Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Luận văn Quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng trong lĩnh vực giáo dục trên địa bàn tỉnh Phú Yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (882.05 KB, 113 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

…………../…………..

……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN THÚY HẰNG

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THI ĐUA, KHEN THƯỞNG TRONG
LĨNH VỰC GIÁO DỤC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

ĐĂK LĂK, NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

…………/…………

……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN THÚY HẰNG



QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THI ĐUA, KHEN THƯỞNG
TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Mã số: 8 34 04 03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRƯƠNG QUỐC CHÍNH

ĐĂK LĂK, NĂM 2020


LỜI CAM ĐOAN
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý công với đề tài “Quản lý nhà
nước về thi đua, khen thưởng trong lĩnh vực giáo dục trên địa bàn tỉnh Phú
Yên” được tác giả viết với sự hướng dẫn của PGS.TS. Trương Quốc Chính.
Khi thực hiện luận văn này, tác giả có tham khảo và kế thừa một số lý luận
chung trong công tác thi đua, khen thưởng và sử dụng những thông tin, số liệu
từ các cơ quan quản lý nhà nước cùng các tài liệu, sách báo, mạng internet...
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của chính bản thân tơi.
Các số liệu trong luận văn được sử dụng trung thực; các tài liệu tham khảo có
nguồn trích dẫn; kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng cơng bố
trong các cơng trình nghiên cứu khác, nếu có gì sai trái, tơi xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm.
Đăk Lăk, ngày 11 tháng 6 năm 2020
Tác giả luận văn

Trần Thúy Hằng



LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, tơi xin trân trọng cảm ơn Ban lãnh đạo, các
giảng viên Học viện Hành chính Quốc gia đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất
cho tơi trong q trình học tập, nghiên cứu và hồn thành luận văn tốt nghiệp.
Đặc biệt tơi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành sâu sắc tới PGS.TS.
Trương Quốc Chính vì sự tận tình hướng dẫn, giúp đỡ trong quá trình thực
hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo Ban Thi đua - Khen thưởng, Sở Giáo
dục và Đào tạo tỉnh Phú Yên, đồng nghiệp và gia đình đã quan tâm, động
viên, giúp đỡ, tạo điều kiện cho tơi hồn thành chương trình học tập và bản
luận văn này.
Mặc dù có nhiều nỗ lực, cố gắng, song luận văn khơng thể tránh khỏi
những thiếu sót và hạn chế, tôi rất mong nhận được sự chia sẻ và những ý
kiến đóng góp quý báu của quý Thầy, Cô và các anh, chị đồng nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn!

Phú Yên, ngày
tháng năm 2020
Tác giả luận văn

Trần Thúy Hằng


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU …………………………………………………………………… 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THI
ĐUA, KHEN THƯỞNG…………………………………………………….8
1.1. Lý luận chung về thi đua, khen thưởng………...……………………...8

1.2. Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng...…………...…………....15
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng………………………………………………………….…………….31
Tiểu kết chương 1……………………………...……………………….…36
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THI ĐUA,
KHEN THƯỞNG TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH PHÚ YÊN………………………………………………………...….37
2.1. Khái quát về công tác thi đua, khen thưởng trong lĩnh vực giáo dục
trên địa bàn tỉnh Phú Yên…………………..……...………………………...37
2.2.Thực tiễn quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trong lĩnh vực
giáo dục trên địa bàn tỉnh Phú Yên……..…………………..…….................50
2.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trong
lĩnh vực giáo dục trên địa bàn tỉnh Phú Yên……………………….………..68
Tiểu kết chương 2………………………………………………………..….78
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ THI ĐUA, KHEN THƯỞNG TRONG LĨNH VỰC GIÁO
DỤC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ YÊN…………………………...…….79
3.1. Phương hướng ……………………………………………………....79


3.2. Giải pháp………………………………………………………...…..83
Tiểu kết chương 3…………………………………………………….….....100
KẾT LUẬN………………………………………………………………..102


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Thi đua yêu nước là tư tưởng nổi bật của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhằm
động viên, phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn của toàn dân tộc thành
những hành động cụ thể, thiết thực, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua khó

khăn, thách thức, giành những thắng lợi quan trọng trong các giai đoạn cách
mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới phong trào thi đua yêu
nước và luôn nhắc nhở các cấp, các ngành phải coi trọng công tác thi đua.
Trong suố t tiế n trình cách ma ̣ng Viêṭ Nam, nhiều phong trào thi đua yêu nước
đã được phát động và trở thành cao trào cách mạng của quần chúng nhân dân.
Các phong trào như "Bình dân học vụ", "Hũ gạo kháng chiến, "Mỗi người
làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt", "Thanh niên Ba sẵn sàng", "Phụ nữ
Ba đảm đang", “Đền ơn đáp nghĩa”, "Tuổi trẻ giữ nước", "Ngày vì người
nghèo" v.v. đã mang lại những hiệu quả to lớn, góp phần quan trọng vào
thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Thi đua là u nước, u
nước thì phải thi đua”, “Cơng việc hàng ngày chính là nền tảng thi đua”. Thi
đua phải được tổ chức trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và phải
thực hiện thường xuyên, lâu dài, rộng khắp. Đảng, chính quyền, đồn thể các
cấp phải tun truyền, giải thích, động viên cho mọi người tự nguyện, tự giác
tham gia phong trào thi đua với kế hoạch, mục tiêu cụ thể, rõ ràng; đồng thời,
phải có trách nhiệm đôn đốc, kiểm tra, đánh giá, tổng kết phong trào thi đua.
Cán bộ, đảng viên phải tích cực vận động quần chúng, đi đầu làm gương cho
mọi người. Phải kết hợp chặt chẽ thi đua với khen thưởng, “Thi đua là gieo
trồng, khen thưởng là thu hoạch”. Khen thưởng đúng người, đúng việc, kịp
thời sẽ động viên, giáo dục và thúc đẩy phong trào thi đua phát triển liên tục.

1


Ở từng thời kỳ lịch sử, công tác thi đua, khen thưởng ln là chủ
trương và chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, ln là nhiệm vụ chính trị
của đất nước và góp phần to lớn vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Trong giai
đoạn cách mạng hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước vẫn cịn
ngun giá trị và có sức sống mãnh liệt. Ngày 21/5/2004, Bộ Chính trị đã ra

Chỉ thị 39/CT-TW về việc “tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu
nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến”. Nghị quyết
Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ XI tiếp tục nhấn mạnh: “Tổ chức các phong
trào thi đua yêu nước, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện các nhiệm vụ
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh, đối ngoại”; Bô ̣ Chính
tri ̣ ban hành Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 7/4/2014 về “Tiếp tục đổi mới công
tác thi đua, khen thưởng”… Ngày nay, trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước trước những thời cơ và thách thức, công tác thi đua, khen
thưởng là một nhiệm vụ quan trọng nhằm phát huy nội lực về tinh thần để
động viên, khuyến khích mọi tổ chức, mọi cá nhân phát huy truyền thống yêu
nước, năng động, sáng tạo hăng hái thi đua lập thành tích xuất sắc trên mọi
lĩnh vực, góp phần vào sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Trong những năm qua, đặc biệt từ năm học 2013- 2014 đến năm học
2017-2018 phong trào thi đua yêu nước và công tác thi đua, khen thưởng của
ngành giáo dục của tỉnh Phú Yên đã dần đi vào nề nếp, các phong trào thi đua
đã thực sự góp phần vào thực hiện có kết quả các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị
của ngành góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh.
Bên cạnh những mặt đạt được công tác thi đua, khen thưởng trong lĩnh
vực giáo dục tỉnh Phú Yên vẫn còn bộc lộ một số mặt hạn chế như: công tác
thi đua, khen thưởng thiếu cụ thể, phong trào thi đua chưa thật sự tạo được
2


động lực mạnh mẽ, công tác tuyên truyền, giới thiệu, nêu gương điển hình
tiên tiến, nhân rộng chưa tạo sự lan tỏa trong phong trào thi đua của ngành
giáo dục tỉnh Phú Yên trong thời gian qua. Một trong những ngun nhân cơ
bản của tình trạng trên là do cơng tác quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng còn nhiều bất cập, hạn chế; coi nhẹ công tác tuyên truyền, phổ biến,

hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về thi đua, khen
thưởng. Công tác tổng kết, bình bầu cịn tình trạng nể nang chạy theo thành
tích. Tổ chức bộ máy và cán bộ làm cơng tác thi đua, khen thưởng cịn hạn
chế về chun mơn.
Vì những lý do như vậy, tơi chọn vấn đề “Quản lý Nhà nước về thi
đua, khen thưởng trong lĩnh vực giáo dục trên địa bàn tỉnh Phú Yên” làm
đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý cơng .
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Công tác thi đua, khen thưởng ngày càng có vị trí, vai trị quan trọng và
được mọi cấp, ngành quan tâm. Đã có rất nhiều đề tài khoa học nghiên cứu về
công tác thi đua, khen thưởng ở các lĩnh vực, địa bàn khác nhau được công bố
trên sách báo, tạp chí và các báo cáo tổng kết Hội thảo, đề tài khoa học tiêu
biểu như:
- Nguyễn Viết Vượng (2006), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về thi
đua trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nhà xuất bản
Lao động. Cuốn sách trình bày, phân tích khá kỹ về nguồn gốc q trình hình
thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua, phân tích nội dung tư
tưởng Hồ Chí Minh về thi đua; nêu định hướng và các giải pháp vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về thi đua;
- Trần Thị Hà (2013), Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới thi đua, khen
thưởng trong giai đoạn hiện nay, Đề tài cấp nhà nước, Mã số đề tài: 02/2010,

3


đề tài đã tập trung nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về thi đua, khen
thưởng trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm đổi mới hoạt động thi đua,
khen thưởng và quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng. Thơng qua đó làm
căn cứ để kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật Thi đua, Khen thưởng.
- Bên cạnh đó cũng có nhiều luận án, luận văn nghiên cứu về thi đua,

khen thưởng, tiêu biểu như:
+ Phạm Thị Xuyến (2018), Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk, luận văn thạc sĩ Quản lý công, Học viện Hành chính
Quốc gia. Luận văn nêu lên thực trạng cơng tác thi đua, khen thưởng của tỉnh
Đắk Lắk, bên cạnh những mặt đã đạt được cịn có nhiều hạn chế và đề ra các
giải pháp nhằm hồn thiện cơng tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng
tại địa phương trong thời gian tới;
+ Nguyễn Thị Kim Hằng (2018), Quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng của UBND Quận 12, TP Hồ Chí Minh, luận văn thạc sĩ Quản lý cơng,
Học viện Hành chính Quốc gia. Luận văn đã phân tích thực trạng của cơng tác
thi đua, khen thưởng của UBND Quận 12, đồng thời đánh giá lại những mặt
làm được, chưa làm được, tìm ra nguyên nhân khách quan, chủ quan để từ đó
đề xuất giải pháp hồn thiện công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng của Ủy ban nhân dân Quận;
+ Nguyễn Thị Hạnh (2017), Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng ở
tỉnh Bắc Ninh hiện nay, luận văn thạc sĩ Quản lý cơng, Học viện Hành chính
Quốc gia. Luận văn nêu lên thực trạng quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng ở tỉnh Bắc Ninh tuy có những bước chuyển biến rõ rệt, đồng bộ và nề
nếp hơn tuy nhiên phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng cịn
nhiều hạn chế, yếu kém… Qua đó tác giả đã đề ra những giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Bắc
4


Ninh;
+ Nguyễn Vũ Lộc (2017), Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trên
địa bàn tỉnh Phú Yên, luận văn thạc sĩ Quản lý cơng, Học viện Hành chính
Quốc gia; Luận văn phân tích thực trạng quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng trên địa bàn tỉnh Phú Yên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn
những hạn chế bất cập cần khắc phục. Từ đó tác giả đề xuất một số giải pháp

nhằm nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng tại tỉnh
Phú Yên;
+ Đào Thị Thùy Dung (2015), “Đổi mới hoạt động quản lý nhà nước về
thi đua khen thưởng tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay”, luận văn thạc
sĩ Quản lý cơng, Học viện Hành chính Quốc gia. Luận văn đã phân tích thực
trạng cơng tác thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, từ đó đưa ra
một số giải pháp nhằm đổi mới quản lý nhà nước trong công tác này tại địa
phương;
+ Trần Thị Thanh Loan (2014) “Quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng
trên địa bàn thành phố Hải Phòng”, luận văn thạc sĩ chun ngành Quản lý
cơng, Học viện Hành chính Quốc gia. Luận văn đề cập đến những vấn đề về
quản lý nhà nước đối với công tác thi đua, khen thưởng tại thành phố Hải
Phòng trong giai đoạn 2009 – 2014, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm tăng
cường công tác này tại địa phương;
Tuy nhiên, hiện nay chưa có tài liệu nghiên cứu đầy đủ và chính thức về
thực trạng quản lý nhà nước đối với thi đua, khen thưởng trong lĩnh vực giáo
dục trên địa bàn tỉnh Phú Yên. Vì vậy, trong luận văn này tác giả nêu rõ thực
trạng quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trong lĩnh vực giáo dục trên
địa bàn tỉnh Phú Yên từ năm học 2013-2014 đến năm học 2017-2018 và đề

5


xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về thi đua,
khen thưởng trong lĩnh vực giáo dục của tỉnh Phú Yên trong thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm góp phần
tăng cường quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trong lĩnh vực giáo dục
trên địa bàn tỉnh Phú Yên và từ đó có thể có được sự đổi mới trong công tác
thi đua, khen thưởng tại địa phương trong thời gian tới.

- Nhiệm vụ:
+ Nghiên cứu, hệ thống lại những vấn đề lý luận cơ bản về thi đua,
khen thưởng; hệ thống lại một số vấn đề lý luận chung về quản lý nhà nước
đối với cơng tác thi đua, khen thưởng.
+ Phân tích đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng trong lĩnh vực giáo dục trên địa bàn tỉnh Phú Yên trong thời gian qua.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lý nhà
nước về thi đua, khen thưởng trong lĩnh vực giáo dục trên địa bàn tỉnh Phú
Yên trong những năm tiếp theo.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Lý luận và thực tiễn hoạt động quản lý nhà
nước về thi đua, khen thưởng trong lĩnh vực giáo dục theo quy định pháp
luật hiện hành về thi đua, khen thưởng.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu các nội dung quản lý
nhà nước về thi đua, khen thưởng trong lĩnh vực giáo dục theo quy định của
Luật Thi đua, Khen thưởng hiện hành.
- Về không gian: trên địa bàn tỉnh Phú Yên.
- Về thời gian: từ năm học 2013-2014 đến năm học 2017-2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
6


- Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp
luận biện chứng duy vật.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng những phương pháp
như: phân tích tài liệu; phương pháp thống kê, so sánh, đối chiếu; phương
pháp phân tích, tổng hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về lý luận: Góp phần hệ thống lại những cơ sở lý luận của quản lý

nhà nước đối với thi đua, khen thưởng nói chung và thi đua, khen thưởng
trong lĩnh vực giáo dục nói riêng.
- Về thực tiễn: Nội dung của những giải pháp mà luận văn đưa ra có
thể có ý nghĩa khuyến nghị bổ ích đối với những cơ quan, cán bộ làm công tác
thi đua, khen thưởng trong lĩnh vực giáo dục trên địa bàn tỉnh Phú Yên.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn gồm có 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận của quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trong
lĩnh vực giáo dục trên địa bàn tỉnh Phú Yên.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về thi đua,
khen thưởng trong lĩnh vực giáo dục trên địa bàn tỉnh Phú Yên.

7


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ THI ĐUA, KHEN THƯỞNG
1.1. Lý luận chung về thi đua, khen thưởng
1.1.1. Khái niệm thi đua
Thi đua là một công cụ quản lý quan trọng của Nhà nước nhưng đã có
những lúc, những nơi nhận thức chưa đầy đủ về vấn đề này. Có lúc người ta
tưởng thi đua ra đời là có thể hồn tồn thay thế cạnh tranh. Lại có lúc có
người cho rằng trong cơ chế thị trường chỉ cần cạnh tranh, khơng cần thi đua.
Hoặc có người tưởng rằng thi đua chỉ là cơng việc có tính nhất thời, là cơng
việc có tính phong trào, hình thức trong các dịp kỷ niệm, chưa coi trọng đúng
mức tầm quan trọng của thi đua.

Khái niệm thi đua được hiểu theo nhiều khía cạnh khác nhau:
Theo C. Mác: "Thi đua nảy nở trong quá trình hợp tác lao động, trong
hoạt động chung và kế hoạch của con người. Sự tiếp xúc xã hội tạo nên thi
đua và sự nâng cao theo lối đặc biệt nghị lực sinh động tăng thêm nghị lực
cho riêng từng người". [12, tr.274].
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “Thi đua là việc cùng nhau đưa hết khả năng
ra làm nhằm thúc đẩy lẫn nhau, đạt được thành tích tốt nhất trong một hoạt
động nào đó” [20, tr.1599].
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thi đua là công việc diễn ra hàng ngày, trên
tất cả các mặt hoạt động trong một tập thể, do những cá nhân tiến hành, nhằm
đạt kết quả tốt hơn. Người viết: “Tưởng lầm rằng thi đua là một việc khác với
những việc hàng ngày. Thật ra cơng việc hàng ngày chính là nền tảng thi đua.
Ví dụ: từ trước đến nay ta vẫn ăn, vẫn mặc, vẫn ở. Nay ta thi đua ăn, ở, mặc
sao cho sạch, cho hợp vệ sinh, khỏi đau ốm. Xưa nay ta vẫn làm ruộng nay ta
8


thi đua làm cho ruộng tốt hơn, sản xuất nhiều hơn, mọi việc đều thi đua như
vậy” [16, tr. 656].
Thi đua là một hoạt động có tổ chức và có định hướng. Hoạt động thi
đua phải xác định được kế hoạch, mục tiêu, hình thức, đối tượng, tổ chức phát
động, ký kết giao ước, đăng ký, kiểm tra, đôn đốc, bình chọn, sơ kết, tổng kết,
tơn vinh, biểu dương, tri ân, nhân rộng điển hình tiên tiến,...có sự tham gia
của tổ chức Đảng; tổ chức Cơng đồn, Phụ nữ, Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh và cá nhân. Người phát động thi đua là người có thẩm quyền được
quy định của Luật Thi đua, Khen thưởng. Nội dung thi đua được thực hiện
trên cơ sở nguyên tắc theo quy định và khi tặng danh hiệu phải dựa trên căn
cứ, tiêu chuẩn cụ thể theo quy định.
Thi đua là một hoạt động dựa trên nguyên tắc tự nguyện, có mục đích,
có định hướng. Thi đua là nhằm thúc đẩy sản suất lao động, phấn đấu để đạt

được kết quả đã đề ra của tổ chức, cá nhân. Đồng thời, làm cơ sở cho việc
xem xét, đánh giá toàn bộ quá trình cơng tác, cống hiến cũng như lao động
sản xuất và học tập của cá nhân và tập thể. Để thực hiện được mục tiêu trên
đòi hỏi các tổ chức, cá nhân phải lấy phong trào thi đua làm đòn bẩy để thúc
đẩy hoàn thành nhiệm vụ trong từng lĩnh vực; coi công tác thi đua là một
nhiệm vụ quan trọng trong công tác quản lý nhà nước ở từng địa phương và
từng đơn vị.
Tại Khoản 1, Điều 3 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi
đua, khen thưởng năm 2013 có định nghĩa khái niệm thi đua như sau: “Thi
đua là hoạt động có tổ chức với sự tham gia tự nguyện của cá nhân, tập thể
nhằm phấn đấu đạt được thành tích tốt nhất trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc” . [22, tr.1].
Như vậy theo nội dung khái niệm trên thì thi đua phải bao gồm 3 yếu tố
là:

9


Thứ nhất: Thi đua là hoạt động có tổ chức vì các phong trào thi đua là
do người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương phát động để thực hiện nhiệm
vụ của cơ quan, đơn vị, địa phương. Hoạt động có tổ chức của thi đua được
thể hiện từ khi lập kế hoạch, xác định mục tiêu, hình thức, đối tượng, tổ chức
phát động, ký giao ước thi đua, kiểm tra, sơ kết, tổng kết phong trào thi đua,
biểu dương, nhân rộng điển hình tiên tiến,…
Thứ hai: Thi đua là hoạt động tự nguyện, có tự nguyện thì mới khơi
dậy được sự sáng tạo của con người. Chỉ khi có tập thể cùng nhau hoạt động
trên tinh thần tự nguyện thì thi đua mới có ý nghĩa.
Thứ ba: Thi đua là hoạt động có mục tiêu và hướng đích rõ rệt, mục
đích để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thi đua sẽ giúp cho hiệu quả, chất lượng
và năng suất lao động, học tập và công tác không ngừng được nâng lên, từ đó

thúc đẩy xã hội phát triển về mọi mặt.
1.1.2. Khái niệm khen thưởng
Khen thưởng là một trong những công cụ quản lý quan trọng của nhà
nước và là một trong những biện pháp quản lý của cơ quan, tổ chức.
Khen thưởng là một trong những lĩnh vực quan trọng trong quá trình
thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước. Đồng thời là biện pháp cơ bản, là cơ sở căn cứ để đánh giá kết quả cơng
việc, hồn thành nhiệm vụ kế hoạch đề ra của tập thể, cá nhân trong quá trình
thực hiện.
Khen thưởng là hình thức ghi nhận cơng lao, thành tích của Nhà nước
bằng quyết định của cơ quan đơn vị có thẩm quyền theo luật định, nhằm ghi
nhận, tơn vinh, biểu dương thành tích và nhân rộng điển hình tiên tiến những
tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc trong lao động sản xuất, chiến đấu,
học tập; giáo dục động viên và đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước; tạo

10


động lực cách mạng lơi cuốn, động viên khuyến khích mọi người phát huy
truyền thống yêu nước, tính năng động sáng tạo, vươn lên lập thành tích xuất
sắc trên tất cả mọi lĩnh vực, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày càng
giàu mạnh. Đồng thời, đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, đẩy lùi cái ác,
cái xấu và xây dựng con người mới.
Ở nước ta, khen thưởng đã được thực hiện từ các triều đại phong kiến
trước đây. Trong sách Đại Việt sử ký toàn thư của Ngơ Sĩ Liên đã ghi rõ
những hình thức khen thưởng như: Khen thưởng người có cơng trong việc đi
sứ; Khen thưởng người phị tá có cơng lao tài đức; Khen thưởng người tiến
cử,người hiền tài; Khen thưởng người có lời tâu đúng; Khen thưởng người
cấp dưới giữ đúng phép công, không vị nể người quyền quý cấp trên; Khen
thưởng người có cơng làm thủy lợi; Khen thưởng người có tài văn

chương;Khen thưởng người cao tuổi; … Theo Nguyễn Trãi: Một Nhà nước
mà thưởng phạt nghiêm minh, kịp thời là Nhà nước vững mạnh. Nhà nước
nào phạt nhiều hơn thưởng là Nhà nước đang suy tàn. Nhà nước nào thưởng
nhiều hơn phạt là Nhà nước phồn vinh.[34, tr. 21]. Qua đó ta có thể thấy
được các triều đại phong kiến đã chú trọng tới việc khen thưởng để khuyến
khích, khích lệ động viên mọi người hăng hái lập cơng. Đó chính là tinh thần
yêu nước sâu sắc của dân tộc.
Bác Hồ ln quan tâm đến việc biểu dương, khích lệ động viên người
tốt, việc tốt. Mỗi khi đọc báo, nghe đài, thấy có nghĩa cử đẹp là Bác cho đi
kiểm tra ngay để Bác khen thưởng. Bác thường nhắc nhở khen thưởng phải
chính xác và kịp thời để động viên, phát huy mặt ưu điểm, tích cực, khắc phục
và đẩy lùi mặt khuyết điểm, tiêu cực nhằm xây dựng con người mới vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

11


Như vậy, ta có thể hiểu Khen là việc nhận xét, đánh giá tốt về một tổ
chức hoặc cá nhân nào đó, về cái gì, việc gì đó với ý nghĩa hài lòng. Thưởng
là tặng cho bằng hiện vật hoặc bằng tiền. Khen thưởng là hình thức ghi nhận
cơng lao, thành tích của Nhà nước bằng quyết định của cơ quan có thẩm
quyền do luật định. Khen thưởng là một vấn đề thuộc phạm trù khoa học xã
hội. Khen thưởng tồn tại cùng với sự tồn tại của Nhà nước, cịn Nhà nước là
cịn khen thưởng. Khen thưởng vừa có ý nghĩa động viên tinh thần, vừa có ý
nghĩa khích lệ bằng vật chất.
Hiện nay, khen thưởng vẫn có vai trò quan trọng, là động lực thúc đẩy
xã hội phát triển ổn định và bền vững; là biện pháp của người quản lý thực
hiện nhiệm vụ trọng tâm chính trị của cơ quan, đơn vị, địa phương mình nhằm
khuyến khích, động viên các tầng lớp nhân dân trong xã hội tích cực lao động,
sản xuất và cơng tác. Tại Khoản 2, Điều 3 Luật Thi đua, Khen thưởng năm

2003 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2005, 2013): Khen thưởng là việc ghi nhận,
biểu dương, tôn vinh công trạng và khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối với
cá nhân, tập thể có thành tích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. [22, tr. 1].
1.1.3. Mối quan hệ giữa thi đua và khen thưởng
Thi đua và khen thưởng là hai hoạt động có mối quan hệ chặt chẽ, tác
động biện chứng lẫn nhau. Mối quan hệ đó được biểu hiện: Thi đua là động
lực thúc đẩy cá nhân, tập thể thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ, trên cơ sở đó
để thực hiện việc khen thưởng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Thi đua là gieo trồng, khen thưởng là thu
hoạch” [4, tr.14], việc lấy hình ảnh gieo trồng, khen thưởng là thu hoạch tại
thời điểm đó là một sự vận dụng vơ cùng sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh
khi nói về thi đua yêu nước.

12


Thi đua là cơ sở của việc khen thưởng. Chính nền tảng của phong trào
thi đua yêu nước sôi nổi mới có thể lựa chọn những cá nhân, tập thể tiêu biểu
nhất, xứng đáng nhất, đầy đủ và kịp thời nhất cho việc khen thưởng.
Khen thưởng đúng người, đúng việc, kịp thời lại có tác dụng động viên,
giáo dục, nêu gương và thúc đẩy phong trào thi đua phát triển liên tục.Thi đua
là cơ sở của việc khen thưởng. Thi đua tốt thì có nhiều thành tích để khen
thưởng. Bình bầu thi đua đúng, công khai, chặt chẽ giúp cho việc khen thưởng
được chính xác. Bình bầu thi đua rộng, nể nang thì dẫn đến việc khen thưởng
tràn lan, khen không đúng sẽ phản tác dụng. Muốn làm tốt công tác khen
thưởng thì phải lãnh đạo tốt cơng tác thi đua, khen thưởng phải phản ánh đúng
phong trào thi đua. Nơi nào có phong trào thi đua mạnh mẽ, đều khắp thì khen
thưởng nhiều và khen cao.
Nếu thi đua là cơ sở để khen thưởng thì khen thưởng được xem là địn
bẩy để khuyến khích các phong trào thi đua phát triển. Tuy nhiên không nên

hiểu rẳng thi đua chỉ vì mục đích khen thưởng, nếu thi đua chỉ vì khen thưởng
thì mục đích của thi đua sẽ bị hạn chế, mà cần hiểu rằng khen thưởng chỉ là sự
khuyến khích, động viên tinh thần đối với những thành tích của cá nhân, tập
thể qua quá trình phấn đấu lao động và sáng tạo. Đó là sự cơng bằng của tổ
chức trong việc quản lý con người, đối với những cá nhân có nhiều đóng góp
cho xã hội.
Đồng thời, muốn thi đua và khen thưởng trở thành động lực tích cực
trong q trình phát triển thì thi đua phải có sự lãnh đạo đúng. Thi đua mà
khơng có sự lãnh đạo, tổ chức, thì thường nảy sinh chia rẽ, ganh tỵ, ghét bỏ
nhau, có thể làm những người tham gia thi đua nản lòng. Tránh hiện tượng
các cá nhân, tập thể tham gia thi đua mà chia rẽ, chỉ biết đến lợi ích của cá
nhân mình mà khơng quan tâm đến lợi ích của người khác, lợi ích của tập thể.
Tránh tư tưởng anh hùng cá nhân, vì thành tích cá nhân.

13


Như vậy, thi đua và khen thưởng là hai hoạt động có quan hệ song hành
nhưng khơng độc lập, hoạt động này bổ trợ cho hoạt động kia. Thi đua, khen
thưởng được coi là động lực để nâng cao hiệu quả chất lượng trên mọi lĩnh
vực chính trị - kinh tế - văn hóa và xã hội. Có thể khẳng định rằng, trong giai
đoạn hiện nay, thi đua là một biện pháp hữu hiệu xây dựng con người mới và
khen thưởng là biện pháp quản lý Nhà nước, quản lý con người.
1.1.4. Nguyên tắc về thi đua, khen thưởng
Nguyên tắc thi đua gồm:
- Tự nguyện, tự giác cơng khai, đồn kết, hợp tác và cùng phát triển.
-

Việc xét tặng các danh hiệu thi đua phải căn cứ vào phong trào thi đua


và có đăng ký thi đua.
- Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, địa phương là Chủ tịch Hội đồng Thi
đua – Khen cấp mình.

Nguyên tắc khen thưởng gồm:
- Chính xác, cơng khai, cơng bằng, kịp thời.
- Hình thức khen thưởng phải phù hợp với đối tượng, chức năng,
nhiệm vụ được giao của tập thể.
- Khen thưởng phải căn cứ vào điều kiện, tiêu chuẩn và thành tích đạt
được, khơng nhất thiết phải có hình thức khen thưởng mức thấp mới được
khen thưởng mức cao hơn. Chú trọng khen thưởng tập thể nhỏ và cá nhân là
người trực tiếp lao động, sản xuất, học tập, công tác hoặc chiến đấu, phục vụ
chiến đấu.
- Khơng tặng nhiều hình thức cho một thành tích đạt được. Hình thức
khen thưởng theo đợt, theo chun đề khơng tính làm điều kiện, tiêu chuẩn
khen thưởng cấp Nhà nước.

14


- Khi có nhiều cá nhân, tập thể cùng đủ điều kiện, tiêu chuẩn thì lựa
chọn cá nhân nữ hoặc tập thể có tỷ lệ nữ từ 70% trở lên để xét khen thưởng.
1.2. Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng
1.2.4. Khái niệm
Quản lý nhà nước là sự tác động có chủ đích của Nhà nước vào các quan
hệ xã hội nhằm làm cho các quan hệ đó diễn ra theo chiều hướng tích cực cho
sự phát triển của đất nước và mỗi con người. Nói cách khác, quản lý nhà nước
là việc thực thi các loại quyền lực nhà nước nhằm tác động và điều chỉnh mọi
quan hệ xã hội nhằm làm cho đất nước ổn định phát triển và bền vững [19,
tr.9].

Quản lý nhà nước, hiểu theo nghĩa rộng, được thực hiện bởi tất cả các
cơ quan nhà nước. Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước là hoạt động chấp hành
và điều hành được đặc trưng bởi các yếu tố có tính tổ chức; được thực hiện
trên cơ sởvà để thi hành pháp luật; được bảo đảm thực hiện chủ yếu bởi hệ
thống các cơ quan hành chính nhà nước (hoặc một số tổ chức xã hội trong
trường hợp được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước). Quản lý nhà nước cũng là
sản phẩm của việc phân công lao động nhằm liên kết và phối hợp các đối
tượng bị quản lý.
Như vậy, quản lý nhà nước là hoạt động mang tính chất quyền lực nhà
nước, các cơ quan có thẩm quyền được sử dụng quyền lực nhà nước để điều
chỉnh các quan hệ xã hội. Quản lý nhà nước bao gồm toàn bộ các hoạt động từ
ban hành các văn bản luật, các văn bản dưới luật đến việc chỉ đạo trực tiếp
hoạt động của đối tượng bị quản lý và vấn đề tài phán đối với đối tượng quản
lý cần thiết của Nhà nước.
Quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng nói riêng có vị trí, vai trị rất quan trọng trong công tác quản lý đối với
kinh tế -xã hội của đất nước.
15


Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng là một bộ phận trong tổng
thể hoạt động quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế - xã hội của đất nước.
Đó chính là q trình nhà nước sử dụng các phương thức quản lý để tác động,
điều chỉnh các nội dung tổ chức thi đua và xét khen thưởng diễn ra theo quy
định của pháp luật. Qua đó thúc đẩy kinh tế - xã hội đất nước phát triển ổn
định và bền vững; kịp thời ghi nhận công lao, thành tích và tổ chức suy tơn,
biểu dương khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trên mọi
lĩnh vực từ kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh.
Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng là phương thức điều chỉnh
công tác thi đua, khen thưởng bằng quyền lực nhà nước nhằm tác động, điều

chỉnh các phong trào thi đua và công tác khen thưởng thực hiện theo quy định
của pháp luật.
Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng ngành Giáo dục: Cùng với
quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng, quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng trong lĩnh vực giáo dục chính là hình thức hoạt động Nhà nước được
thực hiện trước hết và chủ yếu bởi Bộ Giáo dục và Đào tạo, có nội dung bảo
đảm sự chấp hành các chính sách, quy định của pháp luật về thi đua, khen
thưởng Nhà nước nói chung và của trong ngành Giáo dục và Đào tạo nói
riêng, nhằm tổ chức và chỉ đạo thực hiện một cách trực tiếp thường xuyên,
nhằm đạt các mục tiêu trong công tác thi đua, khen thưởng của ngành.
Như vậy, quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng là việc sử dụng các
phương thức, biện pháp để tổ chức các phong trào theo chủ trương của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước; phong trào thi đua trở thành thiết thực,
hiệu quả, nó là động lực để đi vào cuộc sống, động lực thúc đẩy mọi người
hăng hái tham gia tích cực, trên tinh thần tự giác, tự nguyện; công tác khen
thưởng, biểu dương, tri ân, tơn vinh phải chính xác, kịp thời, đúng người,

16


đúng việc nhằm tạo đòn bẩy cho phong trào thi đua thường xuyên, liên tục,
thiết thực và hiệu quả.
1.2.5. Đặc điểm
Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng có năm đặc điểm sau:
- Thứ nhất, tính lệ thuộc vào chính trị: Theo Khoản 1, Điều 4 Hiến
pháp năm 2013 quy định: Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạoNhà
nước và xã hội. Mọi hoạt động quản lý nhà nước, trong đó có quản lý nhà
nước về thi đua, khen thưởng đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, phải đảm
bảo đúng đường lối, chủ trương của Đảng. Theo đó, các cấp ủy Đảng có trách
nhiệm lãnh đạo tập trung thống nhất chặt chẽ, toàn diện đối với cơng tác thi

đua, khen thưởng, gắn với nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị. Các cơ
quan nhà nước, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các tổ chức
chính trị - xã hội phải chấp hành nghiêm túc sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng
trong việc tổ chức các hoạt động thi đua và xét khen thưởng, tạo động lực
động viên, lơi cuốn, khuyến khích mọi cá nhân, tập thể phát huy truyền thống
yêu nước, tính năng động, sáng tạo, vươn lên hồn thành tốt nhiệm vụ được
giao. Vì thế, quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng phải lệ thuộc vào
chính trị, phù hợp với các quyết sách chính trị của cấp ủy Đảng.
- Thứ hai, tính pháp quyền: Theo Khoản 1, Điều 2, Khoản 1, Điều 8
Hiến pháp năm 2013 quy định: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa … . Nhà nước được tổ chức và
hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và
pháp luật. Do đó, mọi hoạt động của nhà nước (trong đó có quản lý nhà nước
về thi đua, khen thưởng) đều nằm trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng phải căn cứ vào các quy định pháp
luật; pháp luật chính là công cụ chủ yếu để quản lý thi đua, khen thưởng. Nhà
17


nước phải đảm bảo đảm quyền và nghĩa vụ pháp lý của người dân và các tổ
chức trong các hoạt động thi đua, khen thưởng.
- Thứ ba, tính cơng khai, minh bạch: Nhằm bảo đảm cho mọi người
dân được biết, hiểu được mục đích, ý nghĩa, sự cần thiết và tác dụng, lợi ích
của các phong trào thi đua. Đồng thời để tổ chức và cá nhân xác định được
bổn phận, trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ trong việc tham gia
vào các phong trào thi đua do nhà nước phát động.Thi đua, khen thưởng càng
công khai rõ ràng, minh bạch cụ thể thì sẽ tạo ra sự cơng bằng, tính cơng bằng
nhằm tạo động lực cho mọi người hăng hái tham gia hoạt động phong trào thi
đua. Phong trào thi đua muốn đạt kết quả tốt, việc cơng khai, minh bạch có ý
nghĩa rất quan trọng trong q trình thực hiện. Các chính sách, quy định của

nhà nước về thi đua, khen thưởng cần phải được công khai, minh bạch nhằm
đảm bảo cho mọi người dân được biết, hiểu được mục đích, ý nghĩa, sự cần
thiết và tác dụng, lợi ích của các hoạt động thi đua, xét khen thưởng. Song
song đó, mỗi tổ chức, cá nhân xác định được nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền lợi
của họ trong việc tham gia thi đua.
Trong việc thực hiện quy trình, thủ tục khen thưởng cần đảm bảo sự
cơng khai.
Nội dung công khai bao gồm: công khai mục tiêu, mục đích, vai trị, tác
dụng của phong trào thi đua, danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng; cơng
khai trong kế hoạch, chính sách, xây dựng tiêu chí thi đua, tổ chức phát động,
ký kết giao ước thi đua, kiểm tra, cơng khai về kinh phí khen thưởng, chế độ
ưu đãi,... bình xét, kết quả khen thưởng, suy tơn, tơn vinh, tri ân, biểu dương
điển hình tiên tiến trong phong trào thi đua ngày càng trở nên rõ ràng hơn thì
chắc hẳn rằng phong trào thi đua trở nên thiết thực và hiệu quả hơn. Công
khai được thể hiện dưới hình thức lấy ý kiến thơng qua hội, họp, lấy ý kiến

18


bằng văn bản hoặc trên cổng thông tin điện tử,… Càng cơng khai, minh bạch
thì phong trào thi đua có hiệu quả tích cực,... Ngun tắc cơng khai, minh
bạch là cơ sở đảm bảo tính chính xác trong khen thưởng. Qua cơng khai, minh
bạch góp phần tạo niềm tin trong mỗi cá nhân, mỗi tập thể tham gia phong
trào thi đua.
- Thứ tư, tính cơng bằng: Nhằm bảo đảm cho mọi tổ chức, cá nhân
đều có quyền tham gia vào phong trào thi đua, điều kiện tham gia như nhau
thì xét khen thưởng cũng phải bình đẳng như nhau. Tuy nhiên, đảm bảo cơng
bằng trong tham gia có thể thực hiện được, cịn đảm bảo cơng bằng trong
khen thưởng là cực kỳ khó khăn nhưng vẫn phải tơn trọng; nếu không sẽ phản
tác dụng của việc thi đua. Cần phải nhận thức “cơng bằng” là tương đối theo

tinh thần “bó đũa chọn cột cờ”. “Công bằng” phải được hiểu theo nội hàm của
khái niệm về ý thức đạo đức, ý thức pháp quyền, cơng bằng địi hỏi sự tương
xứng giữa vai trò của cá nhân với địa vị xã hội của họ, giữa hành vi với sự
đền bù, giữa quyền và nghĩa vụ, giữa công trạng và “vinh danh” do nhà nước
suy tơn. Cơng bằng khơng có nghĩa là cào bằng, những tổ chức và cá nhân
tham gia vào phong trào thi đua như nhau nhưng khen thưởng chỉ được phép
lựa chọn trong những người có thành tích khá nhất, đó là tổ chức, cá nhân về
đích đầu tiên. Cần phải có các quy định chặt chẽ đảm bảo cơng bằng và khách
quan để xem xét khen thưởng.Theo Khoản 1, Điều 16 Hiến pháp năm 2013
quy định: Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Quản lý nhà nước về thi
đua, khen thưởng phải đảm bảo cho mọi tổ chức, cá nhân đều có quyền tham
gia vào các hoạt động thi đua. Các tổ chức, cá nhân có điều kiện tham gia như
nhau thì tiêu chuẩn xét khen thưởng phải bình đẳng như nhau; khơng phân
biệt dân tộc, tơn giáo, giới tính, lứa tuổi, ... tránh tình trạng khen thưởng
khơng công bằng, ảnh hưởng xấu đến các hoạt động thi đua. Trong thực tế, để
đảm bảo đặc tính này, trước hết các cơ quan, đơn vị tổ chức thi đua phải xác
19


×