Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết toàn dân tộc và sự vận dụng của đảng ta trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.48 KB, 21 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN
MƠN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Đề tài: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT TỒN DÂN
TỘC VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG XÂY DỰNG
KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY


HÀ NỘI – 2021

MỤC LỤC
1. Mở đầu………………………………………………………………………3
2. Nội dung…………………………………………………………………….6
Chương I: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết tồn dân tộc…….…………6
Chương II: Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảngg ta trong xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện nay………………………………….15
3. Kết luận…………………………………………………………………….20
4. Danh mục tài liệu tham khảo………………………………………………21

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tại sao Pháp – một đất nước có ưu thế về vật chất, về phương tiện chiến tranh hiện
đại lại phải thua một Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu trong cuộc chiến xâm lược? Đó là
vì đồng bào Việt Nam đã đồn kết như chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Tồn dân Việt
Nam chỉ có một lịng: Quyết khơng làm nơ lệ. Chỉ có một chí: Quyết khơng chịu mất


nước. Chỉ có một mục đích: Quyết kháng chiến để tranh thủ thống nhất và độc lập cho
Tổ quốc. Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng vững chắc
xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức
tường đó, chúng cũng phải thất bại”. Thực tiễn lịch sử đấu tranh và cách mạng ở Việt
Nam ta chính là minh chứng hùng hồn, chân thực cho sức sống kỳ diệu và sức mạnh
vĩ đại của đại đoàn kết toàn dân tộc. Đại đoàn kết dân tộc, từ chỗ là tư tưởng của vị
lãnh tụ Hồ Chí minh đã trở thành sợi chị đỏ xuyên suốt đường lối, chiến lược của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như xã hội
chủ nghĩa. Tư tưởng đó đã sớm thấm sâu vào tư tưởng, thấm nhuần vào tình cảm của
tất cả những người dân Việt Nam yêu nước sống ở trong nước hay ở nước ngồi đều
ln ln tiềm ẩn tinh thần, ý thức dân tộc trong tâm thức của họ. Và rồi biến thành
hành động của hàng trăm, hàng triệu con người tạo thành một sức mạnh vô địch, vĩnh
cửu trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại đoàn kết
toàn dân tộc sau khi được tu luyện hàng ngàn năm lịch sử chiến đấu oanh liệt đã trở
thành một niềm tự hào to lớn của mọi người dân Việt Nam. Đại đoàn kết dân tộc là
một giá trị tinh thần to lớn, một truyền thống cực kì quý báu của dân tộc ta, được hun
đúc trong suốt mấy ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đoàn kết đã trở
thành một động lực to lớn, một triết lý nhân sinh và hành động để dân tộc ta vượt qua
bao biến cố, thăng trầm của thiên tai, địch họa, để tồn tại và phát triển bền vững. Trên
cơ sở thực tiễn cách mạng Việt Nam và thực tiễn cách mạng thế giới đã sớm hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Lịch sử cách mạng Việt Nam đã
chứng minh bất kể là khi nào, lúc nào hay ở đâu tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn
kết toàn dân tộc khi được quán triệt và thực thi chính xác thì cách mạng đều phát triển
một cách mạnh mẽ và giành được thắng lợi. Và ngược lại rời xa tư tưởng này thì nơi
đó, khi đó cách mạng cũng sẽ gặp trở ngại và tổn thất. Việt Nam ta vốn là một đất
nước đa dân tộc, chúng ta là một gia đình với 54 dân tộc anh em điều này đôi khi vừa
3


có lợi nhưng cũng là một hạn chế trong việc đồn kết lại với nhau nhưng cũng chính

vì vậy mà chúng ta chứng minh được một khi đã đoàn kết lại thì Việt Nam chúng ta sẽ
trở thành một đối thủ đáng gờm và bất bại trước bất kì kẻ địch nào. Dù là trong thời kì
chiến tranh hay thời hiện đại ngày nay với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước
trong bối cảnh trong nước và quốc tế có nhiều thay đổi càng địi hỏi chúng ta lại càng
phải tăng cường đoàn kết các dân tộc hơn bao giờ hết. Để có thể thực hiện thắng lợi
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, các dân tộc
trong cả nước cần nêu cao tinh thần đồn kết, phát huy truyền thống vì lợi ích tối cao
của Tổ quốc, đồng tâm nhất trí đưa đất nước ta vững bước tiến lên phía trước, vì
tương lai của Tổ quốc và tiền đồ của dân tộc, vì thế hệ hơm nay và con cháu mai sau.
Việc xây dựng và củng cố đoàn kết giữa các dân tộc có ý nghĩa hết sức quan trọng,
vừa có thể phát huy hết tiềm năng và sức mạnh nội lực của đất nước tạo nên một thế
trận vững chắc, một sức mạnh tổng hợp vừa có thể khắc phục được mặt trái của
những vấn đề như mâu thuẫn, xung đột dân tộc hay sự lợi dụng của các thế lực thù
địch...
Để ý được rằng xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh, Bác đã đề cập rất nhiều đến vấn đề
đại đoàn kết dân tộc, hơn nữa, trước ý nghĩa vĩ đại và vai trò đặc biệt quan trọng của
việc củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta trong tình hình thế
giới và trong nước có nhiều biến đổi hiện nay, trước những vấn đề đặt ra trong việc
thực hiện chính sách đồn kết dân tộc của Đảng ta hiện nay, cùng với một niềm tự hào
về đại đoàn kết dân tộc và một lịng u nước nồng nàn đã thơi thúc em chọn đề tài
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết toàn dân tộc và sự vận dụng của Đảng ta trong xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện nay” trong bài tiểu luận của mình.
2.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
Giúp bản thân và mọi người nhận thức rõ được tầm quan trọng của đại đồn kết dân
tộc khơng chỉ trong lịch sử chiến tranh mà cịn trong chính cuộc sống hiện đại, phát
triển ngày nay từ đó nâng cao nhận thức, củng cố kiến thức tư tưởng Hồ Chí Minh về
đại đồn kết dân tộc để phát huy được tinh thần, đoàn kết dân tộc và lịng u nước
trong chính cuộc sơng hằng ngày.
Nhiệm vụ:

Nắm chắc những kiến thức về tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết tồn dân tộc
4


Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng ta trong xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc ở nước ta hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu:
Những tài liệu cụ thể cùng hệ thống tư liệu về tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng ở nước ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luân và phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam về dân tộc và đoàn kết dân tộc.
Tiểu luận sử dụng kết hợp những phương pháp nghiên cứu: quan sát, phân tích và
tổng hợp,…
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Ý nghĩa lý luận: Tiểu luận góp phần tổng hợp thơng tin, tài liệu, nghiên cứu, quan
điểm cá nhân vào quá trình nghiên cứu vấn đề, thực trạng đoàn kết dân tộc và chính
sách đồn kết các dân tộc ở nước ta hiện nay.
Ý nghĩa thực tiễn: Tiểu luận có thể được sử dụng như một tài liệu đã tổng hợp thông
tin và bao gồm cả quan điểm cá nhân dùng để tham khảo dành cho những sinh viên,
học sinh quan tâm đến vấn đề này.
6. Kết cấu của tiểu luận
Tiểu luận bao gồm phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và 2 chương:
Chương I: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết tồn dân tộc
Chương II: Sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở nước
ta hiện nay


5


NỘI DUNG
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN
TỘC
I. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về Đại đồn kết:
1.1. Vai trị của đại đoàn kết toàn dân tộc.
1.1.1. Đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định
thành cơng của cách mạng.
Hồ Chí Minh cho rằng, cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ta cuối thế kỉ XIX, đầu
thế kỷ XX bị thất bại có một nguyên nhân sâu xa là cả nước đã không đoàn kết được
thành một khối thống nhất. Người thấy rằng, muốn đưa cách mạng đến thành cơng
phải có lực lượng cách mạng đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành cơng
xã hội mới; muốn có lực lượng cách mạng mạnh phải thực hiện đại đoàn kết, quy tụ
mọi lực lượng cách mạng thành một khối vững chắc. Do đó, đồn kết trở thành vấn đề
chiến lược lâu dài của cách mạng, là nhân tố bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng.
Hồ Chí Minh đã đi đến kết luận: muốn được giải phóng, các dân tộc bị áp bức và
nhân dân lao động phải tự mình cứu lấy mình bằng đấu tranh cách mạng, bằng cách
mạng vơ sản. Người đã vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Leenin về
cách mạng vô sản và thực tiễn Việt Nam, xây dựng lý luận cách mạng thuộc địa, trong
đó Người quan tâm nhiều đến vấn đề lực lượng cách mạng và phương pháp cách
mạng.
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh
chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối tượng khác
nhau, nhưng đại đồn kết dân tộc ln ln được Người nhận thức là vấn đề sống cịn
của cách mạng.
Hồ Chí Minh đã đưa ra nhiều luận điểm về vấn đề đoàn kết dân tộc: Đoàn kết là sức
mạnh, là then chốt của thành cơng; Đồn kết là điểm mẹ; Điểm này mà thực hiện tốt
6



thì đẻ ra con cháu đều tốt; Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết; Thành cơng, thành cơng,
đại thành cơng.
Hồ Chí Minh ln ln nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan điểm coi
sức mạnh của cách mạng là sức mạnh của nhân dân: “Dễ trăm lần không dân cũng
chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Đồng thời, Người lưu ý rằng, nhân dân bao
gồn nhiều lứa tuổi, nghề nghiệp, nhiều tầng lớp, giai cấp, nhiều dân tộc, tơn giáo, do
đó phải đồn kết nhân dân và trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Để làm được việc
đó, Người yêu cầu Đảng, Nhà nước phải có chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp
với các giai cấp, tầng lớp, trên cơ sở lấy lợi ích chung của Tổ quốc và những quyền
lợi cơ bản của nhân dân lao động, làm “mẫu số chung” cho sự đoàn kết.
Thành cơng điển hình nhờ vào khối đại đồn kết tồn dân và sự lãnh đạo sáng suốt
của Đảng không thể không nhắc đến Cách mạng Tháng Tám. Cách mạng Tháng Tám
thành công nhờ vào Đảng ta đã chuẩn bị được lực lượng vĩ đại của toàn dân đoàn kết
trong Mặt trận Việt Minh, dựa trên cơ sở liên minh công – nơng, dưới sự lãnh đạo của
Đảng.
1.1.2. Đại đồn kết toàn dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Cách mạng
Việt Nam.
Đối với Hồ Chí Minh, yêu nước phải thể hiện thành thương dân, khơng thương dân
thì khơng thể có tinh thần yêu nước. Dân ở đây là số đơng, phải làm cho số đơng đó ai
cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, sống tự do, hạnh phúc.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc, chúng ta khơng chỉ thấy rõ việc
Người nhấn mạnh vai trò to lớn của dân mà cịn coi đại đồn kết dân tộc là mục tiêu
của cách mạng. Do đó, tư tượng đại đồn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Trong Lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng
Lao động Việt Nam ngày 3/3/1951, Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng tun bố trước
tồn thể dân tộc: Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ:
Đồn kết tồn dân, phụng sự Tổ quốc.
Xem dân là gốc, là lực lượng tự giải phóng nên Hồ Chí Minh coi vấn đề đồn kết dân

tộc, đoàn kết toàn dân để tạo ra sức mạnh là vấn đề cơ bản của cách mạng. Hồ Chí
Minh cịn cho rằng, đại đồn kết dân tộc khơng chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu
của Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Bởi vì, đại đồn kết
dân tộc chính là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Đảng có
sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, đồn kết quần chúng tạo thành sức mạnh vô địch trong
cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người.
7


1.2. Lực lượng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
1.2.1. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết tồn dân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm Dân và Nhân dân, có biến độ rất rộng. Người
dùng các khái niệm này để chỉ “mọi con dân nước Việt”, “con Rồng cháu Tiên”,
không phân biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người khơng
tín ngưỡng, khơng phân biệt già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo, quý, tiện. Như vậy, dân và
nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh vừa được hiểu với tư cách là mỗi con người
Việt Nam cụ thể, vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân, với những mối
liên hệ cả quá khứ và hiện tại, họ là chủ thể của khối đại đoàn kết dân tộc và đại đoàn
kết dân tộc thực chất là đại đoàn kết tồn dân.
Nói đến đại đồn kết dân tộc cũng có nghĩa là phải tập hợp được mọi người dân vào
một khối trong cuộc đấu tranh chung. Người đã nhiều lần nêu rõ: “Ta đoàn kết để đấu
tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta cịn phải đồn kết để xây dựng nước
nhà. “Ai có tài, có đức, có sức, có lịng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta
đồn kết với họ”. Từ “ta” ở đây là chủ thể, vừa là Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng,
vừa là mọi người dân Việt Nam nói chung. Với tinh thần đồn kết rộng rãi, Người đã
dùng khái niệm đại đoàn kết dân tộc để định hướng cho việc xây dựng khối đoàn kết
toàn dân trong suốt tiến trình cách mạng, bao gồm mọi giai cấp, dân tộc, tơn giáo.
1.2.2. Nền tảng của khối đại đồn kết toàn dân tộc
Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh có lập trường giai cấp rõ ràng, đó là đại đồn
kết tồn dân với nịng cốt là khối liên minh công – nông – tri thức do Đảng của giai

cấp công nhân lãnh đạo. Muốn xây dựng khối đại đồn kết dân tộc rộng lớn như vậy,
thì phải xác định rõ đâu là nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc và những lực lượng
nào tạo nên cái nền tảng đó. Người đã chỉ rõ: Đại đồn kết tức là trước hết phải đoàn
kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng
lớp nhân nhân lao động khác. Người coi trọng công nông cũng như cái nền của nhà,
gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, cịn phải đồn kết các tầng lớp nhân dân
khác. “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên
minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất”. Về sau, Người nêu
thêm: lấy liên minh công – nông – lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kết
toàn dân. Nền tảng càng được củng cố vững chắc thì khối đại đồn kết dân tộc càng
được mở rộng, khơng e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết
dân tộc.
1.2.3. Điều kiện để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
8


Muốn thực hiện được đại đồn kết tồn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu nước –
nhân nghĩa – đồn kết của dân tộc, phải có tấm lịng khoan dung, độ lượng với con
người. Người đã nhiều lần nhắc nhở: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây
giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”. Để thực hiện được đồn kết, Người cịn
căn dặn: Cần xóa bỏ hết mọi thành kiến, cần phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ
nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ để phục vụ nhân dân.
Để thực hành đoàn kết rộng rãi, cần có niềm tin vào nhân dân. Với Hồ Chí Minh, yêu
dân, tin dân, dựa vào dân, sống, đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân là nguyên tắc tối
cao. Nguyên tắc này vừa là sự tiếp nối truyền thống dân tộc “nước lấy dân làm gốc”,
“chở thuyền và làm lật thuyền cũng là dân”, đồng thời là sự quán triệt sâu sắc nguyên
lý mác-xít “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Theo Người, dân là chỗ dựa
vững chắc của Đảng, là nguồn sức mạnh vô tận và vô địch của khối đại đoàn kết,
quyết định thắng lợi của cách mạng, là nền, gốc và chủ thể của Mặt trận. Trong bài

Nói chuyện tại Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên – Việt toàn quốc, tháng 1 – 1955,
Người chỉ rõ: “Đại đoàn kết tức là trước hết là phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà
đại đa số nhân dân là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác.
Đó là nền, gốc của đại đồn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng
đã có nền vững, gốc tốt, cịn phải đồn kết các tầng lớp nhân dân khác”
1.3. Hình thức, nguyên tắc tổ chức của khối đại đoàn kết tồn dân tộc – Mặt
trận dân tộc thống nhất.
1.3.1. Hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết dân tộc là Mặt trận dân tộc thống
nhất.
Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là để tạo nên lực lượng cách mạng, để làm cách
mạng xóa bỏ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới. Do đó, đại đồn kết dân tộc không thể
chỉ dừng lại ở quan niệm, ở tư tưởng, ở những lời kêu gọi, mà phải trở thành một
chiến lược cách mạng, trở thành khẩu hiệu hành động của Đảng, tồn dân ta. Nó phải
biến thành sức mạnh vật chất, thành lực lượng vật chất có tổ chức và tổ chức đó chính
là Mặt trận dân tộc thống nhất.
Cả dân tộc hay toàn dân chỉ trở thành lực lượng to lớn, trở thành sức mạnh vô địch
khi được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung, được tổ chức lại thành một khối vững
chắc và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn; nếu khơng, quần chúng
nhân dân dù có hàng triệu, hàng triêu con người cũng chỉ là một số đơng khơng có sức
mạnh.
9


Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước, xét trên một khía cạnh nào đó, chính là đi tìm
sức mạnh để giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân lao động. Và sức mạnh mà
Người đã tìm được là đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại.
Từ khi tìm thấy con đường và sức mạnh để cứu nước, Hồ Chí Minh đã rất chú ý đến
việc đưa quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với từng giai
cấp, tầng lớp, từng giới, từng ngành nghề, từng lứa tuổi, từng tơn giáo. Đó là các già

làng, trưởng bản, các hội ái hữu, tương trợ, cơng hội, nơng hội, đồn thanh niên, hội
phụ nữ, đội thiếu niên nhi đồng, hội phụ lão, hội Phật giáo cứu quốc, Công giáo yêu
nước, các nghiệp đoàn, v.v., bao trùm nhất là Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận
chính là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, tập hợp mọi người dân nước
Việt, khơng chỉ ở trong nước mà cịn cả những người Việt Nam định cư ở nước ngoài,
dù ở bất cứ phương trời nào, nếu tấm lòng vẫn hướng về quê hương đất nước, về Tổ
quốc Việt Nam...
Tùy theo từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xây
dựng được Mặt trận dân tộc thống nhất có cương lĩnh, điều lệ phù hợp với yêu cầu,
nhiệm vụ của từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng. Các tổ chức Mặt trận ở nước ta
đều là tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, dân
tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu nước ở trong và ngoài nước, phấn
đấu vì mục tiêu chung là độc lập, thống nhất của Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của
nhân dân.
1.3.2. Một số nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc
thống nhất.
Tổ chức thể hiện sức mạnh vât chất của khối đại đoàn kết dân tộc chính là Mặt trận
dân tộc thống nhất. Mặt trận có thể có tên gọi khác nhau nhưng tựu trung lại chỉ là
một tổ chức chính trị rộng rãi, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn
giáo, đảng phái, các tổ chức và các nhân tố u nước ở trong và ngồi nước, phấn dấu
vì mục tiêu độc lập, thống nhất của Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân như:
Hội phản đế đồng minh (1930); Mặt trận Dân chủ (1936); Mặt trận nhân dân phản đế
(1939); Mặt trận Việt Minh (1941); Mặt trận Liên Việt (1946); Mặt trận Dân tộc giải
phóng miền Nam (1960); Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955 và 1976).
Thứ nhất: Đại đoàn kết dân tộc phải được xây dựng trên nền tảng liên minh cơng nơng – trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
10


Mặt trận dân tộc thống nhất là thực thể của tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, nơi quy tụ
mọi con dân nước Việt. Song, đó khơng phải là một tập hợp lỏng lẻo, ngẫu nhiên, tự

phát của quần chúng nhân dân, mà là một khối đoàn kết chặt chẽ, có tổ chức trên nền
tảng khối liên minh cơng – nơng – trí thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đây là
nguyên tắc cốt lõi trong chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí Minh, nó hồn tồn khác
với tư tưởng đoàn kết, tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước VN trong lịch sử. Trên
thực tế và theo Hồ Chí Minh, đại đồn kết khơng chỉ là tình cảm của “người trong
một nước phải thương nhau cùng” nữa, mà đã được xây dựng trên một cơ sở lý luận
vững chắc.
Hồ Chí Minh ln ln nhấn mạnh rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là một thành viên
của Mặt trận dân tộc thống nhất, đồng thời là lực lượng lãnh đạo Mặt trận. Nhưng
Người cho rằng, quyền lãnh đạo Mặt trận khơng phải do Đảng tự phong cho mình, mà
phải được nhân dân thừa nhận. Người nói: “Đảng khơng thể địi hỏi Mặt trận thừa
nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt
động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần
chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì
Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”.
Đảng lãnh đạo Mặt trận trước hết bằng việc xác định chính sách Mặt trận đúng đắn,
phù hợp với từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng. Đảng phải dùng phương pháp
vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lịng chân thành để đối xử, cảm hóa,
khơi gợi tinh thần tự giác, tự nguyện, hết sức tránh gò ép, quan liêu mệnh lệnh.
Sự đoàn kết trong Đảng là cơ sở vững chắc để xây dựng sự đoàn kết trong Mặt trận.
Đảng đoàn kết, dân tộc đoàn kết và sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân sẽ tạo
nên sức mạnh bên trong, để dân tộc vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù,
đi tới thắng lợi cuối cùng của cách mạng.
Thứ hai: Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối
cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân.
Mục đích chung của Mặt trận dân tộc thống nhất được Hồ Chí Minh xác định cụ thể
phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, nhằm tập hợp tới mức cao nhất lực lượng dân
tộc vào khối đại đoàn kết.
Như vậy, độc lập, tự do là nguyên tắc bất di bất dịch, là ngọn cờ đoàn kết và là mẫu số
chung để quy tụ các tầng lớp, giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo vào trong Mặt

trận. Vấn đề còn lại là ở chỗ, phải làm thế nào để tất cả mọi người thuộc bất cứ giai
tầng nào, lực lượng nào trong Mặt trận cũng phải đặt lợi ích tối cao đó lên trên hết,
11


trước hết. Bởi lẽ, lợi ích tối cao của dân tộc được bảo đảm thì lợi ích cơ bản của mỗi
bộ phận, mỗi người mới được thực hiện.
Trên cơ sở xác định lợi ích tối cao của dân tộc, những quyền lợi cơ bản của các tầng
lớp nhân dân cũng được Hồ Chí Minh kết tinh vào tiêu chí của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa là độc lập, tự do, hạnh phúc. Các tiêu chí này được Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh cụ thể hóa trong từng lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội … phù
hợp với mọi tầng lớp, từng đối tượng trong mỗi thời kỳ lịch sử.
Thứ ba: Hoạt động của Mặt trận theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, bảo đảm đoàn
kết ngày càng rộng rãi và bền vững.
Nguyên tắc hiệp thương dân chủ đòi hỏi tất cả mọi vấn đề của Mặt trận đều phải được
đem ra để tất cả các thành viên cùng nhau bàn bạc công khai, để đi đến nhất trí, loại
trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức. Đảng là lực lượng lãnh đạo mặt trận, nhưng
cũng là một thành viên của mặt trận. Do vậy, tất cả mọi chủ trương, chính sách của
mình, Đảng phải có trách nhiệm trình bày trước Mặt trận, cùng với các thành viên
khác của Mặt trận bàn bạc, hiệp thương dân chủ để tìm kiếm các giải pháp tích cực và
thống nhất hành động, hướng phong trào quần chúng thực hiện thắng lợi các mục tiêu
đã vạch ra.
Khi có những lợi ích riêng biệt khơng phù hợp, Mặt trận sẽ giải quyết bằng việc nêu
cao lợi ích chung của dân tộc, bằng sự vận động hiệp thương dân chủ, tạo ra nhận
thức ngày càng đúng đắn hơn cho mỗi người, mỗi bộ phận về mối quan hệ giữa lợi
ích chung và lợi ích riêng, cùng nhau bàn bạc để đi đến nhất trí, loại trừ mọi sự áp đặt
hoặc dân chủ hình thức.
Thứ tư: Khối đồn kết trong Mặt trận là lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân
thành; thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Giữa các thành viên của khối đại đoàn kết dân tộc, bên cạnh những điểm tương đồng

vẫn có những điểm khác nhau cần phải bàn bạc để đi đến nhất trí; bên cạnh những
nhân tố tích cực vẫn có những nhân tố tiêu cực cần phải khắc phục. Để giải quyết vấn
đề này, một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm “cầu đồng tồn dị”, lấy cái
chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt; mặt khác, Người nêu rõ: “Đoàn kết phải
gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đồn kết”. Người thường xun căn dặn
phải khắc phục tình trạng đồn kết xi chiều, phải nêu cao tinh thần tự phê bình và
phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục mặt chưa tốt, củng cố đoàn kết nội bộ.
Đồn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đồn
kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình
12


những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân. Trong quá
trình xây dựng, củng cố và phát triển Mặt trận dân tộc thống nhất, Đảng ta luôn đấu
tranh chống khuynh hướng cô độc, hẹp hòi, coi nhẹ việc tranh thủ tất cả những lực
lượng có thể tranh thủ được; đồng thời chống khuynh hướng đồn kết một chiều, đồn
kết mà khơng có đấu tranh đúng mức trong nội bộ Mặt trận.
1.4. Phương châm đại đồn kết của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đường lối, chiến lược và động lực tư tưởng đai đoàn kết của Hồ Chí Minh đều có
những ngun tắc. Có thể nêu ra những nguyên tắc đó như sau:
- Phải tin tưởng vào đối tượng đoàn kết, trước hết là tin tưởng vào khả năng đoàn kết
của đối tượng.
- Phải tự giác, tự nguyện. Nếu bị bắt buộc phải đoàn kết, đồn kết ngồi mặt, đồn kết
hình thứ, thì khối đại đồn kết, tinh thần đồn kết khơng sớm thì muộn sẽ tan vỡ.
- Phải rộng lượng, khoan hồng nhưng khơng vi phạm mục đích chung , mục đích cao
nhất.
- Đồn kết có điều kiện, có ngun tắc, trong đó, điều kiện để đoàn kết là đấu tranh,
đấu tranh để càng đồn kết hơn.
- Khơng đồn kết theo phương pháp tùy tiện, gia trưởng, một chiều, phải đoàn kết trên
cơ sở của chủ nghĩa Mác – Lênin, của phép biện chứng duy vật.

Những nguyên tắc trên gắn bó với nhau để đạt tới một mục đích chung là giành thắng
lợi trong mục tiêu đoàn kết. Những quy tắc ấy cũng có thể coi là phương châm đại
đồn kết của tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.5. Ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh
Từ thực tiễn lịch sử dân tộc, Hồ Chí Minh đã khẳng định đoàn kết là một trong các
truyền thống quí báu của dân tộc ta đã được hun đúc trên nền tảng lòng yêu nước
nồng nàn của các thế hệ người Việt Nam.Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết là
một hệ thống quan điểm, nguyên tắc, phương pháp giáo dục, tổ chức, tập hợp lực
lượng cách mạng nhằm đoàn kết rộng rãi các giai tầng trong xã hội, phát huy đến mức
cao nhất sức mạnh của dân tộc của quốc tế, đấu tranh cho độc lập dân tộc, dân chủ và
chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết là sự kế thừa truyền thống
đoàn kết, nhân ái của dân tộc Việt Nam.Tư tưởng đại đồn kết của Hồ Chí Minh là
chiến lược nhất quán và xuyên suốt để tập hợp lực lượng cách mạng và là nhân tố
quyết định sự thành công. Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng
của dân tộc chính là cơ sở quan trọng hình thành tư tưởng đại đồn kết của Hồ Chí
13


Minh. Tình nghĩa tương thân “máu chảy, ruột mềm”, “mơi hở, răng lạnh”, “tay đứt,
ruột xót”, “một giọt máu đào hơn ao nước lã” đã thấm sâu vào tâm can của Hồ Chí
Minh.
Đại đồn kết dân tộc là tư tưởng lớn, có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc với cách
mạng nước ta. Tư tưởng này có nhiều giá trị, biểu hiện tập trung ở những điểm chính
sau:
- Đồn kết là bài học hàng đầu và có tính chiến lược, quyết định mọi thành cơng. Biết
đồn kết thì vượt qua khó khăn, thử thách, khơng đồn kết, chia rẽ là thất bại.
- Đồn kết phải có ngun tắc, vì mục tiêu và lợi ích chung. Khơng đồn kết một
chiều, đồn kết hình thức, nhất thời.
- Đồn kết trong tổ chức, thông qua tổ chức để tạo nên sức mạnh. Đồn kết cá nhân và
đồn kết tổ chức khơng tách rời nhau.

- Đồn kết phải có nội dung thích hợp với từng địa phương, từng tổ chức, từng thời
kỳ. Đồn kết trong chính sách tập hợp các tầng lớp nhân dân.
- Đoàn kết đi liền với bao dung, thực hiện tính nhân đạo cao cả, hướng tới tương lai.
- Lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết là nhiệm vụ của Đảng, là biện pháp phát huy
sức mạnh của Đảng, của toàn dân tộc.
- Muốn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải thực sự đoàn kết trong Đảng.
- Thực hiện đồng bộ đoàn kết trong Đảng - đoàn kết toàn dân - đoàn kết quốc tế.
- Đoàn kết trong mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trên cơ sở bảo vệ
và tôn trọng lợi ích của mọi thành viên cộng đồng quốc gia, dân tộc, quốc tế.

14


Chương 2: SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH CỦA ĐẢNG TA
TRONG XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY
2.1.1. Thực trạng việc việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ
Chí Minh trong những năm qua.
Đồn kết là ngun tắc của Đảng chân chính cách mạng. Đại đồn kết dân tộc là tư
tưởng có ý nghĩa chiến lược cơ bản, nhất quán và xuyên suốt, là vấn đề sống còn, là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Đối với dân tộc Việt Nam, đoàn
kết là truyền thống quý báu, là sức mạnh, là cội nguồn của thành công trong sự nghiệp
dựng nước và giữ nước. Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng nêu cao ngọn cờ dân tộc, lợi
ích quốc gia, dân tộc. Đại đồn kết dân tộc là điểm căn bản và nổi bật trong tư tưởng
Hồ Chí Minh. Đồn kết là sức mạnh, đồn kết là thành cơng. Người coi giữ gìn đồn
kết trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Người cũng là hiện thân của tinh
thần đoàn kết quốc tế.
Nhờ sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất do
Đảng lãnh đạo, toàn dân Việt Nam đã tạo nên sức mạnh tổng hợp, làm nên thành công
của Cách mạng Tháng Tám và các cuộc kháng chiến cứu nước, tranh thủ được sự

đoàn kết và ủng hộ của đồng chí, bè bạn và nhân dân thế giới, thực hiện thành công sự
nghiệp đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Thực hiện xuyên suốt và nhất quán chiến lược đại đoàn kết dân tộc trong suốt 90 năm,
nhất là trong hơn 30 năm đổi mới. Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn vận dụng sáng
tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc trong việc hoạch định chủ trương,
đường lối phù hợp với tình hình, yêu cầu và nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng, kiên
định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Để thực hiện thắng lợi trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải xây dựng và phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.
Trong thời gian qua, nhìn chung, khối đại đồn kết tồn dân tộc trên nền tảng liên
minh giai cấp cơng nhân và giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức được mở rộng hơn,
là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính
trị - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, trong khi sự nghiệp đổi mới đang có có yêu cầu
15


cao về tập hợp sức mạnh của nhân nhân thì việc tập hợp nhân dân vào Mặt trận và các
đoàn thể, các tổ chức xã hội còn nhiều hạn chế, nhất là ở khu vực kinh tế tự nhân, khu
vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, ở một số vùng có đơng đồng bào theo
đạo, đồng bào dân tộc thiểu số…
Sau hơn hai mươi năm, việc thể chế hóa và cụ thể hóa đường lối đổi mới của Đảng và
pháp luật của Nhà nước ta liên quan đến cơng tác dân tộc và chính sách đồn kết dân
tộc đã được thực hiện có hiệu quả. Nhờ có những chính sách của Đảng và Nhà nước,
truyền thống đồn kết giữa các dân tộc ở nước ta đã tiếp tục được duy trì, củng cố và
phát huy sức mạnh, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp cách mạng mới đặt ra. Sức mạnh của
khối đoàn kết giữa các dân tộc được thể hiện thông qua việc chúng ta đã thực hiện
thắng lợi nhiều mục tiêu và đạt được nhiều thành tựu trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội: tình hình chính trị, trật tự an tồn xã hội cơ bản đã được ổn định, an ninh

- quốc phòng được giữ vững. Quyền bình đẳng giữa các dân tộc cơ bản đã được Hiến
pháp xác định và được thể hiện trên mọi lĩnh vực xã hội.
Kinh tế đất nước có những bước phát triển vượt bậc, đời sống của nhân dân về cơ bản
được nâng lên. Nền kinh tế nhiều thành phần ở miền núi và vùng đồng bào dân tộc
thiểu số từng bước được hình thành và phát triển, cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch
theo hướng sản xuất hàng hóa, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân
nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số được cải thiển rõ rệt. Công tác xóa đói giảm
nghèo đạt được kết quả to lớn. Mặt bằng dân trí đã được nâng lên, sự nghiệp giáo dục
vùng dân tộc thiểu số và miền núi phát triển mạnh. Bản sắc văn hóa các dân tộc được
gìn giữ và phát huy. Việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân vùng cao, vùng sâu, vùng
xa được quan tâm hơn... Những kết quả này đã chứng minh rằng chính sách đoàn kết
các dân tộc của Đảng và Nhà nước ta thực sự đi vào cuộc sống; đã góp phần quyết
định trong việc tăng cường khối đoàn kết giữa các dân tộc ở nước ta thêm chặt chẽ,
hùng mạnh. Sau hơn hai mươi năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền kinh tế
nước ta từ nền kinh tế bao cấp, trì trệ bị bao vây cấm vận, đời sống nhân dân hết sức
khó khăn, đã có những bước tiến vững vàng và đạt được những thành tựu to lớn, tạo
đà cho thế kỷ phát triển mới của đất nước. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, kinh tế tăng trưởng nhanh, cơ sở vật chất - kỹ thuật được tăng cường, đời sống
của các tầng lớp nhân dân không ngừng được cải thiện. Kết quả này cũng minh chứng
một điều rằng: các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam đã phát huy được truyền thống
tương trợ, giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất và ý thức sâu sắc được sức mạnh của
truyền thống đó. Đồng thời, tinh thần đồn kết tương trợ lẫn nhau của đồng bào dân
16


tộc miền núi cũng được đẩy mạnh hơn nữa, cùng nhau góp phần vào sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nhờ thực hiện đường lối đổi mới nói chung và chính sách đồn kết các dân tộc nói
riêng của Đảng và Nhà nước, chúng ta đã đạt nhiều thành tựu trong lĩnh vực chính trị,
an ninh – quốc phịng. Độc lập, chủ quyền, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ, chế độ xã
hội chủ nghĩa, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững. Thế trận quốc

phịng tồn dân và thế trận an ninh nhân dân được củng cố; tiềm lực quốc phòng, an
ninh được tăng cường, nhất là trên các địa bàn chiến lược, xung yếu, phức tạp. Công
tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh được triển khai rộng rãi. Sự
phối hợp quốc phòng, an ninh, đối ngoại được chú trọng hơn. Quân đội nhân dân và
Công an nhân dân tiếp tục 9 được củng cố, xây dựng theo hướng cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, thực sự là lực lượng tin cậy của Đảng, Nhà
nước và nhân dân.
Chất lượng giáo dục được nâng lên đã góp phần vơ cùng quan trọng trong việc tăng
cường khối đoàn kết giữa các dân tộc. Đồng bào được trang bị đầy đủ hơn các kiến
thức về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và an ninh quốc phịng để hiểu đúng về chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, hiểu được tình hình trong nước
và trên thế giới, nâng cao ý thức trách nhiệm của mình trong xây dựng khối đồn kết
đồng thời cảnh giác trước âm mưu phá hoại của kẻ thù, được học hỏi các kiến thức,
kỹ năng trong lao động sản xuất để nâng cao mức sống… Nhờ đó, khối đồn kết giữa
các dân tộc ở nước ta ngày càng được củng cố và tăng cường hơn nữa, đáp ứng được
yêu cầu của tình hình mới đặt ra.
Thực hiện đường lối đổi mới đúng quy luật, đầy sáng tạo, hợp lòng dân do Đảng
Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, phát huy truyền thống đoàn kết, yêu
nước, ý thức tự tôn dân tộc, nhân dân ta đã vượt qua bao khó khăn, thách thức, giành
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng và Nhà nước đã ban hành
nhiều nghị quyết, chỉ thị quan trọng về đại đoàn kết tồn dân tộc, về cơng tác dân tộc,
về tơn giáo, về người Việt Nam ở nước ngoài, từng bước được thể chế hóa thành luật,
pháp lệnh, chính sách và ngày càng thể hiện rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
toàn dân tộc. Đất nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển và bước vào hàng ngũ
những nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình. Đời sống của nhân dân được
cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đồn kết toàn dân tộc được củng cố và
tăng cường; độc lập, chủ quyền quốc gia, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã
hội chủ nghĩa được giữ vững; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được
17



nâng cao; sức mạnh tổng hợp của đất nước được tăng lên gấp nhiều lần, tạo tiền đề
cho nhân dân ta tiếp tục phấn đấu xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trong giai đoạn hiện nay, các chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước có tác dụng trực tiếp và quyết
định đến kết quả xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội phải thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội, để
các chủ trương, chính sách sát cuộc sống, đáp ứng lợi ích của nhân dân. Kiên trì thực
hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”. Qua tình hình
phát triển xã hội, kinh tế… ở Việt Nam ta qua những năm gần đây cho thấy những
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đã vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh một
cách hết sức thiết thực, đã đi vào cuộc sống của nhân dân một cách hết sức hiệu quả.
Từ đó, có thể khẳng định, bài học đại đồn kết tồn dân tộc ngày càng trở nên sống
động và mang tính thời sự, và ngày càng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong bối cảnh
đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ để đón nhận những cơ hội cùng thách thức lớn
của quá trình hội nhập ngày một sâu, rộng.
2.1.2. Một số giải pháp góp phần cho việc nâng cao, xây dựng khối đại đoàn kết
dân tộc ở nước ta hiện nay.
Khơng thể phủ nhận những đường lối, chính sách lãnh đạo hết sức sáng suốt, thiết
thực và hiệu quả của Đảng và Nhà nước nhưng đâu đó vẫn tồn tại những vấn đề,
những hạn chế ảnh hưởng đến mục tiêu đại đoàn kết toàn dân tộc mà tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng, Nhà nước và cả nhân dân ln đề cao. Vì vậy, trong tình hình hiện nay,
để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh triệt để nhất vào việc xây dựng, củng cố và mở
rộng khối đại đoàn kết dân tộc cần chú ý đến những vấn đề sau:
Một là, phải thấu suốt quan điểm đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh, động
lực chủ yếu là nhân tố bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, trong công cuộc đổi mới, Đảng nhấn mạnh chiến lược đại đoàn kết dân tộc, lấy
mục tiêu chung của lợi ích quốc gia, dân tộc làm điểm tương đồng, tơn trọng lợi ích
của các tầng lớp, giai cấp khơng trái với lợi ích chung. Khép lại quá khứ, xóa bỏ định

kiến, hận thù, mặc cảm, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới
tương lai.
Ba là, đảm bảo công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng,
hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân
– tập thể - toàn xã hội ; thực hiện dân chủ gắn với giữ gìn kỷ cương, chống quan liêu,
tham nhũng, lãng phí;khơng ngừng bồi dưỡng, nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức
18


độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tình thần tự lực tự cường xây dựng đất nước;
xem đó là những yếu tố quan trọng để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn
dân tộc.
Bốn là, đại đoàn kết là sự nghiệp của cả dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân
lãnh đạo là các tổ chức Đảng được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức, trong
đó các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan
trọng hàng đầu.
Đại đồn kết dân tộc, nhân dân ln ln gắn liền với phát huy và hoàn thiện dân chủ
xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tôn trọng quyền con người,
quyền và tách nhiệm công dân. Trong lịch sử, Đảng đã chú trọng xây dựng các tổ
chức Mặt trận, các đoàn thể dể đoàn kết toàn dân, ngày nay, tăng cường xây dựng
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện tốt nhất đoàn
kết mọi giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài,
tạo sự đồng thuận xã hội.
Ngoài ra:
Thứ nhất, cần nâng cao nhận thức của người dân về vị trí, vai trị của khối đồn kết
các dân tộc, về chính sách đồn kết các dân tộc của Đảng và Nhà nước ta.
Thứ hai, cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện chính sách dân tộc nói chung, chính sách
đồn kết các dân tộc nói riêng.
Thứ ba, cần kiện tồn bộ máy cơ quan làm công tác dân tộc. Nâng cao đời sống văn
hóa, đào tạo đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số, cán bộ làm công tác Mặt trận,

người có uy tín trong đồng bào.

19


KẾT LUẬN
Trước lúc đi xa, trong Di chúc Người cẩn thận nhắn nhủ: “Đoàn kết là một
truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương
đến các chi bộ cần giữ gìn sự đồn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của
mắt mình”. Xun suốt tư tưởng Hồ Chí Minh, người khơng ít lần đề cao và nhắc về
đại đồn kết dân tộc điều này đủ nói lên được rằng tầm quan trọng của đại đoàn kết
toàn dân trong cách mạng, trong kháng chiến, trong kinh tế… và cả trong cuộc sống
hằng ngày của chúng ta. Kế thừa truyền thống đại đồn kết tồn dân tộc của ơng cha
trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước – một di sản tinh thần cực kỳ
quý báu của dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln khẳng định “Đồn kết là
vấn đề sống cịn”, “Khơng đồn kết thì suy và mất. Có đồn kết thì thịnh và cịn.
Chúng ta phải lấy đồn kết mà xoay vần vận mệnh, giữ gìn dân tộc và bảo vệ nước
nhà”. Đại đồn kết tồn dân giờ đây khơng chỉ là một trong những tư tưởng Hồ Chí
Minh mà cịn phải là một trong những tư tưởng hàng đầu và vĩnh viễn trong mỗi
người dân Việt Nam. Nhiệm vụ và nghĩa vụ của các con dân Việt Nam sau này quan
trọng nhất là phải kế thừa và phát huy triệt để truyền thống tốt đẹp này, luôn yêu
thương, đùm bọc và giúp đỡ lẫn nhau, gìn giữ truyền thống “thương người như thể
thương thân”. Bảo vệ Tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng, chúng ta
cần tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trị và tầm quan trọng tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc. Tiếp tục thực thi chiến lược đại đồn kết dân tộc
của Hồ Chí Minh một cách sáng tạo, quy tụ lực lượng dân tộc trên cơ sở lấy liên minh
cơng nơng và trí thức làm nòng cốt do Đảng Cộng sản lãnh đạo, phấn đấu vì độc lập
của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của của toàn dân là một bài học kinh nghiệm lịch sử có
giá trị bền vững lâu dài, có ý nghĩa chính trị quan trọng trong sự nghiệp thực thi
đường lối đổi mới, thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên

chủ nghĩa xã hội hiện nay. Ơng cha ta đã sử dụng tinh thần đồn kết dân tộc để dựng
nước và giữ nước thì nay, chúng ta cần có trách nhiệm đồn kết với nhau hơn nữa để
phát triển đất nước, đưa quốc gia Việt Nam không ngừng vươn cao vươn xa trên khắp
bản đồ thế giới như câu nói “một cây làm chẳng nên non ba cây chụm lại nên hòn núi
cao”.

20


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Bộ GD-ĐT, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, 2019
(2) Bộ GD-ĐT, Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, 2019
(3) Bộ GD-ĐT, Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam,
NXB Chính Trị Quốc Gia
(4) “Tăng cường phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”, Thượng tướng, TS Lê Huy
Vịnh, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy TW, Thứ trưởng Bộ
Quốc phòng trên Đảng ủy khối các cơ quan trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam.
(5) “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc”, Trang Thơng tin điện tử
Hồ Chí Minh
(6) Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh “Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
đại đồn kết dân tộc của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay”, Đào Văn Công,
trường Đại học lao động xã hội khoa quản lý lao động. 2011

(7)

“Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết – Ánh đuốc soi đường cho cách
mạng Việt Nam”, Tiến sĩ Bùi Thị Ngọc Trang Phó Giám đốc Học viện

Cán bộ TPHCM, Trang tin điện tử Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh.

(8)

“Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết và mặt trận đoàn kết dân tộc”,
Nguyễn Bích Hạnh, tiến sĩ Nguyễn Văn Khoan, NXB Lao Động.

Lời cuối em xin chân thành gửi lời cảm ơn đến thầy Lê Đình Năm
đã tạo điều kiện và giúp đỡ em trong kì học này.
Em xin chân thành cảm ơn thầy.

21



×