc về lý tưởng và
lúng túng trong hành động” đã hiện diện trong những vần thơ đa giọng điệu.
19.

Nghiên cứu thơ văn Nguyễn Khuyến trên phương diện kiểu hình

tượng tác giả trong tác phẩm, trong cơng trình nghiên cứu Loại hình văn học
trung đại Việt Nam, PGS.TS. Biện Minh Điền nhận định: “Ta có thể nhận thấy
những biến thức sinh động từ các mơ hình, chuẩn mực của văn học nhà nho
trong thơ Nguyễn Khuyến, có thể nhận thấy kiểu hình tượng tác giả, hình
tượng nhân vật trữ tình truyền thống nhưng mang dấu ấn cá tính nhà nho cũng
đầy sức sống trong thơ ơng (.). Từ cái nhìn kín đáo, thâm thúy, bao dung., thao
thức vận đời vận nước. đến hổ thẹn dằn vặt vì sự bất lực của kẻ sĩ.” [13,
tr.173]. Như vậy, trên những trang thơ Nguyễn Khuyến mang “dấu ấn cá tính
nhà nho” khá rõ.
20.

Tuy khơng cùng vị thế như Nguyễn Khuyến, nhưng Trần Tế

Xương cũng luôn được nhắc đến là một nhà Nho cuối mùa cùng thời đại. Nhà
nho “thị dân” Trần Tế Xương cũng có một số điểm tương đồng với nhà nho
“đại nhân” Nguyễn Khuyến trong các cung bậc cảm xúc khi thể hiện trong thơ.
Nghiên cứu về thơ Trần Tế Xương, trong cơng trình: “Trong dịng sơng Vị, phê
bình văn chương và thân thế Trần Tế Xương”, Trần Thanh Mại khẳng định
giọng thơ trào phúng Tú Xương “dung chứa” nhiều gam độ: “. Giọng phong
lưu đã chiếm phần quan trọng nhất trong văn nghiệp của ông, chẳng qua là
những tiếng cười gàn, “cười ra nước mắt” để che đậy cái “khóc sợ càng thêm
hổ ngươi” mà thôi” [18, tr.49]. Cùng là tiếng cười “cười chua chát” về thế thái
nhân tình đảo lộn mọi trật tự, kỷ cương, nhưng tiếng cười của ông Tú thành
Nam là tiếng cười chua chát“cười ra nước mắt”.

21.

Các nhà soạn giả văn học đã đưa thơ văn Nguyễn Khuyến và Tú

Xương vào “Hợp tuyển thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX” như một sự


10

khẳng định về tài năng sáng tác của hải nhà thơ. Chế Lan Viên chia thơ văn
trào phúng Việt Nam xưa nay thành hai dòng: lớn và bé. Lớn là có sự kết hợp
giữa trào phúng và trữ tình, bé là khơng có hoặc ít có sự kết hợp giữa trào
phúng và trữ tình; Nguyễn Khuyến và Tú Xương thuộc dịng lớn.” [5, tr.40].
Cách phân chia trên, cho thấy có sự gặp gỡ trong sáng tác nghệ thuật qua việc
“kết hợp giữa trào phúng và trữ tình” trong việc thể hiện cái tôi của hai nhà thơ
cùng thời Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương.
22.

Nghiên cứu về phong cách thể hiện thơ “khơng tắt gió”, “khơng

bay ra khói” của Tú Xương, Nguyễn Tn lý giải điều đó chính là vì: “Thơ Tú
Xương đi bằng cả hai chân: hiện thực và trữ tình, mà cái chân hiện thực ở
người Tú Xương chỉ làm một cẳng chân trái tả thực, chủ đạo cho đà thơ là ở
chân phải mà Tú Xương đã băng được mình tới chúng ta bằng nước bước lãng
mạn trữ tình [29, tr.72]. Rõ ràng, trong thơ Trần Tế Xương có sự kết hợp hài
hịa hai chân “hiện thực và trữ tình, hiện thực và lãng mạn”. Sự kết hợp ấy đã
tạo cho thơ Trần Tế Xương có một lối đi riêng, khó lẫn.
23.

Tú Xương dù có làm thơ theo kiểu “xuất khẩu thành chương”


cười cợt giễu nhại cuộc đời hay có lúc nào đó cầm bút mà trải lịng trên những
trang thơ thì dứt khốt vẫn khơng phải thơ ra từ miệng, từ bút, mà trước hết là
từ cõi lòng, từ cõi tâm... Cái tâm tức là thế giới trữ tình của chính nhà thơ, nó
gắn liền với vận mệnh của đất nước, với thời thế, với giai cấp và với chính cả
ngay số mệnh của nhà thơ giữa cuộc đời. Nhận xét về “gốc rễ” trào phúng và
trữ tình trong thơ Trần Tế Xương, GS. Nguyễn Đình Chú nhận định: “Tú
Xương được mệnh danh là nhà thơ trào phúng kiệt xuất, trước hết cũng là nhờ
có cái “tâm” (.). Cõi tâm tức là thế giới trữ tình trong thơ Tú Xương. Nó gắn
với vận mệnh đất nước, với thời thế, với giai cấp Tú đã đưa chính mình vào
thơ mình như một nhân vật khách thể: Nhân vật Tú Xương, có cá tính rõ rệt và
ít nhiều có ý nghĩa điển hình sâu sắc cho cả một lớp người, lớp người của Tú


11

Xương trong một thời buổi, thời buổi của Tú Xương” [4, tr.27]. Như vậy, nhân
vật trữ tình trong thơ Tú Xương, hay “cái tơi” trữ tình phần nào được thể hiện
chính ngay số mệnh nhà thơ giữa cuộc đời.
24.

Trong cuốn Văn học Trung đại Việt Nam, nghiên cứu về hiện

tượng ngôn ngữ “độc đáo” trên phương diện trào phúng - hiện thực của thơ Tú
Xương, GS. Nguyễn Đăng Na nhận định: “Thơ Trần Tế Xương có lắm bài hay,
dù trữ tình hay trào phúng. Những bài thơ xuất sắc của ông hay cả ý lẫn lời,
cấu tứ và sử dụng ngơn từ độc đáo. Tuy nhiên, nói đến thơ Trần Tế Xương, cái
phong cách gây ấn tượng nhất lại tập trung ở phương diện trào phúng, đả kích”
[56, tr.318].
25.


Nghiên cứu thơ và cuộc đời con người nhà thơ biểu hiện trong thơ

Trần Tế Xương, Xuân Diệu cho rằng: “Có sự thống nhất hai luồng trữ tình và
trào phúng trong một con người: một trái tim, một linh hồn, một trí tuệ, một tài
năng của một thi sĩ, nhà thơ lớn Tú Xương !” [6 tr.137]. Nhận xét của Xuân
Diệu góp thêm sự khẳng định có hai luồng trữ tình và trào phúng đan xen trong
một con người: một trái tim, một linh hồn, một trí tuệ, một tài năng của một thi
sĩ Tú Xương.
26.

Trên Tạp chí Sáng tạo năm 1957, Nguyễn Sỹ Tế có bài viết “Hệ

thống trào phúng của Trần Tế Xương”. Nghiên cứu sâu sắc hệ thống “tiếng
cười” trong thơ Trần Tế Xương, tác giả đã khái quát một cách ngắn gọn truyền
thống trào phúng trong văn học Việt Nam, phân tích nguyên nhân và đối tượng
trào phúng trong thơ Tú Xương là do yếu tố khách quan xã hội cộng với tài thơ
trào phúng của nhà thơ “non Côi - sông Vị”. Tác giả nhấn mạnh: “Tú Xương
không đạo đức hão, không vị nể, không tự ái, khơng nhẹ nhàng kín đáo, khơng
đại cương lý thuyết, khơng gián tiếp, không sợ người ta giận thù, không sợ sự
thật... đó là những yếu tố góp phần tạo nên tính đặc sắc trong phương thức biểu
hiện nghệ thuật của thơ văn Trần Tế Xương” [81, tr.36].


12

27.

Từ lâu nay, nghiên cứu về Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương trên


nhiều phương diện, về con người cuộc đời; về nội dung phản ánh; về hình thức
thể hiện ... đã có rất nhiều cơng trình đề cập đến. Thơ là tiếng lòng của chủ thể.
Dù sống cùng thời đại, cùng bước qua nền giáo dục Nho giáo, song rõ ràng,
tiếng thơ hai nhà thơ, nhà nho cuối mùa ở cuối thế kỷ XIX cất lên trên những
trang thơ hẳn chẳng thể trùng khớp nhau. Ở hai nhà thơ tài hoa cùng thời này
có những điểm tương đồng và cũng có những độc đáo trong sáng tác nghệ
thuật của mình. Đề cập đến vấn đề này, Xuân Diệu cho rằng: “Nguyễn Khuyến
là nhà đại nho, người cao sĩ trong thời kỳ bắt đầu mất nước, bao nhiêu sự kiện
phản ánh vào ông, bao nhiêu dằn vặt, tranh đấu trong tâm hồn ông. Tú Xương
chỉ đỗ tú tài, chỉ hơn anh đồ một bậc, danh vị trong xã hội chưa đến là bao, cho
nên dễ tung tẩy, dễ phá phách, dễ ăn nói, dễ viết thơ phóng túng hơn! (.).
Nguyễn Khuyến làm quan đế bậc quyền Tổng đốc, dẫu sao cũng không thể trở
xuống làm anh đồ, thầy tú, cho nên phải tự mình câu thúc mình hơn (.). Cịn Tú
Xương đã nói là nói đến mức cao độ, đến mức điển hình, đến mức nổi bật hết
tất cả những gì gai góc của vấn đề của sự vật, tức là từ những gì sâu thẳm của
mình mà nói ra. Đó là một giọng nói cất lên từ tâm huyết, nó trào phúng, nó đả
kích cũng là tâm huyết, nó trữ tình lại càng tâm huyết, mà tâm huyết chứa
đựng trong những lời thơ rất hay. Đó là vinh quang của nhà thơ Tú Xương”[5,
tr.125]. Rõ ràng, giữa hai nhà thơ, nhà nho cùng thời này có những điểm tương
đồng và khác biệt trong sự thể hiện “cái tơi” trữ tình qua thơ.
28.

Nguyễn Khuyến và Tú Xương là hai đại biểu xuất sắc nhất thuộc

khuynh hướng phản tỉnh, trào phúng và phủ định thực tại. Song, thơ văn ở hai
nhà thơ, nhà nho cuối mùa này vẫn có những “đường nét” riêng. Nhận xét về
điều này, Đặng Thai Mai cho rằng: “Yên Đổ với một vài người bạn vẫn tủm
tỉm những nụ cười khinh bỉ. Tú Xương chế giễu đời và tự chế giễu cả mình,
cười mình để cười đời” [13, tr.146]. Lý giải đôi chút về sự khác nhau giữa hai



13

nụ cười “cười mình cười đời” của Tú Xương và Nguyễn Khuyến, PGS.TS.
Biện Minh Điền giải thích: “Xuất phát điểm để Tam Nguyên Yên Đổ bước vào
làng văn sĩ Nho gia là hết sức thuận lợi (...). So với Yên Đổ thì Tú Xương bất
lợi hơn nhiều. Có lẽ một phần vì thế mà Tú Xương lắm phen buồn giận tư cách
“nhà văn” của mình: Muốn bỏ văn chương học võ biền” [13, tr.172].
29.

Hơn một thế kỷ qua, nghiên cứu thơ văn Nguyễn Khuyến, Tú

Xương, có rất nhiều cơng trình tiêu biểu như: “Thi hào Nguyễn Khuyến - đời
và thơ” (Nguyễn Huệ Chi); “Nguyễn Khuyến - tác giả và tác phẩm” (Vũ
Thanh); “Luận về Nguyễn Khuyến” (Nguyễn Duy Diễn);“Nguyễn Khuyến,
nhà thơ Việt Nam kiệt xuất” (Văn Tân);“Nguyễn Khuyến - thân thế và thi văn”
(Thế Nguyên);“Tú Xương - Thơ, lời bình và giai thoại” (Mai Hương);“Thi
pháp thơ Tú Xương” (Hồ Giang Long); “Tú Xương - con người và nhà thơ”
(Trần Thanh Mại); “Thơ văn Trần Tế Xương” (Nguyễn Đình Chú, Lê Mai);
“Trần Tế Xương về tác gia và tác phẩm” (Vũ Văn Sỹ, Đinh Minh Hằng,
Nguyễn Hữu Sơn); “Thơ Tú Xương trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt
Nam” (Đồn Hồng Ngun)... Đây là những cơng trình nghiên cứu, sưu tập về
thơ văn Tam nguyên Yên Đổ và Tú Xương một cách quy mơ, hệ thống. Những
cơng trình trên, đặt vấn đề nghiên cứu trên nhiều bình diện khác nhau, các nhà
nghiên cứu giải quyết theo mục đích của mình. Ở những cơng trình nghiên cứu
ít nhiều đều có quan tâm đến sự thể hiện con người Nguyễn Khuyến và Tú
Xương biểu hiện trong thơ.
30.

Nghiên cứu trên phương thức nghệ thuật thể hiện của hai nhà thơ


Nguyễn Khuyến, Tú Xương cũng có rất nhiều cơng trình đề cập đến. Đánh giá
về những đóng góp lớn lao thơ Nơm trên phương diện nghệ thuật thể hiện của
Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương trong dịng thơ Nơm Đường luật, GS.
Nguyễn Đăng Na cũng đã khẳng định: “Hai tác giả lớn cuối cùng của dịng thơ
Nơm Đường luật là Trần Tế Xương và Nguyễn Khuyến. Hai tác giả này đã


14

chuyển thơ Nôm Đường luật từ văn học trung đại sang văn học cận - hiện đại”
[55, tr.293]. Điều đó cho thấy, thơ Nôm Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương có
những đóng góp lớn trong việc chuyển biến từ văn học trung đại sang văn học
cận - hiện đại Việt Nam.
31.

Cùng thời với người “bế tắc về lý tưởng” Nguyễn Khuyến, “ánh

sao lạ vụt sáng trên bầu trời văn chương nước Việt”, Trần Tế Xương cũng rơi
vào bi kịch “bế tắc”, bi kịch “con người thừa”. Nhận định về Trần Tế Xương,
GS. Nguyễn Đăng Na cho rằng: “Thơ ca Trần Tế Xương đã thể hiện một cách
cụ thể, sinh động tâm trạng chán nản, phẫn uất đến cực điểm của ông đối với
hiện thực cuộc sống đương thời (...). Thơ ơng cịn là giọng trào lộng đầm đìa
nước mắt của một nạn nhân trước bi kịch thi cử. Đây là mâu thuẫn giữa lý
tưởng và hiện thực” [53, tr.308]. Trước hiện thực xã hội như nhau, hai nhà Nho
cùng thời đã có những phương cách thể hiện cảm xúc khơng giống nhau trong
việc thể hiện cái tơi trữ tình.
32.

Đặt trong tương quan thời đại, xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX,


hai nhà Nho đều rơi vào “bi kịch”, đều giống nhau trong sự “bế tắc về lý
tưởng”. Hẳn nhiên, hành xử ở từng người là không giống nhau. Theo đánh giá
của Vũ Tiến Quỳnh về Nguyễn Khuyến “tuy có lúng túng, song đã kịp thời đi
tìm sự giải thốt “thử ướm mình qua nhiều tâm trạng, nhiều địa vị mong tìm
nơi ẩn náu yên ổn, khả dĩ đưa lại ít nhiều thanh thản cho tâm hồn trong bối
cảnh đầy bão tố” [68, tr.299]. Trong khi đó, Trần Tế Xương cũng “bế tắc”
trong cái đêm đen “lẩn quẩn” của xã hội, ơng lựa chọn cách thể hiện mình, ơng
vung vít, ngoa ngoắt, khinh mạn, chì chiết về giống bất nhân, rồi lại đau đáu
với người thân, với bạn bè... trong những lời chân thành hết mực. Để từ đó thơ
ca Trần Tế Xương đã thể hiện một cách cụ thể, sinh động tâm trạng chán nản,
phẫn uất đến cực điểm của nhà thơ. Tất cả những biểu hiện về “cái tơi” trữ tình
của hai nhà thơ đã thể hiện trong thơ khá rõ.


15

33.

Nghiên cứu thơ văn Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương trên nhiều

bình diện khác nhau từ trước đến nay ln được nhiều nhà nghiên cứu quan
tâm, tìm hiểu và có, những đánh giá nhận định xác đáng về biểu hiện cái tơi trữ
tình trong thơ của hai nhà thơ. Vì những mục đích nghiên cứu khác nhau, phần
lớn các cơng trình nghiên cứu độc lập hai nhà thơ hoặc đặt hai nhà thơ trong sự
đối sánh cũng chỉ để phục vụ cho mục đích nghiên cứu riêng. Những cơng
trình nghiên cứu trên sẽ là những gợi dẫn cần thiết để chúng tơi tiếp nối đi vào
tìm hiểu một cách hệ thống thơ ca của hai nhà Nho cùng thời với những nét
tương đồng và khác biệt trong việc thể hiện cái “tơi” trữ tình của từng nhà thơ
thể hiện trên thi phẩm.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
34.

Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là sự đối sánh giữa “cái

tơi” trữ tình trong thơ Nguyễn Khuyến và Tú Xương. Trên cơ sở so sánh sự thể
hiện “cái tôi” trữ tình trong thơ của hai nhà thơ, chúng tơi hướng đến làm rõ
giá trị nội dung và nghệ thuật trong hệ thống sáng tác, từ đó nhận diện sự suy
nghiệm trong tính đa diện, trầm lắng, xót xa ngay trong tiếng cười châm biếm
của mỗi nhà thơ.
35.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài là hệ thống các bài thơ của hai tác

giả, Nguyễn Khuyến và Tú Xương. Chúng tôi chọn cuốn Nguyễn Khuyến tác phẩm (Nguyễn Văn Huyền chủ biên) và cuốn Thơ văn Trần Tế Xương của
Nguyễn Đình Chú (1988), NXB Giáo dục Hà Nội để làm văn bản khảo sát.
36.

Trong quá trình nghiên cứu, khảo sát văn bản, chúng tôi tham

khảo, vận dụng một số nhận xét, đánh giá từ những kết quả nghiên cứu của
một số cơng trình khác nhằm làm rõ hơn nội dung đề tài.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
37.

Trong dịng chảy thời đại, trong bối cảnh lịch sử chung có cùng ý

thức hệ thời đại, những người sáng tác nghệ thuật, bên cạnh sự “tuân chuẩn”



16

giống nhau trên cái nhìn đại thể, mỗi cá nhân nhà thơ vẫn có sự khác biệt trong
cách nhìn, cách cảm, cách thể hiện... của mình trong từng thi phẩm.
38.

Thơng qua việc khảo sát, phân tích “cái tơi” trữ tình trong thơ của

Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương, chúng tôi hướng đến đối sánh “cái tơi” trữ
tình thể hiện trong thơ của từng cá nhân tác giả. Đồng thời, qua nội dung biểu
hiện và phương thức nghệ thuật thể hiện “cái tôi” trong thơ của Nguyến
Khuyến và Tú Xương, việc dẫn ra những điểm tương đồng và khác biệt của hai
tác gia lớn trong dòng văn học Trung đại vào thời điểm Nho tàn cuối thế kỷ
XIX là mục đích của luận văn.
5. Phương pháp nghiên cứu
39.

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng linh hoạt một số

phương pháp cơ bản sau:
5.1. Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại: Khảo sát tồn bộ tác
phẩm chữ Nơm của Nguyễn Khuyến và Tú Xương để minh chứng
nét tương đồng, khác biệt giữa “cái tơi” trữ tình của hai nhà thơ.
5.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp: Là phương pháp phân tích giá
trị nội dung và nghệ thuật của hai hệ thống tác phẩm để minh chứng
cho đề tài này.
5.3. Phương pháp so sánh và đối chiếu: Trong quá trình nghiên cứu,
chúng tơi đặt thơ Nguyễn Khuyến và Tú Xương trong tương quan so
sánh để thấy được những nét chung và điểm khác biệt giữa hai nhà
thơ. Bên cạnh, sự so sánh, đối chiếu với một số tác giả khác cùng

thời để làm nổi bật luận điểm đề ra là hết sức cần thiết.
6. Cấu trúc của luận văn
40.

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục,

Nội dung chính của khóa luận được chia thành 03 chương, cụ thể như sau:
41.

Chương 1: Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương - Con người và thời


17

đại
42.

Chương 2: Biểu hiện “cái tơi” trữ tình trong thơ Nguyễn Khuyến,

Trần Tế Xương - Từ góc nhìn so sánh
43.
Chương
3: Phương
thứcnhìn
nghệso
thuật
và Trần
Tế Xương
- Từ góc
sánhthơ Nguyễn Khuyến



44.
45.

Chương 1

NGUYỄN KHUYẾN, TRẦN TẾ XƯƠNG - CON NGƯỜI VÀ THỜI

ĐẠI
1.1.

ối cảnh lịch sử - xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX

1.1.1.

Xã hội nửa thực dân, phong kiến đầy biến động

46.

Việt Nam vào những thập niên cuối thế kỉ XIX là một thời kỳ lịch

sử rối ren, phức tạp với các thể chế chính trị nửa thực dân, phong kiến cùng
với các ý thức hệ “nhập nhằng” xuất hiện. Cái cũ truyền thống chưa mất đi, cái
mới “nhố nhăng” lại tràn vào xã hội, tạo nên một xã hội đầy biến động mới cũ, Tây - ta hỗn loạn.
47.

Một vấn đề lớn đặt ra cho sự sống còn của đất nước khi thực dân

Pháp tiến quân xâm lược nước ta là canh tân cải tổ đất nước hay thủ cựu giữ.

Tuy nhiên, các triều đại phong kiến nhà Nguyễn vẫn giữtư tưởng thủ cựu, lo
chăm chút, xây dựng cung điện, “trọng nông, ức thương”, cho phương Tây là
“ngoại di”, hơn là cải tổ, canh tân đất nước, điều đó đã dẫn đến việc nước ta rơi
vào tay chủ nghĩa thực dân.
48.

Những năm cuối cùng của thế kỷ XIX, chế độ phong kiến của nhà

Nguyễn hoàn toàn sụp đổ kéo theo sự sụp đổ của ý thức hệ Nho giáo. Nho giáo
với tư tưởng trung quân, ái quốc “Sống thờ vua, thác cũng thờ vua” (Nguyễn
Đình Chiểu) đã tồn tại qua bao thế hệ nhà Nho ở Việt Nam. Thế nhưng, khi gót
giày xâm lược thực dân Pháp vào Việt Nam mang theo nền văn minh của khoa
học kỹ thuật và tư tưởng cá nhân chủ nghĩa đã làm biến đổi sâu sắc xã hội Việt
Nam. Triều đình hỗn loạn, vua chẳng ra vua, tơi chẳng ra tơi, nhà Nguyễn
chính thức làm bù nhìn, làm tay sai cho giặc. Tư tưởng trung quân, ái quốc giờ
đây rơi vào khủng hoảng trầm trọng, vua khơng cịn tận trung với nước, triều
đình khơng cịn chăm lo đến đời sống của nhân dân. Đứng trước cảnh quân
giặc làm càn trên đất mẹ, triều đình nhà Nguyễn lại khơng xuất binh kháng


Pháp, các sĩ phu yêu nước như Nguyễn Tri Phương, Hồng Hoa Thám, Phan
Đình Phung... phải đi tìm một con đường mới để mong thoát khỏi những bế tắc
hiện tại. Những cuộc khởi nghĩa tự phát của nhân dân nổ ra rồi cũng lụi dần, sự
khủng hoảng về mặt tư tưởng sâu trong lòng xã hội ngày càng bộc lộ rõ nét
hơn.
49.

Những biến động của xã hội và sự khủng hoảng, suy vong của ý

thức hệ Nho giáo khiến nhà nho hoang mang, nhận thức về nhân cách của họ

cũng dần có sự thay đổi. Xã hội thực dân tư sản dần thay thế xã hội phong kiến
cũ, nho phong tàn tạ, sĩ khí tiêu tán, bút lơng hết thời...
50.

Thực dân Pháp tiến hành công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ

nhất, cơ bản bình định xong về mặt quân sự, tiếp đến chúng xây dựng một trật
tự xã hội mới. Bộ máy cai trị được tổ chức theo lối hiện đại hơn, chặt chẽ hơn
và có quyền lực hơn, chi phối toàn diện mọi hoạt động xã hội. Sự tiến bộ của
khoa học kỹ thuật dẫn đến sự phá sản của những hoạt động mang tính thủ
cơng, tạo nên một nguồn nhân công rẻ mạt dồi dào phục vụ cho các cơng trình
khai thác của chúng. Đi kèm là chính sách sưu cao thuế nặng cùng với những
luật lệ hà khắc của bộ máy quan liêu thống trị. Đó cũng là nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến mâu thuẫn sâu sắc giữa người với người chốn thành thị và nông
thôn, giữa giai cấp tư bản và phong kiến.
51.

Chế độ thực dân nửa phong kiến hình thành đã kìm hãm sự phát

triển của đất nước bởi một mặt, giao thông, buôn bán, kinh tế hàng hóa phát
triển tạo nên một thị trường sôi động khắp cả nước, mở rộng giao lưu với thị
trường quốc tế, mặt khác, Pháp lại dựng lên một hàng rào thuế quan làm cho
Việt Nam hoàn toàn bị phụ thuộc vào nước mẹ Đại Pháp. Với sự hà khắc của
những chính sách kinh tế do Pháp đặt ra, nước ta vừa trở thành một nơi cung
cấp nguồn nguyên liệu hàng xuất khẩu cho thương nghiệp Pháp, vừa trở thành
một thị trường tiêu thụ những sản phẩm ế thừa cho chúng.


52.


Chế độ thuộc địa dẫn tới sự hình thành một thành phần mới trong

xã hội - tay sai của thực dân. Đầu tiên là đội ngũ nhân công bản xứ, tiếp đến là
những kẻ làm trong bộ máy cai trị thực dân, nào là thông ngôn, ký lục phụ
trách việc giao thiệp giấy tờ, rồi đến các me Tây, thầu khoán... tất cả tập hợp
lại thành tầng lớp thị dân xốy trong vịng quay qn xâm lược.
53.

Chứng kiến biến động toàn cảnh của xã hội, lớp nhà nho trong

giai đoạn này đã bộc lộ thái độ của mình một cách thẳng thắn, dù thất thế
nhưng vẫn quyết liệt phản kháng, phản kháng bằng hành động và bằng ngòi
bút sáng tác văn chương. Tuy nhiên, ưu thế của tinh thần dân tộc và đạo nghĩa
thánh hiền vẫn không thể nào lấn át nổi những biến đổi nhanh chóng của xã
hội thực dân nửa phong kiến, những nhà nho chấp nhận sự thất thế của mình
trước cuộc đổi thay từ trước đến nay chưa từng chứng kiến. Cuộc sống khơng
cịn bó hẹp trong khuôn khổ cũ mà trở nên đa dạng hơn. Chính trị, kinh tế, văn
hóa của dân tộc đã và đang thay đổi. Văn hóa hiện đại từ phương Tây tràn vào,
trộn lẫn với văn hóa truyền thống tạo nên một thứ văn hóa lai căng Tây ta lẫn
lộn. Đó là một xã hội mà theo GS. Trần Đình Huợu: “Sự êm ấm của lòng từ
hiếu, cung thuận trong gia đình khơng giữ được gia đình, cha mẹ, tình làng
xóm quê hương với cái rộn ràng của học hệ đình đám không giữ được chân
chàng trai sau lũy tre xanh. Bước ra ngồi khn khổ cuộc sống chật hẹp, n
lặng, họ hàng, làng mạc, người ta phải tỉnh táo, vật lộn trong tình thế “khơn
sống mống chết” của một quan hệ lạnh lùng “tiền trao cháo múc”. Người ta
phải tự ý thức, phải sống, phải suy nghĩ, ước mơ cho riêng mình trong những
điều kiện của một xã hội rộng lớn” [29, tr.17]. Cái xã hội đi vào hỗn độn, xô
bồ, mọi kỷ cương, trật tự đều bắt đầu bung bứt, cái xã hội thị thành ngày càng
lộ dần “nguyên hình” với tất cả những nhố nhăng kệch cỡm.
54.


Sự biến đổi xã hội dẫn đến sự thay đổi trong nhận thức của người

dân, đặc biệt là tầng lớp trí thức Nho học. Trước thực trạng này, nhiều nhà nho


vơ cùng đau xót. Xót xa nhưng bất lực, chỉ biết gửi tâm sự vào những trang
thơ. Hiện thực xã hội là những nhân tố khách quan dẫn đến tiếng cười chua
chát ẩn chứa bao nỗi xót xa của các nhà nho - nhà thơ trong buổi giao thời giữa
hai hình thái ý thức xã hội phong kiến và tư bản thuộc địa ở Việt Nam vào cuối
thế kỷ XIX.
1.1.2.

Nguyễn Khuyến, Tú Xương - những nhà nho cuối mùa của chế

độ phong kiến
55.

Nguyễn Khuyến thường được gọi là ông Nghè Và hay Tam

Nguyên Yên Đổ, hiệu là Quế Sơn, sinh năm 1835, trước tên là Nguyễn Tất
Thắng, người làng Yên Đổ tục gọi là làng Và (sau này là làng Vị Hạ), huyện
Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Tổ phụ là Nguyễn Mại đậu Tiến sĩ sung chức Hiến Sát
Sứ triều Lê. Thân phụ ông là Nguyễn Lệ đậu 3 khoa Tú Tài, gần 40 tuổi mới
sinh hạ ra ông. Từ nhỏ đã rất thông minh và chăm học, nổi tiếng thần đồng.
Năm 12 tuổi đã thuộc Kinh Sử, 14 tuổi văn lý đã thông, 15 tuổi đỗ đầu kỳ hạch
tỉnh. Hai năm sau sửa soạn thi Hương thì thân phụ mất phải ở nhà cư tang. Sau
đó cửa nhà sa sút túng thiếu lại rủi mấy khoa thi Hương sau đều rớt nên phải đi
dạy học để độ nhật. Hoàng Giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị mến tài chu cấp
cho ăn học. Năm 1864 đỗ Giải Nguyên trường Hà Nội nhưng năm sau thi Hội

trượt, rồi lại hỏng luôn hai khoa nữa nên đổi tên là Nguyễn Khuyến để tự răn
mình. Đến khoa thi năm 1871 ơng mới đỗ Hội Ngun và Đình Ngun Hồng
Giáp.
56.

Lúc đầu, Nguyễn Khuyến được sơ bổ Nội Các Thừa Chỉ rồi làm

Đốc Học Thanh Hóa, tiếp đó được thăng Bố Chánh Quảng Nam, Quảng Ngãi.
Ơng chính sự cần mẫn, thanh liêm lại có tài thao lược trong nhiều vụ tiêu trừ
giặc giã. Một lần ông dâng sớ xin về hưu nhưng vua Tự Đức không chấp
thuận, triệu về kinh làm Sử Quán Toản Tu. Năm 1882, Pháp lấy cớ thông
thương uy hiếp Hà Nội, ông được cử làm Thương Biện lo việc giao thiệp và


thương thuyết với Pháp. Sau đó sung chức Tổng Đốc Sơn - Hưng - Tun.
Tình hình trong nước lúc đó rất nguy ngập, Pháp hạ thành Hà Nội năm 1883.
Năm sau, 1884 vua Tự Đức băng hà triều đình Huế phải ký hịa ước Patenơtre
cơng nhận cho Pháp quyền bảo hộ Bắc và Trung Kỳ. Năm 1885 Nguyễn
Khuyến lấy cớ đau mắt cáo quan xin về quê sống đời thanh bần nơng thơn. Sau
khi bình định các nơi, Pháp tìm cách mua chuộc sĩ phu để thu phục nhân tâm
nên ủy cho Hoàng Cao Khải rồi Vũ Văn Báo nhiều lần mời Nguyễn Khuyến ra
làm quan nhưng ông nhất định khước từ.
57.

Nguyễn Khuyến làm quan lúc vận nước rơi vào tay giặc, các

phong trào yêu nước lần lượt bị dập tắt, cơ đồ nhà Nguyễn gần như sụp đổ
hoàn toàn nên ông không thực hiện được lý tưởng xây dựng đất nước tốt đẹp
như ông hằng mơ ước. Không thay đổi được thế cục, cũng không thể thỏa hiệp
với thực dân, ông bất mãn, u uất, chán nản chọn con đường lánh đục khơi

trong như bao ẩn sĩ khác. Cáo quan về ở ẩn, “minh triết bảo thân” là con đường
mà các nhà nho tiền bối vẫn từng làm. Nguyễn Khuyến cũng theo con đường
ấy để giữ trọn khí tiết bằng sự lựa chọn về nơi chốn làng quê yên ả làm một dật
dân, ẩn sĩ.
58.

Sinh ra sau Nguyễn Khuyến 35 năm, nhưng lớn lên và phải chứng

kiến bao điều nhố nhăng của xã hội Thực dân nửa phong kiến, Tú Xương gần
như là chứng nhân của thời đại ấy. Ông tên thật là Trần Duy Uyên, thường gọi
là Tú Xương, tự là Mặc Trai, hiệu là Mộng Tích, đến khi thi Hương mới lấy tên
là Trần Tế Xương. Đã có lần trong thơ, ơng nói thẳng điều này một cách “cay
phẫn”: “Tế đổi thành Cao mà chó thế!”.
59.

Được sinh ra trong một gia đình đơng con, thuộc dịng dõi Nho

gia tại Vị Xuyên (Nam Định), Tú Xương nổi tiếng thơng minh, có tài và có cá
tính. Tiếc thay, con đường khoa cử của ông mãi lận đận. Mười lăm tuổi, ông
tham gia kỳ thi Hương, hai khoa tiếp theo cũng “lều chõng” đến trường thi


cũng trượt cả hai. Mãi đến khoa Giáp Ngọ (1894), ông đậu tú tài khi ông hai
mươi bốn tuổi.Với học vị tú tài thời ấy, ông cũng chỉ làm ông đồ dạy học chứ
vẫn chưa được chức quan nào. Các khoa thi tiếp theo (cứ ba năm một khoa),
ông lại vác lều chõng đi thi, nhưng rồi khoa nào cũng trượt. Chính Tú Xương
đã khơng ngần ngại để tổng kết về con đường khoa cử lận đận đầy chua chát
của mình: “Tám khoa chưa khỏi phạm trường quy”. Tú Xương nói nhiều đến
“điều tu sĩ” của kẻ sĩ, ơng mạt sát bọn cử nghè. tưởng như ông căm ghét chế độ
khoa cử. Nhưng ông vẫn đi thi vẫn khuyên người khác đi thi. Tú Xương khơng

thốt được vịng danh lợi. Ơng chỉ thấy có một lối thốt cảnh nghèo, con
đường lập thân chính là con đường khoa cử. Suốt đời “lóc cóc lụi cụi”, mà cuối
cùng ơng vẫn khơng trang trải xong với nợ công danh, để rồi, cay đắng thốt
lên: “Hổ bút hổ nghiêng/ Tủi lều tủi chõng”.
60.

Bi kịch đáng kể của ơng Tú thành Nam gói gọn trong 37 năm

ngắn ngủi (1870 - 1907) lại nằm trọn trong giai đoạn lịch sử vô cùng bi thương
của thảm cảnh nước mất nhà tan. Một nhà Nho được trang bị học thuyết Nho
giáo với những vấn đề cương thường đạo nghĩa, trí qn trạch dân., rồi chính
ơng phải chứng kiến mọi sự đổ vỡ của Nho giáo trong lòng xã hội thị thành với
tất cả những nhố nhăng kệch cỡm của nền văn hóa, chính trị, kinh tế lai tạp
hỗn độn ở buổi giao thời.
61.

Nguyễn Khuyến và Tú Xương đều xuất thân từ dòng dõi Nho học.

Nguyễn Khuyến sinh ra và lớn lên khi Pháp chưa xâm lược còn Tú Xương sinh
ra khi đất nước đang rơi vào cảnh lâm nguy. Xã hội Việt Nam lúc ấy đã chuyển
sang một xã hội mới là xã hội thực dân nửa phong kiến. Cái xã hội ấy gắn với
mọi sự thay đổi, thay đổi trong từng bộ phận giai cấp, trong mọi nền nếp sinh
hoạt, trong mọi trạng thái tâm lí xã hội. Đây là lúc mọi trật tự cứ đảo lộn cả
lên, ông làm thằng, thằng làm ông, cậu bồi, cậu bếp, thầy thơng, thầy kí,... rặt
một phường bất tài vơ liêm sỉ nhưng sẽ làm anh làm chị, nghênh ngang vênh


mặt với đời. Và đây cũng là lúc nho phong tàn tạ, sĩ khí tiêu điều, bút lơng đến
ngày hết được săn đón, mọi giá trị cũ đang sụp đổ trước uy thế của đồng tiền.
Cái xã hội đảo điên tan tác ấy đã tác động đến nhiều nhà Nho chân chính, có ý

thức trước vận mệnh đất nước, trong đó có Nguyễn Khuyến và Tú Xương.
62.

Chứng kiến thực tế đảo điên, lố bịch của xã hội thực dân nửa

phong kiến diễn ra từng ngày trên đất nước, nhà Nho hướng ngịi bút vào sự
châm biếm đả kích sự xấu xa của xã hội. Mặt khác, nội dung thể hiện trong thơ
ca khơng kém phần quan trọng chính là những nỗi buồn sâu lắng, đau đớn xót
xa trước vận nước, trước tấn bi hài của thời đại mà hai nhà nho từng chứng
kiến. Có bi kịch nào hơn khi cả hai nhà Nho Nguyễn Khuyến và Tú Xương đều
ý thức được nỗi nhục mất nước, ý thức được trách nhiệm của kẻ sĩ trước vận
mệnh nước nhà nhưng đành bất lực.
63.

Đứng trước những đổi thay của thế thái nhân tình, nhân cách nhà

nho chân chính của Nguyễn Khuyến và Tú Xương vẫn giữ được sự vững vàng
khơng hịa trộn vào dòng chảy xấu xa. Ở họ ta bắt gặp những quan điểm sống
giống nhau. Với Nguyễn Khuyến đó là cách sống giả câm giả điếc “Tấm hồng
nhan đem bôi lấm xóa nhịa”. Tú Xương cũng vậy, sống chỉ là “ấm ờ, giả câm
giả điếc”, là “khơn chán thì giả làm ngây” là khơng cần phơ trương chí khí với
đời là không màng công danh, biết đau cùng nỗi đau dân tộc, nỗi đau thế sự.
64.

Trước hiện thực thời đại lịch sử đầy bão táp ấy, hai nhà nho cùng

thời đều có những nỗi niềm giống nhau: Sự bất mãn phản kháng trước xã hội,
tiếng nói tâm tình của một tấm lịng u nước. Tuy nhiên, hai kiểu tâm tình
được đặt trong hai giọng thơ khác nhau. Cũng là tiếng cười chua chát, cũng là
nỗi đau thẳm sâu về một đất nước suy vong, nhưng ở hai nhà nho cuối mùa

Nguyễn Khuyến, Tú Xương là những cách thể hiện khác nhau. Điều này xuất
phát từ nhiều lý do, cuộc đời, vị thế và nét độc đáo cá tính sáng tạo của từng
nhà thơ.


65.

1.2. Hình tượng “cái tơi” trữ tình trong sáng tác văn chương trung

66.

1.2.1 Giới thuyết về “cái tơi” trữ tình trong thơ ca trung đại

67.

Văn hoá Việt Nam chịu ảnh hưởng rất sâu đậm của văn hố Trung

đại

Quốc. Do đó các hoạt động sáng tạo văn học Việt Nam đặc biệt là văn học
trung đại chịu ảnh hưởng sâu đậm của tư tưởng Tam giáo. Đặc điểm chung dễ
nhận thấy của sự ảnh hưởng này trong văn học trung đại là quan niệm về con
người “vô ngã”. Các triết lý của Nho - Phật - Đạo đều chủ trương lý tưởng phá
ngã, vô ngã, vô kỉ nhưng không hề là một sự diệt ngã tuyệt đối. Trái lại tất cả
đều dựa vào phẩm chất cá nhân để giải phóng cho cái “ngã” nội tại khát khao
tự do được bước sang thế giới khác, khơng gị bó tạm bợ. Văn học chịu ảnh
hưởng của các triết lý này nhưng không đồng nhất với chúng. Trên cái nền đó,
văn học thể hiện “cái tơi”trữ tình theo nhiều chiều hướng, nhiều phương thức
và từng mức độ khác nhau.
68.


Thế kỉ X mở đầu cho sự phát triển rực rỡ của các thể loại, là điều

kiện cho những cá nhân chứng tỏ tài năng sáng tạo. Khi văn học viết được sáng
tạo bởi các cá nhân thì khi đó, dù ít, dù nhiều cái Tơi cá nhân cũng đã xuất
hiện. Theo một số nhà nghiên cứu về cái tôi trong văn chương thời cổ cho
rằng, “Cái Tôi” là biểu hiện của ý thức con người về cá nhân. Sự tự ý thức đó
được biểu hiện ở mức độ nào và mức độ đó tuỳ thuộc vào từng thời đại. Thời
đại quy định con người, con người sống theo thời đại. Khi thời đại đó là thời
đại của những cái ta, của cộng đồng thì văn học phải xây dựng mẫu hình con
người lý tưởng mang dáng dấp cộng đồng, con người xã hội. Điều đó khơng có
nghĩa con người cá nhân bị tiêu diệt, nó vẫn tồn tại ở một mức độ cần thiết
phải có. Lẽ đương nhiên, trong văn học trung đại cũng xuất hiện vai trò của
chủ thể sáng tạo ở từng mức độ đậm nhạt khác nhau, vấn đề là ở sự thể hiện cái
tôi theo phương thức nào và đâu là “phi ngã”, đâu là phần sáng tạo riêng.


×