Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT CÁC TRƯỜNG HỢP LY HÔN TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.12 KB, 22 trang )

MỞ ĐẦU............................................................................................................................ 4
NỘI DUNG........................................................................................................................ 4
CHƯƠNG 1.......................................................................................................................4
LÝ LUẬN CHUNG VỀ LY HƠN......................................................................................4
1.1.

Khái niệm............................................................................................................4

1.2. Ly hơn trong pháp luật Việt Nam......................................................................5
1.2.1. Căn cứ ly hôn...............................................................................................5
1.2.2 Hậu quả pháp lý của ly hôn..........................................................................11
CHƯƠNG 2.....................................................................................................................12
THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT CÁC TRƯỜNG HỢP LY HÔN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG NINH.....................................................................................................12
2.1.

Đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh Quảng Ninh...............................12

2.2. Đánh giá thực trạng giải quyết các trường hợp ly hơn tại Tịa án nhân dân
tỉnh Quảng Ninh.......................................................................................................... 13
2.2.1. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng ly hơn..................................................13
2.2.2. Hậu quả của ly hơn...................................................................................16
2.2.3. Thực trạng giải quyết các trường hợp ly hơn tại Tịa án nhân dân tỉnh
Quảng Ninh.............................................................................................................18
CHƯƠNG 3.....................................................................................................................20
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN
LY HÔN TẠI TAND TỈNH QUẢNG NINH...................................................................20
KẾT LUẬN...................................................................................................................... 22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................23
TÌNH HÌNH CƠ SỞ THỰC TẬP


- Cơ cấu tổ chức và hoạt động của TAND tỉnh Quảng Ninh được thực hiện theo
quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, bao gồm các Phòng và Đơn vị
trực thuộc với nhiệm vụ cụ thể khác nhau. Cụ thể bao gồm:
+ Ủy ban Thẩm phán.
+ Tịa hình sự, Tịa dân sự, Tịa hành chính, Tịa kinh tế, Tịa lao động, Tịa gia
đình và người chưa thành niên.
+ Bộ máy giúp việc.
1


Các bộ phận phòng, ban của Tòa án tỉnh Quảng Ninh đều hoạt động hướng tới thực
hiện chức năng tư pháp, giải quyết các tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hình sự, hành chính
xảy ra trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân, lợi ích nhà nước và xã hội.
Hiện tại về cơ cấu tổ chức hệ thống TAND tỉnh Quảng Ninh có 8 tồ phịng và 13
đơn vị Toà án nhân dân cấp huyện. Lãnh đạo Tịa án tỉnh Quảng Ninh bao gồm:
Chánh án: Hồng Văn Tiền;
Phó Chánh án: Hồng Văn Chính;
Phó Chánh án: Đào Đình Trợi;
Phó Chánh án: Đặng Phúc Lâm.
- Thẩm quyền: Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì Tịa án tỉnh
Quảng Ninh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm và phúc thẩm các vụ việc sau
đây:
+ Thẩm quyền xét xử sơ thẩm:
Các tranh chấp hoặc yêu cầu về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao
động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh, do tính chất nghiêm trọng hoặc liên quan đến chủ thể có thẩm quyền mà Tịa
án nhân dân tỉnh lấy lên để giải quyết.
Các tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hơn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động
mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại

diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngồi, cho Tịa án, cơ quan có
thẩm quyền của nước ngồi;
Các vụ án hình sự xảy ra trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh mà không thuộc thẩm quyền của
Tòa án nhân dân cấp huyện, vụ án hình sự có bị cáo, bị hại, đương sự ở nước ngồi hoặc
tài sản có liên quan đến vụ án ở nước ngồi; vụ án hình sự thuộc thẩm quyền xét xử của
Tòa án nhân dân cấp huyện nhưng có nhiều tình tiết phức tạp khó đánh giá, thống nhất về
tính chất vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành; vụ án mà bị cáo là Thẩm phán,
Kiểm sát viên, Điều tra viên, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, người có chức sắc trong tơn
giáo hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít người.
Các tranh chấp liên quan đến quyết định hành chính, hành vi hành chính trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh mà thuộc thẩm quyền của TAND tỉnh Quảng Ninh theo quy định tại Điều 32
Luật tố tụng hành chính năm 2015.
+ Thẩm quyền xét xử phúc thẩm:
2


Tịa án tỉnh Quảng Ninh có thẩm quyền xét xử theo thủ tục phúc thẩm các tranh chấp,
yêu cầu về dân sự, hình sự, hành chính đã được giải quyết theo thủ tục sơ thẩm tại Tòa án
nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
MỞ ĐẦU
Hôn nhân là một trong những mối quan hệ cơ bản của gia đình, tuy nhiên, mối quan
hệ đó khơng phải lúc nào cũng phát triển theo chiều hướng tích cực. Ly hơn là một hiện
tượng xuất hiện ngày càng nhiều cùng với sự phát triển của xã hội. Trong năm 2019, số
vụ án hơn nhân và gia đình chiếm 67,7% trên tổng số các vụ việc dân sự, hơn nhân và gia
đình, kinh doanh thương mại và lao động đã mà các Tòa án trên cả nước đã thụ lý 1.
Quảng Ninh là một trọng điểm kinh tế, một đầu tàu của vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc,
hội tụ những điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Nhưng cùng với sự phát
triển đồng đều về mọi mặt, ly hôn đã và đang dần trở thành một thực trạng đáng báo động
trên địa bàn. Năm 2019, số vụ án hơn nhân và gia đình chiếm 75,8% trên tổng số án hình

chính, vụ, việc dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động đã mà
Tòa án các cấp đã thụ lý trên địa bàn tỉnh 2. Trước thực trạng đáng báo động như vậy, em
xin lựa chọn: “Thực tiễn giải quyết các trường hợp ly hơn tại tồ án nhân dân tỉnh
Quảng Ninh” làm đề tài báo cáo thực tập chuyên môn để nghiên cứu chi tiết hơn về tình
hình ly hơn thực tế tại tỉnh Quảng Ninh, đưa ra một số đánh giá, nhận xét và giải pháp
nhằm hạn chế ly hôn và ảnh hưởng của ly hôn.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ LY HƠN

1.1.
Khái niệm
Trong khoa học pháp lý nói chung và Luật HNGĐ nói riêng, việc đưa ra khái niệm
đầy đủ về ly hơn có ý nghĩa quan trọng, phản ánh quan điểm chung nhất của nhà nước ta
về ly hôn, tạo cơ sở lý luận cho việc xác định bản chất pháp lý của ly hôn, xác định nội
dung, phạm vi điều chỉnh của các quan hệ pháp luật hơn nhân và gia đình về ly hơn và các
vấn đề phát sinh khác.
Theo Từ điển Luật học, ly hôn được hiểu là “chấm dứt quan hệ vợ chồng do TAND
công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng”.
1 Tòa án nhân dân tối cao, Báo cáo Tổng kết công tác năm 2019 và nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2020 của các
Tòa án, 2019.
2 Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Báo cáo tổng kết ngành Tòa án năm 2019, 2019.

3


Khoản 14, Điều 3, Luật HNGĐ năm 2014 quy định: “Ly hôn là việc chấm dứt quan
hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án”. Đây là biện pháp
cuối cùng mà luật cho phép thực hiện trong trường hợp cuộc sống vợ chồng lâm vào tình
trạng khủng hoảng mà khơng thể được khắc phục bằng bất kỳ biện pháp nào khác.

Qua những khái niệm ở trên, có thể đưa ra khái niệm ly hôn là sự kiện pháp lý làm
chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật theo bản án, quyết định có hiệu lực của Tịa
án trên cơ sở căn cứ ly hôn mà pháp luật quy định.
1.2.
Ly hôn trong pháp luật Việt Nam
Chế định ly hôn trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có 14 điều (từ Điều 51
đến Điều 64) được quy định tại Chương IV Mục 1. Vấn đề ly hôn cũng được ghi nhận tại
Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2014 của Chính phủ, quy định chi
tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hơn nhân và gia đình (được quy định từ Điều
41 đến Điều 46) và Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày
06 tháng 01 năm 2016 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình
(Điều 7). Ngồi ra, tại Khoản 1 điều 39 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng có quy định về
quyền ly hôn.
1.2.1.

Căn cứ ly hôn

1.2.1.1.
Căn cứ ly hơn khi thuận tình ly hơn
Điều 55 Luật HNGĐ 2014 quy định về thuận tình ly hơn như sau:
“Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự
nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, ni dưỡng, chăm
sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tịa án
cơng nhận thuận tình ly hơn; nếu khơng thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng
khơng bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tịa án giải quyết việc ly hơn.”
Theo đó, thuận tình ly hơn là trường hợp cả hai vợ chồng cùng yêu cầu chấm dứt
hơn nhân, thể hiện ý chí độc lập tự nguyện mong muốn chấm dứt quan hệ vợ chồng. Căn
cứ này được thể hiện qua hai khía cạnh:
(i)


Vợ, chồng thật sự tự nguyện ly hôn;

(ii)
Đã thỏa thuận được các vấn đề liên quan và việc thỏa thuận này đảm bảo
được quyền, lợi ích chính đáng của vợ và con.
Theo quy định của Luật HNGĐ 2014 thì trong trường hợp hai vợ chồng cùng có
u cầu thuận tình ly hơn, sự tự nguyện là một căn cứ quyết định việc chấm dứt hôn nhân.
Tự nguyện ly hôn được thể hiện qua sự tự do trình bày nguyện vọng, ý chí, khơng cưỡng
ép, khơng bị lừa dối trong việc thuận tình ly hôn trên cơ sở nhận thức được hậu quả của
4


việc ly hôn, xuất phát từ trách nhiệm đối với gia đình, phù hợp với yêu cầu của pháp luật,
chuẩn mực đạo đức xã hội và nhu cầu của bản thân chủ thể trong việc quyết định ly hôn.
Khi bản thân hai vợ chồng xét thấy cuộc sống gia đình khơng hạnh phúc, cuộc sống
chung có nhiều mâu thuẫn, khơng đạt được mục đích của cuộc hơn nhân và tự nhận thức
được việc ly hơn là cần thiết thì hai vợ chồng đồng tình cùng nhau u cầu Tịa án giải
quyết việc ly hơn. Trong q trình hịa giải, thẩm phán có thể tiến hành tất cả các biện
pháp điều tra, xác minh cần thiết, thậm chí có thể tìm hiểu để làm rõ động cơ xin ly hôn
của các đương sự.
Ngoài ra, Điều 55 Luật HNGĐ 2014 quy định trong việc thuận tình ly hơn, ngồi ý
chí thật sự tự nguyện xin thuận tình ly hơn của vợ chồng, địi hỏi hai vợ chồng cịn phải
có sự thoả thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con
trên cơ sở đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ và con. Về tài sản, các bên sẽ tiến hành
tự thỏa thuận dựa trên những nguyên tắc chung mà pháp luật dân sự đã quy định trong
BLDS. Về con cái, theo nguyên tắc, việc ai là người ni con khi ly hơn có thể được các
đương sự (vợ, chồng) tự thỏa thuận với nhau và được Tịa ghi nhận trong bản án. Sau khi
ly hơn, vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ trơng nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa
thành niên hoặc đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự hoặc khơng
có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình. Bên cịn lại – tức bên khơng

được trực tiếp ni con có nghĩa vụ cấp dưỡng để người kia chăm sóc, ni dưỡng con
cho đến khi trưởng thành. Để bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con, pháp luật
HNGĐ hướng tới việc bảo vệ quyền người vợ bằng việc quy định “chỉ cho phép vợ chồng
đồng thuận ly hôn khi đảm bảo được quyền lợi chính đáng của người vợ và con”. Quy
định này thể hiện tính thống nhất, chặt chẽ của pháp luật HNGĐ, qua đó, thấy được pháp
luật HNGĐ Việt Nam có xu hướng bảo vệ phụ nữ và trẻ em – “thế yếu” trong quan hệ
hôn nhân và gia đình.
1.2.1.2.
Căn cứ ly hơn khi ly hơn theo u cầu của một bên
Ly hôn theo yêu cầu của một bên là trường hợp chỉ có một trong hai vợ chồng, hoặc
cha, mẹ, người thân thích của một trong hai bên yêu cầu được chấm dứt quan hệ hôn
nhân.

5


a) Căn cứ ly hôn trong trường một bên vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn
Điều 56 Luật HNGĐ 2014 quy định về ly hôn theo yêu cầu của một bên như sau:
“1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hơn mà hịa giải tại Tịa án khơng thành thì Tịa án
giải quyết cho ly hơn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi
phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hơn nhân lâm vào tình trạng
trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tịa án tun bố mất tích u cầu ly
hơn thì Tịa án giải quyết cho ly hơn.
Khi có u cầu ly hơn của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng, Tòa án phải tiến hành
xác định tình trạng quan hệ hơn nhân đó và áp dụng căn cứ ly hôn để giải quyết, việc giải
quyết ly hơn cần phải chính xác và địi hỏi sự linh hoạt trong việc vận dụng căn cứ ly hôn
đối với mỗi trường hợp cụ thể.
- Trường hợp thứ nhất: Có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc
vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình

trạng trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích của hơn nhân khơng đạt
được.
Ngun nhân dẫn đến hơn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung khơng
thể kéo dài, mục đích của hơn nhân khơng đạt được gồm:
(i)

Hành vi bạo lực gia đình của vợ, chồng

Khoản 2 Điều 1 Luật phòng chống bạo lực gia đình năm 2007 quy định về khái niệm
bạo lực gia đình như sau: “Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây
tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên
khác trong gia đình”. Các hành vi được coi là hành vi bạo lực gia đình được liệt kê rất cụ
thể tại Điều 2 Khoản 1 Luật phịng chống bạo lực gia đình năm 2007, gồm: Hành hạ,
ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng; Lăng mạ
hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm; Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực
thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng; Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa
vụ trong quan hệ gia đình giữa ơng, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng;
giữa anh, chị, em với nhau; Cưỡng ép quan hệ tình dục; Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết
hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc
có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc
tài sản chung của các thành viên gia đình; Cưỡng ép thành viên gia đình lao động q
sức, đóng góp tài chính q khả năng của họ; kiểm sốt thu nhập của thành viên gia đình
6


nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính; Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên
gia đình ra khỏi chỗ ở. Một bên vợ hoặc chồng có một trong số các hành vi kể trên đều bị
coi là có hành vi bạo lực gia đình. Hành vi vi phạm đó tác động tới một bên vợ hoặc
chồng, làm ảnh hưởng khơng nhỏ tới thể lực, trí lực, tâm tư tình cảm của vợ hoặc chồng,
làm rạn nứt quan hệ tình cảm trong thời kỳ hơn nhân. Hậu quả thiệt hại xảy ra không phải

là yếu tố cấu thành bắt buộc của hành vi bạo lực gia đình.
(ii)

Hành vi vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng

Khi tham gia quan hệ hơn nhân, vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ
ngang nhau về mọi mặt trong gia đình, trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công
dân được quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Nhưng khi các bên không thực hiện
đúng quyền, nghĩa vụ của mình đối với vợ, chồng, đối với cuộc hơn nhân thì quan hệ hơn
nhân đó sẽ dần đổ vỡ và dẫn tới bế tắc. Hành vi vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ
của vợ chồng là một trong những căn cứ để Tòa án quyết định giải quyết việc ly hôn cho
vợ và chồng. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật cũng chưa có quy định cụ thể về việc hành vi
vi phạm như thế nào được coi là nghiêm trọng? Việc đánh giá mức độ nghiêm trọng của
hành vi vi phạm tùy thuộc vào thái độ của bên vợ hoặc chồng bị vi phạm quyền, nghĩa vụ
và đánh giá chủ quan của thẩm phán khi giải quyết u cầu ly hơn. Trước hết, tính nghiêm
trọng của hành vi vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng sẽ do vợ chồng tự xác định để
yêu cầu ly hôn trên cơ sở nhận thức, đánh giá chủ quan của mình. Vì vậy, với mỗi vợ,
chồng khác nhau tại các thời điểm khác nhau có thể có những đánh giá khác nhau về mức
độ nghiêm trọng của hành vi đó, liệu có nghiêm trọng đến mức dẫn đến hơn nhân lâm vào
tình trạng trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích của hơn nhân khơng
đạt được hay khơng. Khi giải quyết u cầu ly hơn thì thẩm phán là chủ thể có thẩm
quyền đánh giá tính chất nghiêm trọng của hành vi vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ,
chồng. Chính vì khơng có căn cứ cụ thể về mức độ nghiêm trọng của hành vi vi phạm
quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng nên rất dễ dẫn tới việc thẩm phán đánh giá bằng kinh
nghiệm, nhận thức chủ quan của mình, gây ra sai lầm trong đánh giá giải quyết yêu cầu ly
hôn.
Hậu quả của hai hành vi kể trên là vô cùng nặng nề, làm cho tình trạng hơn nhân trở
nên trầm trọng, đời sống chung vợ chồng khơng thể kéo dài, mục đích của hơn nhân
khơng đạt được. Đời sống hơn nhân có nhiều điểm mâu thuẫn, xung đột tồn tại không thể
khắc phục được trong cuộc sống vợ chồng là một thực trạng khá phổ biến. Có thể hiểu

“tình trạng hơn nhân trở nên trầm trọng, đời sống chung vợ chồng không thể kéo dài” là
việc vợ chồng khơng cịn u thương nhau nữa, tình cảm đã phai nhạt dẫn tới xuất hiện
những mâu thuẫn sâu sắc khơng thể tháo gỡ hay điều hịa được nữa, đòi hỏi yêu cầu chấm
dứt quan hệ vợ chồng. Thực tế, biểu hiện của tình trạng hơn nhân trở nên trầm trọng, đời
7


sống chung không thể kéo dài rất đa dạng và khó xác định. Việc xem xét, đánh giá những
biểu hiện đó cần hết sức thận trọng. Trước đây, Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP đã
hướng dẫn cách hiểu cụ thể của tình trạng trầm trọng này, tuy văn bản đã hết hiệu lực
nhưng thẩm phán có thể sử dụng để tham khảo kinh nghiệm xét xử. Theo đó, được coi là
tình trạng của vợ chồng trầm trọng khi:
+ Vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như người nào chỉ
biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì sống,
đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
+ Vợ hoặc chồng ln có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau, như thường xuyên đánh
đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau, đã được
bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
+ Vợ chồng khơng chung thuỷ với nhau như có quan hệ ngoại tình, đã được người vợ
hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, khuyên
bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình.
Cũng theo Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP, mục đích của hơn nhân khơng đạt được
là khơng có tình nghĩa vợ chồng; khơng bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng;
không tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng; khơng tơn trọng quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển mọi
mặt. Khi đó, sự tồn tại của hơn nhân đã khơng cịn ý nghĩa, ly hôn là tất yếu xảy ra.
- Trường hợp thứ hai: Vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích u cầu
ly hơn
Quy định này được xây dựng trên cơ sở yêu cầu thực tiễn, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của vợ, chồng của người bị tuyên bố mất tích.

Khoản 1, Điều 68 BLDS 2015 quy định:
“Khi một người biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện
pháp thơng báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn khơng
có tin tức xác thực về việc người đó cịn sống hay đã chết thì theo u cầu của người có
quyền, lợi ích liên quan, Tịa án có thể tun bố người đó mất tích.
Thời hạn 02 năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó; nếu
khơng xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu
tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu khơng xác định được ngày, tháng
có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có
tin tức cuối cùng.”

8


Việc quy định đây là một căn cứ ly hôn là hồn tồn phù hợp với mục đích của hơn
nhân. Khi một trong hai bên bị tuyên bố mất tích, có nghĩa là một bên đó khơng có mặt ở
nhà, khơng cùng chung sống, xây dựng hạnh phúc gia đình, khơng thực hiện bất kì quyền,
nghĩa vụ của mình trong hai năm liên tục trở lên. Quan hệ hôn nhân lúc đó chỉ tồn tại
mang tính hình thức. Chính sự vắng mặt đó đã làm góp phần cho quan hệ vợ chồng trở
lên phức tạp hơn, trầm trọng hơn. Giải quyết yêu cầu ly hôn trong trường hợp này nhằm
bảo vệ lợi ích nhân thân, tài sản của vợ, chồng của người bị tuyên bố mất tích, đồng thời
củng cố mối quan hệ gia đình.
a) Căn cứ ly hơn trong trường hợp cha, mẹ, người thân thích của vợ, chồng yêu cầu
ly hôn
Tại Khoản 2, Điều 51 trong Luật HNGĐ năm 2014 có quy định:
“Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền u cầu tịa án giải quyết ly hơn khi một
bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ
được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ
gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.”
Khoản 3, Điều 56 Luật HNGĐ 2014 cũng quy định như sau:

“Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này
thì Tịa án giải quyết cho ly hơn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia
đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia”.
Căn cứ ly hôn trong trường hợp này gồm hai yếu tố:
- Vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình đối với vợ, chồng bị bệnh tâm thần hoặc mắc
bệnh khác không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình.
- Hành vi này làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của
người kia.
Do tính chất đặc biệt của chủ thể yêu cầu ly hôn nên pháp luật quy định người vợ,
chồng là nạn nhân của bạo lực gia đình phải đồng thời bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh
khác không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình. Tình trạng khơng thể nhận
thức, làm chủ được hành vi được xác định thông qua kết luận của cơ quan chuyên môn
như tổ chức giám định pháp y tâm thần. Quy định này được xây dựng trên cơ sở yêu cầu
thực tiễn cần bảo vệ một bên vợ, chồng bị mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác.
Bên cạnh đó, ngồi cha mẹ của vợ hoặc chồng thì những người thân thích khác cũng
có quyền u cầu Tịa án giải quyết việc ly hơn. Người thân thích ở đây là “người có
quan hệ hơn nhân, ni dưỡng, người có cùng dịng máu về trực hệ và có họ trong phạm
vi ba đời” (Khoản 19, Điều 3 Luật HNGĐ 2014).
9


1.2.2 Hậu quả pháp lý của ly hôn
a) Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng
Theo quy định tại điều 57 Luật HNGĐ năm 2014: “Quan hệ hôn nhân chấm dứt kể từ
ngày bản án, quyết định ly hôn của Tịa án có hiệu lực pháp luật”.
Như vậy, khi ly hôn, quan hệ hôn nhân của vợ chồng chấm dứt. Hai bên sẽ khơng cịn là
vợ chồng của nhau. Các quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ và chồng sẽ đương
nhiên chấm dứt. Giữa hai bên sẽ không cịn tồn tại nghĩa vụ phải thương u, chung thủy,
tơn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các cơng việc
trong gia đình; chấm dứt quyền đại diện cho nhau giữa vợ và chồng các quyền, nghĩa vụ

khác theo quy định của luật Hôn nhân và gia đình. Kể từ thời điểm bản án; quyết định của
Tịa án giải quyết ly hơn có hiệu lực pháp luật thì cá nhân đó là người độc thân. Họ hồn
tồn có thể kết hơn lần thứ 2 với một người khác mà không phải chịu bất kỳ một sự ràng
buộc nào từ bên còn lại.
a) Quan hệ cha mẹ - con sau khi ly hôn
Sau khi ly hơn thì quan hệ giữa cha mẹ – con vẫn tồn tại. Cha mẹ vẫn có quyền,
nghĩa vụ trơng nom, chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành
niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản
để tự ni mình. Việc ni con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con
do hai vợ chồng thỏa thuận. Trong trường hợp không thỏa thuận được thì Tịa án quyết
định giao con cho bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con, nếu con từ đủ
7 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ
không đủ điều kiện để trực tiếp trơng nom, chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con hoặc cha
mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con. Người cha hoặc người mẹ không trực
tiếp nuôi con phải cấp dưỡng nuôi con.
b) Việc chia tài sản sau khi ly hôn
Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về việc giải quyết tài sản chung
của vợ chồng như sau:
“Khi ly hôn chia tài sản do các bên thỏa thuận; nếu bên không thỏa thuận được
thì u cầu Tịa án giải quyết theo ngun tắc sau:
Tài sản riêng của bên nào thuộc sở hữu bên đó.
Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc chia đơi nhưng có xem xét hồn cảnh
của mỗi bên, tình trạng tài sản, cơng sức đóng góp của mỗi bên vào việc xác lập, duy trì,
phát triển tài sản này. Lao động của vợ chồng trong gia đình coi như lao động có thu
nhập. Bảo vệ quyền lợi ích hợp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn
10


tật, mất năng lực hành vi dân sự, khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản tự ni

mình. Bảo vệ lợi ích chính đáng mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh nghề nghiệp để các
bên có điều kiện tiếp tục lao động thu nhập.
Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật theo giá trị, nếu bên nào
nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh
tốn cho bên kia phần giá trị chênh lệch.”
Theo đó, về nguyên tắc, tài sản riêng của bên nào vẫn thuộc quyền sở hữu của bên
đó. Tài sản chung vợ chồng sẽ được chia đơi, có tính đến các yếu tố sau:
- Hồn cảnh của gia đình và của vợ, chồng.
- Cơng sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản
chung.
- Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp
để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập.
- Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
Về tài sản riêng của vợ chồng, tài sản riêng của bên nào thuộc sở hữu bên đó, trừ
trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung. Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn
lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có u cầu về chia tài sản thì được
thanh tốn phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ
chồng có thỏa thuận khác.

CHƯƠNG 2

THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT CÁC TRƯỜNG HỢP LY HÔN TẠI TÒA ÁN
NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NINH

2.1.
Đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh Quảng Ninh
Có biên giới quốc gia và hải phận giáp Trung Quốc, Quảng Ninh có nhiều khu kinh tế,
trung tâm thương mại tại Móng Cái là đầu mối giao thương giữa hai nước Việt Nam Trung Quốc nói riêng và các nước trong khu vực nói chung. Đồng thời, nguồn tài ngun
khống sản, ngun liệu sản xuất dồi dào, địa thế giàu tiềm năng du lịch đã đóng góp
quan trọng cho sự phát triển kinh tế, du lịch của tỉnh, đảm bảo chất lượng cuộc sống của

người dân. Mật độ dân số của tỉnh không cao nhưng tập trung đông ở vùng thành thị, tại
11


miền núi - nơi có nhiều khó khăn, kinh tế và văn hố cịn chậm phát triển, đang được
quan tâm về nhiều mặt và đời sống đã có những thay đổi rõ rệt.
2.2.
Đánh giá thực trạng giải quyết các trường hợp ly hơn tại Tịa án nhân
dân tỉnh Quảng Ninh
2.2.1.

Ngun nhân dẫn đến tình trạng ly hơn

a) Ngun nhân khách quan
Thứ nhất, do vị thế của phụ nữ được nâng cao và độc lập kinh tế. Thực tế cho thấy,
trong xã hội hiện đại, sự phát triển nhanh về kinh tế đã mang lại cho phụ nữ nhiều cơ hội
để có thu thập tốt hơn. Những quan niệm phong kiến lạc hậu, coi vị trí của người phụ nữ
là ở nhà, làm các công việc nội trợ dần được loại bỏ trong cộng đồng xã hội. Vai trò của
người phụ nữ trong gia đình thay đổi, sự phụ thuộc kinh tế vào chồng giảm đi. Chính điều
đó đã tạo cho người phụ nữ đủ tự tin để kiểm soát và đưa ra các quyết định quan trọng
trong cuộc sống của bản thân họ như ly hôn và nuôi con một mình.
Thứ hai, do xã hội có cái nhìn rộng rãi hơn. Truyền thống người Việt Nam ln coi
trọng gia đình, gia đình là thiết chế xã hội mang tính bền vững. Trong thập niên 60, 70
của thế kỉ XX, việc gia đình có mâu thuẫn, vợ chồng phải chia tay nhau là sự kiện lớn của
gia đình, dịng họ. Mọi người đều coi ly hôn là việc xấu, trái với đạo đức xã hội, ảnh
hưởng không tốt đến thanh danh của gia đình, dịng họ. Một số cơ quan, tổ chức xã hội
thường khơng đồng tình với việc ly hơn của các cá nhân và ln tìm cách can thiệp. Vì
vậy trước đây, nhiều đơi vợ chồng khơng dám ly hơn vì sợ làng xóm chê cười, ảnh hưởng
đến thanh danh của gia đình, sợ cơ quan đồn thể khiển trách. Ngày nay, vị thế của người
phụ nữ đã ly hôn hầu như không thay đổi so với trước khi ly hơn. Họ ít bị ràng buộc bởi

các giá trị của cộng đồng và có thể tự do lựa chọn cuộc sống tốt nhất cho mình.
Thứ ba, do pháp luật về ly hơn ngày càng hồn thiện, đảm bảo ngun tắc bình đẳng
nam, nữ và bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ. Trong xã hội phong kiến, do tư tưởng trọng nam
khinh nữ, coi người đàn ông là trụ cột, là trọng tâm của gia đình - xã hội nên pháp luật
phong kiến thừa nhận sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng, bảo vệ quyền
gia trưởng của người đàn ơng. Hiện nay, ngun tắc bình đẳng và vì sự tiến bộ của phụ nữ
trong xã hội là nội dung quan trọng của sự điều chỉnh pháp luật xã hội chủ nghĩa, trong đó
có lĩnh vực hơn nhân và gia đình. Địa vị pháp lý của người phụ nữ ngày càng được nâng
cao. Luật Hôn nhân và gia đình ngày càng được hồn thiện và đảm bảo quyền tự do ly
hôn của các cặp vợ chồng.
c) Nguyên nhân chủ quan
Ngoài những nguyên nhân khách quen kể trên, các nguyên nhân xuất phát từ yếu tố
chủ quan cũng là các ngun nhân chính dẫn đến tình hình ly hôn. Theo thống kê, các cụ
án ly hôn trên địa bàn tỉnh tập trung trong các nguyên nhân chủ quan sau:
12


Bảng 3: Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng ly hôn trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh trong năm 2017 – 2018
Ngun nhân ly hơn
Do mâu thuẫn gia đình
Do bạo lực gia đình
Do ngoại tình
Do các tệ nạn xã hội
Nguyên nhân khác

Năm
2017
56,7
7,1

14,4
16,3
5,5

2018
58,2
4,9
16,1
18,7
2,1
Đơn vị tính: %

- Mâu thuẫn gia đình:
Qua số liệu trên có thể thấy, nguyên nhân chiếm tỷ lệ cao nhất là mâu thuẫn gia
đình. Mâu thuẫn gia đình cũng chiếm tới 73,6% tổng số các vụ án ly hơn mà các Tịa án
trên địa bàn cả nước đã giải quyết 3. Trên thực tế, biểu hiện của mâu thuẫn gia đình rất đa
dạng, có thể do mâu thuẫn giữa vợ và chồng hoặc các thành viên khác trong gia đình,
cũng có thể do mâu thuẫn trong kinh tế,...
Mâu thuẫn giữa vợ và chồng có thể xuất phát từ việc bất đồng quan điểm, cả hai
khơng hợp tính nhau. Tính cách khơng hợp thường do sự khác biệt trong suy nghĩ, hành
động và quan điểm về cuộc sống giữa vợ và chồng. Sự khác biệt trong suy nghĩ, tính cách
cùng với việc thiếu kĩ năng chung sống giữa vợ và chồng là những nguyên nhân khiến
cho xung đột xảy ra.
Sự thiếu hụt kĩ năng sống ở những đôi vợ chồng trẻ cũng là nguyên nhân khiến các
cặp vợ chồng trẻ hiện nay ly hôn. Họ bước vào cuộc sống hơn nhân khi tuổi đời cịn q
trẻ, chưa có sự chuẩn bị về tâm lý, kinh tế, sức khỏe và những hiểu biết cần thiết cho cuộc
sống gia đình, quá đề cao cái tơi của bản thân, ít quan tâm đến chồng hoặc vợ, khiến phần
lớn các cặp vợ chồng trẻ nảy sinh mâu thuẫn ngay từ những tháng đầu, năm đầu của cuộc
hơn nhân. Trong khi đó nhận thức về cuộc sống gia đình, ý nghĩa của hơn nhân và tình
u cịn hời hợt đã khiến họ khơng đủ bản lĩnh và kỹ năng giải quyết, vượt qua các mâu

thuẫn, dẫn đến ly hôn. Chiếm một phần trong số các cặp ly hơn khi tuổi đời cịn trẻ là do
kết hơn ngồi ý muốn khi những hiểu biết về kiến thức giới tính có phần hạn chế.
Mặt khác, mâu thuẫn gia đình có thể xuất phát từ các thành viên khác hoặc gia đình
nhà chồng, vợ. Mâu thuẫn vợ chồng là điều không thể tránh khỏi nhưng khi sống với gia
đình chồng, vợ, mức độ mâu thuẫn sẽ phức tạp hơn và phụ thuộc nhiều vào cách nhìn
nhận của cả vợ và chồng. Điển hình như trong mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu, khi
người vợ mâu thuẫn với mẹ chồng, nếu người chồng đứng về phía vợ hoặc mẹ mình thì
3 Tịa án nhân dân tối cao, Báo cáo Tổng kết công tác năm 2018 và nhiệm vụ trọng tâm cơng tác năm 2019 của các
Tịa án, 2018.

13


mối quan hệ sẽ trở nên căng thẳng hơn, một khi người chồng khơng biết dung hồ mối
quan hệ với cả mẹ ruột và vợ mình thì xung đột xảy ra và ly hơn là điều tất yếu.
Ngồi ra, mâu thuẫn gia đình cũng có thể xuất phát từ việc một bên có địa vị, học
thức cao hơn, hoặc do tư tưởng lạc hậu, không thể sinh con trai “nối dõi tơng đường”
- Bạo lực gia đình:
Theo Nghiên cứu quốc gia về Bạo lực gia đình đối với phụ nữ Việt Nam, có hơn
nửa số phụ nữ tham gia nghiên cứu (58%) trả lời từng bị ít nhất một trong ba loại bạo lực:
thể xác, tình dục và tinh thần. Kết quả này cho thấy tuy phụ nữ được pháp luật bảo vệ và
ngang quyền với nam giới nhưng vấn đề bạo lực gia đình vẫn diễn ra khá phổ biến. Bạo
lực gia đình có mối quan hệ với các hiện tượng khác và xuất phát từ nhiều lí do khác nhau
như là do chồng thất nghiệp, sinh ra rượu chè cờ bạc đánh vợ. Có những người chồng
đánh vợ vì cảm thấy mình thua kém, họ muốn dùng sức mạnh cơ thể hay uy quyền của
mình để che dấu đi sự thua kém đó. Trường hợp này thường xảy ra ở những gia đình
người chồng khơng có việc làm hoặc thu nhập không đáp ứng được nhu cầu của gia đình.
Mặt khác, người vợ trong quan hệ gia đình luôn bị coi là người lệ thuộc. Ngược lại, sự
ngược đãi, nóng nảy, thơ bạo của người vợ với người chồng thường đưa đến khả năng tan
vỡ gia đình nhanh hơn, bởi điều này trái với thuần phong mỹ tục theo quan niệm truyền

thống của người Việt Nam. Trong trường hợp này người đàn ông chịu áp lực lớn từ dư
luận xã hội và họ sẽ dễ đi đến quyết định ky hơn.
- Ngoại tình:
Khoản 1 Điều 19 Luật hơn nhân gia đình 2014 quy định: "Vợ chồng có nghĩa vụ
thương u, chung thủy, tơn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ,
thực hiện các công việc trong gia đình". Rõ ràng, nguyên tắc đầu tiên của tình nghĩa vợ
chồng đó là chung thuỷ. Do đó nếu vợ hoặc chồng ngoại tình sẽ đẩy gia đình vào tình
trạng tan vỡ. Hành vi ngoại tình có thể xảy ra ở cả người vợ và người chồng. Sau khi kết
hơn người đàn ơng thường có quan niệm gia đình yên vị và tập trung vào làm ăn kinh tế,
xây dựng sự nghiệp. Đến thời điểm kinh tế gia đình khá giả, đạt được vị thế nhất định
trong xã hội họ thường có xu hướng hưởng thụ và tự cho mình quyền được quan hệ với
những người phụ nữ khác khơng phải là vợ mình. Lí giải về tỉ lệ nam giới có xu hướng
ngoại tình cao hơn đó là do sự khác biệt giới tính giữa nam và nữ về tình dục. Phụ nữ
thường thụ động và nam giới thường chủ động và khó kiểm sốt hơn. Lí do xảy ra việc vợ
(chồng) ngoại tình cũng xuất phát từ mâu thuẫn gia đình, vợ (chồng) mắc bệnh vơ sinh
hay khơng có con trai. Ngoại tình có thể do hai vợ chồng khơng cịn tình thương u gắn
bó hoặc khi họ cảm thấy cuộc sống gia đình trở nên nhàm chán.
- Tệ nạn xã hội (nghiện ma tuý, cờ bạc, rượu chè,...):

14


Với đặc thù địa lí là một tỉnh biên giới nên hoạt động tội phạm ma tuý trên địa bàn
Quảng Ninh diễn biến rất phức tạp. Theo đánh giá của các cơ quan chức năng, tỉnh Quảng
Ninh là địa bàn trung chuyển ma túy từ Trung Quốc vào Việt Nam “nóng” nhất cả nước.
Theo thống kê vào tháng 6/2018, trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh có tổng số 3337 người
nghiện ma túy có hồ sơ quản lý, tăng 4,74% so với thời điểm tháng 11/2017.
Đối tượng của nghiện ma tuý, cờ bạc và khơng có việc làm thường là người chồng.
Khi đã sa ngã vào tệ nạn, con người thường mất hết lí trí, tình cảm, khơng những khơng
làm trịn trách nhiệm với gia đình mà cịn trở thành gánh nặng. Quan hệ của gia đình có

vợ (chồng) nghiện ma tuý cờ bạc thường xảy ra xung đột. Nhiều gia đình có vợ hoặc
chồng nghiện ma t, cờ bạc nếu bản thân họ không quyết tâm từ bỏ con đường sai trái
thì mọi sự cố gắng của cả hai bên đều khơng có kết quả. Vì vậy ly hơn là điều khơng thể
tránh khỏi và là con đường giải thốt bế tắc trong quan hệ vợ chồng.
2.2.2.

Hậu quả của ly hôn

Trong nhiều trường hợp ly hôn thực sự là điều cần thiết và quyết định ly hôn là
đúng đắn để tạo dựng lại hạnh phúc cho bản thân cũng như con cái nhưng hệ lụy mà ly
hôn đem lại là không nhỏ.
a) Ảnh hưởng đến vợ, chồng
Hậu quả sau ly hơn, nhiều gia đình phải đối mặt với gánh nặng kinh tế do khối tài
sản chung bị chia đôi. Dù xuất phát từ ngun nhân nào thì ly hơn cũng để lại những tác
động trực tiếp đến tinh thần của cả hai bên. Sự thay đổi trong sinh hoạt, dư chấn tâm lý
nặng nề và áp lực nỗi lo toan cho cuộc sống dẫn đến những phản ứng tiêu cực nảy sinh,
có thể khiến giảm sút năng suất, chất lượng, hiệu quả công việc của họ. Sự thất bại của
cuộc hôn nhân là nỗi đau mất mát của hai vợ chồng và đặc biệt là người phụ nữ khi sẽ gặp
khó khăn gấp bội, phải gồng mình để gánh vác trách nhiệm vừa làm cha, vừa làm mẹ,
nuôi dạy con và ln phải chịu áp lực về tài chính, bị thiệt thịi về tâm lý, tình cảm, hiệu
suất cơng việc.
d) Ảnh hưởng đến con cái
- Ảnh hưởng đến sức khoẻ thể chất, tinh thần con cái: Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra
rằng, phản ứng tức thời của đứa trẻ đối với việc ly dị của cha mẹ là hoảng sợ, cảm thấy
không phải cha mẹ từ bỏ nhau mà là từ bỏ chính chúng. Mức độ phản ứng này phụ thuộc
vào việc đứa trẻ sống trong một gia đình như thế nào. Tiếp theo những phản ứng tức thời
là những bất ổn khác xảy ra. Trẻ gặp phải rất nhiều khó khăn trong q trình thích ứng
tâm lý – xã hội như: khó khăn trong học tập, trong việc thích ứng với hoàn cảnh sống
mới, trong các mối quan hệ xã hội… Sự thay đổi chỗ ở cũng là những thử thách đối với
trẻ nhỏ. Một số ít cha mẹ khi ly hôn không muốn hoặc không thể gánh vác trách nhiệm

một mình ni dưỡng và chăm sóc con cái. Họ đã thỏa thuận trẻ ở với bố vài tháng hoặc
15


vài tuần lại đến ở với mẹ. Sự chuyển dịch chỗ ở liên tục như vậy kéo theo sự xáo trộn
trong sinh hoạt, tạo ra cho trẻ một số lo âu, chủ yếu là lo bị bỏ rơi. Nếu như sự thay đổi
hồn cảnh sống sau ly hơn tác động lớn đến trẻ nhỏ thì ở trẻ lớn hơn, khó khăn đối với
chúng lại thường xuất hiện trong các mối quan hệ xã hội, đặc biệt là quan hệ bạn bè, sinh
ra tâm lý mặc cảm, tự ti, ngại tiếp xúc, có xu hướng co mình. Trẻ cịn cảm thấy cơ đơn,
bởi trong những hồn cảnh bình thường con cái bao giờ cũng nhận được sự giúp đỡ của
cha mẹ thì khi ly dị xảy ra, chúng rất ít hoặc hầu như khơng nhận được sự giúp đỡ đó.
- Dễ sa ngã vào các tệ nạn xã hội: Khi trẻ khủng hoảng tâm lý mà khơng có sự nâng
đỡ thì càng dễ bị cám dỗ bởi những thói hư tật xấu - những thứ vốn đã có nhiều sức hấp
dẫn với trẻ khi trẻ đang ở độ tuổi thiếu niên. Rạn vỡ hạnh phúc gia đình bỗng trở thành
“cú hích” để trẻ bước vào thế giới của game online, bạo lực, sử dụng chất kích thích...
Theo nhiều nghiên cứu, nhóm trẻ trai trong các gia đình ly hơn có tỷ lệ nghiện rượu,
nghiện ma túy và có nguy cơ xuất hiện các rối nhiễu tâm lý cao hơn hẳn nhóm trẻ bình
thường.
- Chất lượng cuộc sống của con cái cũng giảm thiểu đáng kể: Trước đây cha mẹ có
thể chia sẻ tài chính với nhau, thì bây giờ có rất nhiều thứ họ sẽ phải tự mình trang trải
khi ni con một mình. Trong một số trường hợp, áp lực về tài chính làm họ phải làm
việc chăm chỉ hơn, dành ít thời gian cho con trẻ hơn, hoặc cũng có thể gặp nhiều áp lực
trong cuộc sống hơn. Tất cả những điều này có thể làm giảm sút đáng kể chất lượng cuộc
sống của trẻ. Sự thay đổi này đôi khi cũng ảnh hưởng tới tâm lý trẻ em và có thể làm cho
trẻ cảm giác bức bối, khó chịu. Đồng thời, việc chứng kiến cuộc hôn nhân không hạnh
phúc của cha mẹ sẽ khiến trẻ cảm thấy bi quan về cuộc hôn nhân sau này. Trong suy nghĩ
của chúng sẽ ln hình thành ý nghĩ rằng một ngày nào đó cuộc hơn nhân cũng đổ vỡ như
cha mẹ chúng đã từng.
e) Ảnh hưởng đến xã hội
Hôn nhân tan vỡ khơng chỉ làm ảnh hưởng đến gia đình, người thân mà còn ảnh

hưởng đến xã hội. Sau những cuộc hôn nhân không thành là những đứa con vô tội phải
sống trong cảnh thiếu tình thương và sự chăm sóc, ni dưỡng của cha hoặc mẹ. Đó cũng
là một trong những nguyên nhân dẫn đến tội phạm và các tệ nạn xã hội ngày một gia tăng.
Một số trường hợp khi chồng (vợ) khơng tự chủ được đã tìm lối thoát bằng cờ bạc, rượu
chè, hoặc những tệ nạn xã hội khác. Thực tế hằng năm có rất nhiều vụ án ly hơn khơng
được chấp hành, do cịn tranh chấp con cái, tài sản, đặc biệt về nhà ở. Rất nhiều gia đình
sau ly hơn vẫn phải ở chung đụng, mâu thuẫn tiếp tục phát sinh dẫn đến xô xát. Có nhiều
trường hợp từ vụ án dân sự đã dẫn sang vụ án hình sự. Đây là vấn đề nóng hổi đang được
các cơ quan pháp luật như Toà án và Viện kiểm sát, các cơ quan có thẩm quyền quan tâm
giải quyết, nhưng cũng chỉ thoả mãn mức độ nào đó yêu cầu của hai bên đương sự.
16


2.2.3. Thực trạng giải quyết các trường hợp ly hôn tại Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ninh
a) Những kết quả đạt được
Trong công tác xét xử, TAND tỉnh Quảng Ninh đã cố gắng áp dụng đúng các quy
định của pháp luật HNGĐ, pháp luật dân sự và áp dụng những hướng dẫn của TAND tối
cao trong việc áp dụng giải quyết các vụ án ly hôn cụ thể.
Thời gian qua, số vụ án về hơn nhân và gia đình mà Tòa án nhân dân tỉnh Quảng
Ninh thụ lý và giải quyết chiếm một tỉ lệ lớn trong tổng số các án hành chính và vụ, việc
dân sự nói chung. Cụ thể, năm 2017 chiếm 80% số vụ án đã thụ lý và 81,9% số vụ án đã
giải quyết, năm 2018 chiếm 80,3% số vụ án đã thụ lý và 84,1% số vụ án đã giải quyết,
năm 2019 chiếm 75,8% số vụ án đã thụ lý và 79,9% số vụ án đã giải quyết,. Trong đó, số
lượng các vụ việc về ly hơn mà Tịa án thụ lý và giải quyết là tương đối lớn và tăng giảm
khơng ổn định. Có thể thấy được điều này qua bảng thống kê sau:
Bảng 1: Công tác thụ lý và giải quyết, xét xử các vụ án về ly hôn năm 2017 – 2019

Thụ lý
Giải quyết


2017
4039
3486

2018
4297
4144

2019
4227
4117
Đơn vị tính: Vụ

Theo đó, về vụ án về ly hơn, năm 2017, Tịa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh thụ lí
4039 vụ (tăng 423 vụ so với cùng kỳ); giải quyết, xét xử 3486 vụ (đạt 86,3%); năm 2018,
thụ lý 4297 vụ (tăng 132 vụ so với cùng kỳ); giải quyết, xét xử 3486 vụ (đạt 96,4%); năm
2019 thụ lý 4227 vụ (giảm 70 vụ so với cùng kỳ); giải quyết, xét xử 4117 vụ (đạt 97,4%).
Có thể thấy, vụ án ly hôn được thụ lý gia tăng trong giai đoạn 2016-2018. Đặc biệt,
năm 2017 số vụ án ly hôn đã tăng đột biến 423 vụ so với năm 2016, trong khi đó năm
2018 chỉ tăng nhẹ 132 vụ so với cùng kỳ 2017 và giảm nhẹ vào năm 2019. Đồng thời, tỉ
lệ vụ án được giải quyết, xét xử so với số vụ án được thụ lý đã tăng lên đáng kể, cụ thể là
tăng 10,1% từ 86,3% lên 96,4% vào năm 2018 và tăng nhẹ lên 97,4% vào năm 2019.
Với đặc thù địa lý giáp Trung Quốc với 132,8km đường biên giới, ly hôn tại địa bàn
tỉnh Quảng Ninh cịn có sự xuất hiện các vụ án có yếu tố nước ngồi, cụ thể Tịa án nhân
dân tỉnh Quảng Ninh đã thụ lý 47 vụ, giải quyết 33 vụ trong năm 2017 và thụ lý 34 vụ,
giải quyết 24 vụ trong năm 2018.
Nhìn chung, cơng tác giải quyết án HNGĐ của TAND tỉnh Quảng Ninh đạt kết quả
tốt, đáp ứng được yêu cầu chính đáng của đương sự nhờ tinh thần trách nhiệm và quyết
tâm cao của tập thể lãnh đạo, cán bộ cơng chức Tịa án nhân dân hai cấp của tỉnh và sự

17


quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Tòa án nhân dân tối cao, của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân
tỉnh, Tịa án nhân dân hai cấp của tỉnh, từ đó triển khai thực hiện tốt các Nghị quyết của
Đảng, của Quốc hội, của Tòa án nhân dân tối cao, Tỉnh ủy Quảng Ninh về công tác tư
pháp và cải cách tư pháp. Chất lượng cơng tác xét xử của Tồ án tiếp tục được nâng cao,
đảm bảo yêu cầu, nhiệm vụ đã đề ra.
Bên cạnh đó, TAND tỉnh Quảng Ninh luôn đảm bảo 100% Thẩm phán, Thẩm tra
viên, Thư ký tham gia các lớp tập huấn nghiệp vụ do TAND tối cao, TAND tỉnh tổ chức
và giới thiệu các văn bản mới về luật HNGĐ, các văn bản pháp luật có liên quan trong
việc giải quyết các vụ án về HNGĐ. Xây dựng đội ngũ cán bộ với nhiều thẩm phán giỏi,
giàu kinh nghiệm, nắm vững pháp luật, đặc điểm của vụ án ly hôn kết hợp với kiến thức
xã hội, kiến thức tâm lý gia đình. Đây cũng là điều kiện thuận lợi để chất lượng xét xử
của TAND tỉnh luôn đạt chất lượng cao và đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của đương
sự.
2.2.4. Một số tồn tại hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được cũng còn một số tồn tại: Vẫn cịn có án bị hủy, sửa do
lỗi chủ quan; việc xét xử một số vụ án còn kéo dài, quá thời hạn quy định. Việc cơng bố
bản án, quyết định trên Cổng thơng tin Tịa án đã được triển khai nhưng chưa đồng đều,
một số Thẩm phán có tỷ lệ bản án, quyết định đăng tải cịn thấp. Các vụ án ly hơn ngày
càng gia tăng và phức tạp về tính chất tranh chấp như chia tài sản, cấp dưỡng khi ly hôn,
giải quyết vấn đề con cái... Tỷ lệ án sơ thẩm của Tòa án khi giải quyết vụ án ly hôn bị cấp
phúc thẩm sửa, hủy do có những sai sót như đánh giá chứng cứ khơng đầy đủ, tồn diện,
chính xác; vi phạm thủ tục tố tụng như xác định thiếu người tham gia tố tụng, tống đạt
giấy tờ, văn bản tố tụng không đúng theo quy định của pháp luật.
Nguyên nhân của thực trạng này trước hết là do TAND tỉnh gặp nhiều khó khăn trong
cơng tác xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ. Nhiều trường hợp khi tòa tự xác minh, thu
thập các tài liệu chứng cứ để xây dựng hồ sơ vụ án, các đương sự không tạo điều kiện
thuận lợi cho cán bộ, thậm chí là gây trở ngại, không hợp tác. Thứ hai, một số trường hợp

khi giải quyết tranh chấp về ly hơn có liên quan đến tài sản chung của vợ chồng, thẩm
phán được phân cơng giải quyết vụ việc cịn chủ quan trong việc đánh giá, thu thập chứng
cứ; sự phối hợp của các cơ quan hữu quan liên quan đến công việc đo đạc, thẩm định định
giá tài sản,... còn chậm; việc tống đạt các loại giấy tờ cho đương sự thông qua chính
quyền địa phương cịn chậm trễ, chưa đúng quy định dẫn đến phải hỗn phiên tịa. Thứ
ba, cơng tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho nhân dân chưa được chú trọng,
trình độ dân trí đặc biệt là ở các địa bàn vùng sâu vùng xa, tuy đã được nâng lên trong
những năm gần đây nhưng nhìn chung vẫn còn thấp, nhận thức pháp luật còn hạn chế,
nhất là các dân tộc thiểu số.
18


CHƯƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢI QUYẾT
CÁC VỤ ÁN LY HÔN TẠI TAND TỈNH QUẢNG NINH

Thứ nhất, nâng cao năng lực xét xử tranh chấp về HNGĐ Thẩm phán. Tranh chấp
về ly hôn là loại tranh chấp dân sự phức tạp, trong khi đó, cịn nhiều Thẩm phán năng lực
chun mơn nghiệp vụ cịn kém, thiếu linh hoạt, dẫn đến việc giải quyết còn thiếu thống
nhất, chưa bảo đảm được quyền và lợi ích của các bên. Vì vậy cần phải bồi dưỡng, nâng
cao chất lượng xét xử, kiến thức thực tiễn của đội ngũ Thẩm phán, thường xuyên tổ chức
các buổi tập huấn nghiệp vụ, rút kinh nghiệm qua việc thực tiễn giải quyết vụ án. Kèm
theo đó là tăng cường cơng tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện những vi
phạm và xử lý nghiêm minh. Cần quan tâm hơn nữa về công tác cán bộ, từ khâu tuyển
dụng đến đào tạo, bổ nhiệm, tăng cường mở các lớp tập huấn nghiệp vụ chuyên sâu.
Thứ hai, nâng cao việc hòa giải thành trong việc giải quyết án ly hôn của ngành Tịa
án, để góp phần hạn chế tình trạng ly hôn. UBND xã, phường, thị trấn cần tăng cường
công tác hồ giải để các cặp vợ chồng có ý định ly hơn có cơ hội trở lại đồn tụ, cùng
nhau xây dựng gia đình hạnh phúc và ni dạy con cái. Đẩy mạnh vai trò của Hội liên
hiệp phụ nữ để làm tốt cơng tác hịa giải ngay từ cơ sở, giải quyết những mâu thuẫn ngay

khi mới phát sinh, từ đó hạn chế việc gửi đơn ra Tịa để xin ly hôn.
Thứ ba, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao ý thức pháp luật, hiểu biết của
người dân về hơn nhân và gia đình. Chúng ta cần lồng ghép và tổ chức truyên truyền pháp
luật về hôn nhân gia đình, vai trị của gia đình trong nhân dân thơng qua các cuộc họp tổ
dân phố, họp cơng đồn sinh hoạt chi bộ, họp phụ nữ, đặc biệt là ở các vùng sâu vùng xa;
thường xuyên mở các cuộc thi về chủ đề hạnh phúc gia đình để gắn kết tình cảm giữa các
thành viên trong gia đình, đồng thời trang bị thêm các kiến thức về pháp luật và xã hội để
mọi người nhận thức được vai trò của gia đình để cùng nhau giữ lửa đem lại cuộc sống
gia đình hạnh phúc. Thực hiện hiệu quả các phong trào “Xây dựng gia đình văn hóa”,
“Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc, tiến bộ”. Cần biểu dương, nhân rộng
những tấm gương sáng về đạo lý gia đình, điển hình trong khó khăn vươn lên xây dựng
gia đình hịa thuận, giữ vững hạnh phúc, ni dạy các con ngoan, học giỏi, thành đạt, hiếu
thảo, chăm lo phụng dưỡng ơng bà, kính trên, nhường dưới... tun truyền những tác
phẩm nghệ thuật hấp dẫn về đề tài gia đình.Tổ chức các lớp học trang bị kỹ năng chung
sống trước khi kết hôn. Các lớp học tiền hôn nhân được tổ chức với mong muốn chuẩn bị
cho các cặp đôi sắp tiến tới hôn nhân một hành trang đầy đủ nhất về kiến thức và kỹ năng
19


để họ sẵn sàng bước vào hôn nhân với rất nhiều thử thách. Họ sẽ hiểu được về vấn đề giá
trị trong tình u – hơn nhân – gia đình; hiểu được tâm lí của người bạn đời và các thành
viên trong gia đình, từ đó có cách ứng xử phù hợp và giải quyết được những vấn đề nảy
sinh của cuộc sống chung mới; học hỏi và rèn luyện kỹ năng giữ lửa trong gia đình, hóa
giải mọi mâu thuẫn trong tình u, hơn nhân.
Thứ tư, đưa giáo dục tiền hơn nhân, giáo dục giới tính vào chương trình giảng dạy
trong nhà trường. Có thể dễ dành nhận thấy tầm quan trọng của việc giáo dục tiền hôn
nhân cũn
g như tầm quan trọng của giáo dục giới tính. Hơn nữa, những kiến thức về
hơn nhân và giới tính là những kiến thức sâu rộng, xoay quanh cuộc sống hằng ngày của
mỗi chúng ta. Vì vậy, đưa giáo dục giới tính, giáo dục tiền hơn nhân vào chương trình

giảng dạy trong nhà trường là điều nên và cần thiết thực hiện để mỗi cá nhân sớm được
tiếp cận và có nhận thức đúng đắn về các vấn đề này.
Thứ năm, xây dựng và hoàn thiện thiện các quy định pháp luật về ly hôn phù hợp
với thực tiễn. Sau nhiều năm đưa vào thi hành, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 đã góp
phần quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, một số quy định trong Luật hơn nhân và gia đình cịn
chung chung, chưa cụ thể. Ngoài ra, nhiều văn bản đã ban hành từ lâu và khơng cịn phù
hợp với thực tiễn, dẫn đến không bảo đảm quyền lợi của vợ chồng, gia đình và xã hội.
Cần xây dựng và cơng nhận một số khái niệm phù hợp với thực tế đời sống như khái niệm
ly thân, có thể coi ly thân là một trong những căn cứ để cho ly hôn. Đồng thời, cần bổ
sung quy định căn cứ ly hôn khi chồng hoặc vợ phạm tội và đang chấp hành án phạt tù.
Ngoài ra, để giảm thiểu tác động của ly hơn đối với con cái, cần có các giải pháp từ
phía gia đình, nhà trường và xã hội như tăng cường giáo dục trẻ em trong các trường học,
hỗ trợ về các mặt tinh thần, coi trọng việc phịng ngừa, ngăn chặn trẻ em rơi vào hồn
cảnh đặc biệt; kịp thời giải quyết, giảm nhẹ hoàn cảnh đặc biệt của trẻ em; kiên trì trợ
giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt phục hồi sức khoẻ, tinh thần và giáo dục đạo đức; phát
hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi để trẻ em không sa ngã vào những tệ nạn xã
hội, những hành vi vi phạm pháp luật. Nhà nước có chính sách tạo điều kiện để trẻ em có
hồn cảnh đặc biệt được hưởng các quyền của trẻ em; hỗ trợ cá nhân, gia đình nhận chăm
sóc, ni dưỡng trẻ em; khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia trợ giúp trẻ em, thành lập
cơ sở trợ giúp trẻ em để đảm bảo cho mọi trẻ em có hồn cảnh, khơng cịn nơi nương tựa
được chăm sóc, ni dưỡng. Các bộ, các ngành có liên quan có trách nhiệm hướng dẫn
chun mơn, nghiệp vụ đối với cơ sở trợ giúp trẻ em trong việc giải quyết, giảm nhẹ hoàn
cảnh đặc biệt của trẻ em, phục hồi sức khoẻ, tinh thần và giáo dục đạo đức cho trẻ em có
hồn cảnh khó khăn.

20


KẾT LUẬN

Hiện nay, tình trạng ly hơn có xu hướng gia tăng đã và đang là vấn đề đáng quan tâm
khơng chỉ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh mà cịn là của cả xã hội. Bối cảnh địa bàn rộng
lớn, vị trí địa lí đặc thù, dân cư gồm nhiều thành phần khác nhau, đang trong q trình đơ
thị hóa nhanh, phát triển kinh tế năng động và đa dạng để mở cửa giao lưu hội nhập đã tác
động mạnh mẽ đến chế độ gia đình khiến tỷ lệ các vụ án về hơn nhân gia đình của tỉnh
Quảng Ninh cao hơn hẳn trung bình chung của cả nước.
Sau thời gian thực tập tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, nhờ sự giúp đỡ, hướng dẫn
tận tình, tỉ mỉ của các cán bộ hướng dẫn, cá nhân em đã tiếp thu, học hỏi được rất nhiều
kinh nghiệm quý báu, được rèn luyện phương pháp, kỹ năng làm việc, có cơ hội làm quen
với môi trường làm việc thực tế; đồng thời, giúp củng cố và bổ sung kiến thức lý luận,
vận dụng được các kiến thức đã học để phân tích, giải quyết các vấn đề thực tiễn đã được
giảng dạy, không chỉ về đề tài thực tập chuyên mơn mà cịn về cách áp dụng những kiến
thức lý thuyết chuyên ngành vào thực tế cuộc sống. Việc nghiên cứu, tìm hiểu về thực
trạng giải quyết các vụ án ly hôn tại địa phương trong thời gian qua đã góp phần tạo nên
nguồn cơ sở, tư liệu để em đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm khắc phục những
nhược điểm, mặt xấu của thực trạng này trong bản báo cáo.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
2. Hồ sơ vụ án về hơn nhân gia đình.
3. Lê Phượng, Tình hình ly hơn hiện nay và ngun nhân của nó, Tạp chí Xã hội học,
Số 2/1986.
4. Phan Thị Luyện, Nguyên nhân li hôn và một số giải pháp hạn chế li hôn, Tạp chí
Luật học, số 9/2013.
5. Tịa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Báo cáo tổng kết ngành tòa án năm 2017,
Quảng Ninh.
6. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Báo cáo tổng kết ngành tòa án năm 2018,
Quảng Ninh.
7. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Báo cáo tổng kết ngành tòa án năm 2019,
Quảng Ninh.

8. Tòa án nhân dân tối cao, Báo cáo Tổng kết công tác năm 2018 và nhiệm vụ trọng
tâm cơng tác năm 2019 của các Tịa án, 2018, Hà Nội.
9. Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, Nghiên cứu quốc gia về Bạo lực gia đình đối
với phụ nữ Việt Nam.
10.
21


22



×