Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Tom tat luan an: Nghiên cứu thực trạng và giải pháp cải thiện hoạt động báo cáo biến cố bất lợi nghiêm trọng trong thử nghiệm lâm sàng thuốc tại Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.15 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI

Võ Thị Nhị Hà

NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP CẢI THIỆN HOẠT ĐỘNG
BÁO CÁO BIẾN CỐ BẤT LỢI
NGHIÊM TRỌNG TRONG
THỬ NGHIỆM LÂM SÀNG
THUỐC TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành : Tổ chức Quản lý dược
Mã số : 62720412
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ DƯỢC HỌC

Hà Nội, năm 2019


Cơng trình được hồn thành tại:
Trường Đại học Dược Hà Nội
Cục Khoa học công nghệ và Đào tạo – Bộ Y tế

Người hướng dẫn khoa học:



GS. TS. Nguyễn Thanh Bình
TS. Nguyễn Ngô Quang



Phản biện 1: ……………………………………………
Phản biện 2: ……………………………………………
Phản biện 3: ……………………………………………
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án cấp
trường họp tại: …………………………………………….
Vào hồi ………. giờ…….ngày……..tháng..........năm
Có thể tìm hiểu luận án tại:
Thư viện Quốc gia Việt Nam
Thư viện Trường Đại học Dược Hà Nội


A. GIỚI THIỆU LUẬN ÁN
1. Tính cấp thiết của luận án
Báo cáo SAE trong TNLS thuốc đóng vai trị then chốt trong
việc bảo đảm an toàn cho người tham gia thử thuốc cũng như góp
phần hồn thiện hồ sơ an tồn của thuốc, qua đó, hỗ trợ cơ quan quản
lý ra quyết định cấp phép lưu hành thuốc. Do đó, chất lượng hoạt
động báo cáo SAE luôn là một vấn đề được quan tâm đặc biệt trong
các TNLS được triển khai trên Thế giới và tại Việt Nam.
Tổng quan tài liệu của chúng tôi cho thấy mặc dù trên Thế giới
đã có một số nghiên cứu về thực trạng hoạt động báo cáo SAE, các
nghiên cứu này vẫn có một số hạn chế. Thứ nhất, về dữ liệu nghiên
cứu, có thể do các khó khăn trong việc tiếp cận tài liệu gốc của các
TNLS, các nghiên cứu trên chưa khai thác được dữ liệu thực địa mà
chủ yếu dựa trên tổng quan hệ thống hoặc sử dụng các tài liệu thứ
cấp [68], [78], [83], [84], [100]. Thứ hai, về nội dung nghiên cứu,
các nghiên cứu mới mang tính chất khu trú, chưa một nghiên cứu
hoặc chùm nghiên cứu của nhóm tác giả nào tìm hiểu một cách tồn
diện ngun nhân, các yếu tố ảnh hưởng và tác động của các giải

pháp tới hoạt động báo cáo SAE trong TNLS [31], [56], [68], [78].
Thứ ba, về phương pháp nghiên cứu, các nghiên cứu trước đây mới
áp dụng riêng lẻ hoặc phương pháp nghiên cứu định tính hoặc
phương pháp nghiên cứu định lượng, chưa có sự kết hợp giữa 2
phương pháp [26], [31], [56], [58], [68], [78], [84], [91]. Cuối cùng,
về ý nghĩa thực tiễn, kết quả của các nghiên cứu mới dừng ở mức đề
xuất mà chưa có giải pháp cụ thể nào được thực hiện để kiểm chứng
kết quả nghiên cứu bằng thực tiễn.

1


Tại Việt Nam, hoạt động TNLS mới bắt đầu triển khai từ năm
1998 và được hệ thống hoá từ năm 2012. Do đó, mặc dù u cầu tính
chuẩn mực quốc tế (kết quả nghiên cứu sau đó sẽ được sử dụng trên
quy mơ tồn cầu), thực hiện báo cáo SAE theo hướng dẫn quốc tế
vẫn cịn là một khó khăn với các NCV, giám sát viên và nhà tài trợ.
Đồng thời, nâng cao chất lượng hoạt động này hiện là quan tâm hàng
đầu của cơ quan quản lý. Tuy nhiên, số nghiên cứu tìm hiểu về vấn
đề này vẫn cịn quá ít ỏi. Nghiên cứu đầu tiên và cũng là duy nhất
của các tác giả tại Cục KHCN&ĐT và Trung tâm Quốc gia về thông
tin thuốc và Theo dõi phản ứng có hại của thuốc năm 2014 thực hiện
với quy mơ nhỏ, số lượng báo cáo ít, đối tượng và phương pháp
nghiên cứu đơn giản, mới dừng ở bước đưa ra được phác thảo sơ bộ
nhất về các báo cáo SAE năm 2011-2013 [10]. Chưa có bất kỳ
nghiên cứu nào đi sâu tìm hiểu một cách tồn diện thực trạng hoạt
động báo cáo SAE tại các bệnh viện và nguyên nhân ảnh hưởng tới
thực trạng này. Do đó, với mục đích góp phần cải thiện hoạt động
báo cáo SAE trong TNLS thuốc tại Việt Nam, chúng tôi thực hiện
nghiên cứu “Nghiên cứu thực trạng và giải pháp cải thiện hoạt

động báo cáo biến cố bất lợi nghiêm trọng trong thử nghiệm lâm
sàng thuốc tại Việt Nam”.

2. Mục tiêu của luận án
- Mô tả thực trạng hoạt động báo cáo biến cố bất lợi nghiêm
trọng trong thử nghiệm lâm sàng thuốc hóa dược năm 2014.

- Phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động báo cáo biến
cố bất lợi nghiêm trọng trong thử nghiệm lâm sàng thuốc hóa dược.

- Bước đầu đánh giá hiệu quả của một số giải pháp cải thiện
hoạt động báo cáo biến cố bất lợi nghiêm trọng trong thử nghiệm lâm
sàng thuốc hóa dược giai đoạn năm 2015 - 2017.


3. Những đóng góp mới của luận án
Luận án đã phân tích thực trạng, xác định các yếu tố ảnh hưởng,
đề xuất các biện pháp can thiệp, đánh giá tác động của một số can
thiệp cải thiện hoạt động báo cáo SAE trong thử nghiệm lâm sàng
thuốc hóa dược tại Việt Nam. Kết quả cho thấy:

- Số lượng, chất lượng và việc tuân thủ thời gian báo cáo SAE
của các thử nghiệm lâm sàng thuốc hóa dược trong năm 2014 cịn
nhiều hạn chế.

- Có một số yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động báo cáo SAE trong
thử nghiệm lâm sàng thuốc hóa dược tại Việt Nam như: chưa thành
lập đơn vị nghiên cứu lâm sàng chuyên trách, các quy định báo cáo
chưa bao phủ tình huống thực tế, thời hạn nộp báo cáo ngắn, quy
trình làm báo cáo và gửi báo cáo còn phức tạp, biểu mẫu báo cáo

chưa thống nhất, kiến thức và sự chưa chuyên nghiệp của nghiên cứu
viên trong báo cáo SAE, đối tượng tham gia nghiên cứu chưa hiểu
hết trách nhiệm khi có SAE và một số yếu tố khác.

- Can thiệp thông qua các văn bản quản lý, quy trình, biểu mẫu,
đào tạo, tập huấn... của Cơ quan quản lý đã giúp cải thiện rõ rệt số
lượng, chất lượng và mức độ tuân thủ thời hạn báo cáo SAE.

4. Ý nghĩa của luận án
Trong nghiên cứu này, lần đầu tiên hoạt động báo cáo SAE tại
Việt Nam được nghiên cứu một cách toàn diện, từ đánh giá thực
trạng, tìm hiểu nguyên nhân và đánh giá tác động can thiệp với
phương pháp nghiên cứu kết hợp chặt chẽ giữa định tính và định
lượng. Đây là một trong số rất ít các nghiên cứu trên Thế giới tiếp
cận và khảo sát trực tiếp trên các dữ liệu gốc/nguồn của TNLS thuốc
hóa dược (các báo cáo SAE, hồ sơ bệnh án, kết quả xét nghiệm..),
cũng là một trong số ít các nghiên cứu trên Thế giới đã kết hợp giữa


phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng để giải thích thực
trạng báo cáo SAE trong TNLS thuốc hóa dược và đã đề xuất cho Cơ
quan quản lý triển khai các giải pháp nhằm góp phần cải thiện hoạt
động báo cáo SAE trong TNLS thuốc hóa dược tại các bệnh viện
triển khai TNLS.

5. Bố cục của luận án
Luận án nghiên cứu có tất cả 147 trang, bao gồm: Đặt vấn đề
(03 trang), Chương 1: Tổng quan (36 trang), Chương 2: Đối tượng và
Phương pháp nghiên cứu (26 trang), Chương 3: Kết quả nghiên cứu
(42 trang), Chương 4: Bàn luận (35 trang), Kết luận và Đề xuất (5

trang). Luận án có 107 tài liệu tham khảo trong đó có 15 tài liệu tiếng
Việt, 89 tài liệu tiếng Anh và 3 tài liệu từ các website. Ngồi ra, luận
án cũng có 38 bảng, 11 hình và 10 phụ lục kèm theo.


B. NỘI DUNG CỦA LUẬN ÁN
Chương 1. TỔNG QUAN

1.1 Khái niệm biến cố bất lợi và biến cố bất lợi nghiêm trọng
[5], [23-25], [49], [50]
Biến cố bất lợi (adverse event - AE) là sự việc hoặc tình trạng y
khoa bao gồm bất kỳ dấu hiệu, triệu chứng, tình trạng bệnh tật hoặc
kết quả xét nghiệm có chiều hướng xấu xảy ra trong quá trình, thời
gian thử thuốc trên lâm sàng ảnh hưởng đến đối tượng tham gia NC,
có hoặc khơng có liên quan đến thuốc thử lâm sàng.
Biến cố bất lợi nghiêm trọng (serious adverse event - SAE) là
AE có thể dẫn tới một trong các tình huống sau đây trên đối tượng
tham gia nghiên cứu thử thuốc trên lâm sàng: a) Tử vong; b) Đe dọa
tính mạng; c) Phải nhập viện hoặc kéo dài thời gian nằm viện; d) Tàn
tật, thương tật vĩnh viễn hoặc nghiêm trọng; đ) Dị tật bẩm sinh hoặc
dị dạng cho thai nhi của đối tượng nghiên cứu; e) Tình huống mà
phải có can thiệp y khoa phù hợp để ngăn chặn hoặc phòng tránh một
trong những tình huống a, b, c, d, đ hoặc các tình huống khác có ý
nghĩa về mặt y khoa theo nhận định của NCV tại điểm nghiên cứu.

1.2 Thực trạng theo dõi, ghi nhận và báo cáo SAE trong TNLS
trên thế giới

1.2.1. Báo cáo thiếu SAE trong TNLS
Theo Ioanidis, một số vấn đề liên quan đến ghi nhận và báo cáo

thiếu SAE trong TNLS hiện nay gồm có: 1) thiết kế nghiên cứu bỏ
qua hoặc đánh giá thấp giá trị của theo dõi và báo cáo SAE; 2) việc
thu thập các AE trong q trình nghiên cứu khơng được quan tâm; 3)
có ghi nhận SAE nhưng cố tình báo cáo sai nhằm che giấu các minh
chứng về nguy hại của thuốc [52], [53], [64].


1.2.2. Chất lượng báo cáo SAE còn hạn chế


Tổng quan tài liệu của chúng tôi cho thấy theo các ghi nhận gần
đây, chất lượng báo cáo SAE trong TNLS chưa thực sự đạt yêu cầu
[10], [44], [46], [62], [70], [73], [94].
Năm 2016, Crepin và cộng sự đã công bố nghiên cứu đánh giá
chất lượng báo cáo SAE trong các TNLS. Đây là một nghiên cứu mô
tả cắt ngang để đánh giá tính hồn thiện và chính xác của các thông
tin thu thập trong các báo cáo SAE dựa trên một mẫu nghiên cứu
gồm 247 báo cáo SAE trong 10 TNLS được triển khai tại Bệnh viện
đại học Limoges. Kết quả cho thấy nghiên cứu viên và người bệnh
không được xác định trong 3% báo cáo, sản phẩm nghiên cứu không
được xác định trong 11,2% báo cáo, mức độ nghiêm trọng của SAE
không được xác định trong 3,6% báo cáo, đánh giá quan hệ nhân quả
thiếu sót trong 9,3% và 15% báo cáo cho thấy thông tin về SAE
không chính xác. Đặc biệt, 32,4% báo cáo khơng có đủ thơng tin về
xét nghiệm, chẩn đốn và tiền sử SAE để phục vụ cho việc thẩm
định quan hệ nhân quả. Bên cạnh đó, ngày khởi phát khơng có trong
5,7% cáo báo cáo và các kết quả/kết cục của người bệnh sau SAE
khơng có thơng tin trong 12,1% báo cáo [26].

1.2.3. Chậm trễ trong hoàn thiện và gửi báo cáo SAE

Mặc dù chưa có nhiều cơng bố liên quan đến tn thủ thời hạn gửi
báo cáo SAE, một số phân tích đã chỉ ra rằng đáp ứng thời hạn gửi báo
cáo SAE là thách thức đối với tất cả các NCV tham gia TNLS. Như đã
đề cập ở trên, yêu cầu quan trọng, căn bản nhất của báo cáo SAE là đầy
đủ và chính xác về thơng tin. Do đó, quy trình phát hiện, ghi nhận thẩm
định, hồn thiện thơng tin của báo cáo SAE thường phức tạp, thông qua
nhiều khâu để thu thập ý kiến chuyên môn khác nhau [58].

1.2.4. Theo dõi và ghi nhận SAE không đồng đều giữa các điểm
nghiên cứu và người báo cáo


Nghiên cứu của Ioanidis chỉ ra rằng chất lượng và số lượng báo
cáo khác biệt có ý nghĩa thống kê tuỳ theo loại thiết kế, bệnh thử
nghiệm, thuốc thử nghiệm và cách thức thực hiện và triển khai
nghiên cứu. Khi so sánh về báo cáo an toàn trong các TNLS của 6
nhóm thuốc (với tổng số 192 TNLS), kết quả nghiên cứu cho thấy sự
dị biệt có ý nghĩa thống kê trên tất cả các chỉ tiêu đánh giá [53].

1.2.5. Thiếu minh bạch thông tin về SAE trong công bố kết quả TNLS
Tổng quan tài liệu của chúng tôi cho thấy các công bố kết quả TNLS
thường thiếu minh bạch thơng tin về SAE. Điều này có thể do sai số
xuất bản khi tác giả che giấu một số thông tin đã biết về vấn đề an
toàn hoặc do về bản chất, việc theo dõi và ghi nhận SAE trong
TNLS chưa được thực hiện bài bản [31], [53], [74].

1.3. Thực trạng theo dõi, ghi nhận và báo cáo SAE trong TNLS
tại Việt Nam
Năm 2014, các tác giả tại Cục KHCN&ĐT và Trung tâm Quốc
gia về thông tin thuốc và Theo dõi phản ứng có hại của thuốc thực

hiện một nghiên cứu hồi cứu, khảo sát 168 báo cáo SAE được gửi
đến Cục KHCN&ĐT giai đoạn 2011-2013. Kết quả cho thấy trong số
168 báo cáo SAE ghi nhận từ 22/132 TNLS có 42,3% báo cáo được
gửi đúng thời hạn, 16,7% báo cáo có chất lượng chưa tốt. Đây là
nghiên cứu duy nhất đánh giá báo cáo SAE trong TNLS tại Việt
Nam tính đến thời điểm thực hiện luận án. Trong nghiên cứu số
lượng báo cáo đưa vào phân tích cịn ít trong một khoảng thời gian
quan sát dài (02 năm). Do đó, dữ liệu thống kê có sự phân tán, khó
nhìn ra các xu hướng, đồng thời mới chỉ dừng ở mức khảo sát sơ bộ
các báo cáo về thời gian, chất lượng chứ chưa đi sâu tìm hiểu thực
trạng báo cáo thiếu, thực trạng hoạt động báo cáo SAE tại các bệnh


viện hay tìm hiểu các nguyên nhân ảnh hưởng tới hoạt động báo cáo
SAE trong TNLS tại Việt Nam [10].

1.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động báo cáo SAE trong TNLS
Tổng quan tài liệu trên thế giới cho thấy các nhóm yếu tố chính
ảnh hưởng tới hoạt động báo cáo SAE trong TNLS bao gồm:

- Các yếu tố liên quan đến cơ quan quản lý;
- Các yếu tố liên quan đến tổ chức nhận thử;
- Các yếu tố liên quan đến các bên khác (người tham gia nghiên
cứu, nhà tài trợ, tổ chức hỗ trợ nghiên cứu lâm sàng);

- Các yếu tố khách quan do đặc điểm SAE và hệ thống y tế.
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu:

- Toàn bộ báo cáo SAE trong TNLS thuốc hóa dược tại Việt
Nam có ngày NCV ký báo cáo trong thời gian từ 1/1/2014 đến
31/12/2017;

- Các cá nhân có ít nhất 02 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực
TNLS, đã thực hiện hoặc hỗ trợ thực hiện báo cáo SAE tại 15 bệnh
viện triển khai TNLS thuốc hóa dược trong mẫu nghiên cứu.

2.2.Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: được trình bày trong Hình 2.4


Hình 2.4 Sơ đồ thiết kế nghiên cứu
9


2.2.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu
Bảng 2.9 Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu của các nghiên cứu

Khảo sát thực trạng hoạt động báo cáo SAE trong TNLS thuốc hóa dược
trước khi triển khai can thiệp (năm 2014)

Giai
đoạn


hiệu
1.1

1.2


1.3

Nghiên
cứu
các
yếu tố

ảnh

2.1

trong phạm vi đề tài
Cỡ mẫu, phương pháp chọn
Tên nghiên cứu
mẫu
Khảo sát thực trạng Toàn bộ báo cáo SAE trong
về số lượng, cơ TNLS về thuốc hóa dược tại
cấu, chất lượng và Việt Nam có ngày ký trong
việc tuân thủ thời thời gian từ 1/1/2014 tới hết
hạn của hoạt động 31/12/2014.
báo cáo SAE trong Phương pháp: Thu thập dữ liệu
TNLS thuốc hóa
tồn bộ quần thể nghiên cứu.
dược
Cỡ mẫu: 301 báo cáo
Khảo sát thực Tồn bộ BV thực hiện >5TNLS
trạng cơng
tác và thu dung >30 bệnh nhân
quản lý thực hành (giai đoạn 2013-2014) và chấp

báo cáo SAE trong thuận tham gia khảo sát
TNLS thuốc hóa Phương pháp: Thu thập dữ liệu
dược tại các BV toàn bộ quần thể nghiên cứu
triển khai TNLS
đáp ứng tiêu chuẩn lựa chọn.
Cỡ mẫu: 13 BV triển khai
TNLS thuốc hóa dược
Khảo sát thực Tồn bộ BV thực hiện >5TNLS
trạng báo cáo thiếu và thu dung >30 BN (giai đoạn
SAE trong TNLS 2013-2014) và chấp thuận tham
thuốc hóa dược tại gia khảo sát
các BV triển khai Phương pháp: Thu thập dữ liệu
TNLS
toàn bộ quần thể nghiên cứu
đáp ứng tiêu chuẩn lựa chọn.
Cỡ mẫu: 15 BV triển khai
TNLS thuốc hóa dược
Nghiên cứu định
Tối thiểu 15 NCV, cán bộ quản
tính về các yếu tố lý TNLS tham gia vào các
ảnh hưởng tới TNLS thuốc hóa dược tại các
hoạt động báo cáo BV nghiên cứu.
SAE trong TNLS Phương pháp: Chọn mẫu thuận

1


thuốc hóa dược

hưởng tới


Đánh giá sau can thiệp

hoạt động
báo cáo
SAE
trong
TNLS
thuốc hóa
dược

2.2

Phân tích các yếu
tố ảnh hưởng tới
hoạt động báo cáo
SAE trong TNLS
thuốc hóa dược

3.1

Bước đầu đánh giá
tác động của một
số giải pháp cải
thiện hoạt động
báo cáo SAE trong
TNLS thuốc hóa
dược (năm 2017 so
với năm 2014)


tiện thông qua giới thiệu của
cán bộ quản lý TNLS tại BV
Cỡ mẫu: 15 NCV
Tối thiểu 180 NCV tham gia
vào các TNLS thuốc tại các BV
nghiên cứu (kích thước cỡ mẫu
tối thiểu gấp 5 lần tổng số biến
quan sát. Nghiên cứu này sử
dụng 30 biến số quan sát, với
tỷ lệ hao hụt 20%, kích thước
mẫu tối thiểu là 180 NCV)
[45].
Phương pháp: Chọn mẫu thuận
tiện thông qua giới thiệu của
cán bộ quản lý TNLS tại BV
Cỡ mẫu: 215 NCV
Tồn bộ báo cáo SAE trong
TNLS về thuốc hóa dược tại
Việt Nam có ngày ký trong
thời gian từ 1/1/2017 tới hết
31/12/2017.
Phương pháp: Thu thập dữ liệu
toàn bộ quần thể nghiên cứu
Cỡ mẫu: 1,556 báo cáo SAE

2.2.3 Phương pháp xử lý và phân tích số liệu
- Nghiên cứu định tính xác định các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt
động báo cáo SAE trong TNLS: sử dụng phần mềm Nvivo 11 hỗ trợ
cho việc phân tích theo chủ đề. Kết quả được trực quan hóa thành mơ
hình.


- Nghiên cứu định lượng các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động
báo cáo SAE trong TNLS: sử dụng phần mềm SPSS (phiên bản 22).
Những phân tích thống kê bao gồm: Phần trăm, trung vị, ý nghĩa
thống kê, độ lệch chuẩn, hệ số Cronbach’s alpha, phân tích nhân tố


(EFA) và hệ số tương quan. Phân tích hồi quy đa nhân tố được sử
dụng để nghiên cứu sự tương quan và kiểm tra mơ hình.
Xác định một số yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động báo cáo AE
trong TNLS thuốc tại Việt Nam: để xác định các nhân tố đưa ra kiểm
định có tác động đến hoạt động báo cáo SAE. Sau khi phân tích
khám phá nhân tố, căn cứ dữ liệu thực tế đặt lại tên cho các nhân tố
hình thành và điều chỉnh mơ hình, giả thuyết ban đầu cho phù hợp
thực tế.
Đánh giá mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố tới hoạt động báo
cáo AE trong TNLS thuốc tại Việt Nam bằng xây dựng phương
trình hồi quy đa biến.

- Đánh giá tác động của một số giải pháp cải thiện hoạt động
báo cáo SAE trong TNLS thuốc tại Việt Nam:
+ Phân tích điểm thay đổi theo nguyên tắc phân đoạn nhị phân
+ Phân tích chuỗi thời gian gián đoạn theo phương pháp hồi quy
từng phần.
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1 Thực trạng hoạt động báo cáo SAE trong TNLS thuốc tại
Việt Nam năm 2014

3.1.1.


Số lượng báo cáo SAE trong TNLS trước khi triển khai can
thiệp
Bảng 3.13 Thông tin chung về báo cáo SAE năm 2014
TT

Chỉ số

Số lượng

1

Tổng số TNLS thuốc

96

2

Số TNLS ghi nhận SAE

21

3

Số lượng báo cáo SAE

301

4


SL báo cáo trung bình/TNLS có báo cáo

14,3

Kết quả nghiên cứu cho thấy trong năm 2014, tổng số TNLS
thuốc được triển khai là 96, trong đó 21 TNLS có báo cáo SAE


(chiếm tỷ lệ 21,9%). Trên tổng số 18 TCNT báo cáo SAE, số lượng
báo cáo SAE ghi nhận được là 301, số lượng báo cáo trung bình
trong một TNLS là 14,3.

3.1.2. Chất lượng báo cáo SAE
Bảng 3.17 Tính đầy đủ của báo cáo SAE trước khi can thiệp
TT

Nhóm thơng tin

Số lượng báo cáo
đủ thơng tin
(n=301)

% báo cáo
đủ thơng
tin

1

Hành chính


220

73,1

2

Người báo cáo

249

82,7

3

Đối tượng gặp SAE

73

24,2

4

SAE

271

90,0

5


Thuốc nghiên cứu

274

91,0

Kết quả nghiên cứu cho thấy các thơng tin hành chính, thơng tin
về người báo cáo, SAE và thuốc nghiên cứu tương đối đầy đủ
(73,1%, 82,7%, 90,0% và 91,0% theo thứ tự). Tuy nhiên số lượng
báo cáo đầy đủ thông tin về đối tượng gặp SAE (bao gồm cả thông
tin về y khoa như tiền sử liên quan đến SAE trước đó) cịn rất hạn
chế (chỉ 24,2% báo cáo đủ thông tin).

3.1.3. Tuân thủ về thời hạn báo cáo
Bảng 3.18 Số lượng (tỷ lệ%) báo cáo SAE tuân thủ
và không tuân thủ thời hạn báo cáo
TT
1
2
3

Tuân thủ thời hạn
Không tuân thủ thời hạn
Không đủ thông tin xác định việc tuân thủ

Số lượng
(n=301)
102
22
177


Tỷ lệ
33,9
7,3
58,8

Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số báo cáo thiếu thông tin về
ngày phát hiện SAE, do đó khơng đủ thơng tin để xác định việc tuân


thủ báo cáo (58,8%). Bên cạnh đó, tỷ lệ báo cáo tuân thủ thời hạn
cũng đạt mức thấp (33,9%).

3.1.4. Thực trạng công tác quản lý thực hành báo cáo SAE trong
TNLS tại một số bệnh viện triển khai TNLS
Trong thời gian thực hiện đề tài, có 13 bệnh viện đồng ý tham
gia khảo sát về công tác quản lý thực hành báo cáo SAE trong
TNLS. Kết quả khảo sát được trình bày trong hình 3.6.

Hình 3.6 Đánh giá chung về 5 khía cạnh của hệ thống báo cáo SAE
Kết quả nghiên cứu cho thấy ngoại trừ cơ sở vật chất nhân lực (điểm
trung bình 76,9% so với hệ thống tiêu chuẩn) và quy định (57,7%),
khơng có khía cạnh nào của hệ thống báo cáo SAE tại các bệnh viện
triển khai TNLS trong mẫu nghiên cứu có điểm trung bình đạt >50%.
Trong đó, các khía cạnh có điểm trung bình đặc biệt thấp bao gồm tổ
chức quản lý (20,5%), quy trình chuẩn (24,4%) và chính sách
(30,8%). Đặc biệt, các bệnh viện có CRU có điểm trung bình ở
mọi khía cạnh đều cao hơn các bệnh viện khơng có CRU.

3.1.5. Thực trạng báo cáo thiếu SAE tại một số bệnh viện triển

khai TNLS



Bảng 3.20 Thực trạng báo cáo thiếu SAE
tại một số bệnh viện triển khai TNLS
Mặt bệnh triển
Số lượng Số lượng

Số

Số


BV

khai TNLS
(ICD-10)

TNLS
đã tuyển
bệnh

1
2

Đa dạng*
Đa dạng
Bệnh nhiễm trùng
và ký sinh trùng,

bệnh hơ hấp
Đa dạng
Bệnh nhiễm trùng
và ký sinh trùng

3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15

Bệnh hệ tuần
hồn
Bệnh hệ tuần
hồn
U (U tân sinh)
Bệnh hệ hơ hấp
U (U tân sinh)
U (U tân sinh)
U (U tân sinh)
Bệnh tuần hoàn
Bệnh hệ hô hấp

Bệnh nhiễm trùng
và ký sinh trùng

12
10

(%)
TNLS
báo cáo
SAE
5 (41,7)
4 (40,0)

lượng
SAE
báo
cáo
37
10

lượng
SAE
báo cáo
thiếu
0
2

8

4 (50,0)


39

1

7

3 (42,9)

11

1

6

5 (83,3)

64

0

6

1 (16,7)

4

1

5


1 (20,0)

1

1

4
4
4
4
3
3
3

3 (75,0)
1 (25,0)
3 (75,0)
3 (75,0)
0 (0,0)
3 (100,0)

4
2
4
7
0
27

3

0
1
0
0
15

1 (33,3)

5

0

3

0 (0,0)

0

1

*: Có ≥ 3 mặt bệnh thử nghiệm theo phân loại chương bệnh của ICD-10
Kết quả khảo sát tại bảng 3.20 cho thấy trong mẫu nghiên cứu, 8
bệnh viện có tỷ lệ TNLS báo cáo SAE <50%. Đặc biệt, có hai bệnh
viện hồn tồn khơng có báo cáo SAE, trong đó một bệnh viện triển
khai TNLS bệnh điều trị u tân sinh. Các bệnh viện triển khai nghiên


cứu thuốc điều trị bệnh mạn tính của hệ tuần hồn và hơ hấp thường
có số lượng báo cáo SAE thấp (từ 1 đến 4 báo cáo). Số lượng báo
cáo SAE cao và báo cáo thiếu SAE thấp ghi nhận tại các TCNT số 1

và số 5. Đây đều là các bệnh viện đã thành lập CRU để quản lý hoạt
động nghiên cứu TNLS.
3.2. Một số yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động báo cáo SAE trong
TNLS thuốc hóa dược tại Việt Nam
Có 5 yếu tố chính ảnh hưởng tới hoạt động báo cáo SAE trong
TNLS tại Việt Nam, được xếp loại theo mức độ ảnh hưởng từ mạnh
nhất đến yếu nhất theo giá trị của hệ số hồi quy chuẩn hóa Beta như
sau: (1) Quy định, quy trình xử lý báo cáo (0,44); (2) Biểu mẫu báo
cáo (0,42); (3) Kiến thức và thái độ của nghiên cứu viên (0,27); (4)
Yếu tố khác (phản hồi, quá tải công việc chuyên môn) (0,12); (5)
Người bệnh tham gia nghiên cứu (0,10).

3.3. Bước đầu đánh giá hiệu quả của một số giải pháp cải thiện
hoạt động báo cáo SAE trong TNLS thuốc hóa dược tại Việt Nam

3.3.1. Một số giải pháp cải thiện hoạt động báo cáo biến cố bất lợi
trong TNLS thuốc hóa dược do Cục KHCN&ĐT triển khai

(1) Ban hành Quyết định số 62/QĐ-K2ĐT ngày 2/6/2017 của
Cục KHCN&ĐT hướng dẫn báo cáo SAE trong TNLS thuốc, kèm
biểu mẫu báo cáo sửa đổi; (2) Giám sát hỗ trợ kỹ thuật chuyên đề về
báo cáo an toàn trong TNLS thuốc; (3) Xây dựng và triển khai
chương trình đào tạo, tập huấn về báo cáo an toàn trong TNLS thuốc.


3.3.2. Bước đầu đánh giá hiệu quả của một số giải pháp cải thiện
hoạt động báo cáo SAE trong TNLS thuốc hóa dược tại Việt Nam

3.3.2.1.


Thay đổi số lượng báo cáo SAE

Bảng 3.32 Thông tin chung về báo cáo SAE năm 2014 và 2017
TT

Chỉ số

2014

2017

1

Tổng số TNLS thuốc

96

115

2

Số TNLS ghi nhận SAE

21

54

3

Số lượng báo cáo SAE


301

1556

4

SL báo cáo trung bình/TNLS có báo cáo

14,3

28,8

Năm 2017, trong tổng số 115 TNLS, số lượng báo cáo SAE ghi
nhận được là 1556 báo cáo (gấp 5,2 lần năm 2014). Trung bình mỗi
TNLS ghi nhận được 28,8 báo cáo (gấp 2 lần năm 2014).

3.3.2.2.

Thay đổi về chất lượng báo cáo

Sau khi triển khai can thiệp, chất lượng báo cáo cải thiện đáng kể
ở các nhóm thông tin quan trọng liên quan đến đánh giá về tác động
và xử trí SAE bao gồm thơng tin về tượng gặp SAE (từ 24,2% báo
cáo có đủ thơng tin trong năm 2014 lên 98,6% báo cáo có đủ thơng
tin trong năm 2017) và thông tin về SAE (từ 90,0% báo cáo đủ thông
tin năm 2014 lên 100,0% báo cáo có đủ thơng tin năm 2017).
Bảng 3.37 Tỷ lệ báo cáo SAE đầy đủ các nhóm thơng tin
trước và sau can thiệp
2014 (n=301)

2017 (n=1556)
T
Giá trị
Nhóm thơng tin
T
p
N
%
N
%
1

Hành chính

220

73,1

1556

100

<0,001

2

Người báo cáo

249


82,7

1058

68,0

<0,001

3

Đối tượng gặp SAE

73

24,2

1535

98,6

<0,001

4

SAE

271

90,0


1556

100,0

<0,001


T
T

Nhóm thơng tin

5

Thuốc nghiên cứu

2014 (n=301)
N
%

2017 (n=1556)
N
%

274

1334

91,0


85,7

Giá trị
p
0,014

3.3.2.3.

Thay đổi về tuân thủ thời hạn báo cáo
Bảng 3.38 Số lượng (tỷ lệ%) báo cáo SAE tuân thủ và
không tuân thủ thời hạn báo cáo
2014
1-6/2017
7-12/2017
(n=301)
(n=767)*
(n=736)**
Phân loại
N
%
N
%
N
%

T
T
1

Tuân thủ


102

33,9

395

51,5

511

69,4

Giá trị
p
<0,001

2

Không tuân thủ
22
7,3
236
30,8
221
30,0
<0,001
Không đủ thông
3 tin xác định việc 177 58,8 136 17,7
4

0,5
<0,001
tuân thủ
*,** Có 53 báo cáo thiếu thông tin về ngày gửi báo cáo. Do đó khơng
phân loại được thời hạn gửi.
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ báo cáo tuân thủ thời hạn tăng
mạnh sau khi triển khai chuỗi can thiệp trong giai đoạn 2015-2017,
đặc biệt sau khi ban hành quyết định 62/QĐ-K2T hướng dẫn ghi
nhận, báo cáo SAE trong TNLS vào tháng 6/201, từ 33,9% năm
2014 lên 69,4% vào 6 tháng cuối năm 2017 (tăng 2,04 lần). Tỷ lệ báo
cáo thiếu thông tin để xác định việc tuân thủ thời hạn báo cáo giảm
đáng kể, từ 58,8% năm 2014 xuống chỉ còn 0,5% vào 6 tháng cuối
năm 2017.

Chương 4. BÀN LUẬN
4.1 Ưu điểm
Về phương pháp luận:


Đây là nghiên cứu đầu tiên mang tính tồn diện, vừa tổng thể
vừa chi tiết về hoạt động báo cáo SAE trong TNLS tại Việt Nam: đầu
tiên đi sâu phân tích trực tiếp các báo cáo SAE để tìm hiểu chính xác
thực trạng hoạt động, chất lượng báo cáo SAE. Từ đó với cách tiếp cận
phù hợp là thiết kế kết hợp định tính và định lượng đã chỉ ra các yếu tố
liên quan đến hoạt động báo cáo SAE và mức độ liên quan của từng
yếu tố.
Thiết kế nghiên cứu kết hợp định tính và định lượng: Đối với
nghiên cứu định lượng, đây là một trong số rất ít các nghiên cứu trên
thế giới có thể tiếp cận, khảo sát dữ liệu nguồn về báo cáo SAE tại
các BV (báo cáo ca SAE đơn lẻ, hồ sơ bệnh án, kết quả xét nghiệm,

báo cáo an toàn định kỳ, báo cáo tiến độ, báo cáo nghiệm thu…).
Đặc biệt, trong nghiên cứu thực trạng báo cáo thiếu, chúng tôi trực
tiếp rà soát, đối chiếu từng hồ sơ bệnh án, xét nghiệm cận lâm sàng
và các tài liệu nguồn liên quan của bệnh nhân để tìm ra số lượng báo
cáo thiếu SAE. Do vậy kết quả đưa ra về thực trạng báo cáo SAE
trong TNLS thuốc hóa dược tại Việt Nam là tương đối chính xác.
Trong nghiên cứu định tính, các đối tượng được hỏi tương đối đa
dạng giúp cho phép các đánh giá mang tính chất đa chiều và khách
quan hơn.
Về ý nghĩa thực tiễn:
Đây là một trong số ít các nghiên cứu đã góp phần tham gia xây
dựng các giải pháp can thiệp thông qua việc cung cấp bằng chứng
khoa học, tư vấn cho Cơ quan quản lý để ban hành, triển khai các nội
dung này trong 01 văn bản quy phạm pháp luật (Thông tư số 29/TTBYT) và các hoạt động đào tạo, tập huấn về báo cáo SAE.
Do vậy, các can thiệp được xây dựng phù hợp và khi Cục
KHCN&ĐT triển khai đã mang lại hiệu quả rõ rệt trong thực tiễn,


giải quyết phần lớn các rào cản đối với hoạt động báo cáo SAE trong
TNLS thuốc hóa dược tại Việt Nam, tạo thuận lợi và khuyến khích
được các NCV tham gia tích cực vào cơng tác báo cáo SAE.

4.2 Nhược điểm:
Phương pháp phỏng vấn để xác định yếu tố ảnh hưởng hoạt
động báo cáo SAE: các sai số do phỏng vấn có thể xảy ra do việc báo
cáo SAE trong TNLS là một vấn đề quan trọng và nhạy cảm, nên có
thể chưa phát hiện được một số nguyên nhân sâu xa. Chính vì vậy,
kết quả định lượng cũng cho thấy 05 yếu tố mà nghiên cứu đưa ra
mới giải thích được 63,6% sự ảnh hưởng tới hoạt động báo cáo SAE
tại Việt Nam. Còn lại 37,4% ảnh hưởng tới hoạt động báo cáo là

những yếu tố khác, cần có những nghiên cứu sâu hơn tiếp theo để
tìm hiểu. Đồng thời, phỏng vấn cũng chưa tìm ra được các yếu tố
thuận lợi cho hoạt động báo cáo SAE mà mới phân tích các rào cản.
Ngun nhân có thể do TNLS ở Việt Nam vẫn là một lĩnh vực còn
mới so với thế giới với hệ thống TNLS đang được hoàn thiện dần
dần. Do đó, các NCV chủ yếu nhận thức các khó khăn rào cản hơn là
các yếu tố hỗ trợ. Bên cạnh đó, việc chưa phát hiện được các yếu tố
hỗ trợ cũng có thể do những hạn chế trong cách thức phỏng vấn dẫn
tới việc các yếu tố thuận lợi từ phía người được hỏi chưa được khai
thác đầy đủ thơng tin.
Số báo cáo SAE có khả năng liên quan đến thuốc nghiên cứu
chưa tăng đáng kể sau can thiệp: do điều kiện hạn chế về thời gian và
nguồn lực nên nghiên cứu chưa thể tiến hành các can thiệp phù hợp
đối với nội dung này.
Thời gian theo dõi sau can thiệp chưa dài nên có thể chưa
đánh giá được đầy đủ xu hướng báo cáo sau khi triển khai các giải
pháp cải thiện hoạt động báo cáo SAE cũng như hiệu quả dài hạn của


các giải pháp can thiệp. Trong thời gian tới, cần có những nghiên cứu
tiếp theo với thời gian theo dõi dài hơn để làm rõ hơn xu hướng và
hiệu quả dài hạn nói trên.
KẾT LUẬN

1. Thực trạng hoạt động báo cáo biến cố bất lợi nghiêm trọng trong
thử nghiệm lâm sàng thuốc hóa dược tại Việt Nam năm 2014
Hoạt động báo cáo SAE trong TNLS thuốc hóa dược năm 2014
cịn tồn tại nhiều hạn chế. Nhìn chung, số lượng báo cáo thấp (trung
bình 14,3 báo cáo/TNLS, tỷ lệ TNLS khơng báo cáo 78,1%). Bên
cạnh đó, tỷ trọng báo cáo thấp trên các mặt bệnh mạn tính diễn biến

nặng (ung thư), SAE ít nghiêm trọng và SAE liên quan đến thuốc
nghiên cứu. Nghiên cứu cũng cho thấy chất lượng báo cáo chưa thực
sự đảm bảo (tỷ trọng báo cáo đầy đủ thông tin chỉ chiếm 24,2% báo
cáo). Cuối cùng, tỷ lệ báo cáo tuân thủ thời hạn báo cáo theo kết quả
nghiên cứu ở giai đoạn này chỉ chiếm 33,9%.
Kết quả khảo sát của chúng tôi tại các bệnh viện triển khai
TNLS cũng cho thấy thực trạng quản lý báo cáo SAE trong TNLS
cịn yếu, đặc biệt về xây dựng chính sách và các quy trình kỹ thuật.
Thực trạng báo cáo thiếu khá phổ biến (tồn tại ở 60% các cơ sở).

2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động báo cáo biến cố bất lợi
nghiêm trọng trong thử nghiệm lâm sàng thuốc hóa dược tại Việt
Nam
Kết quả nghiên cứu định tính dựa trên phỏng vấn sâu và định
lượng dựa trên phân tích khám phá yếu tố cho thấy có 5 yếu tố ảnh
hưởng tới hoạt động báo cáo SAE trong TNLS thuốc hố dược tại
Việt Nam. Phân tích hồi quy đa biến xếp hạng các yếu tố như sau:


(1) Quy định, quy trình gửi báo cáo; (2) Biểu mẫu báo cáo; (3) Kiến
thức và thái độ của NCV; (4) Yếu tố khác và (5) Người bệnh tham
gia vào nghiên cứu. 5 yếu tố này ảnh hướng đến 63,6% hoạt động
báo cáo SAE trong nghiên cứu TNLS thuốc hóa dược tại Việt Nam
(hệ số R2 hiệu chỉnh = 0,636, p<0.001).

3. Bước đầu đánh giá hiệu quả của một số giải pháp cải thiện
hoạt động báo cáo biến cố bất lợi nghiêm trọng trong thử nghiệm
lâm sàng thuốc hóa dược tại Việt Nam giai đoạn 2015-2017
Dựa trên kết quả về thực trạng và yếu tố ảnh hưởng của nghiên
cứu, Cục KHCN&ĐT đã tiến hành triển khai các giải pháp can thiệp

bao gồm ban hành văn bản quản lý, sửa đổi biểu mẫu báo cáo SAE,
tăng cường giám sát chuyên đề và đẩy mạnh đào tạo, tập huấn cho
NCV về báo cáo an toàn trong TNLS thuốc.
Kết quả cho thấy, thực hành báo cáo SAE trong các TNLS thuốc
hóa dược triển khai tại Việt Nam trong năm 2017 có sự cải thiện rõ
rệt so với năm 2014 trên các phương diện:
Về số lượng, số lượng báo cáo trung bình/TNLS là 28,8, tăng
gần gấp đôi so với năm 2014.
Về cơ cấu báo cáo, tỷ trọng báo cáo gia tăng trên các TNLS mặt
bệnh khơng truyền nhiễm (ví dụ ung thư từ 1,6% lên 10,3%), các
SAE nghiêm trọng khác (từ 39,5% lên 73%). Tuy nhiên, không ghi
nhận gia tăng tỷ trọng báo cáo SAE liên quan đến thuốc nghiên cứu.
Về chất lượng, chất lượng báo cáo được cải thiện rõ rệt. Tỷ
trọng báo cáo đầy đủ thông tin tăng từ 24,2% lên 98,6%.
Về tuân thủ thời hạn báo cáo SAE, tỷ lệ báo cáo tuân thủ thời
hạn tăng từ 33,9 % lên 64%.


×