I.
Bản chất của nhận thức
- Khái niệm: Nhận thức là một q trình phản ánh tích cực, tự
giác và sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con người trên
cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới
khách quan.
- Các trình độ nhận thức:
+ Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận. Trong đó, nhận
thức kinh nghiệm là trình độ nhận thức hình thành từ sự quan
sát trực tiếp các sự vật, hiện tượng trong giới tự nhiên, xã hội
hoặc qua các thí nghiệm khoa học; nhận thức lý luận là trình độ
nhận thức gián tiếp, trừu tượng, có tính hệ thống trong việc
khái quát bản chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng.
+ Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học. Trong đó,
nhận thức thơng thường là loại nhận thức được hình thành một
cách tự phát, trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của con
người; nhận thức khoa học là loại nhận thức được hình thành
một cách tự giác và gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm bản
chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên cứu.
+ Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận cũng như nhận
thức thông thường và nhận thức khoa học là những trình độ
nhận thức khác nhau nhưng chúng có mối quan hệ biện chứng
với nhau trong quá trình phát triển nhận thức của con người.
- Quan niệm về nhận thức của một số trào lưu triết học trước Mác
•
Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm: phủ nhận nguồn gốc khách quan của
nhận thức, các nhà duy tâm chủ quan cho rằng nhận thức là quá trình tự
sản sinh ra tri thức bởi chủ thể (Bercelin) nói một cách khác đó là quá
trình phản ánh trạng thái chủ quan của con người. Các nhà duy tâm khách
quan cho rằng nhận thức là sự nhận thức cảm giác, biểu tượng của con
người, “Ý niệm tuyệt đối” (Hegel).
•
Chủ nghĩa hồi nghi: họ nghi ngờ tính xác thực của tri thức từ đó nghi
ngờ cả sự tồn tại của thế giới khách quan và từ đó phủ nhận khả năng
nhận thức thế giới của con người.
•
Chủ nghĩa duy vật siêu hình: cho rằng nhận thức là sự phản ánh thế giới
khách quan vào bộ óc con người, thừa nhận thế giới tồn tại độc lập với ý
thức con người và là nguồn gốc của nhận thức. Sự tác động của các sự
vật, hiện tượng trong thế giới vật chất lên giác quan của con người đã gây
nên cảm giác song họ coi nhận thức là sự phản ánh giản đơn, là bản sao
nguyên xi trạng trái bất động của sự vật.
- Quan điểm của CNDVBC về bản chất của nhận thức:
CNDVBC đã khắc phục những hạn chế trên của CNDV siêu hình
và đã lí giải một cách khoa học vấn đề bản chất của nhận thức
dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau đây:
•
•
•
•
II.
Nguyên tắc (1): Thừa nhận sự tồn tại của thế giới vật chất
ở bên ngoài và độc lập với ý thức. Nhận thức là sự phản
ánh thế giới khách quan vào bộ óc người một cách chủ
động và sáng tạo (xác định khách thể và chủ thể của nhận
thức).
Nguyên tắc (2): Thừa nhận khả năng nhận thức thế giới
của con người: “Về ngun tắc, khơng có cái gì là khơng
thể biết, có chăng chỉ là cái chưa biết được mà thôi”.
Nguyên tắc (3): Nhận thức không phải là một hành động
nhất thời, thụ động mà là một quá trình biện chứng phát
triển theo quy luật nội tại của nó; là q trình đi từ chưa
biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, đi từ hiện tượng đến
bản chất, từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc
hơn, là quá trình khơng ngừng nảy sinh và giải quyết mâu
thuẫn.
Ngun tắc (4): Nhận thức có nguồn gốc từ thế giới vật
chất nhưng cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức
là thực tiễn. Con người là chủ thể của nhận thức trước hết
vì con người là chủ thể trong hoạt động của mình.
Thực tiễn và vai trị của thực tiễn đối với
nhận thức
1.
Thực tiễn
Trước C.Mác, một số nhà triết học duy tâm, đặc biệt là
PhHêghen, đã tiếp cận được phạm trù thực tiễn, đã phát hiện ra
bản tính năng động sáng tạo của nó và đề cao nó, nhưng họ
mới hiểu thực tiễn như là một dạng hoạt động sáng tạo của cái
tinh thần mà khơng thấy được nó là một hoạt động hiện thực,
vật chất, cảm tính của con người... Trong khi đó, các nhà triết
học duy vật, kể cả L.Phoiơbắc, hiểu được tính vật chất của thực
tiễn nhưng lại coi thực tiễn chỉ là hoạt động vật chất tầm
thường mang tính bản năng của con người... Vì vậy, lý luận
nhận thức của họ cịn mắc nhiều hạn chế, trong đó hạn chế lớn
nhất là khơng hiểu đúng thực tiễn, khơng thấy được vai trị của
thực tiễn đối với nhận thức.
Khi kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những thiếu
sót của các nhà triết học tiền bối, các nhà sáng lập ra chủ nghĩa
duy vật biện chúng đã mang lại một cách hiểu duy vật và khoa
học về thực tiễn, vạch ra vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
cũng như đối với sự tồn tại và phát triển xã hội loài người. Việc
xây dựng và đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận là một bước
ngoặt mang tính cách mạng của lý luận nói chung, lý luận nhận
thức nói riêng. Vì vậy, VILênin mới nhận xét: “Quan điểm về đời
sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý
luận về nhận thức”
1.1. Định nghĩa:
- Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin: “Thực tiễn là những
hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử – xã hội của con
người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội”.
Ví dụ:
+ Trồng lúa, ni gà, buôn bán thực phẩm…
+ Xây nhà, sửa ô tô, sửa xe máy, quét rác…
+ Làm cách mạng, bầu cử, xây dựng luật pháp…
- Phạm trù thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ
bản không chỉ của lý luận nhận thức mác-xít mà cịn của tồn bộ
triết học Mác – Lênin nói chung.
1.2. Đặc điểm cơ bản của hoạt động thực tiễn:
– Thực tiễn là hoạt động có mục đích của con người:
+ Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người. Nói
vậy tức là chỉ có con người mới có hoạt động thực tiễn.
Con vật khơng có hoạt động thực tiễn, chúng chỉ hoạt động
theo bản năng nhằm thích nghi một cách thụ động với thế giới
bên ngồi. Ngược lại, con người hoạt động có mục đích rõ ràng
nhằm cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình, thích nghi
một cách chủ động, tích cực với thế giới và làm chủ thế giới.
+ Con người khơng thể thỏa mãn với những gì có sẵn trong tự
nhiên. Con người phải tiến hành lao động sản xuất ra của cải vật
chất để ni sống mình. Để lao động hiệu quả, con người phải chế
tạo và sử dụng công cụ lao động.
Như thế, bằng hoạt động thực tiễn, trước hết là lao động sản xuất,
con người tạo ra những vật phẩm vốn khơng có sẵn trong tự
nhiên. Khơng có hoạt động thực tiễn, con người và xã hội lồi
người khơng thể tồn tại và phát triển được.
Do đó, có thể phát biểu rằng, thực tiễn là phương thức tồn tại cơ
bản của con người và xã hội, là phương thức đầu tiên và chủ yếu
của mối quan hệ giữa con người và thế giới.
– Thực tiễn là hoạt động mang tính lịch sử – xã hội:
+ Thực tiễn luôn là dạng hoạt động cơ bản và phổ biến của xã hội
lồi người mặc dù trình độ và các hình thức hoạt động thực tiễn có
những thay đổi qua các giai đoạn lịch sử. Hoạt động đó chỉ có thể
được tiến hành trong các quan hệ xã hội.
+ Thực tiễn có q trình vận động và phát triển của nó. Trình độ
phát triển của thực tiễn nói lên trình độ chinh phục tự nhiên và
làm chủ xã hội của con người.
Như vậy, về mặt nội dung cũng như về phương thức thực hiện,
thực tiễn có tính lịch sử – xã hội.
1.3. Các hình thức cơ bản
Thực tiễn được tiến hành trong các quan hệ xã hội, và luôn thay
đổi cùng với quá trình phát triển của xã hội. Trình độ phát triển
của thực tiễn nói lên trình độ chinh phục tự nhiên và làm chủ xã
hội của con người. Bất cứ hình thức hoạt động nào của thực tiễn
cũng gồm những yếu tố chủ quan như nhu cầu, mục đích, lợi ích,
năng lực, trình độ của con người đang hoạt động thực tiễn và
những yếu tố khách quan như phương tiện, công cụ, điều kiện vật
chất (hay tinh thần đã được vật chất hóa) do thế hệ trước để lại
và điều kiện tự nhiên xung quanh. Thực tiễn có thể được chia ra
thành các hình thức cơ bản như thực tiễn sản xuất vật chất, thực
tiễn chính trị - xã hội thực tiễn thực nghiệm khoa học, và các hình
thức không cơ bản như thực tiễn tôn giáo, thực tiễn đạo đức, thực
tiễn pháp luật...
+ Thực tiễn sản xuất vật chất là hình thức hoạt động nguyên thủy
nhất, cơ bản nhất; bởi vì nó quyết định sự hình thành, tồn tại và
phát triển của xã hội loài người, là cơ sở khơng chỉ quy định các
hình thức hoạt động thực tiễn khác mà cịn quy định mọi hình
thức hoạt động sống của con người, nó khơng chỉ cải biến tự
nhiên mà cịn cải tạo ln cả bản thân con người.
+ Thực tiễn chính trị - xã hội là hình thức hoạt cao nhất, quan
trọng nhất, bởi vì nó làm biến đổi các quan hệ xã hội, tác động
đến sự thay đổi của các chế độ xã hội loài người.
+ Thực tiễn thực nghiệm khoa học gắn liền với sự ra đời và phát
triển của khoa học và của các cuộc cách mạng khoa học - cơng
nghệ, nó ngày càng trở nên quan trọng, bởi vì nó thúc đẩy mạnh
mẽ các hình thức hoạt động thực tiễn khác...
2. Vai trị của thực tiễn đối với nhận thức:
Như chúng ta thường nói, nhận thức là một q trình. Và trong
q trình này, thực tiễn có vai trị rất quan trọng, thể hiện ở
những điểm sau:
1.1. Thực tiễn là cơ sở, mục đích, là động lực chủ yếu và trực
tiếp của nhận thức.
– Thực tiễn là cơ sở của nhận thức
+ Điều này có nghĩa là thực tiễn cung cấp tài liệu cho nhận thức,
cho lý luận. Mọi tri thức dù trực tiếp hay gián tiếp đối với người
này hay người kia, thế hệ nay hay thế hệ khác, ở trình độ kinh
nghiệm hay lý luận, xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn.
+ Sở dĩ như vậy bởi con người quan hệ với thế giới không phải bắt
đầu bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Chính từ trong q trình hoạt
động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức ở con người được
hình thành và phát triển.
+ Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới, buộc
thế giới phải bộc lộ những thuộc tính, những tính quy luật để cho
con người nhận thức chúng.
+ Ban đầu, con người thu nhận những tài liệu cảm tính. Sau đó,
con người tiến hành so sánh, phân tích, tổng hợp, khái qt hóa,
trừu tượng hóa… để phản ánh bản chất, quy luật vận động của
các sự vật, hiện tượng trong thế giới, từ đó xây dựng thành các
khoa học, lý luận.
– Thực tiễn là mục đích của nhận thức:
Nói thực tiễn là mục đích của nhận thức vì nhận thức dù về vấn
đề, khía cạnh, lĩnh vực gì chăng nữa thì cũng phải quay về phục
vụ thực tiễn. Nhận thức mà khơng phục vụ thực tiễn thì khơng
phải là “nhận thức” theo đúng nghĩa.
Do đó, kết quả nhận thức phải hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn. Lý
luận, khoa học chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng
vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn.
–
Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức:
+ Nói như vậy có nghĩa là thực tiễn cung cấp năng lượng nhiều
nhất, nhanh chóng nhất giúp con người nhận thức ngày càng toàn
diện và sâu sắc về thế giới.
+ Trong quá trình hoạt động thực tiễn biến đổi thế giới, con người
cũng biến đổi luôn cả bản thân mình, phát triển năng lực thể chất,
trí tuệ của mình. Nhờ đó, con người ngày càng đi sâu vào nhận
thức thế giới, khám phá những bí mật của thế giới, làm phong phú
và sâu sắc tri thức của mình về thế giới.
+ Thực tiễn còn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát
triển của nhận thức. Nhu cầu thực tiễn địi hỏi phải có tri thức mới,
phải tổng kết kinh nghiệm, khái quát lý luận, nó thúc đẩy sự ra đời
và phát triển của các ngành khoa học. Khoa học ra đời chính vì
chúng cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con người.
2.2. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý.
– Như các nhà kinh điển của triết học Mác – Lênin đã khẳng
định: Vấn đề tìm hiểu xem tư duy con người có thể đạt tới chân lý
khách quan hay khơng hồn tồn khơng phải là một vấn đề lý
luận, mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con
người phải chứng minh chân lý.
Tất nhiên, nhận thức khoa học có tiêu chuẩn riêng, đó là tiêu
chuẩn logic. Nhưng tiêu chuẩn logic khơng thể thay thế cho tiêu
chuẩn thực tiễn, và xét đến cùng, nó cũng phụ thuộc vào tiêu
chuẩn thực tiễn.
– Ta cần phải hiểu thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý một cách
biện chứng. Tiêu chuẩn này vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính
tương đối:
+ Tiêu chuẩn thực tiễn có tính tuyệt đối vì thực tiễn là tiêu chuẩn
khách quan để kiểm nghiệm chân lý. Thực tiễn ở mỗi giai đoạn
lịch sử có thể xác nhận được chân lý.
+ Tiêu chuẩn thực tiễn có cả tính tương đối vì thực tiễn khơng
đứng ngun một chỗ mà luôn biến đổi và phát triển. Thực tiễn là
một quá trình và được thực hiện bởi con người nên khơng tránh
khỏi có cả yếu tố chủ quan.
Tiêu chuẩn thực tiễn không cho phép biến những tri thức của con
người thành những chân lý tuyệt đích cuối cùng. Trong quá trình
phát triển của thực tiễn và nhận thức, những tri thức đạt được
trước kia và hiện nay vẫn phải thường xuyên chịu kiểm nghiệm
bởi thực tiễn tiếp theo, tiếp tục được thực tiễn bổ sung, điều
chỉnh, sửa chữa và phát triển hồn thiện hơn.
Việc qn triệt tính biện chứng của tiêu chuẩn thực tiễn giúp
chúng ta tránh khỏi những cực đoan sai lầm như chủ nghĩa giáo
điều, bảo thủ hoặc chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa tương đối.