TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TRIẾT HỌC
Đề bài:
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiobac
và vai trò của nó đối với sự ra đời của
triết học Mác.
HVTH: Đỗ Thanh Sơn
STT: 83
Nhóm: 9
Lớp: QTKD Đê m 3
Khóa: 22
GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
TP. HC M, tháng 12 năm 2012
1
LỜI MỞ
ĐẦU
Nền triết học cổ điển Đức là nền triết học được tạo nên từ cuối thế kỷ XVIII -
đầu thế
kỷ
XIX là thành tựu rực rỡ của nền văn minh Tây Âu và thế giới. Đây là đỉnh
cao của thời
kỳ
triết học Tây Âu, đồng thời có ảnh hưởng to lớn đến triết học hiện
đại triết học cổ
điển
Đức. Vì vậy, nó trở thành một trong ba nguồn gốc hình thành chủ
nghĩa Marx - nguồn
gốc
triết học (cùng với kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã
hội không tưởng
Pháp).
Feuerbach là đại diện vĩ đại cuối cùng của triết học cổ điển Đức.
Người có công lao to lớn đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, phục hồi và
phát triển chủ nghĩa duy vật trong thời kỳ chuẩn bị cách mạng tư sản Đức (1848).
Feuerbach khẳng định vật chất là tính thứ nhất, tư duy là tính thứ hai, do đó ông là
nhà triết học đứng trên quan điểm duy vật. Ông coi con người là sản phẩm cao nhất của
giới tự nhiên, vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại là vấn đề bản chất con người, vì thế
đây là đối tượng duy nhất, phổ biến và cao nhất của triết học.
Không chỉ là đại biểu tiêu biểu của nền triết học cổ điển Đức mà Feuerbach đã đem lại
cho
triết
học địa vị vốn có và sứ mệnh cao cả của nó trong đời sống tinh thần nhân loại
nói riêng và có vai trò to lớn đối sự ra đời của triết học Marx. Chính vì lẽ đó, phạm vi
củabài tiểu luận sẽ xoay quanh vấn đề “ Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiobac và vai
tròcủa nó đối với sự ra đời của triết học Mác.”
Bài tiểu luận được chia làm 3 phần chính:
Phần 1: Lịch sử ra đời chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach
Phần 2: Nội dung chính của Chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach
Phần 3: Vai trò chủ nghĩa duy vật nhân bản của Feuerbach đối với sự ra đời của
triết học Mác.
Tài liệu nghiên cứu dựa trên Giáo trình Triết học
(1)
(dùng cho học viên cao học và nghên
cứu sinh, không thuộc chuyên ngành triết học); Các bài giảng của TS Bùi Văn Mưa; Triết
học phần I &II
(2)
(dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên
ngành triết học). Một số tài liệu trên báo chí và trên Internet…
Trong phạm vi trình độ kiến thức hạn hẹp, bài viết chưa thể đi sâu và chưa có cái nhìn
khái quát về vai trò to lớn của chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach với sự ra đời của
chủ nghĩa Mác. Do đó, rất mong sự đóng góp ý kiến của thầy để bài viết có thể hoàn
thiện hơn và có giá trị ngoại cao hơn cũng như có ứng dụng nhiều hơn cho các bài viết
phân tích khác. Em xin chân thành cảm ơn thầy!
2
1. Lịch sử ra đời chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach
1.1 Giới thiệu về Feuerbach
Ludwig Feuerbach (1804-1872) - đại biểu cuối cùng của triết học cổ điển Đức, sự kết
thúc đầy vinh quang của nó, nhà cải cách kiên cường của nền triết học Đức - nhà duy vật
và khai sáng. Triết học Feuerbach là sản phẩm tất yếu của những điều kiện mới, hình
thành vào cuối những năm 30 - đầu những năm 40. Đó là thời kỳ nhen nhóm tình thế
cách mạng ở nhiều nơi trên nước Đức. L.Feuerbach sinh trưởng trong một gia đình trí
thức có tên tuổi. Người cha là một luật sư, muốn con trở thành người hữu ích cho chế độ
đương thời, vì thế đã khuyên Feuerbach chọn một nghề có khả năng thành đạt trong cuộc
sống. Năm 1823 với mục đích nghiên cứu tôn giáo, Feuerbach vào học tại khoa thần học
của trường đại học Heidelberg, nhưng sau một năm lại rời khoa thần học và chuyển đến
Berlin, nơi Hegel đang giảng triết học. Chẳng mấy chốc Feuerbach trở thành người học
trò nghiêm túc của Hegel. Năm 1928 Feuerbach gởi cho Hegel bản luận án của mình
mang tên “ Về một tính đơn nhất, phổ biến và vô hạn” trong đó ông nói thẳng tâm
nguyện triển khai tiếp tục chủ nghĩa duy tâm khách quan. Năm 1829 Feuerbach lúc đó 25
tuổi bắt đầu sự nghiệp giảng dạy của mình tại trường đại học Erlangen. Tại đây
Feuerbach trình bầy logic học và siêu hình học, đồng thời nhen nhóm tư tưởng nhân bản
mà về sau trở thành nội dung chủ yếu của chủ nghĩa duy vật đặc trưng - chủ nghĩa duy
vật nhân bản. Khái niệm trung tâm - tình yêu. Năm 1841 Feuerbach cho ra mắt tác phẩm
chính “Bản chất đạo Cơ đốc”, ấn tượng mà nó đem lại thật to lớn. Những năm tiếp theo
ông viết “Luận cương khởi đầu về cái cách triết học” (1842), “Các luận điểm triết học cơ
bản của tương lai”(1843), Feuerbach đứng bên lề của diễn biến cách mạng 1848, tỏ ra là
người thu động về chính trị, mặc dù hoan nghênh tinh thần dân chủ tư sản của cuộc cách
mạng đó. Thời kỳ cách mạng Feuerbach viết và công bố một vài tác phẩm nhưng chẳng
mấy ai chú ý. Giai cấp tư sản quay lưng lại với nhà tư tưởng vĩ đại, vì học không thích
thú gì cái tình yêu nhân loại quá lớn của ông, còn các lực lượng khác nhận thấy ở đó có
những biểu hiện của chủ nghĩa không tưởng chính trị.
3
1.2. Sơ lược về lịch sử & triết học cổ điển Đức.
Triết học cổ điển Đức ra đời trong điều kiện lịch sử hết sức đặc biệt. Nước Đức vào
cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX vẫn còn là một quốc gia phong kiến điển hình
với 360 tiểu vương quốc tự lập trong một liên bang Đức chỉ còn là hình thức, lạc hậu về
kinh tế và chính trị. Thủ công nghiệp, công nghiệp, nông nghiệp bị đình đốn. Lúc này
vương triều Phổ Phriđrich Vin Hem vẫn tăng cường quyền lực duy trì chế độ quân chủ,
cản trở đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Cả đất nước bao trùm bầu
không khí bất bình của đông đảo quần chúng.
Đặc điểm của triết học cổ điển Đức
Triết học cổ điển Đức chứa đựng một nội dung cách mạng nhưng hình thức của nó
cực kỳ “rối rắm”, bảo thủ. Đặc điểm này thể hiện rõ nét nhất trong triết học của Cantơ và
Hêghen.
Đề cao vai trò tích cực của hoạt động con người, coi con người là một thực thể hoạt
động, là nền tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học. Con người là chủ thể đồng
thời là kết quả của quá trình hoạt động của chính mình; tư duy và ý thức của của con
người chỉ có thể phát triển trong quá trình con người nhận thức và cải tạo thế giới.
Tiếp thu tư tưởng biện chứng trong triết học cổ đại, triết học Đức xây dựng phép biện
chứng trở thành phương pháp luận triết học độc lập với phương pháp tư duy siêu hình
trong lĩnh vực nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Giả thuyết hình thành vũ trụ
của Cantơ; việc phát hiện ra những quy luật và phạm trù của Hêghen đã làm cho phép
biện chứng trở thành một khoa học thực sự mang ý nghĩa cách mạng trong triết học. Đây
là một đặc điểm nổi bật của triết học cổ điển Đức.
Với cách nhìn bao quát, biện chứng, nhiều nhà triết học Đức có tham vọng xây dựng
một hệ thống triết học vạn năng không những làm nền tảng cho thế giới quan của con
người mà còn trở thành một thứ khoa học của các khoa học. Do vậy, trong học thuyết
triết học của Cantơ, Duyrinh, Hêghen thường bàn đến nhiều vấn đề như: khoa học tự
nhiên, pháp quyền, lịch sử, luân lý, mỹ học.
4
2. Nội dung chính của Chủ nghĩa duy vật nhân bản
2.1.Quan điểm về con người
Feuerbach đã phát biểu: “Hãy quan sát giới tự nhiên và con người, bạn sẽ thấy trong
đó những bí mật của triết học". “Quan điểm của tôi chỉ có thể biểu đạt trong hai từ: Giới
tự nhiên và con người". Với cách đặt vấn đề như vậy, ông đã đi sâu vào việc nghiên cứu
bản chất con người bắt đầu từ việc truy tìm: mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên,
mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, mối quan hệ giữa người và người, để rồi từ đó ông đi
đến kết luận về mối quan hệ giữa người và thần.
Mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên: Toàn bộ mối quan hệ giữa giới tự
nhiên và con người phản ánh mối quan hệ giữa thế giới vô cơ và thế giới hữu cơ, phản
ánh tiến trình tiến hoá của sự sống, theo nghĩa thế giới vô cơ là tiền đề, là cơ sở nền tảng
của mọi sự sống nói chung, của đời sống con người nói riêng. Con người chỉ có thể tồn
tại trong giới tự nhiên, trong sự tiếp xúc với thế giới khách quan bên ngoài nó, và cũng
chính thế giới này quy định sự tồn tại và phát triển của các giác quan con người chứ
không phải ngược lại như chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định. Ánh sáng tồn tại
không phải để cho con mắt nhìn, mà con mắt tồn tại bởi vì có ánh sáng, tương tự như vậy,
không khí tồn tại không phải để cho con người hít thở mà con người hít thở bởi vì có
không khí, bởi vì, nếu không có không khí thì sẽ không có sự sống. Tồn tại một mối quan
hệ tất yếu giữa thế giới vô cơ và thế giới hữu cơ. Mối quan hệ qua lại này chính là cơ sở,
là bản chất của sự sống. Bởi vậy, chúng ta không có căn cứ nào để giả định rằng, nếu như
con người có nhiều cảm giác hay nhiều cơ quan thì nó sẽ hiểu biết được nhiều thuộc tính
hay nhiều sự vật của tự nhiên hơn con người có vừa đủ những giác quan cần thiết để
cảm nhận thế giới trong tính toàn vẹn và tính tổng thể của nó.
Mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại: Feuerbach đã thừa nhận một cách dứt khoát rằng
quan hệ thực sự của tồn tại đối với tư duy là tồn tại - chủ thể, tư duy - thuộc tính. Tư duy
xuất phát từ tồn tại, chứ không phải tồn tại xuất phát từ tư duy… cơ sở của tồn tại nằm
ngay trong tồn tại chính là cảm tính, là nguyên lý trí tuệ là sự tất yếu và chân lý bản
chất của tồn tại với tư cách một tồn tại chính là bản chất của giới tự nhiên. Theo
Feuerbach, chúng ta cần đến từ đâu đến, bộ óc từ đâu đến, cơ quan cơ thể từ đâu đến, thì
5
tinh thần cũng đến từ đấy ngay cả hoạt động tinh thần cũng là việc làm của cơ thể, của
đầu óc con người, hoạt động đó khác với các hoạt động khác ở chỗ, nó là hoạt động của
đầu óc. Feuerbach nhận thấy rằng, mỗi con người cụ thể bằng xương bằng thịt đang sống
và hoạt động là những bằng chứng sinh động về sự thống nhất giữa thể xác và tinh thần,
giữa phương diện vật lý và phương diện tâm lý. Sự thống nhất này phản ánh sự thống
nhất giữa cấu trúc và chức năng, giữa giải phẫu học và sinh lý học. Và cũng từ đó ông dễ
dàng rút ra một kết luận triết học duy vật rằng, tư duy, ý thức của con người không là cái
gì khác như là thuộc tính vốn có của một dạng vật chất có tổ chức cao - bộ óc con người.
Mối quan hệ giữa người và người: Feuerbach cũng hé mở một ý tưởng cho rằng,
trong quá trình sống, con người có thể giao tiếp với những người khác, vôi cộng đồng xã
hội. Do tiếp xúc với xã hội mà "từ một tồn tại thuần tuý vật lý, con người trở thành một
tồn tại chính trị, nói chung trở thành một cái gì đó khác với tự nhiên, tồn tại đó chỉ quan
tâm đến bản thân mình". theo Feuerbach, khi nói về con người, nhất thiết phải giả định
rằng, có những người khác và chỉ có trong mối quan hệ đó thì con người mới là con
người với ý nghĩa đầy đủ của từ này. Từ việc công nhận con người như là sản phẩm của
văn hoá, của lịch sử, Feuerbach đi đến quan điểm cho rằng, tính ích kỷ không chỉ mang
tính cá nhân mà nó còn mang tính xã hội. "Không chỉ có một tính ích kỷ đơn độc hay là
tính ích kỷ cá nhân - Feuerbach viết - mà còn có một tính ích kỷ xã hội, một tính ích kỷ
của gia đình, của tập thể, của cộng đồng, một tính ích kỷ yêu nước. Tất nhiên, tính ích kỷ
là nguyên nhân của mọi điều ác, nhưng cũng là nguyên nhân của mọi điều thiện, bởi vì
không cái gì khác ngoài tính ích kỷ đã tạo nên sự chiếm hữu ruộng đất, nên thương
nghiệp, cũng vì tính ích kỷ mà có nghệ thuật, có khoa học tính ích kỷ ngăn cấm sự trộm
cướp, dối trá, làm hạn chế sự ngoại tình".
Mối quan hệ giữa người và thần: Nhìn nhận con người vừa như là một cá thể chứa
đầy tham vọng cá nhân, vừa như là sản phẩm của con người, sản phẩm của văn hoá và
lịch sử chính là cơ sở lý luận để Feuerbach xem xét mối quan hệ giữa người và thần.
Feuerbach cho rằng, việc nghiên cứu nguồn gốc và bản chất của tôn giáo phải xuất phát
từ việc nghiên cứu bản chất của con người và đời sống hiện thực của nó. Feuerbach viết:
6
“Thượng Đế không phải là thực thể sinh lý hay thực thể vũ trụ, mà là thực thể tâm lý”
Feuerbach đã bóc trần bản chất đích thực của tôn giáo và triết học tư biện hay thần học,
chuyển thế giới nội tâm ra thế giới bên ngoài, nghĩa là biến đối tượng tưởng tượng thành
đối tượng hiện thực". Trên tinh thần như vậy, ông phê phán các quan điểm cho rằng, tôn
giáo là hiện tượng có tính ngẫu nhiên hoặc có tính bẩm sinh. Theo Feuerbach, tình cảm
tôn giáo cũng như các ý niệm và biểu tượng của nó luôn thay đổi theo sự thay đổi của
lịch sử xã hội loài người. Tử lập trường của chủ nghĩa nhân bản, Feuerbach cho rằng,
trong con người luôn có những ham muốn, nhu cầu, khát vọng và thái độ ích kỷ. Những
nhu cầu sinh học và trạng thái tâm sinh lý này có thể được đáp ứng hoặc có thể không
được đáp ứng, từ đó gây nên trong con người hai xu hướng trạng thái tâm lý: hoặc sợ hãi,
bất lực, nỗi buồn chán, đau khổ (nếu con người gặp những điều bất hạnh) hoặc sự
ngưỡng mộ, kính phục, lòng biết ơn (nếu con người gặp những thuận lợi). Feuerbach viết
"Tôn giáo là sự phản ánh thời thơ ấu của nhân loại hay trong tôn giáo con người là đứa
trẻ. Đứa trẻ không thể thực hiện ý muốn của mình bằng sức mạnh của nó, phải nhờ đến
một tồn tại mà nó cảm thấy lệ thuộc tôn giáo có nguồn gốc xuất hiện, có chỗ đứng chân
chính, có ý nghĩa trong thời thơ ấu của nhân loại".
2.2. Quan điểm về giới tự nhiên.
Feuerbach có quan niệm duy vật về giới tự nhiên, ông cho rằng vật chất không do ai
sáng tạo ra, nó tồn tại vĩnh viễn và vô hạn. Thế giới tự nhiên, thế giới vật chất có trước ý
thức, ý thức có sau vật chất, chỉ là một thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức đặc
biệt là bộ óc con người. Thế giới tự nhiên đương đại là kết quả tiến hóa theo quy luật vốn
có của nó. Theo ông phải tìm nguyên nhân của thế giới tự nhiên ở chính trong thế giới tự
nhiên, sự sống và con người cũng là kết quả tiến hóa hết sức lâu dài của chính giới tự
nhiên.
Ông cũng có quan điểm duy vật về không gian và thời gian. Theo ông không có vật
chất ngoài không gian và thời gian, không gian và thời gian chỉ là những hình thức tồn tại
của vật chất.
7
2.3. Quan điểm về tôn giáo
Feuerbach là người phê phán tôn giáo kịch liệt, ông đã cố gắng chỉ ra nguồn gốc nhận
thức luận của tôn giáo.Ông đã vận dụng khái niệm “tha hóa” để phân tích tôn giáo. Ông
cho rằng không có tình cảm tôn giáo bẩm sinh, chính tôn giáo là sản phẩm sáng tạo của
con người, tôn giáo là một phương thức thỏa mãn nhu cầu hư vô của con người. Chính
con người đã sáng tạo ra thượng đế. Thượng đế chỉ là con người “tha hóa” với những
phẩm chất tốt đẹp nhất. "Không phải Thượng đế đã sáng tạo nên con người theo hình
đáng của mình như đã miêu tả trong Kinh thánh, mà chính con người đã sáng tạo nên
Thượng đế theo hình dáng của mình mọi Thượng đế đều là tồn tại được sáng tạo nên
bằng tư tưởng tượng. Con người u sầu, ốm yếu phản ánh tâm trạng của mình trong hình
ảnh một Thượng đế tương tư, con người vui vẻ thì ngược lại, họ miêu tả Thượng đế với
bộ mặt tươi tỉnh, sáng ngời. Tính đa dạng của con người quy định tính đa dạng của
Thượng đế". Như vậy, có thể nói một cách ngắn gọn rằng, Feuerbach đã truy tìm bản chất
của tôn giáo trong bản chất của con người, ông viết. "Bản chất thần thánh không là cái gì
khác như là bản chất con người, bản chất đó đã được gột rửa, được giải phóng khỏi
những giới hạn cá nhân, nghĩa là khỏi những con người vật lý hiện thực, được khách
quan hoá, được nhìn nhận như một bản chất độc lập xa lạ. Bởi vậy, mọi sự xác đinh về
bản chất thần thánh đều có liên quan đến việc xác định bản chất con người. Dựa trên
những khảo cứu lịch sử hiện thực của nhân loại, Feuerbach thấy rằng trong thực tế
thường diễn ra sự thù địch giữa tôn giáo này với tôn giáo khác, sự thù địch giữa người
theo đạo và kẻ dị giáo. Hơn nữa có những người có chức sắc tôn giáo cao trong giáo hội,
song họ vẫn có nhũng hành vi phi đạo đức. Từ đó ông lên tiếng phản đối quan điểm của
các nhà thần học cho rằng dường như phủ định thương đế là một bước dẫn tới sự tiêu diệt
quan hệ đạo đức.
2.4. Quan điểm về đạo đức.
Xuất phát từ tinh thần nhân bản nên quan niệm về đạo đức của ông cũng đầy tính
nhân bản, với ông khát vọng hạnh phúc là cơ sở của mọi hành vi của con người. Về bản
chất con người cố gắng đạt cái mà mình cho là tốt, tránh cái mà mình cho là không tốt.
Cũng vì đứng trên lập trường nhân bản nên ông gắn cảm giác với đạo đức, bởi lẽ, theo
8
ông điều tốt đem lại cho con người cảm giác vui, hạnh phúc, thỏa mãn; ngược lại, điều
xấu đem lại cảm giác đau đớn, xót xa, dằn vặt Ông khuyên răn con người không nên
tham lam, ích kỷ. Quan niệm về đạo đức của ông về cơ bản có tinh thần nhân văn, vì con
người.
2.5. Quan điểm về chính trị xã hội.
Feuerbach cố gắng xây dựng quan điểm xã hội học nhân đạo trên cơ sở đạo đức học.
Ở đây Feuerbach chịu ảnh hưởng của phong trào ánh sáng (Montesquieu, Voltaire ) và
chủ nghĩa duy vật pháp thế kỷ XVIII. Từ khẩu hiệu tự do - bình đẳng - bắc ái Feuerbach
đã nêu lên tuyên ngôn nổi tiếng: “hãy thống nhất mọi người trên tinh thần nhân bản!)
Ông là người có tư tưởng dân chủ cấp tiến, căm ghét nhà nước quân chủ Phổ phong kiến,
ông gọi nó là vô đạo đức, đòi thay nó bằng nhà nước cộng hòa tư sản.
Theo ông con người nên có của riêng, nhưng có ở mức độ vừa phải. Tuy nhiên ông đề
cao chủ nghĩa vị kỷ thông minh, nghĩa là lợi ích cá nhân, lợi ích xã hội không được mâu
thuẫn với nhau.
Ông cho rằng con người về bản tính là bình đẳng nên phải xóa bỏ bất công xã hội.
Tuy nhiên, ông lại sai lầm khi cho bất bình đẳng, tệ nạn xã hội chỉ là những hiện tượng
ngẫu nhiên đi chệch hướng bản chất của con người và những hiện tượng này có thể khắc
phục bằng giáo dục, bằng tình yêu của con người.
Ông căm ghét thói đạo đức giả, phê phán nó và muốn xây dựng một xã hội “cộng đồng
chung” mà ở đó có sự thống nhất về dân chủ và công bằng.
9
3. Vai trò chủ nghĩa duy vật nhân bản của Feuerbach đối với sự ra đời của triết học
Mác.
3.1. Hạn chế của Feuerbach.
Tuy Feuerbach có quan điểm duy vật về thế giới, nhưng còn thô sơ và siêu hình. Bởi
lẽ, vật chất theo ông mới chỉ là những gì cảm giác được. Hay là khi đấu tranh chống chủ
nghĩa duy tâm nói chung, chủ nghĩa duy tâm của Hêghen nói riêng, ông đã không thấy
được “hạt nhân hợp lý” trong triết học của Hêghen và đã phủ định một cách tuyệt đối,
như “hất chậu nước tắm và cả đứa trẻ trong đó”.
Vê mặt nhận thức luận, mặc dù có những tư tưởng tiến bộ, nhưng quan điểm của ông
cũng còn nhiều hạn chế:
- Ông còn thiếu quan điểm biện chứng, quan điểm lịch sử, quan điểm thực tiễn về
nhận thức. Về cơ bản theo ông, nhận thức là quá trình diễn ra chỉ một lần là xong.
- Ông chưa hiểu mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý
tính.
- Chủ thể nhận thức trong quan niệm của ông chỉ là những con người chung chung,
đứng ngoài các quan hệ xã hội mang tính lịch sử cụ thể.
- Đặc biệt là ông chưa hiểu được bản chất của thực tiễn, ông mới hiểu thực tiễn là
những hoạt động buôn bán nhỏ.
Feuerbach đã phần nào nhìn khía cạnh giao tiếp xã hội như là một yếu tố tạo bản chất con
người. Tuy nhiên ông chưa thấy được con người xã hội, con người giai cấp, mới chỉ thấy
được con người sinh học, con người có tính loài, con người tự nhiên chủ nghĩa.
Về mặt tôn giáo của ông còn nhiều hạn chế:
- Ông chưa hiểu được các nguồn gốc tâm lý, kinh tế - xã hội, giai cấp, văn hóa của
tôn giáo. Mặc dù ông đã thấy được mối liên hệ giữa chủ nghĩa duy tâm và tôn
giáo.
- Ông cho rằng, xã hội loài người cần đến tôn giáo vì nó có thể đáp ứng những thiếu
hụt mà con người không có được.
- Hơn nữa, ông không muốn khắc phục những điều kiện làm nảy sinh tôn giáo,
muốn thay Cơ đốc giáo bằng một tôn giáo mới – Tôn giáo tình yêu – khi ấy người
với người là thượng đế của nhau.
Quan niệm về đạo đức của ông về cơ bản có tinh thần nhân văn, vì con người. Tuy
nhiên, cũng còn có những hạn chế, chẳng hạn:
10
- Ông cho rằng các hiện tượng phi đạo đức chỉ là những hiện tượng ngẫu nhiên
trong xã hội, bằng tình yêu sẽ xây dựng đạo đức mới, đạo đức có sự thống nhất
giữa lợi ích cá nhân và xã hội.
- Đặc biệt, ông đã xây dựng nên một thứ đạo đức trừu tượng, tách rời đời sống xã
hội, phi giai cấp, phi lịch sử, thứ đạo đức vĩnh hằng cho mọi thời đại.
Về mặt chính trị - xã hội của ông có yếu tố tiến bộ, nhưng cũng còn chứa đựng nhiều
yếu tố không tưởng.
3.2. Vai trò của chủ nghĩa duy vật nhân bản của Feuerbach đối với sự ra đời của triết
học Mác.
Cùng với phép biện chứng duy tâm của Hêghen, chủ nghĩa duy vật nhân bản của
Feuerbach đã trở thành một tiền đề đề lý luận quan trọng cho sự hình thành triết học
Mác.
Chính sự phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm của Heghen đang thống trị trong thời
điểm hiện tại, mở đường cho chủ nghĩa duy vật phát triển chính là công lao to lớn của
Feuerbach trong việc ra đởi của triết học Mác.
Dưới quan điểm của ông về con người là đưa tất cả những yếu tổ siêu nhiên về với tự
nhiên thông qua con người đã tạo ra tiền đề cho triết học Mác khi nghiên cứu về con
người tự nhiên và con người xã hội. Feuerbach đã có công làm cho chủ nghĩa duy vật
đồng nhất với chủ nghĩa nhân đạo.
Tư tưởng về thẩm mỹ của con người của Feuerbach cũng đã ảnh hưởng đến tư tưởng
thẩm của Mác. Theo bản chất tộc loại của mình, con người tự do không chỉ ở trong tư
duy, khát vọng, mong muốn, mà cả ở trong cảm xúc. Nhờ vậy, con người có khả năng
giữ được một vị thế thuần tuý tinh thần, độc lập với các lợi ích cụ thể hàng ngày trong
mối quan hệ với các hiện tượng của thế giới vật thể.
Cũng chính nhờ chủ nghĩa duy vật của Feuerbach đã giúp Mác và Ăngghen đoạn tuyệt
với chủ nghĩa duy tâm của Hêghen và phái Hêghen trẻ. Mác và Ăngghen đã cải tạo chủ
nghĩa duy vật của Feuerbach phát triển lên một hình thức mới cao nhất đó là chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Feuerbach đã có công làm cho chủ
nghĩa duy vật đồng nhất với chủ nghĩa nhân đạo.
11
KẾT
LUẬN
Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Feuerbach là một thành tựu vĩ đại của triết học cổ điển
Đức. Công lao to lớn của Feuerbach ở chỗ, ông không chỉ đấu tranh chống chủ nghĩa
duy tâm mà còn đáu tranh chống lại những người duy vật tầm thường. Ông đã có quan
niệm đúng đắn là, không thể quy các hiện tượng tâm lý về các quá trình lý – hoá; công
nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới. Ông đã kịch liệt phê phán những
người theo chủ nghĩa hoài nghi và thuyết không thể biết. Trong sự phát triển lý luận
nhận thức duy vât, Feuerbach đã biết dựa vào thực tiễn là tổng hợp những yêu cầu về
tinh thần, về sinh lý mà chưa nhận thức được nội dung cơ bản của thực tiễn là hoạt động
vật chất của con người, là lao động sản xuất vật chất, đấu tranh giai cấp và hoạt động
thực tiễn của nó là cơ sở của nhận thức cảm tính và lý tính.
Tuy nhiên, triết học nhân bản của Feuerbach cũng bộc lộ những hạn chế. Khi ông đòi
hỏi triết học mới - triết học nhân bản - phải gắn liền với tự nhiên thì đồng thời đã đứng
luôn trên lập trường của chủ nghĩa tự nhiên để xem xét mọi hiện tượng thuộc về con
người và xã hội và triết học nhân bản của ông chứa đựng những yếu tố của chủ nghĩa
duy tâm.
Chủ nghĩa duy vật biển chứng của Feuerbach tuy còn nhiều hạn chế nhưng cũng đã tạo
ra nền tảng to lớn đối với sự ra đời và phát triển của triết học Mác. Mác đã kế thừa
những tư tưởng quan điểm đúng đắn của ông và loại kết hợp với phép biện chứng của
Hegel tạo ra phép biện chứng duy vật mà chúng ta còn sử dụng cho đến ngay nay trong
rất nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau.
12
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Giáo trình triết học Mác-Lenin – NXB Chính trị quốc gia
2- Phoiobac và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức – Chủ nghĩa Mác
3- Ts. Bùi Văn Mưa – PGS.TS. Lê Thanh Sinh – TS. Trần Nguyên Ký –
TS. Nguyễn Ngọc Thu – TS. Bùi Bá Linh – TS. Bù i Xuân Thanh, Triết
học phần II – các chuyên đề về triết học Marx – Lênin, 2010.
4-
Lê Công Sự-Tạp chí Nghiên cứu con người
5- www.vientriethoc.com.vn
6- www.vi.wikipedia.or
13
Mục lục
LỜI MỞ
Đ Ầ U
1
1. Lị ch sử ra đời chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach 2
1.1 Giới thiệu về Feuerbach 2
1.2. Sơ lược về lịch sử & triết học cổ điển Đức. 3
2. Nội dung chính của Chủ nghĩa duy vật nhân bản 4
2.1.Quan điểm về con người 4
2.2. Quan điểm về giới tự nhiên 6
2.3. Quan điểm về tôn giáo 7
2.4. Quan điểm về đạo đức. 7
2.5. Quan điểm về chính trị xã hội 8
3. Vai trò chủ nghĩa duy vật nhân bản của Feuerbach đối với sự ra đời của
triết học Mác 9
3.1. Hạn chế của Feuerbach 9
3.2. Vai trò của chủ nghĩa duy vật nhân bản của Feuerbach đối với sự ra đời
của triết học Mác 10
KẾT
L U Ậ N
11