Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

TIỂU LUẬN VỀ CHỦ ĐỀ DÂN CHỦ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.7 KB, 28 trang )

ĐỀ CƯƠNG MÔN CNXHKH
Chủ đề: Dân chủ


PHẦN MỘT: LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
1.Lịch sử vấn đề dân chủ
Dân chủ có nguồn gốc từ Hi Lạp cổ đại. Thuật ngữ này xuất hiện tại Athena,
Hi Lạp vào thế kỉ V TCN, với cụm từ “ dimokratica”, “ quyền lực nhân dân” được
ghép từ chữ “demos”, “nhân dân” và”kratos”, “quyền lực” để chỉ hệ thống chính
trị tồn tại ở một số thành bang Hi Lạp, nổi bật nhất là Athena sau cuộc nổi dậy của
dân chúng vào năm508 TCN. Tương truyền, hình thức nhà nước này được quốc
vương Theseus - vị vua khai quốc của thành bang Athena – áp dụng đầu tiên trong
thời kì thượng cổ. Chính phủ đó được coi là hệ thống dân chủ đầu tiên. Tại đó
người dân bầu cho mọi việc. Nhiều người xem hệ thống tại Athena chỉ diễn ra một
phần của nền dân chủ vì chỉ có một thiểu sói được bầu cử trong khi nữ giới và dân
nô lệ không được phép bầu. Các nền văn hóa khác cũng có những đóng góp đáng
kể cho nền dân chủ như Đơng Á, Ấn Độ cổ đại, La Mã cổ đại, Châu Âu, Nam Bắc
Mĩ.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đã dẫn tới sự ra đời của chế độ tư hữu và
giai cấp - chế độ chiếm hữu nô lệ ra đời. Giai cấp chủ nô đã lập nhà nước, lấy tên
là nhà nước dân chủ - tức là nhà nước dân chủ chủ nô thống trị đại đa số người lao
động và giai cấp nơ lệ. Khi đó, nhà nước chủ nơ mới chính thức sử dụng danh từ “
dân chủ”, có nghĩa là nhà nước dân chủ chủ nơ có quyền lực của dân. Nhưng “dân”
lúc này là dân theo quy định của luật pháp do giai cấp chủ nô quy định gồm giai
cấp chủ nô, tăng lữ, thương gia, một số tri thức và người tự do; còn lại đa số nhân
dân trở thành nơ lệ thì khơng được coi là” dân”. Về thực chất, đây là giai cấp tư
hữu áp bức, bóc lột đầu tiên lập ra nhà nước, đã dùng pháp luật và nhà nước của nó
lợi dụng khái niệm dân chủ để chiếm mất quyền lực thực sự của nhân dân lao
động.



Cuộc đấu tranh giữa giai cấp chủ nô và nô lệ phát triển đến mức gay gắt làm
cho nền dân chủ chủ nô tan rã, chế độ phong kiến ra đời. Trong chế độ phong kiến,
toàn bộ quyền lực tập trung trong tay một người, đó là vua, vừa được xem là” thiên
tử”, là đấng tối thượng, mọi người chỉ được xem là thần dân của vua nên đây gọi là
chế độ độc tài chuyên chế. Sự thống trị của giai cấp trong thời kì này được khốc
lên chiếc áo thần bí của thế lực siêu nhiên. Họ xem việc tuân theo ý chí của giai
cấp thống trị là bổn phận của mình trước sức mạnh của đấng tối cao. Do đó, ý thức
về dân chủ và đấu tranh để thực hiện quyền làm chủ của người dân đã không vó
những bước tiến đáng kể nào.
Cuối thế kỉ XIV - đầu XV, giai cấp tư sản với những tư tưởng tiến bộ về tự do,
công bằng, dân chủ đã mở đường cho sự ra đời của nền dân chủ tư sản. Nền dân
chủ này là một bước tiến của nhân loại với những giá trị nổi bật về quyền tự do,
bình đẳng, dân chủ. Tuy nhiên, do được xây dựng trên nền tảng kinh tế là chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất, nên trên thực tế nền dân chủ tư sản vẫn là nền dân chủ của
thiểu số những người nắm giữ tư liệu sản xuất đối với đại đa số nhân dân lao động.
Theo V.I.Lê – nin, ngay cả “ trong những điều kiện phát triển thuận lợi nhất của
nó” – “ chế độ cộng hịa dân chủ” thì chế độ dân chủ ấy vẫn “ ln luôn là một chế
độ dân chủ đối với một thiểu số, vẫn chỉ là một chế độ dân chủ đối với riêng những
giai cấp có của, đối với riêng bọn giàu có mà thơi”.
2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam
2.1. Lịch sử hình thành nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Dân chủ là khát vọng lớn nhất của xã hội lồi người, đánh giá trình độ văn
minh của một quốc gia, dân tộc. Trên thế giới đã cho thấy sự phát triển của các nền


dân chủ qua các giai đoạn, thể hiện các nấc thang tiến bộ: dân chủ chủ nô, dân chủ
phong kiến, dân chủ tư sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn quá trình hình thành và phát triển của các nền
dân chủ trong lịch sử và trực tiếp nhất là dân chủ tư sản, các nhà sáng lâp MácLênin cho rằng, đấu tranh cho dân chủ là một quá trình lâu dài, phức tạp và giá trị

của nền dân chủ tư sản chưa phải là hồn thiện nhất, do đó tất yếu xuất hiện một
nền dân chủ mới, cao hơn nền dân chủ tư sản và đó chính là nền dân chủ vơ sản
hay cịn gọi là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là đỉnh cao so các nền dân chủ khác. Bởi vì:
+ Nhiệm vụ của cuộc cách mạng vơ sản là sau khi giành được chính quyền,
phải biết sử dụng hiệu quả quyền lực nhà nước để xây dựng thiết chế kinh tế, chính
trị-xã hội mới.Ở nhà nước đó, nhân dân, trước hết là nhân dân lao động từng bước
trở thành người chủ xã hội, chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực.
+Các nền dân chủ trước đó đều là dân chủ đại diện cho một giai cấp thiểu số
trong xã hội, dân chủ mang bản chất giai cấp thống trị sâu sắc. Điều đó thể hiện,
giai cấp nào nắm được chính quyền về tay mình, thì họ tiến hành thực thi dân chủ
nhằm đảm bảo lợi ích cho giai cấp mình.
 Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ chân chính thể hiện quyền làm chủ của
mọi công dân đối với nhà nước và toàn xã hội.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phôi thai từ thực tiễn đấu tranh giai cấp ở
Pháp và Công xã Pari năm 1871, tuy nhiên, chỉ đến khi Cách mạng Tháng Mười
Nga thành công với sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới
(1917), nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mới chính thức được xác lập. Sự ra đời của
nên dân chủ xã hội chủ nghĩa đánh dấu bước phát triển mới về chất của dân chủ.
Quá trình phát triển của nên dân chủ xã hội chủ nghĩa bắt đầu từ thấp đến cao, từ


chưa hồn thiện đến hồn thiện. Trong đó, có sự kế thừa những giá trị của nền dân
chủ trước đó, đồng thời bổ sung và làm sâu sắc thêm những giá trị của nên dân chủ
mới.
Việc giai cấp công nhân giành được chính quyền và từng bước xây dựng xã
hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa chính là điểm bắt đầu hình thành nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa:
-


Ở Việt Nam, khi đất nước còn đang bị “một cổ hai tròng”, yêu cầu dân chủ
đầu tiên và trước mắt của nhân dân là đất nước được độc lập, người cày có
ruộng. Yêu cầu dân chủ đó đạt được bằng cuộc Cách mạng tháng Tám năm

-

1945, cải cách ruộng đất, thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Khi đất nước bị chia cắt thành hai miền với hai thể chế chính trị khác nhau,
nhân dân miền Nam cịn phải sống dưới ách chủ nghĩa đế quốc mới và ách
áp bức, bóc lột, bất cơng, nhân dân miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì
nhân dân miền Nam mà “thóc khơng thiếu một cân, qn khơng thiếu một
người. Tất cả vì miền Nam ruột thịt”. Yêu cầu dân chủ của cả cộng đồng dân
tộc Việt Nam là được sống trong một đất nước hịa bình, tự do, thống nhất.
Đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước thu về một mối, hịa bình, độc lập

-

đã được thực hiện, u cầu dân chủ trên đã được thực hiện.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, yêu cầu dân chủ của nhân dân là đưa nước
ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hâu, thực hiện thành cơng sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng
bằng, văn minh”.
Quá trình phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là từ thấp tới cao, từ

chưa hoàn thiện đến hồn thiện; có sự kế thừa một cách chọn lọc giá trị của các
nền dân chủ trước đó, trước hết là nền dân chủ tư sản. Nguyên tắc cơ bản của nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa là không ngừng mở rộng dân chủ, nâng cao mức độ giải
phóng cho những người lao động, thu hút họ tham gia tự giác vào cơng việc quản lí



nhà nước, quản lí xã hội. Càng hồn thiện bao nhiêu, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
lại càng tự tiêu vong bấy nhiêu. Thực chất của sự tiêu vong này là theo V.I.Lênin,
đó là tính chính trị của dân chủ sẽ mất đi trên cơ sở không ngừng mở rộng dân chủ
đối với nhân dân, xác lập địa vị chủ thể quyền lực của nhân dân, tạo điều kiện để
họ tham gia ngày càng đông đảo và ngày càng có ý nghĩa quyết định vào sự quản lí
nhà nước, quản lí xã hội. Q trình đó làm cho dân chủ trở thành một thói quen,
một tập quán trong sinh hoạt xã hội...để đến lúc đó khơng cịn tồn tại như một thể
chế nhà nước, một chế độ, tức là mất đi tính chính trị của nó.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân
chủ cao hơn về chất so với nền dân chủ tư sản, là nền dân chủ mà ở đó, mọi quyền
lực thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân làm chủ; dân chủ và pháp luật nằm
trong sự thống nhất biện chứng; được thực hiện bằng nhànước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản”.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cho đến nay, Đảng luôn xác định xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển xã
hội. Đảng ta khẳng định nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta: “Là bản chất của
chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và
từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực
hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền
với kỷ cương và phải thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm.”
Trong quá trình đổi mới, dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được mở rộng
về cả nội dung: Dân chủ trong chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và diễn ra từ cấp
trung ương cho đến cơ sở, lẫn hình thức: dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp.
Hình thức dân chủ gián tiếp là hình thức dân chủ đại diện, được thực hiện do nhân
dân “ủy quyền”, giao quyền lực của mình cho tổ chức mà nhân dân trực tiếp bầu
ra. Những con người và tổ chức ấy đại diện cho nhân dân, thực hiện quyền làm chủ


cho nhân dân. Nhân dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất hoạt động theo nhiệm kỳ 5 năm. Quyền lực nhà nước ta là thống nhất , có

sự phân cơng, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hình thức dân chủ trực tiếp là hình
thức thơng qua đó, nhân dân bằng hành động trực tiếp của mình thực hiện quyền
làm chủ nhà nước và xã hội. Hình thức đó thể hiện ở các quyền được thơng tin về
hoạt động của nhà nước, được bàn bạc về công việc của nhà nước và cộng đồng
dân cư; được bàn đến những quyết định về dân chủ cơ sở, nhân dân kiểm tra, giám
sát hoạt động của cơ quan nhà nước từ Trung ương cho đến cơ sở. Dân chủ ngày
càng được thể hiện trong tất cả các mối quan hệ xã hội, trở thành quy chế, cách
thức làm việc của mọi tổ chức trong xã hội.
Trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, một u cầu tất yếu là
khơng ngừng củng cố, hồn thiện những điều kiện đảm bảo quyền làm chủ của
nhân dân và chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Thực tiễn xây dựng
đất nướ cho thấy dân chủ xã hội chủ nghĩa được thể hiện ở việc đảm bảo và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân theo hướng ngày càng mở rộng và hoạt động hiệu
quả. Ý thức làm chủ của nhân dân, trách nhiệm công dân của người dân trong xã
hội ngày càng được đề cao trong pháp luật và cuộc sống. Mọi công dân đều có
quyền tham gia quản lý xã hội bằng nhiều cách khác nhau, tùy theo trách nhiệm và
nghĩa vụ của mình. Dân chủ cơng dân gắn liền với kỉ cương đất nước, được thể chế
hóa bằng luật của nhà nước pháp quyền, trong các nguyên tắc hoạt động của các cơ
quan, tổ chức.
Bên cạnh đó, việc xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam diễn ra
trong điều kiện xuất phát từ một nền kinh tế kém phát triển, chịu hậu quả nặng nề
do chiến tranh gây ra. Cùng với đó là những tiêu cực: “Tình trạng suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và


tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi. Tội phạm và tệ nạn xã hội
diễn biến phức tạp; đạo đức xã hội có mặt xuống cấp nghiêm trọng. Dân chủ xã hội
chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân chưa được phát huy đầy đủ; kỷ
cương, kỷ luật chưa nghiêm” đã làm ảnh hưởng đến bản chất tốt đẹp của chế độ

dân chủ nước ta, làm suy giảm động lực phát triển của đất nước. Mặt khác, âm
mưu “diễn biến hịa bình”, gây bạo loạn, lậy đổ, sử dụng chiêu bài “dân chủ”,
“nhân quyền” của các thế lực thù địch, vấn đề tự chuyển biến, tự chuyển hóa nảy
sinh và diễn biến hết sức phức tạp đang là trở ngại đối với quá trình thực hiện dân
chủ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Thực tiễn cho thấy, bản chất tốt đẹp và tính ưu việt của nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam càng ngày càng thể hiện giá trị lấy dân làm gốc. Kể từ khi
khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa cho đến nay, nhân dân thực sự trở
thành người làm chủ, tự xây dựng, tổ chức quản lý xã hội. Đay là chế độ đảm bảo
quyền làm chủ trong đời sống của nhân dân từ chính trị, kinh tế cho đến văn hóa,xã
hội; đồng thời phát huy tính tích cực, sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
PHẦN HAI: QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LÊNIN VỀ DÂN CHỦ
1. Cơ sở hình thành quan điểm dân chủ của chủ nghĩa Mac – Lênin
1.1. Quan điểm về dân chủ thời kỳ trước C.Mác và Ph.Ăngghen
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, con người đã biết “cử ra và phế bỏ người
đứng đầu” là do quyền và sức lực của người dân, nghĩa là dân chủ là quyền lực
thuộc về nhân dân.Thời kỳ Hy Lạp cổ đại, khi bắt đầu có ngơn ngữ, chữ viết, con
người đã biết cách diễn đạt nội dung dân chủ. Người La Mã cổ đại cũng biết đến
dân chủ, khi các nhà tư tưởng chính trị La Mã cho rằng quyền lực chính trị xuất
phát từ sự đồng thuận của dân chúng, con người có những quyền tự nhiên mà tất
cả chính quyền đều phải tôn trọng. Mãi đến thời kỳ phục hưng vào thế kỷ thứ XV,


Châu Âu xuất hiện những nhà tư tưởng lớn, việc cải cách thể chế lại được thúc
đẩy. Đặc biệt, đến thời kỳ khai sáng ở Châu Âu, thế kỷ thứ XVIII - XIX, những tư
tưởng thực sự dân chủ mới lại xuất hiện, nhất là cống hiến của các triết gia người
Pháp. Bước sang thời kỳ chủ nghĩa tư bản, quan niệm về dân chủ với những khái
niệm “nhân quyền” “dân chủ”, “tự do”, “bình đẳng”, “bác ái”,... những nội dung
này mới được thể hiện trong đời sống hiện thực; đó là nền dân chủ tư sản.

1.2. Quan điểm về dân chủ thời kỳ C.Mác và Ph.Ăngghen
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Ph.Ăngghen hiểu khái niệm dân chủ
trước hết với tính cách là một khái niệm chính trị, dùng để chỉ chế độ nhà nước.
Ph.Ăngghen không thừa nhận chế độ thị tộc là một thể chế dân chủ vì đó chưa
phải là một chế độ chính trị. Tự do, bình đẳng, bác ái, tuy chưa bao giờ được nêu
thành công thức, nhưng vẫn là những nguyên tắc cơ bản của thị tộc”. Ông gọi đây
là nền “Dân chủ quân sự”.
Theo C.Mác, Ph.Ăngghen chỉ có nền dân chủ mới, dân chủ vô sản, mới làm
cho nhân dân lao động thực sự làm chủ xã hội và làm chủ vận mệnh của mình,
kiểu mẫu của dân chủ vơ sản chính là Cơng xã Pari, một hình thức tổ chức nhà
nước do những người cộng sản lãnh đạo - một nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Tuy khơng phải là những người đầu tiên bàn về dân chủ và nêu lên ước vọng
về một xã hội dân chủ nhưng C.Mác và Ph. Ăngghen, lần đầu tiên chỉ ra bản chất
giai cấp của dân chủ, làm rõ những đóng góp và hạn chế của dân chủ tư sản, từ đó
tìm ra con đường để xây dựng một nền dân chủ mới - dân chủ vô sản.
2. Những nội dung cơ bản trong quan điểm của chủ nghĩa Mac - Lênin về
dân chủ.
2.1. Dân chủ và chế độ dân chủ
Trong Mười đề cương về chính quyền Xơviết, V.I.Lênin coi dân chủ là tự do.
V.I.Lênin nhấn mạnh: “Dân chủ là tự do, là bình đẳng, là quyết định của đa số; cịn
có gì cao hơn tự do, bình đẳng, quyết định của đa số nữa”.


Phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin nhiều lần khẳng
định rằng “chế độ dân chủ” là một hình thức nhà nước, một trong những hình thái
của nhà nước. Chế độ dân chủ cũng là nhà nước, do đó nhà nước mà mất đi thì chế
độ dân chủ cũng mất theo.
Những giá trị dân chủ, theo V.I. Lênin, cần được giai cấp công nhân vận dụng
để thực hiện sứ mệnh của mình, mà trước hết là để xây dựng một chính đảng của
giai cấp cơng nhân.

2.2. Bản chất giai cấp của vấn đề dân chủ
Dân chủ là một phạm trù lịch sử mang tính giai cấp khi xã hội xuất hiện giai
cấp và quan hệ giai cấp. Dân chủ ln mang tính giai cấp và chịu sự chi phối của
giai cấp cầm quyền. Về thực chất, dân chủ với tư cách là quyền lực của nhân dân
thì các thành quả của dân chủ là sự phản ánh những giá trị nhân văn trong q trình
giải phóng con người. Theo V.I.Lênin, chế độ dân chủ được coi như là một hình
thức nhà nước đã mang bản chất giai cấp, vì thế không thể tách rời vấn đề nhà
nước với vấn đề giai cấp. Dân chủ với tư cách là chế độ nhà nước gắn trực tiếp với
một giai cấp cầm quyền nhất định dựa trên một quan hệ sản xuất thống trị thì dân
chủ bao giờ cũng mang tính giai cấp, khơng bao giờ có thứ dân chủ thuần túy cho
mọi giai cấp. Tính giai cấp của dân chủ được phản ánh trong các quan hệ giai cấp
và đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết vấn đề đặt ra là dân chủ cho giai cấp nào,
tầng lớp nào, hạn chế dân chủ và chuyên chính với ai. Mỗi giai cấp giải thích về
dân chủ, cả về phương diện lý thuyết và thực tế với các cách thức và mức độ khác
nhau, tuỳ lập trường, quan điểm và lợi ích của giai cấp mình.
2.3. Nguyên tắc tập trung dân chủ
V.I. Lênin trình đã trình bày nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ như
sau:
Tổ chức cơ sở đảng trở thành hạt nhân tổ chức cơ bản của Đảng, Tất cả các cơ
quan cấp trên đều thực sự được bầu ra, có trách nhiệm báo cáo cơng tác và có thể


bị bãi miễn. Tổ chức đảng là tổ chức của những công nhân dân chủ - xã hội giác
ngộ và sinh hoạt độc lập. Phải thực hiện bằng được chế độ tự trị của mọi tổ chức
đảng; Cần xóa bỏ và xóa bỏ bằng được sự tranh giành địa bàn, sự lo sợ “phái”
khác; Thống nhất về tổ chức, đồng thời có sự đấu tranh thuần túy về tư tưởng giữa
các trào lưu tư tưởng dân chủ - xã hội khác nhau trong nội bộ các tổ chức đảng;
Xác định rõ rệt nguyên nhân tranh luận giữa các trào lưu tư tưởng trong đảng là
điều kiện cần thiết để phát triển đảng một cách lành mạnh, để giáo dục giai cấp
công nhân và tránh được sự sai lầm về đường lối,…Thực hiện nguyên tắc tập trung

dân chủ, theo V.I.Lênin, trong Đảng cần phải thực hiện kỷ luật chặt chẽ, thống
nhất; thực hiện nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên;
tổ chức các cấp và toàn thể đảng viên của Đảng phải chấp hành nghị quyết đại hội
đại biểu của Đảng, phục tùng sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương.
Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của V.I.Lênin, nguyên tắc tập trung dân
chủ không chỉ là phương pháp và tác phong công tác của chính đảng vơ sản cầm
quyền, mà trước hết và trên hết, nó chính là chế độ tổ chức và nguyên tắc tổ chức
của đảng.
3. Quan điểm của CN Mác Lênin về dân chủ XHCN
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn quá trình hình thành và phát triển các nền dân
chủ trong lịch sử và trực tiếp nhất là nền dân chủ tư sản, các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác Lênin cho rằng, đấu tranh cho dân chủ là một quá trình lâu dài, phức tạp
và giá trị của nền dân chủ tư sản chưa phải là hoàn thiện nhất, do đó tất yếu xuất
hiện một nền dân chủ mới, dân chủ cao hơn nền dân chủ tư sản và đó schính là nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa đã được phôi thai từ trong cuộc cách mạng của
Công xã Paris (1871), như V.I.Lênin đã từng khẳng định: “Công xã dường như đã
thay bộ máy nhà nước bị đập tan bằng một chế độ dân chủ “chỉ” hoàn bị hơn mà


thôi… Từ chỗ dân chủ tư sản biến thành dân chủ vô sản, từ chỗ nhà nước (bằng lực
lượng đặc biệt để trấn áo một giai cấp nhất định) nó biến thành một cái gì thực ra
khơng phải nhà nước hiểu theo nghĩa thật sự nữa”.
Tuy nhiên, chỉ đến khi Cách mạng tháng Mười Nga thành công với sự ra đời
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, nền dân chủ XHCN mới
chính thức được xác lập. Sự ra đời của nền dân chủ XHCN đánh dấu bước phát
triển mới về chất của dân chủ. Quá trình phát triển của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa bắt đầu từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hồn thiện. Trong đó, có sự
kế thừa những giá trị của nền dân chủ trước đó, đồng thời bổ sung và làm sâu sắc
thêm những giá trị của nền dân chủ mới.

3.1. Quan niệm của CN Mác Lênin
Thứ nhất, chủ nghĩa Mác-Lênin kế thừa những nhân tố hợp lý trong
hoạt động thực tiễn và nhận thức của nhân loại về dân chủ, đặc biệt là việc
tán thành cho rằng: dân chủ là một nhu cầu khách quan của nhân dân lao
động; dân chủ là quyền lực của nhân dân (hay dân chủ là quyền lực thuộc
về nhân dân).
Thứ hai, khi xã hội có giai cấp và nhà nước – tức là một chế độ dân
chủ thể hiện chủ yếu qua nhà nước thì khi đó khơng có “dân chủ chung
chung, phi giai cấp, siêu giai cấp”, “dân chủ thuần tuý”. Trái lại, mỗi chế
độ dân chủ gắn với nhà nước đều mang bản chất giai cấp thống trị xã hội.
Lịch sử nhân loại đã chứng minh rõ có các kiểu dân chủ: chế độ dân chủ
chủ nô, chế độ dân chủ tư sản, chế độ dân chủ vô sản (hay dân chủ xã hội
chủ nghĩa). Riêng chế độ phong kiến là chế độ quân chủ, (rồi “quân chủ lập
hiến”) không phải là chế độ dân chủ, nhưng những nhu cầu dân chủ, những


biểu hiện dân chủ trong nhân dân, trong xã hội, thậm chí ngay cả trong một
số triều đình phong kiến... của xã hội phong kiến vẫn có.
Do đó, từ khi có chế độ dân chủ thì dân chủ ln ln với tư cách một
phạm trù lịch sử, phạm trù chính trị.
Thứ ba, từ khi có nhà nước dân chủ, thì dân chủ cịn với ý nghĩa là
một hình thức nhà nước, trong đó có chế độ bầu cử, bãi miễn các thành
viên nhà nước, có quản lý xã hội theo pháp luật nhà nước và thừa nhận ở
nhà nước đó “quyền lực thuộc về nhân dân” (còn dân là những ai thì do bản
chất giai cấp thống trị xã hội quy định), gắn liền với một hệ thống chuyên
chính của giai cấp thống trị xã hội.
Thứ tư, với một chế độ dân chủ và nhà nước tương ứng, đều do một
giai cấp thống trị cầm quyền chi phối tất cả các lĩnh vực của tồn xã hội, do
vậy tính giai cấp thống trị cũng gắn liền với và chi phối tính dân tộc, tính
chất của chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội... ở mỗi quốc gia dân tộc

cụ thể.
3.2. Bản chất của nền dân chủ XHCN
a.

Bản chất chính trị:

Dưới

sự

lãnh

đạo

duy

nhất

của

một

đảng

của

giai cấp cơng nhân - đảng Mác-Lênin mà trên mọi lĩnh vực xã hội đều thực
hiện quyền lực của nhân dân, thể hiện qua các quyền dân chủ, làm chủ,
quyền con người, thoả mãn ngày càng cao hơn các nhu cầu và các lợi ích
của nhân dân. Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ rõ: Bản chất chính trị của nền dân

chủ xã hội chủ nghĩa là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp cơng nhân thơng
qua đảng của nó đối với tồn xã hội, nhưng khơng phải chỉ để thực hiện
quyền lực và lợi ích riêng cho giai cấp cơng nhân, mà chủ yếu là để thực


hiện quyền lực và lợi ích của tồn thể nhân dân, trong đó có giai cấp cơng
nhân. Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ: Trong chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa
thì bao nhiêu quyền lực đều là của dân, bao nhiêu sức mạnh đều ở nơi dân,
bao nhiêu lợi ích đều là vì dân... Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà
nước xã hội chủ nghĩa... do đó về thực chất là của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, khác với các cuộc cách
mạng trước đây là ở chỗ nó là cuộc cách mạng của số đơng, vì lợi ích của
số đơng nhân dân. V.I. Lênin cịn nhấn mạnh rằng: Dân chủ xã hội chủ
nghĩa là chế độ mà nhân dân ngày càng tham gia nhiều vào công việc nhà
nước. Với ý nghĩa đó, V.I. Lênin đã diễn đạt một cách khái quát về bản chất
và mục tiêu của dân chủ xã hội chủ nghĩa rằng: đó là nền dân chủ “gấp triệu
lần dân chủ tư sản”. Do vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai
cấp cơng nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
b.

Bản chất kinh tế:

Nền

dân

chủ




hội

chủ

nghĩa

dựa

trên

chế

độ

cơng hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội đáp ứng sự
phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa học công nghệ hiện đại nhằm thoả mãn ngày càng cao những nhu cầu vật chất
và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động.
Bản chất kinh tế đó chỉ được bộc lộ đầy đủ qua một quá trình ổn định
chính trị, phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của toàn xã hội, dưới sự
lãnh đạo của đảng Mác-Lênin và quản lý, hướng dẫn, giúp đỡ... của nhà
nước xã hội chủ nghĩa.
Bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dù khác về bản chất
kinh tế của các chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột, bất công, nhưng cũng như


tồn bộ nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, nó khơng hình thành từ “hư vơ” theo
mong muốn của bất kỳ ai. Kinh tế xã hội chủ nghĩa cũng là sự kế thừa và
phát triển mọi thành tựu nhân loại đã tạo ra trong lịch sử, đồng thời lọc bỏ
những nhân tố lạc hậu, tiêu cực, kìm hãm... của các chế độ kinh tế trước đó,
nhất là bản chất tư hữu, áp bức bóc lột, bất cơng... đối với đa số nhân dân.


c. Bản chất tư tưởng - văn hoá:
Nền

dân

chủ



hội

chủ

nghĩa

lấy

hệ



tưởng Mác-Lênin – hệ tư tưởng của giai cấp công nhân làm nền tảng, chủ
đạo đối với mọi hình thái ý thức xã hội khác trong xã hội mới (như văn học
nghệ thuật, giáo dục, đạo đức, lối sống, văn hoá, xã hội, tôn giáo v.v.). Đồng
thời, dân chủ xã hội chủ nghĩa kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hoá
truyền thống các dân tộc; tiếp thu những giá trị tư tưởng - văn hoá, văn minh,
tiến bộ xã hội... mà nhân loại đã tạo ra ở tất cả các quốc gia, dân tộc...
Do đó, đời sống tư tưởng - văn hoá của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
rất phong phú, đa dạng, toàn diện và ngày càng trở thành một nhân tố quan

trọng hàng đầu, thành mục tiêu và động lực cho quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
PHẦN BA: QUAN ĐIỂM CỦA NHÓM
Ngay từ thời Hy Lạp cổ đại, khi có ngơn ngữ, chữ viết, con người đã biết diễn
đạt nội dung dân chủ. Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, con người đã biết “ cử ra
và phế bỏ người đứng đầu” là do quyền và sức lực của người dân. Nghĩa là dân chủ
là quyền lực thuộc về nhân dân. Ở mọi nền văn minh, nền dân chủ tồn tại trong các
cộng đồng dân cư bộ lạc, thị tộc, công xã, làng xã… từ thời thượng cổ, ở nhiều nơi
tiếp tục tồn tại cho đến ngày nay trong đó người đứng đầu cộng đồng sẽ do cộng


đồng bầu chọn. Đó là hình thức tổ chức sơ khai nhất của con người trước khi nhà
nước xuất hiện.
Dân chủ là hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa
nhận nhân dân là nguồn gơc của quyền lực, thừa nhận ngun tắc bình đẳng, tự do
và quyền con người. Dân chủ cũng được vận dụng vào tổ chức và hoạt động của
những tổ chức và thiết chế chính trị nhất định. Là hình thức tổ chức chính trị của
Nhà nước, dân chủ xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước, như vậy dân chủ
là một phạm trù lịch sử, cũng như các biểu hiện khác của hình thái ý thức xã hội,
dân chủ do tồn tại xã hội quyết định, do phương thức sản xuất vật chất của xã hội
quyết định; và do đó, trình độ của phương thức sản xuất khác nhau tất yếu dẫn đến
sự khác nhau về trình độ dân chủ. Dân chủ biến đổi và phát triển không ngừng cả
về chất và lượng trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội loài người. Tuy
nhiên, dân chủ với tính cách là giá trị xã hội, là thành quả giá trị nhân văn trước hết
được sinh ra từ phương thức tổ chức hợp tác sản xuất vật chất và cấu kết cộng
đồng giữa người với người thì đã tồn tại ngay từ xã hội cộng sản nguyên thủy. Và
do đó, với ý nghĩa này, dân chủ sẽ tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát
triển của con người, là một trong những phương thức tồn tại của con người ngay cả
khi Nhà nước đã biến mất.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa hay còn gọi là dân chủ nhân dân là cụm từ mô tả

nền dân chủ của các nước xã hội chủ nghĩa do Đảng cộng sản lãnh đạo, là đỉnh cao
so với các nền dân chủ khác. Về phương diện tổ chức nhà nước, dân chủ là một
hình thức thực hiện quyền lực nhà nước, nơi mà tất cả mọi người- trực tiếp hoặc
gián tiếp được tham gia vào các quyết định quan trọng trong phân phối và phân bổ
các lợi ích và giá trị xã hội. Dưới giác ngộ lý luận, đây là việc nhà nước thực thi và
củng cố các quyết định phù hợp với những gì mà đa số người dân mong đợi. Trong


tiến trình phát triển và trở nên bền vững của bất cứ nền dân chủ nào đều nhờ các
thiết chế và hệ thống giá trị hỗ trợ nhất định.
Ở Việt Nam, bản Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh viết và cơng
bố với thế giới năm 1945 đã khẳng định quyền tự do dân chủ là của tất cả mọi
người dân Việt Nam. Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1946 cũng đã khẳng định ba
nguyên tắc cơ bản của chế độ mới là: đoàn kết toàn dân khơng phân biệt giống nịi,
gái, trai, giai cấp, tơn giáo; đảm bảo các quyền tự do dân chủ; thực hiện chính
quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Như vậy, ngay từ khi thành lập nước,
tự do dân chủ đã trở thành vấn đề ưu tiên hàng đầu, là mục tiêu phấn đấu của nhà
nước cách mạng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nước ta là
nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ”; “Chế độ ta là chế độ dân
chủ, tức là nhân dân là người chủ”; “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là
dân, vì dân là chủ”.
Trong thời gian vừa qua, Đảng ta đã có nhiều văn bản chỉ đạo để bảo đảm tính
dân chủ tập trung trong việc điều hành của các cơ quan thuộc hệ thống chính trị và
các tổ chức kinh tế do Đảng lãnh đạo. Tại Hội nghị tổng kết về tiếp tục đẩy mạnh
việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng đã nhấn mạnh: “không ngừng phát huy dân chủ, khơi dậy tiềm năng, sức
mạnh của nhân dân”.
Tuy nhiên, trong những năm qua vấn đề dân chủ cơ sở ở nước ta chưa phát
huy đầy đủ hiệu quả trong thực tế, thậm chí tình trạng vi phạm dân chủ cịn diễn ra
ở nhiều địa phương, cơ sở. Trở lại vấn đề bản chất của nền dân chủ, nội hàm cơ

bản của khái niệm này rất dễ dàng nhận được sự thống nhất, đó là sự thể hiện
quyền của người dân trong thực tế. Nhưng về lý luận cũng như thực tiễn, có hai
vấn đề đặt ra: một là, người dân hiện nay trong thực thi dân chủ thực sự có quyền


đến đâu? Hai là, các cơ chế đề ra được vận dụng như thế nào để người dân có thể
thực hiện đầy đủ quyền của mình, để quyền của người dân không bị ngăn cản khi
tham gia giải quyết những vấn đề xã hội liên quan đến đời sống thực tế cả ở tầm vĩ
mô và vi mô? Thực tế thời gian qua không phải lúc nào, ở đâu quyền của người
dân cũng được bảo đảm đầy đủ, điều này làm ảnh hưởng đến bản chất ưu việt của
nền dân chủ. Có nhiều yếu tố, đặc biệt là cách áp dụng các cơ chế mà chúng ta
đang có. Đây là vấn đề cần nghiên cứu để đưa ra những giải pháp có tính thực tế để
triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách, các văn bản pháp luật đã được ban
hành cũng như sẽ ban hành sau này.
Cần phải nhấn mạnh rằng dân chủ là một quá trình vận động khơng ngừng.
Trong q trình đó ln diễn ra những thay đổi quan trọng về tính chất, nội dung
cũng như về thể chế của nền dân chủ. Ngày nay, dân chủ khơng chỉ liên quan đến
lĩnh vực chính trị mà còn bao gồm nhiều mặt của đời sống và xã hội, kinh tế và văn
hóa. Lịch sử phát triển của nhân loại đã có nhiều hình thức dân chủ khác nhau từng
được thiết lập: dân chủ trực tiếp, dân chủ gián tiếp, dân chủ đại diện, nhưng tính
chất của nền dân chủ cũng biến đổi không như ban đầu được thiết lập. Ở nhiều
quốc gia trên thế giới, người dân ngày càng đòi hỏi nhiều hơn quyền được tham gia
trực tiếp vào việc hoạch định các chính sách, chủ trương liên quan đến quyền lợi
của đa số người dân. Dân chủ hóa đời sống chính trị - xã hội đang trở thành một
yêu cầu của xã hội hiện đại, là một thước đo cơ bản của sự phát triển xã hội.
Trong lịch sử phát triển của nhiều nền dân chủ, chưa hẳn là nền dân chủ được
thiết lập như thế nào sẽ quyết định hồn tồn tính chất của nó mà điều đó cịn lệ
thuộc vào nhiều điều kiện, trong đó có cơ chế vận hành nền dân chủ trong thực tế.
Triển vọng phát triển của một nền dân chủ sẽ rất lớn nếu cùng với thể chế tiến bộ là
kinh tế phát triển, trình độ nhận thức của người dân được nâng cao, các giá trị được

tôn trọng, bảo vệ, sự bình đẳng được xác lập một cách có cơ sở. Ngược lại, việc


che giấu sự thật, bưng bít thơng tin hay trấn áp dư luận… làm bất bình đẳng trong
xã hội gia tăng, thì dân chủ dù mang hình thức nào cũng sẽ bị hạn chế không thể
được thực hiện đầy đủ và mất dần đi bản chất ban đầu của nó. Có thể khẳng định,
dân chủ đã, đang và sẽ là một lý tưởng chính trị có sức hút mạnh mẽ với người
dân, là động lực cho cuộc đấu tranh vì một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Dân chủ là một vấn đề có tính thời sự sâu sắc, được phát triển qua nhiều giai
đoạn của lịch sử với rất nhiều tư tưởng, quan điểm, luận thuyết khác nhau, nhưng
đến nay vẫn luôn là vấn đề mở cần tiếp tục nghiên cứu để tìm ra hướng phát triển
và hồn thiện cho pháp luật của mỗi nhà nước, mỗi cộng đồng.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một nấc thang, một trình độ cao trong lịch sử
phát triển dân chủ của nhân loại và cho đến nay, nó vẫn đang trong q trình xây
dựng và hoàn thiện ở một số nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vì thế, có
thể nói, dân chủ xã hội chủ nghĩa và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa là vấn đề
mới mẻ, cần được tiếp tục nghiên cứu.
Trong những năm qua, tình hình thực hiện dân chủ ở nước ta cũng có những
thành tựu đáng kể trong từng lĩnh vực:
-

Trong lĩnh vực chính trị:

+ Hệ thống chính trị được đổi mới theo hướng dân chủ, pháp quyền của dân,
do dân, vì dân.
+ Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
+ Công tác lập pháp của Quốc hội đã đi vào nề nếp, chức năng của Quốc hội
ngày càng được đổi mới phù hợp hơn.



+ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đã từng bước
đổi mới nội dung và phương thức hoạt động. Các hình thức thực hiện dân chủ
từng bước được hoàn thiện.
+ Quy chế dân chủ cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn
đã thâm nhập sâu rộng vào mọi tầng lớp nhân dân.
-

Trong lĩnh vực kinh tế:

+ Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ,
tạo ra môi trường kinh tế, pháp lý thuận lợi.
+ Nhà nước đã ban hành Hiến pháp và nhiều đạo luật về kinh tế để tạo hành
lang pháp lý cho sự vận hành của nền kinh tế và cho hoạt động sản xuất, kinh
doanh.
+ Người dân cũng có quyền tham gia các chủ trương, chính sách phát triển
kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. Người lao động có quyền được hưởng
thụ một cách bình đẳng những thành quả kinh tế của đất nước.
+ Q trình dân chủ hóa đời sống kinh tế đã nhanh chóng đưa nền kinh tế của
đất nước thốt khỏi tình trạng trì trệ, khủng hoảng, đời sống nhân dân được cải
thiện rõ rệt, sức mạnh quốc gia được tăng lên, tạo ra thế và lực mới cho đất
nước tiếp tục phát triển.
-

Trong lĩnh vực văn hóa – xã hội:

+ Nhà nước đảm bảo cho nhân dân các quyền cơ bản: quyền được thông tin, tự
do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do sáng tạo...



+ Hệ thống chính sách pháp luật ngày càng được hồn thiện, cơng tác xóa đói,
giảm nghèo ngày càng được quan tâm, chú trọng.
+ Nhân dân có quyền thảo luận và giám sát những dự án, những công việc
chung của đất nước...
Bên cạnh những thành tựu mà đất nước đã đạt được thì cũng có một vài hạn
chế như sau:
-

Trong lĩnh vực chính trị:

+ Vẫn cịn tình trạng dân chủ hình thức, chưa thực sự trở thành biểu tượng và
động lực mạnh mẽ định hướng và thúc đẩy phát triển dân chủ trong xã hội.
+ Còn mất dân chủ trong Đảng, dân chủ không đi đôi với kỷ luật, kỷ cương,
nói khơng đi đổi với làm, nói nhiều làm ít, chấp hành nghị quyết của Đảng,
pháp luật của nhà nước khơng nghiêm.
+ Việc xây dựng nhà nước pháp quyền cịn có những bất cập, chưa đáp ứng
đầy đủ các nguyên tắc cơ bản.
+ Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu đề ra, thủ tục hành chính cịn gây
phiền hà cho xã hội và công dân.
+ Quyền làm chủ nhân dân ở một số nơi, một số lĩnh vực còn bị vi phạm.
+ Nguyên tắc “Đảng lãnh đạo – Nhà nước quản lý – nhân dân làm chủ” chưa
được thể chế hóa cụ thể và rành mạch thành cơ chế đồng bộ để nhân dân thực
sự là chủ và làm chủ.
-

Trong lĩnh vực kinh tế:


+ Cịn bất bình đẳng trong việc đối xử các chủ thể kinh tế, các thành phần kinh
tế về thuế, vay vốn, lãi suất cho vay, về thủ tục xuất nhập khẩu.

+ Thể chế kinh tế thị trường gồm cả hệ thống pháp luật và cả các chính sách
của Nhà nước còn thiếu đồng bộ, nhất quán. Việc triển khai, thực thi đường lối,
chính sách kinh tế có biểu hiện thiếu dân chủ. Việc đổi mới, phát triển, nâng cao
hiệu quả kinh tế nhà nước và tập thể còn nhiều hạn chế.
+ Tình trang quan liêu, quản lý lỏng lẻo, gây thất thốt, lãng phí chưa được xử
lý nghiêm. Trong xã hội xuất hiện khơng ít người giàu lên bằng con đường làm
ăn phi pháp.
+ Hiện tượng lợi dụng chức quyền tham ơ, tham nhũng, lãng phí vẫn là vấn đề
nhức nhối.
-

Trong lĩnh vực văn hóa – xã hội:

+ Những vấn đề bức xúc về văn hóa – xã hội chưa được giải quyết triệt để,
thực hiện tiến bộ, công bằng còn nhiều hạn chế; tiêu cực xã hội, tệ nạn xã hội,
tội phạm xã hội ngày càng tăng cao.
+ Cơng tác xóa đói, giảm nghèo cịn thiếu bền vững.
+ Một số vấn đề mới nảy sinh liên quan đến giai cấp, dân tộc, tơn giáo...chưa
có giải pháp khắc phục hậu quả. Xuất hiện nhiều điểm nóng, tình trạng thiếu
kiện đông người vẫn thường xuyên xảy ra.
+ Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi cịn nghèo nàn, đơn điệu. Điều kiện
sáng tạo, hoạt động và thụ hưởng văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số, nơng
dân, cơng nhân cịn nhiều khó khăn, thiếu thốn.


+ Giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ đổi mới cịn chậm, các biểu hiện
“bệnh thành tích”, hình thức chưa được khắc phục.
Từ những khó khăn, thử thách trong quá trình xây dựng phát triển đi lên xã
hội chủ nghĩa, chúng ta thấy được những vấn đề cấp thiết được đặt ra:
Thứ nhất, việc thực hiện dân chủ về kinh tế phải được đảm bảo về thực chất

để các thành phần kinh tế được bình đẳng trước pháp luật.
Thứ hai, làm thế nào để trong tiến trình phát triển, quyền làm chủ về kinh tế
của con người lao động được đảm bảo trên thực tế là một thách thức.
Thứ ba, tình trạng phân hóa giàu nghèo,thu nhập, phân hóa đạo đức, lối
sống… cũng là một thách thức lớn.
Thứ tư, tình trạng quan liêu, xa dân, tham ơ, tham nhũng, lãng phí vẫn là vấn
nạn và ngày càng nghiêm trọng.
Thứ năm, kịp thời phê phán, đấu tranh, ngăn chặn, làm thất bại những âm
mưu thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Đây là thách thức lâu dài khơng
thể xem thường trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa.
Thứ sáu, thực hiện dân chủ trong tổ chức, sinh hoạt Đảng, để Đảng thực sự
trở thành đầu tàu trong dân chủ chính là nhiệm vụ, thách thức lớn hiện nay.
Thứ bảy, dân chủ phải gắn liền với kỉ cương, kỉ luật. Bởi nếu dân chủ bừa bãi,
vơ tổ chức, thì một số người sẽ lợi dụng dân chủ để gây rối loạn nội bộ, vi phạm
lợi ích của cá nhân và cộng đồng, gây hại cho sự ổn định, phát triển của Nhà nước.


Thứ tám, dân chủ phải được xem vừa là động lực, vừa là mục tiêu trong công
cuộc đổi mới.Đảng, Nhà nước phải đặt dân chủ là nền móng, là gốc dễ để phát
triển, đưa ra những chính sách hợp lí. Đồng thời , dân chủ cũng là một cái đích cần
hướng tới để xây dựng một xã hội phát triển tự do, bình đẳng.
Dân chủ của Việt Nam là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, mang bản chất của chế
độ, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển đất nước, xây dựng và từng
bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu của sự phát triển đất nước
thể hiện ở: nền dân chủ ấy phải được xác lập và khơng ngừng hồn thiện cùng với
quá trình phát triển đất nước; thứ hai mọi chủ trương chính sách của Đảng và nhà
nước đều phải xuất phát từ nhân dân, vì lợi ích của nhân dân; thứ ba nhân dân lao
động làm chủ thực sự trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội là thước đo và tiêu chí

đánh giá mức độ hồn thiện của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ xã hội chủ
nghĩa khơng những là mục tiêu mà cịn là động lực của sự phát triển đtá nước. Điều
đó thể hiên ở nhân dân lao động được làm chủ, phát huy cao độ tính tích cực, tự
giác của mình trong sự nghiệp xây dựng bảo vệ đất nước và sức lao động được giải
phóng, mọi tiềm năng của đất nước được phát huy, tạo nên sức mạnh tổng hợp to
lớn cho sự phát triển đất nước Nhà nước ta luôn chủ trương xây dựng một xã hội
dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên, công chức phải thực sự là cơng bộc của dân,
đặt mình dưới sự kiểm tra giám sát của nhân dân.
Vai trò mục tiêu và động lực của dân chủ xã hội chủ nghĩa đối với sự phát triển
đất nước quan hệ chặt chẽ và thống nhất với nau, bổ sung cho nhau, cùng vận động
trong quá trình xây dựng xã hội mới. Việc phân định đâu là vấn đề thuộc về mục
tiêu, đâu là vấn đề thuộc về động lực của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa chỉ có
tính chất tương đối, bởi sự hịa quyện đan xen lẫn nhau giữa chúng. Q trình xây
dựng, hoàn thiện mục tiêu xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng chính là quá


trình phát huy vai trị động lực của dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng chinhd là quá
trình xây dựng, hoàn thiện chế độ dân chủ này
Vấn đề chúng ta cần phải được nhận thức đúng và giải quyết tốt trong thực tiễn,
phải được triển khai bằng chủ trương, biện pháp cụ thể trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Ở đại hội XI, Đảng chỉ rõ: “ Xây dựng và từng bước hoàn thiện nề dân
chủ xã hội chủ nghĩa, dảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở
mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực” “Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên
thực tế quyền làm chủ trực tiếp và quyền làm chủ thông qua các cơ quan đại diện
của mình. Phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách
nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương xã hội, phê phán và nghiêm trị những
hành vi vi phạm quyền làn chủ của nhân dân, những hành vi lợi dụng dân chủ làm
tổn hại đến lợi ích quốc gia dân tộc, gây mất an ninh, trật tự, an tồn xã hội”.
Hiện nay, tình trạng suy thối về chính trị , tư tưởng, đạo đức, lối sống của một
bộ không nhỏ các bổ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí cịn nghiêm

trọng. Quền làm chủ của nhân dân ở một số nowim trên một vài lĩnh vực còn bị vi
phạm. Việc thực hành dân chủ cịn mang tính hình thức, có tình trạng lợi dụng dân
chủ gây chia rẽ, làm mấy đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến trật tự, an tồn
xã hội. Tình trạng này làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến bản chất tốt đjep của chế
độ dân chủ nước ta, của chế độ xã hội chủ nghĩa và cảu Đảng. Chừng nào quan
liêu, tham nhũng và suy thoái nên trên cịn diễn ra trầm trọng thì chừng đó chưa thể
nói chúng ta đã xây dựng và phát huy tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm
chủ của nhân dân trong đời sống hiện thực.
Yêu cầu xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh lịch sử
mới đã bức thiết đòi hỏi , Đảng, Nhà nước các cấp, các ngành phải kiên quyết hơn
nữa và nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi khắc phục tình trạng
suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống của một nộ phận không nhỏ các


×