Tải bản đầy đủ (.pdf) (164 trang)

Giáo trình Tâm Lý Học Xã Hội ThS. Vũ Mộng Đóa (164 trang)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (761.19 KB, 164 trang )


GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
ThS. VŨ MỘNG ĐĨA
LỜI MỞ ĐẦU
Cuốn giáo trình Tâm lý học xã hội này được biên soạn dành
cho sinh viên Khoa Công tác xã hội và Phát triển cộng đồng Trường Đại học Đà Lạt.
Nội dung của cuốn giáo trình bao gồm 3 chương:
- Chương 1: Tâm lý học xã hội là một khoa học
- Chương 2: Các hiện tượng tâm lý xã hội
- Chương 3: Tâm lý nhóm nhỏ Mục tiêu của giáo trình nhằm:
- Cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản về bản chất
và lịch sử hình thành tâm lý học xã hội.
- Giúp sinh viên nhận thức rõ bản chất của các hiện tượng tâm
lý xã hội trong quá trình hoạt động và giao tiếp giữa các cá nhân.
- Giúp sinh viên nắm vững những đặc điểm tâm lý và các giai
đoạn phát triển của nhóm xã hội. Từ đó có thể vận dụng vào trong
q trình thực hành cơng tác xã hội với nhóm xã hội cụ thể.
Trong q trình biên soạn giáo trình này tác giả đã cố gắng rất
nhiều để hoàn thành kịp thời cung cấp cho sinh viên. Tuy nhiên,
không thể tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót nhất định. Tác giả
kính mong nhận được sự đóng góp và bổ sung ý kiến của bạn đọc.
Đà Lạt, ngày 21 tháng 06 năm 2007
Tác giả


Vũ Mộng Đóa


Chương 1. TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI LÀ MỘT KHOA HỌC
I. Bản chất, đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của Tâm lý


học xã hội
1. Khái niệm tâm lý học xã hội
Bản chất của Tâm lý học xã hội:
+ Đó là tâm lý chung của nhiều người. Nó được hình thành từ
một hệ thống động cơ của một nhóm xã hội cụ thể (nhu cầu xã hội,
tâm thế, niềm tin xã hội, v.v...)
+ Tâm lý xã hội luôn luôn phản ánh thực tại đời sống của một
nhóm người. Tồn tại nào thì tâm lý ấy.
+ Tâm lý học xã hội có bản chất từ hoạt động và giao tiếp (tính
duy vật của tâm lý học xã hội).
Theo Từ điển tâm lý học Tiếng Anh của Arther S. Rebel and
Emily Rebel, tâm lý học xã hội được định nghĩa là một phân ngành
của tâm lý học, nó tập trung nghiên cứu các khía cạnh của hành vi
con người bao gồm các cá nhân, các nhóm, các tổ chức xã hội và
xã hội mang tính tổng thể.
Theo từ điển Tâm lý học xã hội do Vũ Dũng chủ biên, tâm lý
học xã hội là một phân ngành của tâm lý học, nghiên cứu các quy
luật khách quan của sự tác động qua lại giữa các yếu tố tâm lý và xã
hội trong hoạt động của cá nhân và các nhóm người. Tâm lý học xã
hội nghiên cứu đặc điểm tâm lý của các nhóm xã hội, các tầng lớp
và các giai cấp khác nhau trong xã hội, nghiên cứu các đặc tính (giai
cấp, dân tộc, v.v) và các quy luật hình thành những loại hình nhân
cách mang tính lịch sử, xã hội, nghiên cứu các cơ chế quan hệ qua


lại về mặt tâm lý xã hội trong các nhóm xã hội khác nhau, nghiên
cứu các hình thức giao tiếp khác nhau trong tập thể.
Tóm lại, theo chúng tơi, tâm lý học xã hội là một phân ngành
của tâm lý học, nó tập trung nghiên cứu các hiện tượng tâm lý của
một nhóm xã hội cụ thể, nảy sinh từ sự tác động qua lại trong hoạt

động và trong giao tiếp giữa các cá nhân ở trong nhóm. Nó chi phối
thái độ, hành vi, cử chỉ của cá nhân khi họ ở trong nhóm đó.
2. Đối tượng của Tâm lý học xã hội
Tâm lý học xã hội cũng giống như nhiều ngành khoa học khác,
việc xác định đối tượng nghiên cứu là một vấn đề phức tạp và khó
khăn nhất. Hiện nay vẫn có nhiều quan điểm khác nhau giữa các
nhà tâm lý học của các trường phái tâm lý học về đối tượng nghiên
cứu của tâm lý học xã hội. Trong đó, đặc biệt là có sự khác nhau
khá rõ nét giữa tâm lý học Xô viết (cũ) và tâm lý học phương Tây.
Các nhà tâm lý học Xô viết cho rằng, đối tượng của tâm lý học
xã hội là nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội của nhóm. Tuy
nhiên, trong số những nhà tâm lý học Xơ viết cũng có những quan
điểm cụ thể khơng hồn tồn đồng nhất nhau.
Các nhà tâm lý học Xơ viết (cũ), tiêu biểu như: E. X. Kuzơmin,
V. I. Xelivanop, K. K. Platonop, E. V. Sôrôkhôva cho rằng đối tượng
nghiên cứu của tâm lý học xã hội là nhân cách “phân loại kiểu người
về mặt xã hội - lịch sử”, “các đặc điểm tâm lý của nhân cách”, “sự
quy định của xã hội đối với tâm lý của cá nhân”. Một số tác giả khác
như V. N. Kolbanopxki, A. I. Goriaseva, A. V. Baranova, A. G.
Kovaliop cho rằng đối tượng của tâm lý học xã hội là “những hiện
tượng tâm lý của những khối người đông đảo”, “là tâm lý của tập
thể”, “sự cộng đồng về tâm lý”. Còn B. D. Parưghin, N. X. Manxurop


cho rằng tâm lý học xã hội vừa nghiên cứu tâm lý của nhóm, của
khối người đơng đảo, vừa nghiên cứu đặc điểm hành vi của nhân
cách, của cá nhân khi ở trong nhóm.
A.G. Kovaliop thì cho rằng “đối tượng của tâm lý học xã hội là
nghiên cứu những nét đặc trưng tâm lý của các nhóm xã hội, các
tập thể, cũng như những quy luật hình thành và quy luật hoạt động

của các tập thể, các nhóm trong quá trình tác động và ảnh hưởng
lẫn nhau giữa các cá nhân”.
Khác với quan điểm của các nhà tâm lý học Xô viết trước đây
và các nhà tâm lý học Nga hiện nay, các nhà tâm lý học phương tây
lại tiếp cận từ góc độ khác. Các nhà tâm lý học phương tây cho
rằng, đối tượng của tâm lý học xã hội là nghiên cứu hành vi của cá
nhân trong những điều kiện, hồn cảnh và mơi trường xã hội. Đó là
nhận định khái quát, tuy nhiên, nếu xem xét một cách cụ thể cũng có
một số vấn đề sau đây:
+ Quan điểm của Jones và Gerard (1967) cho rằng đối tượng
của tâm lý học xã hội là nghiên cứu hành vi cá nhân như là chức
năng kích thích xã hội. Ở đây, các tác giả đã nhấn mạnh đến ảnh
hưởng qua lại giữa các cá nhân trong nhóm.
+ Quan điểm của các nhà tâm lý học M. Sherif và C. W. Sherif
(1956), Mc David Harari (1968),. cho rằng tâm lý học xã hội cần
nghiên cứu kinh nghiệm và hành vi của cá nhân trong môi trường xã
hội nhất định.
+ Quan điểm thứ ba cho rằng đối tượng của tâm lý học xã hội
là nghiên cứu mối quan hệ tương hỗ giữa cá nhân và môi trường xã
hội (các nhà tâm lý học đại diện như: Jack H. Curtis Richard Dewey,
David G. Myer)


Cách tiếp cận thứ nhất (trường phái tâm lý học Xơ viết) mang
tính khái qt hơn, chúng có phạm vi rộng. Cách tiếp cận thứ hai
mang tính cụ thể, rõ ràng: nhận thức - thái độ - tình cảm - hành vi.
Như vậy, có thể hiểu rằng: Đối tượng của tâm lý học xã hội
nằm ở bản chất các hiện tượng tâm lý xã hội đã được phân tích ở
trên. Đó là cái tâm lý của những nhóm xã hội cụ thể, bao gồm những
nét tâm lý chung nhất, đặc trưng nhất của nhóm được tạo nên từ sự

tác động qua lại giữa các cá nhân trong nhóm. Nó khơng phải là cái
tâm lý như là sản phẩm hoạt động của chủ thể mỗi người dưới
những tác động của hiện thực khách quan. Nó cũng khơng phải là
cái tổng số đơn giản những đặc điểm tâm lý của tất cả những cá
nhân trong nhóm hợp thành.
3. Nhiệm vụ của Tâm lý học xã hội
Tâm lý học xã hội có hai nhiệm vụ chính là nghiên cứu lý luận
và nghiên cứu ứng dụng.
1) Nghiên cứu lý luận
- Xác lập được hệ thống các khái niệm, phạm trù khoa học
riêng nằm trong cấu trúc hợp lý, mang đặc thù của khoa học mình.
Hiện nay một số khái niệm, phạm trù cấu trúc của tâm lý học xã hội
còn chưa rõ ràng để có thể phân biệt được ranh giới của nó với
những khoa học lân cận.
- Phát hiện được các quy luật hình thành và phát triển của các
hiện tượng tâm lý xã hội, chỉ ra cách sử dụng chúng vào việc phát
huy nhân tố con người trong các điều kiện hoạt động khác nhau. Cụ
thể là những quy luật của sự tác động qua lại trong nhóm, vai trị
của cá nhân, vai trị của nhóm trong q trình này, những điều kiện


chủ quan và khách quan của sự hình thành nên những hiện tượng
tâm lý xã hội và những hình thái biến động trong tâm lý xã hội.
2) Nghiên cứu ứng dụng
Những quy luật chung của Tâm lý học xã hội được vận dụng
vào một số lĩnh vực khoa học khác cũng như trong nhiều lĩnh vực
hoạt động xã hội. Từ đó tạo nên những chuyên ngành khác nhau
của tâm lý học xã hội.
- Tâm lý học dân tộc: Đây là một chuyên ngành quan trọng của
tâm lý học xã hội. Nó nghiên cứu tâm lý dân tộc và những biến đổi

của tâm lý dân tộc gắn với những chuyển biến lịch sử diễn ra trong
đời sống các dân tộc. Nhận thức được tính phong phú, đa dạng hay
độc đáo của một dân tộc là yêu cầu cần thiết trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội, con người của một quốc gia. Việc nghiên cứu
tâm lý dân tộc còn góp phần quan trọng trong sự hiểu biết giữa các
dân tộc, là cơ sở của mối quan hệ hợp tác và liên kết giữa các nước
với nhau.
- Tâm lý học xã hội trong công tác lãnh đạo và quản lý xã hội.
Đây là một chuyên ngành mới của tâm lý học xã hội, nó đi sâu vào
nghiên cứu các hiện tượng tâm lý trong hệ thống quản lý, chỉ ra các
đặc điểm, cơ chế và quy luật tâm lý đang có ảnh hưởng tới hoạt
động này trên cơ sở đó nêu ra những yêu cầu về phẩm chất và
năng lực tâm lý cần thiết của những người lãnh đạo và bị lãnh đạo
quản lý.
- Tâm lý học xã hội trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh
Chuyên ngành này nghiên cứu nhu cầu, thị hiếu của người tiêu
dùng, nghệ thuật bán hàng, thơng tin quảng cáo v.v.Trên cơ sở đó,


nêu ra yêu cầu đối với cơ sở sản xuất về số lượng và chất lượng,
hình thức của các loại hàng hoá, dịch vụ.
- Tâm lý học xã hội trong tín ngưỡng tơn giáo, trong thơng tin
đại chúng, trong giáo dục y tế, trong đời sống gia đình, trong dư luận
xã hội và tâm trạng quần chúng.
Phạm vi ứng dụng của tâm lý học xã hội rất rộng. Nó sẽ ngày
càng được mở rộng theo sự đòi hỏi của thực tiễn, cũng như khả
năng đáp ứng trong quá trình phát triển của nó.

II. Sơ lược về sự hình thành và phát triển của Tâm lý học
xã hội

Tâm lý học xã hội đã ra đời và phát triển được gần một thế kỷ.
Song, những tiền đề để ra đời ngành khoa học này thì đã xuất hiện
từ rất sớm. Nói về sự hình thành và phát triển của Tâm lý học xã
hội, trước hết phải tìm hiểu những tiền đề để ra đời ngành tâm lý
học này.
1. Những tiền đề triết học.
Cũng giống như sự ra đời của tâm lý học, sự hình thành Tâm
lý học xã hội có sự đóng góp rất quan trọng của các tư tưởng triết
học. Có thể đưa ra một số những tiền đề cơ bản sau:
1.1. Quan điểm của một số nhà triết học Hy Lạp cổ đại
Khi nói về quan điểm của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại có
ảnh hưởng tới sự ra đời của Tâm lý học xã hội, chúng ta chú ý nhiều
hơn đến quan điểm về xã hội và con người của Platon và Aristotle.
- Platon (427 - 374 TCN) trong luận thuyết về đạo đức xã hội
và trong phác thảo về một xã hội lý tưởng của mình, ông đã rất chú


ý đến các quan hệ liên nhân cách. Ông cũng chỉ ra sự ảnh hưởng
của các cá nhân đến sự ổn định của nhà nước.
Trong các tác phẩm của mình, Platon đã quan tâm đến các
kiểu loại nhân cách xã hội. Theo ơng, trong xã hội có ba kiểu nhân
cách cơ bản: a/Những người luôn luôn cố gắng làm vừa lòng người
khác (người hướng tới xúc cảm), b/Những người say sưa theo đuổi
quyền lực và sự nổi danh (người hướng đến quyền lực) và c/Những
người ln có khao khát hiểu biết (người hướng đến tri thức). Ba
kiểu nhân cách trên phản ánh ba yếu tố tâm lý của con người: tình
cảm, ý chí và trí tuệ.
- Aristotle (354 - 322TCN) là một người mở đường vĩ đại của
khoa học xã hội. Ơng đánh giá cao yếu tố tình cảm. Theo ông, có 3
động lực của sự liên kết con người: tình bạn, sở thích, và đồng nhất.

Trong đó, tình bạn là động cơ của đa số các nhóm xã hội.
Aristotle đánh giá cao vai trị của các nhóm xã hội đối với con
người. Ông cho rằng, con người cần phải sống trong các nhóm xã
hội như gia đình và nhà nước. Nhóm xã hội cơ bản nhất đối với con
người là gia đình. Quan điểm này của ơng vẫn cịn rất phù hợp với
xã hội hiện đại ngày nay. Điều đáng chú ý là Aristotle xem xét con
người và khả năng của nó trong các phản ứng xã hội, quan hệ và
hồn cảnh xã hội.
Có thể nói, mặc dù các quan điểm của các nhà triết học Hy Lạp
còn khá xa vời các tri thức Tâm lý học xã hội hiện đại, nhưng các tư
tưởng này có ảnh hưởng khơng nhỏ đến các tư tưởng nói chung và
tâm lý học xã hội nói riêng ở châu Âu sau này.
1.2. Một số quan điểm về xã hội và cá nhân của các nhà tư
tưởng La Mã


Quan điểm về xã hội và cá nhân của một số nhà tư tưởng La
Mã như M.T.
Cicero; St. Augustine rất đáng được quan tâm trong nghiên
cứu các tiền đề triết học của sự phát triển Tâm lý học xã hội.
M.T. Cicero là đại biểu xuất sắc của tư tưởng La Mã. Khi
nghiên cứu về con người và xã hội, ông rất quan tâm đến vấn đề
pháp luật, con người phải hành động như thế nào trong khuôn khổ
luật pháp của xã hội.
St. Augustine (354 - 430 sau CN), ông là đại biểu xuất sắc về
tư tưởng xã hội trong thời đại của ông. Các quan điểm của ông về
xã hội và cá nhân được tâm lý học xã hội hiện đại đánh giá cao. Đó
là các quan điểm về sự liên kết của con người, về vai trị của nhóm
xã hội đối với việc hình thành quan điểm, thái độ của cá nhân. Song,
các quan điểm của ông lại bị ảnh hưởng lớn của tư tưởng tôn giáo.

Augustine đánh giá cao vai trò của Chúa Trời và các lực lượng thần
thánh đối với cuộc sống thực tại của con người. Theo ơng, cá nhân
khơng chỉ có quan hệ tương tác với các cá nhân khác mà cịn có
quan hệ với Chúa.
1.3. Những học thuyết về sự thoả thuận xã hội.
Những học thuyết về sự thoả thuận xã hội do T. Hobber (1588 1679), J. Locke (1632 - 1704), và J.J. Rousseau (1712 - 1778) đưa
ra đã được xem như sự mở đường cho Tâm lý học xã hội hiện đại.
Các tác giả đã quan tâm nghiên cứu rất nhiều về mối quan hệ giữa
xã hội và cá nhân.
Học thuyết về sự thoả thuận xã hội của Hobber được phát triển
dựa trên 3 yếu tố:


- Định đề: bản năng con người bị hạn chế và cô lập từ những
người cùng tầng lớp hoặc từ tầng lớp đối lập của xã hội.
- Nguyên nhân hoặc thiết lập các nguyên nhân: Tại sao con
người tự đặt mình vào các mối liên kết với người khác.
- Thiết lập các quy tắc đạo đức từ hai lý do trên.
Locke khơng tin rằng có tồn tại một nhà nước thời kỳ tiền xã
hội. Ông đưa ra quan điểm cho rằng con người luôn sống trong xã
hội, nhà nước trở thành phương tiện để chấn chỉnh sai trái, bất công
và bảo vệ quyền lợi chính đáng của con người về cuộc sống, tự do
và sở hữu.
So với học thuyết về thoả thuận xã hội của Hobber và Locke
thì học thuyết về sự thoả thuận xã hội của Rousseau được đánh giá
cao hơn. Cũng giống như Hobber, ông bắt đầu bằng việc tìm hiểu
những hành vi bản năng của con người, sau đó nghiên cứu mối
tương tác giữa người với người, giữa cá nhân và xã hội. Ông cho
rằng, trật tự xã hội là điều bất khả xâm phạm. Nó được xây dựng
trên cơ sở lợi ích của đa số mọi người. Cái trật tự này không thể bắt

nguồn từ bản năng của con người mà cần phải được xây dựng trên
sự thoả thuận.
2. Những trường phái đầu tiên trong xã hội học và tâm lý
học.
2.1. Các trường phái xã hội học
Vai trị của xã hội học trong việc hình thành Tâm lý học xã hội
được thể hiện qua sự ảnh hưởng của các quan điểm của một số
nhà xã hội học.
- Auguste Comte (1790 - 1857)


Comte đã phân chia tâm lý học theo hai khía cạnh: sinh học và
xã hội học. Sự phân chia này có giá trị nhất định trong Tâm lý học xã
hội.
Khi nói về nhân cách con người, ơng đã thiên về khía cạnh bản
năng. Theo ơng, bản năng con người chia thành 2 loại chính: sự ích
kỷ và lịng vị tha. Tính vị tha của bản năng có thể dẫn con người đến
sự mềm yếu, nhu nhược. Ông cho rằng, xã hội cần khuyến khích
lịng vị tha của con người như một mục đích trọng tâm của tổ chức,
bên cạnh đó cần hạn chế tính ích kỷ của cá nhân.
Mặc dù rất quan tâm đến tâm lý học cá nhân, nhưng Comte
vẫn nhấn mạnh rằng đơn vị xã hội thực là gia đình, nhờ nó mà xã
hội phát triển. Gia đình, theo ơng ngồi việc duy trì nịi giống cịn
ni dưỡng lòng vị tha của con người. Từ mái ấm gia đình, cá nhân
sẽ trở thành thành viên xã hội hữu ích. Tâm lý học cá nhân theo
hướng bản năng của Comte đã tác động mạnh đến tâm lý học xã
hội tận đầu thế kỷ XX.
- Gabriel Tarde (1843 - 1904)
Tarde là một người sáng lập ra tâm lý học cá nhân trên cơ sở
của xã hội học. Ông phản đối những quan điểm thái quá của tâm lý

học cá nhân thời đó.
Một cơng trình nghiên cứu của Tarde có ảnh hưởng lớn đến sự
ra đời của tâm lý học xã hội là cuốn: “Những quy luật của sự bắt
chước”. Trong cuốn sách này ông đã lý giải cơ sở xã hội của sự
tương tác giữa các cá nhân. Ông cũng là người đầu tiên đưa ra khái
niệm mới về sự tương tác. Đây là một tiền đề dẫn đến sự hình thành
tâm lý học xã hội.
- Durkheim (1858 - 1917)


Quan điểm của Durkheim là phản đối sự đề cao quá mức tâm
lý học cá nhân khi ông nhấn mạnh đến hệ thống quy định xã hội.
Ông ca ngợi và thích tranh luận về học thuyết “ý thức tập thể”.
Trong các nghiên cứu của mình, ơng quan tâm nhiều đến các
kiểu loại hành vi của nhóm hơn là các hành vi của cá nhân. Những
nghiên cứu của ông về “ý thức tập thể” là đóng góp đặc biệt quan
trọng cho tâm lý học xã hội.
- G. Lebon (1841 - 1931)
Trong các nghiên cứu của mình, ơng chú ý nhiều đến tâm lý
học nhóm. Ơng đã làm sáng tỏ thêm những quan điểm của
Durkheim về các hiện tượng tâm lý của nhóm. Lebon cũng bị ảnh
hưởng bởi Tâm lý học xã hội của Tarde.
Tác phẩm nổi tiếng nhất của Lebon là cuốn “Đám đông” (The
crowd). Trong cuốn sách này ông đã phân tích rất sâu sắc về tâm lý
đám đơng - một hiện tượng tâm lý rất đặc thù của Tâm lý học xã hội.
Với cuốn sách này, ông đã trở thành người mở đường về vấn đề
“hành vi tập thể” hiện đại.
- Charles Horton Cooley (1863 - 1929)
Cooley là nhà xã hội học Mỹ, người có quan điểm hiện đại về
mối quan hệ giữa xã hội và cá nhân. Ông nhấn mạnh, không thể

tách rời yếu tố xã hội và yếu tố cá nhân trong cuộc sống của con
người.
Ông đã viết ba cuốn sách nổi tiếng về vấn đề này: Bản chất
con người và trật tự xã hội; Tổ chức xã hội; Sự phát triển xã hội.
Cooley bị ảnh hưởng bởi học thuyết “bắt chước” của Tarde, quan
điểm về đồng nhất của Schaffle và tâm lý học của W.James.


- E.A. Ross (1866 - 1951)
Ross là nhà xã hội học người Mỹ, người đã viết cuốn sách
Tâm lý học xã hội (1908) - một trong những cuốn sách giáo khoa
đầu tiên về ngành khoa học này. Nếu Cooley nhấn mạnh hơn đến
khía cạnh tập thể thì Ross lại chú ý đến cả khía cạnh xã hội và khía
cạnh cá nhân trong nghiên cứu quan hệ giữa xã hội và cá nhân.
Theo ơng, vai trị của xã hội thể hiện qua sự ảnh hưởng của
nhóm tới cá nhân và vai trò của cá nhân thể hiện qua sự ảnh hưởng
của cá nhân tới nhóm. Các vai trị này xảy ra trong các hoàn cảnh
xã hội. Quan điểm này của Ross đã bị ảnh hưởng bởi quan điểm
của Tarde về “sự bắt chước” trong đời sống xã hội.
2.2. Các trường phái Tâm lý học
- Thuyết hành vi của Watson:
Thuyết hành vi ra đời vào năm 1913 trong bối cảnh Tâm lý học
nội quan bước vào thời kỳ khủng hoảng và một số nhà tâm lý học
cho rằng cần phải xác định lại đối tượng nghiên cứu của tâm lý học.
Thuyết hành vi là cơ sở để tâm lý học đầu thế kỷ XX từ bỏ di
sản của trường phái nội quan và đưa Tâm lý học xã hội hiện đại đến
chỗ tìm hiểu con người thơng qua các hồn cảnh xã hội và trước hết
là nghiên cứu hành vi của con người.
Sự đóng góp to lớn của thuyết hành vi đối với Tâm lý học xã
hội thể hiện ở chỗ nó là cơ sở để các nhà tâm lý học phương Tây

(trước hết là các nhà tâm lý học Mỹ) xác định đối tượng nghiên cứu
của ngành khoa học này - hành vi xã hội của con người.
- Thuyết cấu trúc của W. Wundt


Một trong những đóng góp lớn của ơng đối với việc ra đời của
Tâm lý học xã hội là cuốn sách Tâm lý học dân tộc. Cuốn sách này
gồm 10 tập, được ông viết trong 20 năm (1900 - 1920).
Theo ông, tâm lý học xã hội là một phân ngành cần thiết của
Tâm lý học. Ơng cho rằng khơng thể nghiên cứu con người như một
cá nhân đơn lẻ, mà cần phải nghiên cứu con người trong những mối
quan hệ của con người.
- Tâm lý học Gestalt
Một trong những đại biểu xuất sắc nhất của tâm lý học Gestalt
là K.Lewin, ông đã dành nhiều tâm huyết cho việc nghiên cứu khía
cạnh quan trọng của Tâm lý học xã hội
- nhóm nhỏ và nhóm nói chung. Lewin đã sáng lập ra Trung
tâm nghiên cứu động thái nhóm. Ơng cũng là tác giả của một
phương pháp nghiên cứu mới trong tâm lý học xã hội - phương
pháp nhóm tập luyện (training group).
3. Tâm lý học xã hội trở thành một khoa học độc lập
Tâm lý học xã hội trở thành một khoa học độc lập được đánh
dấu bằng sự kiện cuốn sách giáo khoa đầu tiên về Tâm lý học xã hội
được xuất bản vào năm 1908. Đó là cuốn Tâm lý học xã hội (Social
Psychology) của tác giả Edward A. Ross. Cuốn sách của ông dựa
trên cơ sở kết hợp hai khoa học tâm lý học và xã hội học. Nội dung
chính được đề cập trong cuốn sách này là sự bắt chước được hình
thành, phát triển và thực hiện như thế nào. Ông đã sử dụng hiện
tượng bắt chước để giải thích sự thay đổi tư tưởng, thói quen và
quan điểm giữa các thành viên trong các nhóm xã hội.



Một sự kiện quan trọng nữa góp phần làm cho Tâm lý học xã
hội trở thành khoa học độc lập, đó là sự ra đời cuốn sách có tên:
Nhập mơn Tâm lý học xã hội (Introduction to Social Psychology) của
Mc. Dougall. Trong cuốn sách này tác giả đã lý giải sự giống nhau
về hành vi giữa cá nhân trong nhóm xã hội thơng qua sự bắt chước.
Tính đến năm 1954, đã có 52 cuốn sách giáo khoa về Tâm lý
học xã hội xuất bản, đến năm 1968 con số này đã tăng lên gần 100
cuốn và tính đến năm 1980, số sách giáo khoa về Tâm lý học xã hội
đã lên tới gần 150 cuốn, gần chục tạp chí về tâm lý học xã hội và
một số lượng lớn các tuyển tập bài viết, các sách tham khảo có giá
trị về ngành khoa học này được hoàn thành. Trong gần một thế kỷ
vừa qua, người ta có thể nhận thấy hai xu hướng phát triển của Tâm
lý học xã hội: Tâm lý học xã hội phương Tây và Tâm lý học xã hội
Xơ viết. Hai xu hướng này có sự khác biệt nhất định.
Tâm lý học xã hội Xô viết chú ý nhiều đến nghiên cứu các đặc
điểm tâm lý của nhóm, trong đó đặc biệt là tập thể (một loại nhóm
chính thức) và các nhóm lớn như giai cấp, dân tộc,... Tâm lý học xã
hội phương Tây lại quan tâm nhiều hơn đến việc nghiên cứu kinh
nghiệm và hành vi xã hội. Tính thực tiễn, ứng dụng trong các nghiên
cứu của Tâm lý học phương Tây được thể hiện rất rõ nét.
Ở nước ta, Tâm lý học xã hội là một ngành còn rất non trẻ.
Song, trong thời gian gần đây, ngành khoa học này đã có những
bước phát triển quan trọng. Tâm lý học được giảng dạy ở nhiều
trường Đại học, học viện và trường cao đẳng. Nhiều cơng trình
nghiêu cứu về Tâm lý học xã hội đã được dịch và biên soạn. Tính
đến nay chúng ta đã có hàng chục cuốn sách giáo khoa, nhiều tài
liệu tham khảo đã được các nhà Tâm lý học Việt Nam biên soạn và



xuất bản nhằm phục vụ cho hoạt động giảng dạy và nghiên cứu Tâm
lý học xã hội.

III. Các phương pháp nghiên cứu của Tâm lý học xã hội
1. Những nguyên tắc nghiên cứu
1.1. Phải đảm bảo tính chất khách quan
Nghiên cứu phải đảm bảo tính khách quan, trước hết là phải
nghiên cứu từ chính bản thân sự vật, hiện tượng, phải xem xét sự
vật, hiện tượng như chúng vốn có trong thực tế, ghi nhận mọi chi
tiết, mọi biểu hiện của chúng.
1.2. Phải nghiên cứu sự vật và hiện tượng trong các mối liên
hệ của chúng
Tất cả các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên đều liên hệ, tác
động qua lại với nhau. Vì vậy, khi nghiên cứu phải đặt chúng trong
mối quan hệ, liên hệ giữa chúng nhằm vạch ra được sự ảnh hưởng
lẫn nhau, mối quan hệ nhân quả và những quy luật của sự tác động
qua lại giữa chúng. Khi nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội cần
thực hiện tốt các yêu cầu này, bởi vì mỗi hiện tượng tâm lý xã hội
đều chịu sự ảnh hưởng và liên quan của các hiện tượng khác.
1.3. Phải nghiên cứu sự vật và hiện tượng trong sự phát triển.
Mỗi sự vật và hiện tượng trong tự nhiên hay trong xã hội đều
có q trình nảy sinh, vận động và phát triển. Tâm lý cá nhân hay
của xã hội đều nằm trong quy luật này, có sự phát triển và biến đổi
về chất. Bởi vậy, khi nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội, nhà
khoa học cần xem xét chúng trong một quá trình.
1.4. Phải nghiên cứu sự vật và hiện tượng trong một chỉnh thể
toàn vẹn



Mỗi sự vật và hiện tượng đều có một cấu trúc nhất định. Bởi
vậy, yêu cầu đặt ra đối với các nhà khoa học là phải nghiên cứu sự
vật và hiện tượng với cả hệ thống các thành phần trong cấu trúc của
chúng cũng như mối liên hệ và quan hệ của các thành phần ấy.
2. Những phương pháp nghiên cứu
2.1. Phươngpháp quan sát
Quan sát là sự tri giác chủ động và có hệ thống các hiện tượng
tâm lý nhằm tìm ra các đặc điểm đặc trưng và có ý nghĩa của chúng.
Trong tâm lý học xã hội, phương pháp quan sát được sử dụng để
nghiên cứu hành vi xã hội.
• Các bước tiến hành quan sát:
- Xác định mục đích, nhiệm vụ quan sát (quan sát để làm gì)
- Lựa chọn khách thể quan sát, tình huống quan sát và đối
tượng quan sát (quan sát ai, quan sát cái gì)
- Lựa chọn cách thức quan sát để ít ảnh hưởng đến khách thể
quan sát và thu được những thông tin cần thiết (quan sát như thế
nào)
• Nhiệm vụ quan sát: là định hướng ban đầu về khách thể, đề
xuất giả thuyết và kiểm tra giả thuyết. Các tình huống quan sát có
thể là tình huống tự nhiên hoặc tình huống thực nghiệm (do người
quan sát chủ động) tạo nên
• Đối tượng quan sát: là những hành động ngôn ngữ hoặc phi
ngơn ngữ của con người trong nhóm hay liên nhóm. Cụ thể là:
- Hành động nói (hành động ngơn ngữ). Ở đây cần chú ý quan
sát tính định hướng, tần số, cường độ, mức độ diễn cảm, đặc điểm
của ngôn từ, ngữ pháp, cách phát âm.


- Những hành động diễn cảm thể hiện qua nét mặt, thái độ,
hành động.

- Cử chỉ di chuyển, trạng thái đứng im của con người, khoảng
cách giữa người này với người khác, tốc độ, phương hướng vận
động, sự va chạm...
• Một số ưu điểm và hạn chế:
- Ưu điểm: Nó được sử dụng rộng rãi, chiếm ưu thế trong việc
thu thập các biểu hiện của tâm lý xã hội. Trong phương pháp này,
nhà khoa học có thể sử dụng những máy móc hiện đại như máy
ảnh, máy ghi âm, máy quay phim để ghi lại những hiện tượng cần
nghiên cứu, khi cần có thể quan sát lại nhiều lần bảo đảm tính khách
quan.
- Hạn chế: phương pháp này cịn có hạn chế là nó địi hỏi
nhiều thời gian; nó chỉ cung cấp những tài liệu về các biểu hiện bề
ngoài có tính cảm tính. Bởi vậy, khi dùng phương pháp này nhà
khoa học phải thu thập tài liệu với số liệu đủ lớn để có thể chọn lọc
trong đó những tài liệu cần thiết.
2.2. Phươngpháp nghiên cứu sản phẩm.
Sản phẩm hoạt động bao giờ cũng mang đậm nét những đặc
điểm tâm lý của nhóm người tạo ra nó, bao gồm sản phẩm vật chất
và tinh thần. Các sản phẩm vật chất như: nhà cửa, vật dụng thông
thường,. các sản phẩm tinh thần như âm nhạc, phong
tục, tập quán,. Qua sản phẩm hoạt động, nhà khoa học có thể
tìm hiểu về trình độ nhận thức, mức độ kỹ xảo, nội dung tình cảm,
đặc điểm tính cách của các nhóm người khác nhau.
2.3. Phươngpháp điều tra.


Dùng để hiểu rõ thái độ của mọi người đối với các biến cố xã
hội, những nhiệm vụ xã hội có liên quan đến họ cũng như nhu cầu,
nguyện vọng, định hướng hoạt động của họ trong tương lai. Phương
pháp này được sử dụng rộng rãi để nghiên cứu thông qua cơng cụ

là bảng hỏi.
• Các ngun tắc đặt câu hỏi:
- Trong một câu hỏi chỉ cần tìm hiểu một khía cạnh, khơng nên
chứa đựng nhiều nội dung nghiên cứu.
- Nên tránh sử dụng các thuật ngữ nước ngồi khơng được sử
dụng rộng rãi trong xã hội, tránh các thuật ngữ chuyên môn quá hẹp,
tránh các từ đa nghĩa.
- Không nên đưa ra các câu hỏi quá dài, đặc biệt là khi hỏi trực
tiếp.
- Nếu trong câu hỏi có sử dụng các thuật ngữ khơng phổ biến
thì người điều tra viên có thể giải thích thêm về câu hỏi này để cho
khách thể hiểu được.
- Các câu hỏi cần được cụ thể hoá, đơn giản hoá đến mức độ
cao nhất, tránh đặt câu hỏi một cách chung chung, khó hiểu (rườm
rà, tối nghĩa)
- Khi đặt câu hỏi có thể đưa ra các phương án trả lời mà mọi
người đều có thể hiểu như nhau.
- Cần tránh đặt các câu hỏi khuôn mẫu, sáo rỗng hay kiểu
“đánh đố” đối với
khách thể nghiên cứu
- Cần tránh đưa ra các câu hỏi tạo nên thái độ tiêu cực đối với
người được hỏi.


• Câu hỏi đóng và câu hỏi mở
- Câu hỏi đóng là các câu hỏi đưa ra các phương án trả lời, đòi
hỏi khách thể nghiên cứu phải chọn một hay một số trong các
phương án trả lời.
Có hai loại câu hỏi đóng: câu hỏi đóng phân đơi và câu hỏi
đóng có nhiều phương án trả lời.

- Câu hỏi mở: là dạng câu hỏi không đưa ra các phương án trả
lời. Theo yêu cầu của câu hỏi, khách thể tự bộc lộ suy nghĩ của
mình.
• Cách thức trình bày bảng hỏi:
Để bảng hỏi được trả lời tốt, khi xây dựng chúng ta cần chú ý
đến một số khía cạnh sau:
- Ở trang đầu của bảng hỏi ghi rõ cơ quan, tổ chức tiến hành
điều tra.
- Tiếp theo là lời mở đầu (nêu mục đích, yêu cầu của bảng
hỏi). Trong lời mở đầu cần cam kết giữ bí mật tên, tuổi cho người
được hỏi. Nên viết ngăn gọn, lịch sự.
- Ở phần cuối bảng hỏi nên có lời cảm ơn người được hỏi.
- Cần chú ý đến hình thức trình bày bảng hỏi: kiểu chữ, cách
trình bày,
• Những ưu điểm và hạn chế
- Ưu điểm: Cho phép tiến hành nghiên cứu trên một địa bàn
rộng với số lượng lớn khách thể nghiên cứu. Có thể thu được thơng
tin về nhiều sự kiện khác nhau trong thời gian ngắn. Không chỉ thu
thập được thông tin trong hiện tại mà trong cả quá khứ và tương lai.


- Hạn chế: Số liệu điều tra chủ yếu dựa vào đánh giá của
khách thể. Độ tin cậy của thông tin phụ thuộc rất nhiều vào trình độ,
khả năng tự trình bày các vấn đề của khách thể. Ngồi ra, độ tin cậy
của thơng tin cịn phụ thuộc vào khả năng thiết kế bảng hỏi của
người nghiên cứu, vào sự hợp tác của khách thể
Để bổ sung phương pháp điều tra, người ta đã dùng phương
pháp phỏng vấn kèm theo. Phương pháp phỏng vấn hay trị chuyện
có mục đích giúp cho người điều tra thâm nhập vào cuộc sống xã
hội mà họ muốn nghiên cứu, có được thơng tin ban đầu về xã hội

ấy. Qua trò chuyện sẽ gây được khơng khí tự nhiên, gần gũi giữa
người điều tra và người được điều tra khiến họ có thể thơng cảm
hơn, tích cực hưởng ứng và trả lời chính xác.
Phỏng vấn cũng bị hạn chế là tốn thời gian, nên chỉ có thể tiến
hành trong một diện hẹp, có lựa chọn, thông thường là những người
lãnh đạo, những cá nhân tiêu biểu.
2.4. Phươngpháp thực nghiệm
Đây là phương pháp trong đó nhà khoa học chủ động gây ra
hiện tượng cần nghiên cứu và đặt người được thực nghiệm vào
hồn cảnh địi hỏi họ phải có hoạt động tích cực.
Ưu điểm: Thực nghiệm tâm lý xã hội có thể tiến hành dưới
nhiều hình thức tự nhiên hoặc tiến hành trong phịng thí nghiệm.
Phương pháp thực nghiệm giúp cho quá trình nhận thức hiện thực
nhanh chóng hơn phương pháp khác. Nó đáp ứng được đầy đủ các
yêu cầu của việc nghiên cứu khoa học đem lại những kết quả đáng
tin cậy.
Nhược điểm: Trong tâm lý học xã hội, thực nghiệm là một
phương pháp rất phức tạp, rất khó sử dụng. Bởi vì nó được thực


nghiệm đối với con người. Nó khơng chỉ liên quan đến vấn đề tri
thức, tổ chức, giáo dục, tuyên truyền v.v. mà còn liên quan đến các
chuẩn mực đạo đức và cả pháp luật.
2.5. Phươngpháp trắc nghiệm xã hội
Trắc nghiệm xã hội có nghĩa là đo lường xã hội. Phương pháp
này được xây dựng trên cơ sở lý luận tâm lý học về xã hội và test
tâm lý xã hội nhằm đánh giá các mối liên hệ cảm xúc liên nhân cách
trong nhóm.
Phương pháp trắc nghiệm xã hội do L. Moreno (1892 - 1974)
sáng lập. Moreno đã đưa ra phương pháp này để tìm hiểu các cấu

trúc tâm lý xã hội trong các quan hệ liên nhân cách của nhóm. Các
cấu trúc này không chỉ xác định các đặc điểm của nhóm mà cịn xác
định trạng thái tinh thần của con người.
■ Nhiệm vụ của trắc nghiệm xã hội
Trắc nghiệm xã hội được sử dụng, để chẩn đoán những quan
hệ liên nhân cách và liên nhóm với những mục đích làm cho chúng
thay đổi tốt hơn và hoàn thiện chúng.
Trắc nghiệm xã hội có thể nghiên cứu các kiểu loại hành vi xã
hội của con người trong điều kiện hoạt động của nhóm, đánh giá sự
tương hợp tâm lý xã hội của các thành viên trong các nhóm xã hội
cụ thể.
Song nhiệm vụ cơ bản của trắc nghiệm xã hội là nghiên cứu
cấu trúc khơng chính thức của các nhóm xã hội và bầu khơng khí
tâm lý của nhóm.
■ Các giai đoạn thực hiện trắc nghiệm xã hội
* Các giai đoạn thực hiện


- Xác định nhiệm vụ, khách thể nghiên cứu
- Xác định các giả thuyết nghiên cứu cơ bản
- Xây dựng bảng hỏi
Bảng hỏi của trắc nghiệm xã hội gồm các câu hỏi liên quan đến
những khía cạnh cảm xúc của các quan hệ tương hỗ giữa các cá
nhân trong nhóm. Đòi hỏi những người tiến hành trắc nghiệm phải
thể hiện được mối quan hệ thân ái, gần gũi, cởi mở với các khách
thể làm trắc nghiệm. Vì quan hệ như vậy sẽ kích thích được lịng
nhiệt tình, tinh thần trách nhiệm của khách thể nghiên cứu.
* Các hình thức lựa chọn mẫu trong trắc nghiệm
- Sự lựa chọn không hạn chế
Nếu trong nhóm có 12 thành viên thì mỗi người trong nhóm sẽ

lựa chọn 11 người cịn lại của nhóm (trừ bản thân mình) để thực
hiện trắc nghiệm.
Cơng thức lựa chọn ở đây là: N - 1, trong đó N là số lượng các
thành viên của nhóm thực nghiệm. Như vậy, sẽ có (N - 1) người
được lựa chọn để tham gia thực nghiệm.
Ưu điểm: khả năng lựa chọn như nhau đối với các thành viên.
Nó có thể làm cho các thành viên bộc lộ được cảm xúc của mình.
Đây có thể là lát cắt qua mối liên hệ liên nhân cách phức tạp trong
cấu trúc nhóm.
Nhược điểm: kỹ thuật tính tốn khá phức tạp, khó khăn khi
nhóm trắc nghiệm có nhiều thành viên. Một nhược điểm khác là xác
suất nhận được từ sự lựa chọn ngẫu nhiên là rất lớn. Ví dụ, ta có
thể nhận được câu trả lời “Tôi chọn tất cả”
- Sự lựa chọn hạn chế


×