Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn tại Tòa án nhân dân qua thực tiễn huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (856.45 KB, 123 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





NGUYỄN THỊ XUÂN





GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TÀI SẢN
CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN TẠI TAND
QUA THỰC TIỄN HUYỆN ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM


Chuyên ngành: LUẬT DÂN SỰ
Mã số: 60 38 30





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC






Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Phương Lan





HÀ NỘI - 2013



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy, tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét
để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƢỜI CAM ĐOAN




NGUYỄN THỊ XUÂN




MỤC LỤC
Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Mục lục
Bảng viết tắt
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 3
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 3
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài 4
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài 4
6. Những điểm mới và ý nghĩa của luận văn 4
7. Kết cấu của luận văn 5
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN 6
1.1. CĂN CỨ PHÁP LÝ ĐỂ GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP
TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN 6
1.1.1. Căn cứ xác định tài sản chung của vợ chồng 6
1.1.2. Căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng 12
1.1.3. Xác định các nghĩa vụ tài sản chung, nghĩa vụ tài sản riêng của
vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân 15
1.2. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC CƠ BẢN ĐỊNH HƢỚNG VIỆC GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG KHI
LY HÔN 19
1.2.1. Tôn trọng sự thoả thuận hợp lý của vợ chồng 20

1.2.2. Đảm bảo sự bình đẳng về quyền sở hữu tài sản của vợ chồng 21
1.2.3. Đảm bảo lợi ích chính đáng của vợ, chồng trong sản xuất, nghề nghiệp 22


1.2.4. Đảm bảo quyền, lợi ích chính đáng của vợ, con chƣa thành niên,
con đã thành niên không có khả năng lao động 23
1.2.5. Chia tài sản bằng hiện vật hoặc giá trị 25
1.3. Ý NGHĨA CỦA VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TÀI SẢN
CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN 27
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN
TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BÀN, TỈNH
QUẢNG NAM 30
2.1. XÁC ĐỊNH TÀI SẢN TRANH CHẤP TRONG VỤ ÁN LY HÔN 32
2.1.1. Đối tƣợng tài sản tranh chấp 32
2.1.2. Giá trị tài sản tranh chấp 34
2.1.3. Tranh chấp giữa vợ chồng về các nghĩa vụ tài sản phát sinh trong
thời kỳ hôn nhân 38
2.2. VẤN ĐỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP TÀI SẢN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG KHI LY HÔN 41
2.2.1. Vận dụng các nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn trong thực tiễn
xét xử tại Toà án 42
2.2.2. Phƣơng thức giải quyết đối với tài sản đang tranh chấp 47
2.2.3. Giải quyết tranh chấp về các khoản nợ 54
2.2.4. Giải quyết tranh chấp về bất động sản giữa vợ và chồng 58
Chương 3: NHỮNG VẪN ĐỀ PHÁT SINH TỪ THỰC TIỄN XÉT
XỬ VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT,
NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP VỀ TÀI SẢN GIỮA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN 68
3.1. NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁT SINH TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CÁC

TRANH CHẤP TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN 68


3.1.1. Vƣớng mắc về nhận thức và áp dụng pháp luật 68
3.1.2. Vấn đề định giá tài sản tranh chấp 73
3.1.3. Xác định tài sản của vợ chồng trong thực tế 77
3.1.4. Xác định những ngƣời có quyền lợi liên quan đến tài sản đang
tranh chấp 82
3.1.5. Xác định nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng của vợ, chồng trong
thời kỳ hôn nhân 86
3.1.6. Vấn đề thủ tục tố tụng 88
3.2. NHỮNG ĐIỂM HẠN CHẾ CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỊNH
TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG VÀ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT 93
3.3. MỘT SỐ ĐIỂM HẠN CHẾ HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TÀI SẢN CỦA VỢ
CHỒNG KHI LY HÔN TẠI TOÀ ÁN 102
3.4. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CÁC TRANH CHẤP TÀI SẢN
GIỮA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN 105
KẾT LUẬN 113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 115




BẢNG VIẾT TẮT

BLDS
: Bộ luật dân sự

BLTTDS
: Bộ luật tố tụng dân sự
HĐXX
: Hội đồng xét xử
HNGĐ
: hôn nhân gia đình
Luật HN&GĐ
: Luật Hôn nhân và Gia đình
Nghị định 70/CP
: Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật
Hôn nhân và Gia đình
Nghị quyết 02/2000/HĐTP
: Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày
23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao hƣớng dẫn áp dụng một số
quy định của Luật Hôn nhân gia đình 2000.
NN&PTNT
: nông nghiệp và phát triển nông thôn
PT
: phúc thẩm
ST
: sơ thẩm
TAND
: Tòa án nhân dân
Tp.
Thành phố
UBND
: Ủy ban nhân dân


:



1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Để xây
dựng gia đình tốt thì nền tảng hôn nhân phải bền vững, ngoài việc đƣợc hình
thành trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, tiến bộ thì việc tạo lập tài sản là một
trong những điều kiện tất yếu để nuôi sống gia đình, là điều kiện vật chất, cơ
sở kinh tế cho hôn nhân tồn tại bền vững. Vì vậy, các nhà làm luật đã quan
tâm xây dựng các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng là một trong những
chế định quan trọng, cơ bản nhất của pháp luật Hôn nhân và gia đình. Các quy
định của pháp luật về căn cứ xác lập tài sản của vợ chồng khẳng định rõ về
quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và trên cơ sở
đó xác định nguyên tắc cơ bản giải quyết các tranh chấp về tài sản phát sinh
giữa vợ và chồng. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, pháp luật đã bộc lộ
những điểm chƣa phù hợp dẫn đến có nhiều cách hiểu không thống nhất, gây
khó khăn cho những ngƣời thực thi pháp luật cũng nhƣ không đảm bảo quyền
lợi chính đáng của các đƣơng sự.
Thông thƣờng, một vụ án hôn nhân gia đình cần giải quyết ba mối quan
hệ đó là quan hệ hôn nhân, quan hệ con chung và quan hệ về tài sản. Thực tế
đã cho thấy các tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng trong các vụ án ly hôn
rất phức tạp, thƣờng kéo dài, mất nhiều thời gian, tiền của, công sức của các
đƣơng sự cũng nhƣ của các cơ quan tiến hành tố tụng. Một trong những
nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là việc giải quyết tranh chấp về tài sản của
vợ chồng khi ly hôn chƣa đúng pháp luật, chƣa xác đáng, chƣa phù hợp với
thực tế khách quan của quan hệ sở hữu… do đó chƣa bảo vệ đƣợc quyền, lợi

ích chính đáng của các đƣơng sự. Vì vậy, sự nghiên cứu việc giải quyết các
tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng trong các vụ án ly hôn tại địa bàn


2
huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam nhằm làm sáng tỏ hơn các quy định pháp
luật cũng nhƣ vận dụng pháp luật để giải quyết vấn đề này là cần thiết.
Những năm gần đây, với sự phát triển của nền kinh tế thị trƣờng nên
đời sống xã hội cũng nhƣ kinh tế của ngƣời dân ngày càng đƣợc đảm bảo
và nâng cao. Song mặt trái của nền kinh tế thị trƣờng đã dẫn đến nhiều
ngƣời sống buông thả, coi trọng vật chất, tình cảm giữa mọi ngƣời với nhau
không còn mặn mà, đƣợc coi trọng nhƣ trƣớc. Giá trị tài sản lớn và sự coi
trọng vật chất làm cho những tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng trong
các vụ án ly hôn có tính quyết liệt, căng thẳng hơn, nên việc giải quyết
cũng gặp nhiều khó khăn.
Là một huyện có mức sống trung bình so với cả nƣớc song Điện Bàn
cũng chịu sự ảnh hƣởng chung của xã hội. Những năm gần đây, số lƣợng các
vụ án nói chung tại địa bàn, đặc biệt là án hôn nhân gia đình tăng nhanh về
số lƣợng, phức tạp về nội dung, nhiều vụ tranh chấp rất gay gắt, khiếu nại
kéo dài gây nhiều khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng cũng nhƣ
những ngƣời tham gia tố tụng. Hầu hết các vụ án đều đƣợc giải quyết trong
thời hạn luật định, thấu tình đạt lý, khách quan, đƣợc sự đồng tình của ngƣời
dân. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết vấn đề tài sản khi ly hôn trong các vụ án
hôn nhân gia đình còn gặp nhiều vƣớng mắc, bất cập do có nhiều quan điểm
nhận thức, đánh giá khác nhau nên vẫn còn một số vụ án bị cấp trên cải sửa,
hủy dẫn đến vụ án phải xét xử lại nhiều lần. Nguyên nhân thì có nhiều
nhƣng phải kể đến các quy định của pháp luật còn chƣa rõ ràng, một số quy
định còn chung chung, chƣa có sự thống nhất từ các cơ quan nhà nƣớc có
thẩm quyền và cá nhân thực thi pháp luật liên quan đến giải quyết tài sản của
vợ chồng trong vụ án ly hôn.

Với đề tài: “Giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn tại
Tòa án nhân dân qua thực tiễn huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam”, tác giả


3
muốn giải quyết phần nào những vƣớng mắc trên nhằm hoàn thiện pháp luật
về giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn theo pháp luật Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế độ tài sản của vợ chồng và việc giải quyết tranh chấp về tài sản
trong các vụ án hôn nhân gia đình đã đƣợc một số nhà khoa học nghiên cứu,
đề cập đến nhƣ sách chuyên khảo “Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp
luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam” của TS. Nguyễn Văn Cừ; sách chuyên
khảo “Luận bàn về các hình thức sở hữu và sở hữu chung hợp nhất của vợ
chồng” của TS Phùng Trung Tập Đồng thời, cũng có một số luận văn cao
học đã và đang nghiên cứu về vấn đề tài sản của vợ chồng nhƣ: Nguyễn Thị
Thanh Xuân “Pháp luật về giải quyết tranh chấp nhà ở và quyền sử dụng đất
khi ly hôn”, Nguyễn Thị Hạnh “Chia tài sản chung của vợ chồng theo pháp
luật Việt Nam – Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện”. Vấn đề giải quyết
tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn đã đƣợc đề cập, nghiên cứu khá
nhiều ở những mức độ khác nhau, song việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng
pháp luật giải quyết tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng khi ly hôn tại Tòa
án nhân dân huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam thì chƣa có công trình nào và
đây là công trình đầu tiên, do đó không trùng lặp với các công trình nghiên
cứu trƣớc đây.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích của đề tài là nghiên cứu các quy định của pháp luật về căn cứ
xác định tài sản của vợ chồng, nguyên tắc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn
và cơ sở áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi
ly hôn; tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật để giải quyết vấn đề tài sản của
vợ chồng khi ly hôn tại địa phƣơng thông qua hoạt động xét xử của TAND

huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Từ đó, tìm hiểu những điểm bất cập,
vƣớng mắc, một số quan điểm áp dụng pháp luật chƣa thống nhất, đề xuất


4
một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả xét xử của
Tòa án về giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
Để đạt đƣợc các mục đích trên, đề tài thực hiện một số nhiệm vụ sau:
- Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp
tài sản của vợ chồng khi ly hôn tại Tòa án.
- Thứ hai, nghiên cứu các căn cứ pháp lý xác định tài sản tranh chấp khi
ly hôn và các nguyên tắc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
- Thứ ba, nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật khi xét xử
tại TAND huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam qua một số vụ án cụ thể, từ đó
tìm hiểu các vƣớng mắc, bất cập còn tồn tại và đề xuất hƣớng hoàn thiện.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật thực định giải quyết các tranh
chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn, chủ yếu là Luật HN&GĐ năm 2000 và
các văn bản khác có liên quan.
- Các bản án, quyết định đã đƣợc xét xử tại TAND huyện Điện Bàn,
tỉnh Quảng Nam về giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn từ
năm 2001 đến nay (từ khi Luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử,
đề tài sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ phân tích, tổng hợp, so sánh,
diễn giải, thống kê … đánh giá thực tiễn xét xử qua các bản án cụ thể tại
TAND huyện Điện Bàn.
6. Những điểm mới và ý nghĩa của luận văn
- Luận văn là một công trình nghiên cứu tƣơng đối khoa học, đầy đủ và
có hệ thống về vấn đề liên quan đến việc giải quyết tranh chấp tài sản của vợ

chồng khi ly hôn theo Luật HN&GĐ 2000 qua thực tiễn xét xử tại Toà án
nhân dân huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.


5
- Trên cơ sở nghiên cứu về lý luận, đề tài còn tìm hiểu thực tiễn áp
dụng pháp luật thông qua hoạt động xét xử tại địa phƣơng, đồng thời đề xuất
một số biện pháp nhằm hoàn thiện pháp luật để giải quyết những vƣớng mắc
trong thực tiễn áp dụng pháp luật, nâng cao hiệu quả xét xử của TAND huyện
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp tài sản của
vợ chồng khi ly hôn
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp tài sản
của vợ chồng khi ly hôn tại TAND huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
Chương 3: Những vấn đề phát sinh từ thực tiễn xét xử và một số giải
pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp về tài sản
của vợ chồng khi ly hôn.


6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN

1.1. CĂN CỨ PHÁP LÝ ĐỂ GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP TÀI
SẢN CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN
Chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định của Luật HN&GĐ năm

2000 là hình thức chế độ cộng đồng tạo sản, theo đó, tài sản mà vợ chồng
có đƣợc trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng. Ngoài ra,
trong một số trƣờng hợp, vợ chồng còn có quyền có tài sản riêng. Việc quy
định về quan hệ tài sản giữa vợ chồng và xác định tài sản chung, tài sản
riêng của một bên vợ, chồng là căn cứ để bảo vệ quyền lợi chính đáng của
vợ chồng trong gia đình, đồng thời là cơ sở giải quyết tranh chấp về tài sản
của vợ chồng khi ly hôn.
1.1.1. Căn cứ xác định tài sản chung của vợ chồng
Một trong những yếu tố quan trọng nhất để cuộc sống chung của vợ
chồng đƣợc tồn tại là việc tạo lập tài sản để nuôi sống gia đình. Việc xác định
tài sản chung của vợ chồng đƣợc các nhà làm luật quan tâm và quy định tƣơng
đối đầy đủ, cụ thể trong các văn bản pháp luật có liên quan, đảm bảo việc áp
dụng vào thực tiễn đƣợc thuận lợi hơn so với Luật HN&GĐ năm 1986.
Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định:
“Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập
do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp
khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế
chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa
thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản


7
chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi
kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất”.
Nhƣ vậy, căn cứ để xác định tài sản chung của vợ chồng dựa trên hai cơ
sở là “thời kỳ hôn nhân” và “nguồn gốc tài sản”. “Thời kỳ hôn nhân là khoảng
thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày
chấm dứt hôn nhân” (khoản 7 điều 8 Luật HN&GĐ 2000). Việc xác định tài

sản chung của vợ chồng khi ly hôn sẽ đƣợc tính từ ngày đăng ký kết hôn đến
ngày phán quyết ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân đƣợc tạo thành từ
các nguồn gốc sau:
- Những tài sản do vợ chồng tạo ra:
Hành vi tạo ra tài sản là một trong những chức năng chính để nuôi sống
gia đình. Sau khi kết hôn, vợ chồng cùng chung sức trong việc tạo lập tài sản
để duy trì cuộc sống và đảm bảo cho gia đình tồn tại. Hành vi tạo ra tài sản là
việc vợ chồng tạo ra tài sản bằng chính sức lao động của mình dựa trên công
việc, chuyên môn của mình. Vợ chồng có thể trực tiếp tạo ra tài sản nhƣ gieo
mạ lấy thóc, nuôi cá, đóng giƣờng, tủ … hoặc thông qua các hợp đồng cụ thể
với ngƣời khác nhƣ mua nhà, xe… nhằm đảm bảo các nhu cầu sinh hoạt, tiêu
dùng của gia đình.
Những tài sản do vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân là tài sản
chung của vợ chồng. Pháp luật nƣớc ta dƣới chế độ cũ cũng quy định những
tài sản do vợ chồng “tạo mãi” trong thời gian hôn thú sẽ thuộc tài sản chung
của vợ chồng.
- Các thu nhập hợp pháp của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân:
Thu nhập là việc nhận đƣợc tiền bạc, của cải vật chất từ một hoạt động
nào đó. Thu nhập hợp pháp của vợ chồng là việc hƣởng thành quả lao động


8
do tham gia lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh theo tính chất nghề
nghiệp, công việc, chuyên môn mà vợ chồng thực hiện. Tài sản chung từ thu
nhập hợp pháp của vợ chồng thƣờng là tiền lƣơng, tiền công lao động, tài sản
thu đƣợc qua hoạt động sản xuất nhƣ trồng trọt, chăn nuôi…, lợi nhuận thu
đƣợc thông qua hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Ngoài ra, tài sản chung của vợ chồng còn bao gồm các khoản thu nhập
hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Những thu nhập hợp

pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể là tiền thƣởng, tiền trợ
cấp, tiền trúng sổ xố mà vợ, chồng có đƣợc hoặc những tài sản mà vợ chồng
đƣợc xác lập quyền sở hữu theo quy định của BLDS đối với vật vô chủ, vật
không xác định đƣợc ai là chủ sở hữu (Điều 239); đối với vật bị chôn giấu, bị
chìm đắm đƣợc tìm thấy (Điều 240); đối với vật do ngƣời khác đánh rơi, bị bỏ
quên (Điều 241); đối với gia súc, gia cầm bị thất lạc (Điều 242, 243); đối với
vật nuôi dƣới nƣớc (Điều 244) … trong thời kỳ hôn nhân [32]. Đặc điểm của
loại tài sản này là không có yếu tố đền bù khi xác lập quyền sở hữu và không
do vợ chồng trực tiếp quản lý trƣớc khi xác lập sở hữu.
- Những tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, được tặng cho chung
Việc xác lập loại tài sản này phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu hoặc
do pháp luật quy định về thừa kế. Khi xác lập hợp đồng tặng cho chung hoặc
di chúc để lại tài sản chung cho vợ chồng, chủ sở hữu không có sự phân biệt
kỷ phần cho mỗi bên vợ, chồng đƣợc hƣởng. Nếu có sự xác định tỷ lệ tài sản
cho mỗi bên vợ, chồng thì phần tài sản đó sẽ thuộc tài sản riêng của mỗi bên
theo tỷ lệ đƣợc thừa kế, tặng cho. Trong trƣờng hợp ngƣời tặng cho vợ chồng
tài sản hoặc để lại tài sản theo di chúc cho vợ chồng mà định đoạt trƣớc phần
quyền sở hữu của mỗi bên vợ chồng đối với khối tài sản đó thì khối tài sản đó
là tài sản chung của vợ chồng, nhƣng là tài sản chung theo phần.
Trƣờng hợp chủ sở hữu tuyên bố cho chung hai vợ chồng nhƣng lại xác


9
định kỷ phần cho mỗi bên vợ, chồng đƣợc hƣởng hoặc vợ, chồng cùng hàng
thừa kế theo pháp luật, hai bên vợ chồng đƣợc hƣởng theo suất bằng nhau thì
về nguyên tắc, phần tài sản mà mỗi bên đƣợc hƣởng là tài sản riêng và chỉ
thuộc tài sản chung khi vợ, chồng tự nguyện nhập vào tài sản chung hoặc có
thỏa thuận tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng.
“Trƣờng hợp vợ chồng cùng hàng thừa kế theo quy định của pháp luật
về thừa kế thì tài sản đƣợc thừa kế “theo hàng thừa kế” đó thuộc tài sản riêng

của vợ, chồng; chỉ là tài sản chung khi vợ chồng tự nguyện nhập vào tài sản
chung hoặc có thỏa thuận là tài sản chung của vợ chồng” [10, tr.157].
- Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn
Đất đai là một loại tài sản đặc biệt thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nƣớc
thống nhất quản lý. Quyền sử dụng đất là một loại quyền tài sản đƣợc pháp
luật công nhận và bảo vệ. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có đƣợc sau khi
kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Nghị định 70/CP quy định:
+ Sau khi kết hôn, quyền sử dụng đất mà cả vợ và chồng hoặc mỗi bên
vợ hoặc chồng đƣợc Nhà nƣớc giao, kể cả giao khoán là tài sản chung của
vợ chồng. Quyền sử dụng đất này có thể là đất nông nghiệp để trồng cây
hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối; đất nông nghiệp để trồng
cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở đƣợc Nhà nƣớc giao, đất
chuyên dùng.
+ Sau khi kết hôn, quyền sử dụng đất mà cả vợ và chồng hoặc chỉ một
bên vợ hoặc chồng đƣợc Nhà nƣớc cho thuê là tài sản chung của vợ chồng.
+ Đối với quyền sử dụng đất do vợ chồng đƣợc chuyển đổi, chuyển nhƣợng,
thừa kế chung thì đƣợc thực hiện theo quy định tại Điều 95 Luật HN&GĐ.
+ Trƣờng hợp vợ chồng nhận thế chấp quyền sử dụng đất của ngƣời thứ
ba thì quyền nhận thế chấp đất cũng thuộc khối tài sản chung của vợ chồng.
Nhƣ vậy, quyền sử dụng đất mà vợ chồng có đƣợc sau khi kết hôn do


10
đƣợc Nhà nƣớc giao đất, cho thuê đất, đƣợc chuyển đổi, chuyển nhƣợng hoặc
thừa kế chung từ ngƣời khác thì đó là tài sản chung của vợ chồng.
Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có đƣợc trƣớc khi kết hôn, đƣợc
thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.
- Những tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung; những tài
sản không đủ chứng cứ xác định là tài sản riêng.
Để xây dựng một gia đình hạnh phúc, bền vững thì việc phát triển kinh

tế, tạo lập tài sản của vợ chồng đƣợc các bên chú trọng. Khi tình cảm vợ
chồng còn mặn nồng, việc xác định rạch ròi tài sản chung của vợ chồng và tài
sản riêng của mỗi bên ít đƣợc quan tâm, coi trọng. Vợ chồng thƣờng có xu
hƣớng sử dụng các tài sản có đƣợc vào mục đích chung của gia đình, giới hạn
giữa tài sản chung và riêng không có sự phân biệt rõ ràng. Các bên thƣờng có
xu hƣớng nhập phần tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung của vợ
chồng nhằm đảm bảo đời sống của gia đình. Pháp luật ghi nhận việc thỏa
thuận của các bên trên nguyên tắc quyền tự định đoạt của mỗi đƣơng sự, giữa
vợ và chồng có thể thỏa thuận tài sản nào là tài sản chung của vợ chồng và tài
sản nào là tài sản riêng của vợ, chồng. Việc nhập hay không nhập tài sản riêng
của mỗi bên vợ, chồng vào khối tài sản chung của vợ chồng có thể mặc nhiên
hoặc đƣợc thỏa thuận bằng văn bản.
Một khi vợ chồng có mâu thuẫn về tình cảm thì yếu tố tài sản cũng
đƣợc các bên đem ra so đo, tính toán với nhau. Do tính chất phức tạp của
quan hệ tài sản mà việc xác định đâu là tài sản chung của vợ chồng và đâu
là tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng gặp nhiều khó khăn. Có trƣờng hợp
tài sản riêng của một bên đƣợc sử dụng nhằm đảm bảo cuộc sống chung
của vợ chồng, giữa tài sản chung và tài sản riêng có sự chuyển hóa, trộn lẫn
với nhau dẫn đến khó xác định chính xác. Vì vậy, Khoản 3 Điều 27 Luật
HN&GĐ đã dự liệu: “Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài


11
sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì đó là
tài sản chung”.
Ví dụ: Sau khi kết hôn với chị H, anh K đã bán chiếc xe máy của mình
có trƣớc khi kết hôn để thêm tiền vào xây một ngôi nhà trên mảnh đất đƣợc
cha mẹ anh cho riêng anh dùng làm chỗ ở chung cho hai vợ chồng. Nhƣ vậy,
anh K đã tự nguyện nhập chiếc xe máy là tài sản riêng của anh (có đƣợc trƣớc
khi kết hôn) vào tài sản chung của vợ chồng (góp vào để xây ngôi nhà chung).

Việc nhập chiếc xe máy là tài sản riêng của anh K vào tài sản chung đƣợc coi
là sự mặc nhiên vì số tiền bán đƣợc chiếc xe đã dùng vào mục đích chung của
gia đình. Tuy nhiên, nếu anh K muốn nhập tài sản riêng là mảnh đất do cha
mẹ anh cho riêng hoặc mua trƣớc khi kết hôn vào tài sản chung của vợ chồng
thì phải lập văn bản và làm các thủ tục pháp lý có liên quan. Việc anh dùng
mảnh đất này để xây ngôi nhà chung cho vợ chồng không mặc nhiên đƣợc coi
là nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng. Anh K muốn chứng minh tài sản
nào là tài sản riêng của mình thì phải xuất trình chứng cứ, nếu không chứng
minh đƣợc thì tùy từng trƣờng hợp, Tòa án có thể suy đoán đó là tài sản
chung của vợ chồng hoặc là tài sản riêng của anh K.
Nhƣ vậy, so với các văn bản pháp luật trƣớc đây, Luật HN&GĐ năm
2000 đã có một điểm mới là nguyên tắc suy đoán tài sản chung của vợ chồng,
một trong những công cụ hữu hiệu để bảo vệ khối tài sản chung. Quy định tại
khoản 3 điều 27 Luật HN&GĐ chỉ thiết lập một suy đoán, không khẳng định
chắc chắn tất cả tài sản trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng.
Nguyên tắc này đã phần nào đảm bảo đƣợc sự công bằng trên cơ sở vì lợi ích
chung của gia đình và của vợ chồng.
“Trong trƣờng hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp
luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở
hữu phải ghi tên của cả vợ chồng” (khoản 2 điều 27 Luật HN&GĐ). Ngoài ra,


12
Luật HN&GĐ còn quy định tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung
hợp nhất, các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với khối tài sản chung
đƣợc quy định tại Điều 28 Luật HN&GĐ, Điều 217 và Điều 219 BLDS.
Luật HN&GĐ năm 2000 đã quy định tƣơng đối cụ thể về căn cứ xác
định tài sản chung của vợ chồng dựa vào thời kỳ hôn nhân và nguồn gốc tài
sản. Những tài sản mà vợ, chồng không chứng minh đƣợc là tài sản riêng của
mỗi bên vợ, chồng thì đƣợc xác định là tài sản chung của vợ chồng.

1.1.2. Căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng
Luật HN&GĐ năm 1959 đã quy định chế độ tài sản của vợ chồng là
chế độ cộng đồng toàn sản, toàn bộ tài sản do vợ, chồng có đƣợc hoặc tạo ra
trƣớc và trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc tài sản chung của vợ chồng.
Luật HN&GĐ năm 1986 đƣợc ban hành vào thời kỳ đầu của sự nghiệp
đổi mới, lần đầu tiên ghi nhận vợ chồng có tài sản riêng tại Điều 16. Kế thừa
và phát triển quy định của Luật HN&GĐ năm 1986, Luật HN&GĐ năm 2000
đã quy định chế độ sở hữu riêng của vợ, chồng cụ thể hơn, tạo đƣợc cơ sở
pháp lý thống nhất khi áp dụng vào thực tế.
Điều 32 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định:
“1. Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng.
Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết
hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân;
tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và
Điều 30 của Luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân.
2. Vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài
sản chung”.
Tài sản riêng của vợ, chồng đƣợc xác lập dựa vào thời điểm tài sản đó
phát sinh trƣớc khi kết hôn; sự định đoạt của chủ sở hữu tài sản đã chuyển
dịch tài sản của mình cho mỗi bên vợ, chồng và trên sự kiện chia tài sản
chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân.


13
Nhƣ vậy, tài sản riêng của vợ, chồng đƣợc xác định dựa vào các căn cứ sau:
- Là tài sản mà mỗi bên vợ, chồng có trước khi kết hôn:
Thông qua lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và các thu nhập
hợp pháp khác, mỗi ngƣời có thể tạo ra một khối tài sản hoặc có đƣợc tài sản
thông qua các giao dịch dân sự trƣớc khi kết hôn. Những tài sản này thuộc
quyền sở hữu riêng của mỗi bên và đƣợc pháp luật thừa nhận, bảo hộ. Những

tài sản này không phải do vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân, không chịu
sự tác động bởi tính chất cộng đồng của quan hệ hôn nhân và lợi ích chung
của gia đình. Vì vậy, vợ chồng có thể xác lập quyền sở hữu của mình đối với
những tài sản phát sinh trƣớc khi kết hôn dựa trên các căn cứ đƣợc quy định
từ Điều 233 đến Điều 247 BLDS 2005 về xác lập quyền sở hữu đối với thu
nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp…
Quy định tài sản mà mỗi bên vợ, chồng có trƣớc khi kết hôn là tài sản
riêng của vợ chồng đã bảo vệ đƣợc quyền sở hữu cá nhân của vợ, chồng, là
căn cứ pháp lý bảo đảm tài sản riêng của vợ chồng khi giải quyết tranh chấp
trên thực tế; đồng thời phù hợp với quy định quyền sở hữu riêng của công dân
đƣợc Hiến pháp ghi nhận và bảo vệ.
- Tài sản mà vợ, chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong
thời kỳ hôn nhân.
Những tài sản này không do vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân mà
đƣợc định đoạt bởi ý chí của chủ sở hữu. Việc pháp luật quy định những tài
sản này thuộc khối tài sản riêng của vợ, chồng nhằm bảo đảm quyền tự định
đoạt của các chủ sở hữu tài sản theo quy định của pháp luật về việc chuyển
dịch tài sản của mình cho mỗi bên vợ, chồng đƣợc hƣởng. Những tài sản mà
vợ, chồng đƣợc thừa kế riêng, tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân thƣờng
do những ngƣời thân thuộc, bạn bè của mỗi bên cho vợ, chồng đƣợc hƣởng
giá trị tài sản đó. Đó có thể là những tài sản do cha, mẹ cho riêng con trong


14
ngày cƣới, cha mẹ một bên khi chết để lại di chúc cho con mình là ngƣời vợ,
chồng đƣợc hƣởng … Những tài sản mà vợ, chồng đƣợc thừa kế riêng, tặng
cho riêng trong thời kỳ hôn nhân là tài sản riêng của vợ, chồng.
- Tài sản riêng của vợ, chồng gồm đồ dùng, tư trang cá nhân
Theo Từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản Đà Nẵng năm 1997 thì “đồ
dùng là vật do con người tạo ra để dùng trong sinh hoạt, hoạt động hằng

ngày”; còn “tư trang là các thứ quý giá đi theo người của một cá nhân”.
Trong cuộc sống thƣờng ngày, mỗi ngƣời đều cần có những đồ dùng
phù hợp phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt và công việc chuyên môn của mình.
Ví dụ nhƣ quần áo, giày dép, sách vở phục vụ cho việc học tập … Vì vậy,
pháp luật quy định những đồ dùng, tƣ trang cá nhân là tài sản riêng của vợ,
chồng là cần thiết và phù hợp với thực tế cuộc sống. Đây là một trong những
điểm mới của Luật HN&GĐ năm 2000 so với các luật trƣớc đó. Quy định này
là cần thiết và phù hợp với thực tế cuộc sống bởi mọi cá nhân đều cần đến
những đồ dùng phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt, làm việc thƣờng ngày của bản
thân. Vì vậy, quy định này đảm bảo đƣợc quyền tự do cá nhân và cuộc sống
riêng tƣ của vợ chồng.
Tuy nhiên, từ khi Luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực cho đến nay vẫn
chƣa có một văn bản hƣớng dẫn nào của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền giải
thích và hƣớng dẫn cụ thể trƣờng hợp này. Trong điều kiện kinh tế - xã hội
ngày càng phát triển, nhu cầu sinh hoạt của nhân dân ngày càng cao, những đồ
dùng, tƣ trang cá nhân cũng rất phong phú và có giá trị. Việc xem xét những
trƣờng hợp này gặp những khó khăn nhất định và còn nhiều quan điểm chƣa
thống nhất. Vì vậy, cần có văn bản hƣớng dẫn cụ thể để việc giải quyết đƣợc
thống nhất, đáp ứng quyền lợi hợp pháp của những ngƣời tham gia tố tụng.
- Những tài sản mà vợ, chồng được chia khi chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân.


15
Xuất phát từ thực tế cuộc sống, Luật HN&GĐ năm 2000 trên cơ sở kế
thừa Luật HN&GĐ năm 1986 đã quy định việc chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân và hậu quả pháp lý sau khi chia tài sản chung.
Theo đó, điều 30 Luật HN&GĐ quy định “trƣờng hợp chia tài sản chung của
vợ chồng thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã đƣợc chia thuộc sở hữu
riêng của mỗi ngƣời; phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung

của vợ chồng”. Nhƣ vậy, phần tài sản chung đã đƣợc chia riêng cho mỗi bên
vợ, chồng là tài sản riêng của ngƣời đó. Những hoa lợi, lợi tức phát sinh từ
phần tài sản riêng đƣợc chia là tài sản riêng của vợ, chồng. “Thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của
mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trƣờng
hợp vợ chồng có thỏa thuận khác” [29].
Nhƣ vậy, pháp luật đã quy định rõ tài sản riêng của vợ, chồng còn có
những tài sản mà vợ, chồng có đƣợc khi chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân.
1.1.3. Xác định các nghĩa vụ tài sản chung, nghĩa vụ tài sản riêng
của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân
Xuất phát từ nhu cầu cuộc sống chung, bên cạnh việc tạo lập tài sản
nhằm đảm bảo các nhu cầu sinh hoạt của gia đình; vợ, chồng còn phát sinh
các nghĩa vụ tài sản trong thời kỳ hôn nhân. Việc xác định các nghĩa vụ tài
sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nhằm đảm bảo quyền lợi, nghĩa
vụ của mỗi bên vợ, chồng và quyền lợi của ngƣời thứ ba tham gia giao dịch
với vợ chồng.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì “nghĩa vụ là việc mà pháp luật hay đạo
đức bắt buộc phải làm đối với xã hội, đối với người khác”. Tại Điều 280
BLDS quy định: “Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ
thể phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá,


16
thực hiện công việc khác hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì
lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác”.
Nghĩa vụ về tài sản là một trong những nghĩa vụ dân sự mà đối tƣợng
thực hiện nghĩa vụ là tài sản và bên có nghĩa vụ phải trả tiền hoặc giấy tờ có
giá cho bên có quyền. Xem xét về nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong vụ án
ly hôn là việc xem xét về các giao dịch dân sự mà vợ chồng đã ký kết với

ngƣời khác cũng nhƣ các khoản nợ mà vợ chồng có nghĩa vụ thanh toán cho
bên có quyền trong thời hạn do các bên thỏa thuận. Vì vậy, việc xác định
nghĩa vụ tài sản nào là nghĩa vụ chung của vợ chồng và nghĩa vụ tài sản nào
là nghĩa vụ riêng của vợ hoặc chồng là một trong những vấn đề cần đƣợc
quan tâm, xem xét kỹ lƣỡng. Các nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng có thể phát
sinh từ giao dịch dân sự mà vợ chồng ký kết trong thời kỳ hôn nhân. Các
nghĩa vụ tài sản của vợ chồng có thể là nghĩa vụ riêng hoặc nghĩa vụ chung.
* Căn cứ xác định nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng
Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng đƣợc xác định trên những
căn cứ sau:
- Giao dịch có sự thỏa thuận của vợ chồng, nghĩa là cả hai vợ chồng cùng
bàn bạc, thỏa thuận thực hiện giao dịch. Sự thỏa thuận thể hiện ở việc cả hai vợ
chồng cùng xác lập, thực hiện giao dịch phù hợp với quy định của pháp luật.
Theo quy định tại khoản 2, khoản 3 điều 28 Luật HN&GĐ thì nghĩa vụ
chung về tài sản của vợ chồng là những nghĩa vụ sau: thực hiện mục đích
chung, phục vụ cho lợi ích chung của gia đình; đáp ứng các nhiệm vụ chung
của vợ chồng và phục vụ hoạt động kinh doanh chung của vợ chồng.
Những nghĩa vụ này đƣợc xác định là nghĩa vụ chung của vợ chồng khi
có sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của vợ chồng. Sự thỏa thuận ý chí của vợ
chồng còn bao hàm cả trƣờng hợp một bên vợ hoặc chồng ủy quyền cho bên
kia thực hiện giao dịch theo quy định tại Điều 24 Luật HN&GĐ.


17
- Giao dịch phát sinh từ trách nhiệm liên đới của vợ chồng.
Khi không có sự thỏa thuận ý chí của vợ chồng nhƣng vẫn phát sinh
nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng đối với trƣờng hợp quy định tại Điều
25 Luật HN&GĐ: “Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao
dịch dân sự hợp pháp do một trong hai ngƣời thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu
sinh hoạt thiết yếu của gia đình”.

Giao dịch hợp pháp là những giao dịch đáp ứng đầy đủ các điều kiện có
hiệu lực của giao dịch dân sự theo quy định tại Điều 122 BLDS. Nghĩa là
ngƣời tham gia giao dịch phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và tự nguyện
tham gia giao dịch, đặc biệt mục đích và nội dung giao dịch không vi phạm
các điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội.
Nhu cầu thiết yếu của gia đình là những nhu cầu có tính chất thƣờng
xuyên nhƣ: ăn, ở, mặc, chăm sóc sức khỏe cho các thành viên trong gia
đình, việc học hành của con trẻ Ngoài ra, những nhu cầu có tính chất cấp
thời, cấp bách nhƣ việc sửa chữa nhà do bão, lũ, hỏa hoạn, chữa bệnh cho
các thành viên trong gia đình … cũng đƣợc xem là những nhu cầu thiết yếu
của gia đình.
Tuy nhiên, lợi ích của gia đình phải luôn đƣợc đặt trong lợi ích của
cộng đồng và xã hội. Điều đó có nghĩa là giao dịch của vợ, chồng đƣợc xác
định vì lợi ích chung của gia đình, trƣớc hết giao dịch đó phải đƣợc thực hiện
phù hợp với pháp luật và phù hợp với cách ứng xử giữa ngƣời với ngƣời trong
quan hệ xã hội.
Thông thƣờng, đối với những giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu sinh
hoạt, tiêu dùng hàng ngày trong gia đình, pháp luật không bắt buộc cả vợ và
chồng cùng xác lập giao dịch hoặc khi giao dịch phải hỏi ý kiến ngƣời kia.
Tuy nhiên, do mục đích giao dịch là để đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của
gia đình, nghĩa là cả gia đình đều thụ hƣởng từ giao dịch đó, nên cả vợ và


18
chồng đều phải liên đới trách nhiệm trong việc tiếp tục thực hiện giao dịch,
vì đó là trách nhiệm chung của vợ và chồng. Nghĩa vụ liên đới đƣợc hiểu là
vợ chồng phải cùng nhau thực hiện. Đối với các hợp đồng mà một bên ký
kết với ngƣời khác thì cả hai vợ chồng phải tạo điều kiện cho hợp đồng đƣợc
thực hiện. Ví dụ: ngƣời vợ viết giấy vay của ông A số tiền 1.000.000đ để
nộp tiền học cho con. Trƣờng hợp này, ngƣời vợ vay tiền nhằm mục đích

phục vụ nhu cầu thiết yếu của gia đình là lo cho con cái trong việc học hành
nên cả hai vợ chồng đều phải có trách nhiệm trả nợ cho ông A. Trách nhiệm
liên đới phát sinh đòi hỏi nghĩa vụ tài sản phải đƣợc thanh toán bằng tài sản
chung của vợ chồng. Nếu tài sản chung không đủ thì vợ, chồng có nghĩa vụ
thanh toán bằng tài sản riêng.
“Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng do vợ, chồng
thỏa thuận; nếu không thỏa thuận đƣợc thì yêu cầu Tòa án giải quyết” (khoản
3 điều 95 Luật HN&GĐ). Nếu xác định đƣợc các khoản nợ đang có tranh
chấp là nợ chung của vợ chồng thì cả hai vợ chồng phải có trách nhiệm liên
đới trả nợ. Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng đƣợc thực
hiện bằng tài sản chung của vợ chồng. Nếu một bên có tài sản riêng thì có thể
thanh toán bằng tài sản riêng trong trƣờng hợp tài sản chung không đủ.
* Căn cứ xác định nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ hoặc chồng
“Các bên đƣơng sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng
minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp” (điều 6 BLTTDS). Do
đó, khi tranh chấp xảy ra, Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do đƣơng
sự cung cấp hoặc thu thập dựa vào mục đích của ngƣời thực hiện hành vi và
sự thỏa thuận của vợ chồng trong việc làm phát sinh nghĩa vụ tài sản để xác
định nghĩa vụ về tài sản là nghĩa vụ chung hay riêng của vợ, chồng.
Nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng đƣợc hiểu là các nghĩa vụ phát
sinh không vì lợi ích của gia đình; nghĩa vụ của một bên vợ hoặc chồng thực


19
hiện trƣớc khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân. Nhƣ vậy, căn cứ phát sinh
nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ hoặc chồng đƣợc xác định nhƣ sau:
- Căn cứ vào thời điểm phát sinh nghĩa vụ riêng đó, nếu nghĩa vụ phát
sinh trƣớc khi kết hôn đƣợc xác định là nghĩa vụ riêng của vợ hoặc chồng;
- Căn cứ vào mục đích của giao dịch do một bên vợ hoặc chồng thực
hiện trong thời kỳ hôn nhân: những giao dịch đƣợc một bên thực hiện không

vì lợi ích, nhu cầu sinh hoặt thiết yếu của gia đình là nghĩa vụ riêng của vợ
hoặc chồng;
- Nghĩa vụ riêng phát sinh do hành vi trái pháp luật, có lỗi làm phát
sinh thiệt hại cho ngƣời khác của một bên vợ hoặc chồng;
- Nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của mỗi bên vợ, chồng không thể
chuyển giao cho ngƣời khác nhƣ cấp dƣỡng cho con riêng, cấp dƣỡng cho vợ,
chồng cũ …;
Về nguyên tắc, nợ riêng của ai thì ngƣời đó chịu trách nhiệm trả. Theo
điều 33 của Luật HN&GĐ thì: “Nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi ngƣời đƣợc
thanh toán từ tài sản riêng của ngƣời đó”. Trƣờng hợp tài sản riêng của ngƣời
đó không đủ thanh toán thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng và họ có
quyền sử dụng phần tài sản của mình đƣợc chia để trả nợ.
Trong vụ án hôn nhân, Tòa án phải giải quyết đồng thời ba mối quan
hệ: quan hệ hôn nhân, quan hệ về con chung và quan hệ về tài sản. Xác định
đúng các tài sản tranh chấp và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng khi giải quyết ly
hôn sẽ đảm bảo đƣợc quyền lợi hợp pháp của mỗi bên đƣơng sự và bảo đảm
đƣợc quyền lợi của ngƣời thứ ba có liên quan.
1.2. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC CƠ BẢN ĐỊNH HƢỚNG VIỆC GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN
Giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn cần phải dựa
vào các nguyên tắc cụ thể, rõ ràng định hƣớng cho việc giải quyết đƣợc đúng

×