Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

đề tài bài học ngoại giao rút ra từ hiệp định paris

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.83 KB, 10 trang )

Chương 1. Lời mở đầu
Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã phải trải qua hai cuộc kháng chiến trường
kỳ và gian khổ, đối đầu với hai kẻ địch lớn mạnh nhất thế giới là Pháp và Mỹ, để giành
được độc lập dân tộc toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất đất nước. Bên cạnh đấu tranh quân
sự và chính trị thì mặt trận ngoại giao đã góp phần khơng nhỏ làm nên thắng lợi to lớn đó.
Điều này đã được thể hiện rõ nét qua Hiệp định Paris về vấn đề chấm dứt chiến tranh lập
lại hịa bình ở Việt Nam.
Hiệp định Paris có ý nghĩa và giá trị to lớn trong lịch sử dân tộc. Hiệp định phản
ánh bước đi sách lược nhằm phục vụ mục tiêu chiến lược theo phương châm tạm hịa
hỗn, tích lũy lực lượng, tiến lên giành thắng lợi từng phần đến thắng lợi hoàn toàn, nhằm
mục tiêu cơ bản là giải quyết vấn đề độc lập dân tộc. Nó là nấc thang quan trọng ghi dấu
từng bước phát triển của nền ngoại giao Việt Nam hiện đại.
Đối với Hiệp định Paris, sau hơn bốn năm đàm phán tại Paris, các bên đã đi đến ký
kết hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hịa bình tại Việt Nam. Nội dung chính của
Hiệp định đã thể hiện thắng lợi to lớn của nhân dân ta, bao gồm các vấn đề: quyền dân tộc
cơ bản, qn sự và chính trị. Đó là những cơ sở cho thắng lợi về sau của cách mạng miền
Nam, Việt Nam. Hiệp định Paris đã thể hiện được những thành quả to lớn đặc biệt là trên
mặt trận ngoại giao về những chiến lược, sách lược khôn khéo của ta nhằm nhận được sự
ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hịa bình trên thế giới, từng bước buộc Mỹ phải xuống
thang chiến tranh ngồi vào bàn đàm phán.Và bài viết dưới đây sẽ đi sâu hơn về ý nghĩa
cũng như quá trình xảy ra của hiệp định.
Bài viết dưới đây của chúng em sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong sự
đóng góp ý kiến của cơ để bài viết được hoàn chỉnh hơn.

Chương 2. Nội dung nghiên cứu
1. Lý do hiệp định Paris được ký kết


· Vào hồi 17h30 ngày 7 tháng 5 năm 1954, Hội nghị Đông Dương nhận được tin
thất bại của đế quốc Pháp. Chính vì vậy vào ngày tháng 5 năm 1954, những vấn đề về
tình hình chiến sự tại Đơng Dương đã được sơm đưa ra bàn luận.


· Hiệp định Giơnevơ khơng chỉ trực tiếp ảnh hưởng đến tình hình chiến tranh tại
Việt Nam mà còn liên quan đến các nước thực dân, nước thuộc địa khác. Đặc biệt là đối
với người dân, chính phủ Việt Nam và Pháp.
· Lập trường bên phía Việt Nam kiên quyết yêu cầu nền hịa bình, độc lập của 3
nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Mọi vấn đề của người Việt Nam, đất nước Việt Nam
phải do dân Việt Nam quyết định, giải quyết. Nước ngồi khơng được quyền can dự vào
chính trị tại Việt Nam.
Dưới đây là 2 nguyên nhân cơ bản khiến hiệp định Paris năm 1973 được ký kết
giữa ta và Pháp:
· Dưới sự chống phá quyết liệt của quân và dân ở 2 miền Nam Bắc, Mỹ bị thất bại
nặng nề trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” ở miền Nam và chiến lược “Chiến
tranh phá hoại” ở miền Bắc. Hiệp định Pa-ri được đề ra để đàm phán về việc chấm dứt
chiến tranh, thiết lập lại trật tự, hòa bình tại Việt Nam.
· Trong khi đó, tại chính Mỹ và trên thế giới những phong trào, lời kêu gọi chấm
dứt chiến tranh Mỹ xâm lược Việt Nam diễn ra ngày càng nhiều và sôi nổi.
2. Nội dung hiệp định Paris:
- Hoa Kỳ và các nước cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của Việt Nam.
- Hai bên ngừng bắn ở miền Nam lúc 24 giờ ngày 27-01-1973 và Hoa Kì cam kết
chấm dứt mọi hoạt động chống phá miền Bắc Việt Nam.
- Hoa Kỳ rút hết quân viễn chinh và quân đồng minh, hủy bỏ các căn cứ quân sự
Mĩ, cam kết không tiếp tục can thiệp vào nội bộ của miền Nam Việt Nam.


- Nhân dân miền Nam tự quyết định tương lai chính trị thơng qua tổng tuyển cử tự
do, khơng có sự can thiệp của nước ngồi.
- Các bên cơng nhận thực tế miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội,
hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị.
- Các bên ngừng bắn tại chỗ, trao trả cho nhau tù binh và dân thường bị bắt.
- Hoa Kỳ cam kết góp phần vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam và

Đông Dương.


Ảnh chụp trang đầu bản sao của "Hiệp định Paris" bằng tiếng Anh; có chữ ký của
20 phi cơng Mỹ là tù binh tại Hillton Hanoi xác nhận đã được đọc nó.
3. Q trình đàm phán hiệp định
3.1. Giai đoạn 1968-1972
Năm 1968, sau hàng loạt những thất bại nặng nề của chiến lược "chiến tranh cục
bộ" và chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, cuộc đàm phán giữa Chính phủ Việt Nam Dân
chủ cộng hồ và Chính phủ Hoa Kỳ đã chính thức diễn ra ở Pari.
Phái đồn Việt Nam do Bộ trưởng Xuân Thuỷ đứng đầu, đã khẳng định lập trường
không thay đổi của Việt Nam là trước tiên Mỹ phải chấm dứt không điều kiện các cuộc
ném bom bắn phá và mọi hoạt động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ cộng
hồ, sau đó mới bàn các vấn đề có liên quan của hai bên. Phái đoàn Mỹ do Hariman đứng
đầu.
*) Một số mốc thời gian đáng chú ý trong giai đoạn này:
Ngày 31 tháng 3 năm 1968, Tổng thống Mỹ Johnson tuyên bố đơn phương ngừng
đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra; không ra tranh cử Tổng thống Mỹ nhiệm kỳ 2 và
cử người đàm phán với đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Paris. Ngày 3
tháng 4 năm 1968, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hồ tuyên bố: Sẵn sàng cử đại
diện của mình tiếp xúc với đại diện của Mỹ.
Ngày 03 tháng 4 năm 1968, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hồ tun bố: Sẵn
sàng cử đại diện của mình tiếp xúc với đại diện của Mỹ nhằm xác định với Mỹ việc Mỹ
chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh chống nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà để có thể bắt đầu cuộc nói chuyện.
Ngày 13 tháng 5 năm 1968, Hội nghị Paris giữa 2 bên khai mạc. Do lập trường
cương quyết của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hồ, Mỹ buộc phải ngồi nói chuyện
chính thức với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và từ tháng 6 năm 1969
là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam.



Ngày 18 tháng 1 năm 1969, phiên họp đầu tiên của Hội nghị Paris về Việt Nam
khai mạc tại phòng họp của trung tâm Hội nghị quốc tế ở Paris.
Ngày 25 tháng 1 năm 1969, khai mạc phiên họp toàn thể lần thứ nhất của Hội nghị
bốn bên về Việt Nam ở Pari.
Ngày 08 tháng 5 năm 1969, phái đoàn Cộng hòa miền Nam Việt Nam tạo ra đột
phá khi đưa ra "giải pháp hịa bình 10 điểm" trong đó nêu rõ Mỹ phải rút quân, thành lập
chính phủ liên hiệp tại miền Nam
Ngày 04 tháng 8 năm 1969, tiến sĩ Henry Kissinger, cố vấn an ninh quốc gia của
Nhà trắng bí mật gặp Bộ trưởng Xuân Thủy lần đầu ở Pari.
Ngày 25 tháng 8 năm 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời thư của Tổng thống Mỹ
Nixon, nêu rõ: Muốn có hồ bình, Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược và rút quân ra
khỏi miền Nam Việt Nam, tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam và
của dân tộc Việt Nam. Đó là con đường để Mỹ rút khỏi cuộc chiến tranh trong danh dự.
Ngày 21 tháng 1 năm 1970, Hoa Kỳ tiến hành oanh tạc miền Bắc
Ngày 26 tháng 1 năm 1970, phái đồn Cộng hịa miền Nam Việt Nam chấp nhận
ngừng bắn với điều kiện Mỹ phải rút quân, thành lập chính phủ liên hiệp tại miền Nam để
Tổng tuyển cử thống nhất với miền Bắc.
Ngày 21 tháng 2 năm 1970, cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Xuân Thủy
gặp Kissinger. Từ đó bắt đầu cuộc gặp riêng giữa cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và
Kissinger.
3.2. Giai đoạn 1972-1973
Ngày 8/10/1972, phái đoàn Việt Nam đưa cho Mỹ bản dự thảo “Hiệp định về chấm
dứt chiến tranh lập lại hồ bình ở Việt Nam” và đề nghị thảo luận để đi đến ký kết. Lúc
đầu, bản dự thảo được các bên nhất trí nhưng đến ngày 22/10/1972 phía Mỹ lật lọng viện
dẫn chính quyền Nguyễn Văn Thiệu địi sửa đổi bản dự thảo. Đêm 18/12/1972, tổng
thống Mỹ Nixon ra lệnh ném bom huỷ diệt Hà Nội và Hải Phòng bằng B52. Cuộc đụng
đầu lịch sử trong 12 ngày đêm được ví là "Trận Điện Biên Phủ trên khơng" kết thúc bằng



việc 38 pháo đài bay B52 và 43 máy bay chiến đấu khác của Mỹ bị bắn rơi ngay trên bầu
trời Hà Nội. Thất bại của Mỹ trên chiến trường miền Nam cùng với thất bại của không
quân chiến lược Mỹ trên bầu trời Hà Nội, đẩy Mỹ vào thế thua không thể gượng nổi, buộc
chúng phải chấp nhận thất bại, nối lại đàm phán tại Pari. Trên tư thế bên chiến thắng, phái
đoàn ta tại cuộc đàm phán đã kiên quyết đấu tranh giữ vững nội dung của dự thảo Hiệp
định đã thoả thuận.

Đoàn đại biểu Việt Nam dân chủ cộng hòa tại lễ ký kết Hiệp định Paris
Cuối cùng, ngày 22/1/1973 tại Trung tâm các Hội nghị quốc tế Clêbe, đúng 12 giờ
30 phút (giờ Pari) Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hồ bình ở Việt Nam đã được
Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Kitxinhgiơ ký tắt.
4. Bài học rút ra từ hiệp định Paris
Hiệp định Pari năm 1973 là kết quả cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất của nhân
dân ta ở cả hai miền đất nước, tạo ra bước ngoặt lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước của dân tộc. Hiệp định góp phần ngăn chặn mọi âm mưu can thiệp trở lại của
Mỹ khi toàn dân, toàn quân ta giành thắng lợi hoàn toàn với đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí
Minh lịch sử. Cuộc đấu tranh này phản ánh sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trí tuệ của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam, trên cơ sở
chính nghĩa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Q trình đi đến việc ký kết và bản
thân Hiệp định đã để lại cho cách mạng Việt Nam nhiều bài học quý giá:


- Giữ vững các nguyên tắc trên tinh thần “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Lập trường của
ta trong các cuộc đàm phán là ln khẳng định tính chất chính nghĩa của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam; lên án tội ác chiến tranh xâm lược của
đế quốc Mỹ trên hai miền Nam, Bắc Việt Nam; đòi Mỹ rút quân ra khỏi Việt Nam; yêu
cầu chấm dứt hồn tồn và khơng điều kiện việc ném bom miền Bắc Việt Nam của Mỹ…
Chúng ta đã linh hoạt ứng xử trong các tình huống cụ thể nhưng khơng bao giờ từ bỏ các
ngun tắc đó và chúng ta đã chiến thắng…
- Phải ln kiên quyết, kiên trì, sử dụng đồng thời các thắng lợi khác để bổ trợ cho

công tác đối ngoại. Thắng lợi của Hiệp định Paris là một thắng lợi về mặt ngoại giao
nhưng cũng là thắng lợi chung của cách mạng Việt Nam cả về chính trị, qn sự… Nếu
khơng có từng chiến thắng ở các chiến dịch, trận đánh cụ thể thì Mỹ không bao giờ chịu
ngồi vào bàn đàm phán, hoặc không bao giờ từ bỏ các yêu sách phi lý của mình. Trong
đó, thắng lợi ở trận “Điện Biên Phủ trên khơng” cuối năm 1972 đã bẻ gãy hồn tồn ý chí
xâm lược của Mỹ và buộc Mỹ phải chấp nhận đàm phán cũng như chấp nhận các đề nghị
của Việt Nam.
- Tôn trọng các cam kết nhưng không bao giờ mất cảnh giác. Ngay trước và sau
Hiệp định Paris, chính quyền Sài Gòn liên tiếp vi phạm Hiệp định bằng cách ráo riết thực
hiện Chiến dịch Tràn ngập lãnh thổ từ đêm 24/1/1973 và hàng loạt kế hoạch quân sự trong
toàn bộ năm 1973, đầu năm 1974; đồng thời thực hiện các kế hoạch như Hùng Vương, Lý
Thường Kiệt (1973 - 1974) và kế hoạch toàn diện lâu dài (1973 - 1978) nhằm nhanh
chóng bình định miền Nam Việt Nam… Đối phó với âm mưu, thủ đoạn này, ta đã có
nhiều giải pháp từ trong nội bộ và hành động cụ thể về mặt chính trị, quân sự và từng
bước làm phá sản các kế hoạch của địch trước khi đánh đổ hoàn toàn chế độ này...
- Tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế nhưng phải dựa vào sức mình là chính. Hiệp định
Paris là “niềm cổ vũ lớn lao đối với nhân dân u chuộng hịa bình và công lý trên thế
giới, những người đã đồng hành ủng hộ, giúp đỡ nhân dân ta trong suốt cuộc kháng chiến
lâu dài, gian khổ, dõi theo từng diễn biến trên chiến trường cũng như trên bàn đàm phán
tại Paris
- Giữ vững độc lập, tự chủ, coi đây là nguyên tắc quan trọng nhất trong xử lý các
vấn đề đối ngoại. Hội nghị Paris một lần nữa khẳng định rằng, chỉ có giữ vững độc lập, tự


chủ trong quyết định chiến lược, sách lược, ta mới có thể chủ động tiến cơng, chủ động
tạo thời cơ và tranh thủ thời cơ để bảo vệ lợi ích dân tộc.
- Trong suốt quá trình đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Paris, sự phối hợp nhịp
nhàng giữa ba mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao, giữa “đánh” và “đàm”, giữa các
binh chủng hợp thành thế trận chiến tranh nhân dân, có ý nghĩa vơ cùng quan trọng. Ngay
tại Paris, sự phối hợp chặt chẽ và thực hiện phương châm “tuy hai mà một, tuy một mà

hai” của hai đoàn đàm phán dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng ta cũng là nhân tố hết
sức quan trọng để đi đến thắng lợi.
- Hội nghị Paris là bài học tiêu biểu về kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh
của thời đại. Trong suốt quá trình đàm phán tại Paris, chúng ta đã có được sự ủng hộ to
lớn của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã tranh thủ được sự
đồng tình của dư luận quốc tế, kể cả dư luận tiến bộ Mỹ, góp phần tạo nên một mặt trận
nhân dân thế giới rộng lớn ủng hộ Việt Nam.
5. Vận dụng các bài học cho ngoại giao Việt Nam hiện nay
Kế tục và phát huy truyền thống vẻ vang của ngoại giao thời kỳ chống Mỹ cứu
nước, ngoại giao thời kỳ hội nhập quốc tế và phát triển đất nước tiếp tục là một “mặt
trận”, trong đó các cán bộ ngoại giao là những “người lính”, khơng ngừng phấn đấu góp
phần tích cực đưa đất nước vào vị thế có lợi nhất trong nền chính trị, nền kinh tế và văn
hóa khu vực và tồn cầu.
Với thế và lực sau hơn 25 năm Đổi mới, trong bối cảnh mới, Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XI đã chỉ rõ: “Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững mơi trường hịa
bình, thuận lợi cho đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích
cực vào cuộc đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế
giới”
Quán triệt sâu sắc nhiệm vụ đối ngoại và vận dụng các bài học lịch sử của hiệp định
Paris, ngành ngoại giao tiếp tục nỗ lực vượt bậc trong các hướng cụ thể sau:


Thứ nhất, tăng cường cơng tác chính trị tư tưởng, tuyệt đối tin tưởng vào con đường
cách mạng mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn, vững vàng bản lĩnh chính trị, kiên định
đường lối đối ngoại “độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ”; nỗ lực qn
mình vì lợi ích quốc gia dân tộc vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh.
Thứ hai, phát huy truyền thống chủ động, sáng tạo trong đối ngoại, đề xuất nhiều
sáng kiến thiết thực để nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại trong quan hệ với các
đối tác và trên các diễn đàn, tổ chức quốc tế; tăng cường công tác nghiên cứu dự báo, phát

hiện thời cơ và kiến nghị các biện pháp tận dụng thời cơ, lường trước các thách thức và
kiến nghị các biện pháp hóa giải hoặc giảm thiểu các thách thức đối với phát triển và an
ninh của đất nước.
Thứ ba, hợp đồng chặt chẽ giữa ngoại giao với kinh tế, văn hóa, quốc phịng, an
ninh.... phối hợp nhịp nhàng với đối ngoại Đảng, ngoại giao nhân dân dưới sự lãnh đạo
tập trung, thống nhất của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, góp phần gia tăng sức mạnh
tổng hợp của đất nước, kết hợp thành công sức mạnh của đất nước với sức mạnh của thời
đại, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đối ngoại được Đảng giao phó.
Thứ tư, khơng ngừng học tập rèn luyện, nâng cao trình độ chun mơn, trình độ
ngoại ngữ và kiến thức mọi mặt, xây dựng đội ngũ cán bộ ngoại giao có trình độ và năng
lực ngang tầm với các nước trong khu vực; đáp ứng yêu cầu triển khai thành cơng định
hướng “triển khai đồng bộ và tồn diện các hoạt động đối ngoại; chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế” của đường lối đối ngoại Đại hội XI.
Chương 3. Kết luận
40 năm sau ngày Hiệp định Paris được ký kết, có thể nói rằng: Cội nguồn thắng lợi
của đàm phán Paris là tinh thần quyết chiến, quyết thắng, là ý chí quật cường, khơng
khoan nhượng, đấu tranh bền bỉ, bảo vệ chân lý, "Khơng có gì q hơn độc lập tự do" của
dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó cũng là
thắng lợi mang đậm dấu ấn của tinh thần và phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh "thực
lực là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng; chiêng có to thì tiếng mới lớn".
Cùng với thời gian, bài học kinh nghiệm về ý chí và tinh thần đấu tranh kiên trì bảo
vệ độc lập, chủ quyền dân tộc; phát huy sức mạnh của tinh thần đoàn kết dân tộc và quốc


tế; kết hợp đấu tranh chính trị với quân sự và ngoại giao tại Hội nghị Paris năm nào vẫn
còn mang hơi thở của thời đại, thiết thực và bổ ích. Việt Nam đã lựa chọn, xác định rõ
quan điểm độc lập, tự chủ trong hành trình đấu tranh giải phóng đất nước; đã biết mở ra
cuộc chiến tranh, tiến hành và từng bước giành thắng lợi trong chiến tranh để rồi biết cách
kết thúc chiến tranh; biết đánh bằng quân sự, biết đánh bằng chính trị, biết đánh bằng
ngoại giao và phối hợp nhịp nhàng các mặt trận đó, vì vậy những kinh nghiệm q giá ấy

có giá trị to lớn đối với Việt Nam và các quốc gia trong bối cảnh cầu hóa và hội nhập
quốc tế.



×