Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Đánh giá tính dễ tổn thương của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.11 MB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
-----------------
CÔNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƯỞNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
“NHÀ KINH TẾ TRẺ – NĂM 2010”
TÊN CÔNG TRÌNH:
ĐÁNH GIÁ TÍNH DỄ TỔN THƯƠNG CỦA CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
THUỘC NHÓM NGÀNH: KHOA HỌC KINH TẾ
MỤC LỤC
Chương 1. Lý luận tổng quan về tính dễ tổn thương của các ngân hàng thương mại................1
1.1 Khái niệm về tính dễ tổn thương của các ngân hàng thương mại ......................................... 1
1.2 Nguyên nhân của tính dễ tổn thương của các ngân hàng thương mại................................... 1
1.3 Các nhân tố tác động đến tính dễ tổn thương của các ngân hàng thương mại ...................... 4
1.3.1 Các nhân tố nội sinh....................................................................................................... 4
1.3.1.1 Rủi ro thanh khoản – sự mất cân đối giữa tài sản nợ và tài sản có......................... 4
1.3.1.2 Rủi ro tín dụng - Sự quản lý và giám sát tín dụng .................................................. 5
a. Tỷ lệ nợ xấu.................................................................................................................... 7
b. Tỷ lệ nợ quá hạn............................................................................................................. 8
c. Hệ số rủi ro tín dụng....................................................................................................... 8
d. Phương pháp đánh giá rủi ro – VAR.............................................................................. 8
1.3.1.3 Khả năng quản trị, điều hành và rủi ro đạo đức...................................................... 9
1.3.1.4 Hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ..................................................................... 10
1.3.1.5 Sự hợp tác giữa các ngân hàng thương mại .......................................................... 10
1.3.2 Các nhân tố ngoại sinh ................................................................................................. 11
1.3.2.1 Rủi ro của quá trình tự do hoá tài chính, hội nhập quốc tế................................... 11
1.3.2.2 Rủi ro môi trường pháp lý..................................................................................... 11
1.3.2.3 Rủi ro về giá.......................................................................................................... 11
a. Rủi ro lãi suất ............................................................................................................... 11


b. Rủi ro tỷ giá hối đoái.................................................................................................... 12
1.3.2.4 Rủi ro hệ thống khác............................................................................................. 14
1.4 Nội dung tính dễ tổn thương – các tiêu chuẩn trên thế giới và Việt Nam để đánh giá mức độ
tổn thương của các ngân hàng thương mại..................................................................................... 15
1.4.1 Mức độ ổn định trong hoạt động của các ngân hàng thương mại ................................ 15
1.4.1.1 Ổn định trong huy động vốn ................................................................................. 15
1.4.1.2 Ổn định trong hoạt động cho vay.......................................................................... 17
1.4.2 Mức độ an toàn trong hoạt động của các ngân hàng thương mại................................. 18
1.4.2.1 Đánh giá theo các tiêu chuẩn trong Hiệp ước Basel I và II .................................. 18
a. Basel I........................................................................................................................... 18
b. Basel II ......................................................................................................................... 19
1.4.2.2 Đánh giá theo các qui định tại Việt Nam.............................................................. 24
a. Quyết định số 457 qui định về tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng ...... 24
b. Quyết định 493 về phân loại nợ và trích lập dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong
hoạt động ngân hàng .............................................................................................................. 26
Kết luận chương 1 ............................................................................................................................29
Chương 2. Các nghiên cứu và bằng chứng thực nghiệm trên thế giới về tính dễ tổn thương
của các ngân hàng thương mại........................................................................................................30
2.1 Xem xét tính dễ tổn thương của các ngân hàng Mỹ trong cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ30
2.1.1 Sơ lược về cuộc khủng hoảng Mỹ................................................................................ 30
2.1.2 Những tổn thương của các ngân hàng Mỹ trong cuộc khủng hoảng tài chính – Đánh
giá theo mô hình CAMELS........................................................................................................ 30
2.1.2.1 Mức độ an toàn vốn (Capital Adequacy).............................................................. 34
2.1.2.2 Chất lượng tài sản có (Asset Quality)................................................................... 35
2.1.2.3 Quản lý (Management) ......................................................................................... 37
2.1.2.4 Lợi nhuận (Earnings) ............................................................................................ 38
2.1.2.5 Thanh khoản (Liquidity)....................................................................................... 39
2.1.2.6 Mức độ nhạy cảm với rủi ro thị trường (Sensitivity to Market Risk)................... 40
2.1.3 Bài học rút ra từ cuộc khủng hoảng Mỹ cho các ngân hàng ........................................ 41
2.2 Nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới để hạn chế tính dễ tổn thương của các ngân hàng

thương mại ..................................................................................................................................... 44
2.2.1 Áp dụng các tiêu chuẩn trong Hiệp ước Basel II tại Hàn Quốc................................... 44
2.2.2 Cách hạn chế tính dễ tổn thương của các NHTM thông qua các biện pháp quản trị rủi
ro tại một số nước trên thế giới .................................................................................................. 45
Kết luận chương 2 ............................................................................................................................48
Chương 3. Đánh giá tính dễ bị tổn thương của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay ..................................................................................................................49
3.1 Đôi nét về thị trường ngân hàng Việt Nam hậu WTO ........................................................ 49
3.1.1 Đôi nét về nền kinh tế Việt Nam sau ba năm gia nhập WTO ...................................... 49
3.1.2 Thị trường ngân hàng việt Nam hậu WTO .................................................................. 49
3.2 Đánh giá tính dễ tổn thương của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay theo các tiêu chuẩn định lượng................................................................................................ 51
3.2.1 Mức độ ổn định trong hoạt động của các ngân hàng thương mại ................................ 51
3.2.1.1 Ổn định trong huy động vốn ................................................................................. 51
3.2.1.2 Ổn định trong hoạt động cho vay.......................................................................... 55
3.2.1.3 Ổn định trong thu nhập ......................................................................................... 58
3.2.2 Mức độ an toàn trong hoạt động của các ngân hàng thương mại................................. 60
3.2.2.1 Về vốn tự có và tỷ lệ an toàn vốn ......................................................................... 60
3.2.2.2 Phân loại và đánh giá về nợ xấu của các ngân hàng............................................. 64
Kết luận chương 3 ............................................................................................................................67
Chương 4. Các giải pháp nhằm khắc phục tính dễ tổn thương của hệ thống ngân hàng
thương mại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay ............................................................................68
4.1 Quản lý điều hành và Chính sách của Chính phủ, ngân hàng nhà nước Việt Nam............. 68
4.1.1 Đối với chính phủ......................................................................................................... 68
4.1.2 Đối với NHNN Việt Nam ............................................................................................ 69
4.2 Bên trong các ngân hàng - Tái cấu trúc hoạt động của ngân hàng thương mại................... 71
4.2.1 Chiến lược về nguồn vốn, tỷ lệ dự trữ.......................................................................... 71
4.2.2 Hoạt động quản lý điều hành hoạt động của ngân hàng............................................... 72
4.2.3 Chiến lược chính sách nguồn nhân lực ........................................................................ 73
4.2.4 Minh bạch hoá tài chính............................................................................................... 74

4.2.5 Hệ thống công nghệ thông tin ...................................................................................... 75
4.2.6 Chế độ bảo hiểm tiền gửi ............................................................................................. 75
4.2.7 Áp dụng các mô hình quản trị rủi ro theo khung VAR ................................................ 76
4.3 M&A – Hướng đi cho các ngân hàng trong tương lai gần .................................................. 77
4.4 Sự hỗ trợ và hợp tác của các tổ chức quốc tế ...................................................................... 78
Kết luận chương 4 ............................................................................................................................79
Kết luận .............................................................................................................................................80
DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
ACB NHTM cổ phần Á Châu.
Agribank Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
AIG Tập đoàn bảo hiểm American International Group.
BCBS Basel Committee on Banking Supervision: Ủy Ban Basel Giám sát ngành
Ngân hàng.
BHTG Bảo hiểm tiền gửi.
BIDV Bank of Investment and Development of Vietnam: Ngân hàng Đầu tư và
phát triển Việt Nam.
BIS Bank for International Settlements: Ngân hàng thanh toán quốc tế.
CAMELS Mô hình đánh giá ngân hàng CAMELS.
CAR Capital Adequacy Ratio: Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu.
CĐKT Cân đối kế toán.
CFTC Commodity Futures Trading Commission: Ủy ban giao dịch hàng hóa kỳ
hạn.
CIC Credit Information Center: Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng của
NHNN.
CPI Center for Public Integrity: Trung tâm Liêm chính Công của Mỹ.
FDI Foreign Direct Investment: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
FDIC Federal Deposit Insurance Corporation: Tập đoàn bảo hiểm tiền gửi liên
bang.
FED Federal Reserve System: Cục dự trữ Liên bang Mỹ.
GDP Gross Domestic Product: Tổng sản phẩm quốc nội.

IRB Internal Rating Based Approach: Phương pháp tiếp cận dựa trên hệ thống cơ
sở dữ liệu đánh giá nội bộ.
IMF International Monetary Fund: Quỹ Tiền tệ quốc tế.
MDB Multilateral development bank: Ngân hàng Phát triển Đa phương.
MBS Mortgage – Backed Securities: Chứng khoán nợ thế chấp.
M&A Mergers And Aquisitions: Mua bán vá sáp nhập.
NIM Net Interest Margin: Hệ số chênh lệch lãi thuần.
NHNN Ngân hàng nhà nước Việt Nam.
NHTM Ngân hàng thương mại.
NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần.
NHTW Ngân hàng Trung ương.
Oceanbank NHTM cổ phần Đại Dương.
PSE Public sector entity: Đơn vị thuộc khu vực công.
QIS Quality Information System: Hệ thống thông tin chất lượng.
RWA Risk – weighted Assets: Tài sản tính theo rủi ro gia quyền.
SMEs Small and Medium Enterprises: Doanh nghiệp vừa và nhỏ.
SEC Securities & Exchange Commission: Ủy ban chứng khoán Mỹ.
Sacombank NHTM cổ phần Sài Gòn thương tín.
SHB NHTM cổ phần Sài Gòn – Hà Nội.
Saigonbank NHTM cổ phần Sài Gòn.
TCTD Tổ chức tín dụng.
Techcombank NHTM cổ phần Kỹ thương Việt Nam.
VAR Value At Risk: Giá trị chịu rủi ro.
Vietcombank NHTM cổ phần Ngoại thương Việt Nam.
Vietinbank NHTM cổ phần Công thương Việt Nam.
WTO World Trade Organization: Tổ chức thương mại thế giới.
WB Word Bank: Ngân hàng thế giới.
WaMu Washington Mutual Inc.
1
Chương 1. Lý luận tổng quan về tính dễ tổn thương của

các ngân hàng thương mại
1.1 Khái niệm về tính dễ tổn thương của các ngân hàng thương mại
Tính dễ tổn thương của các ngân hàng thương mại là sự nhạy cảm, tính dễ bị đổ vỡ của
chúng trước các cú sốc nội sinh và ngoại sinh của nền kinh tế. Hay nói cách khác, tình trạng dễ tổn
thương là tình trạng tài chính thiếu ổn định và thiếu an toàn trong hoạt động của các ngân hàng
thương mại.
Ổn định là trạng thái duy trì hoạt động bình thường, không có những biến động đột ngột, thất
thường và sự ổn định trong quá trình phát triển.
An toàn được hiểu là khả năng của ngân hàng bù đắp được mọi chi phí và thực hiện được các
nghĩa vụ của mình. Tiêu chí an toàn được đánh giá thông qua đánh giá mức độ đủ vốn, chất lượng
tín dụng (tài sản có) và chất lượng quản lý. An toàn là trạng thái không bị tác động nguy hiểm từ
mọi phía, từ phía các tác động bên trong cũng như bên ngoài. Có thể nói ổn định là điều kiện cần thì
an toàn chính là điều kiện đủ cho quá trình phát triển vững mạnh của các hệ thống tài chính.
Nói một cách rõ ràng hơn thì tính dễ tổn thương là trạng thái các tài sản (tài sản nợ, tài sản có
và tài sản ròng) dễ bị rơi vào trạng thái không ổn định, không an toàn trong khủng hoảng, khiến các
ngân hàng mất đi trạng thái bền vững và không thể phát triển các hoạt động kinh doanh dẫn tới sự
đổ vỡ. Tính dễ tổn thương là một đặc điểm thuộc về bản chất nên luôn hiện diện trong các hoạt động
ngân hàng vì các ngân hàng có hoạt động chủ yếu dựa trên cơ sở niềm tin, đó chính là nguồn gốc
cho tính dễ tổn thương của các ngân hàng thương mại.
Để hạn chế tính dễ tổn thương trong các ngân hàng thương mại, chúng ta cần phải sử dụng
các biện pháp giữ cho các tài sản của ngân hàng luôn luôn ổn định, an toàn và được vững mạnh.
Thiết lập được mạng lưới an ninh có khả năng phòng ngừa, ứng phó kịp thời, nhanh nhạy, hiệu quả
đối với các nguy cơ nội sinh cũng như ngoại sinh của nền kinh tế như tăng cường hệ thống công
nghệ và thông tin, ứng dụng các biện pháp tăng cường quản trị rủi ro cũng như nâng cao năng lực
quản lý, kiểm định... Từ đó, ta có thể tránh được tình trạng khủng hoảng cho các ngân hàng và cho
cả nền kinh tế.
1.2 Nguyên nhân của tính dễ tổn thương của các ngân hàng thương mại
Nguyên nhân sâu xa của tính dễ tổn thương là do bản chất của các định chế tài chính. Cũng
có thể nói rằng tính dễ tổn thương là sự tổ hợp của nhiều nhân tố nội sinh như sự mất cân đối giữa
tài sản nợ và tài sản có, khả năng điều hành, quản trị rủi ro và đặc biệt là sự hoạt động dựa trên niềm

tin.
2
Ngân hàng là một định chế trung gian tài chính đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong nền
kinh tế, nó điều tiết nguồn vốn từ những nơi thiếu vốn đến những nơi cần vốn. Chính vì hoạt động
chính này, để có thể tạo ra được nhiều lợi nhuận, các ngân hàng ngày càng phớt lờ đi các tiêu chuẩn
về thẩm định chất lượng các khoản cho vay của mình, chính điều đó tạo ra sự mất cân đối nghiêm
trọng giữa cơ cấu tài sản có và tài sản nợ, tạo sự mất cân bằng và dễ gây ra sụp đổ cho các ngân
hàng. Ngoài ra, mỗi ngân hàng lại có các chính sách tín dụng riêng biệt do Ban Quản trị đề ra, chính
sự quản trị thiếu kiểm soát và cân nhắc đã và sẽ mang đến những nguy hiểm cho các ngân hàng này.
Đặc điểm nổi bật nhất và không thể tách rời của các định chế tài chính nói chung hay ngân hàng nói
riêng đó là sự hoạt động dựa trên niềm tin, các tổ chức tín dụng, các tổ chức kinh tế và các cá nhân
quan hệ với nhau dựa vào sự tin tưởng lẫn nhau nên khi sự tin tưởng này không còn thì sẽ xảy ra
những điều vô cùng tồi tệ, có thể kéo theo sự sụp đổ hàng loạt của cả hệ thống tài chính. Mức độ tin
cậy của các ngân hàng có thể được đánh giá dựa trên độ lành mạnh và an toàn về tài chính được
đánh giá trong quá trình hoạt động kinh doanh, hiện nay thường được đánh giá qua hạng mức tín
nhiệm và nhiều chỉ tiêu khác. Còn sự hoạt động dựa trên niềm tin là khả năng “bị tổn thương”, như
là việc cấp tín dụng và tin rằng người đi vay sẽ hoàn trả đầy đủ vốn và lãi vay..., mang tính chất tiềm
ẩn và luôn luôn tồn tại, không thể loại trừ mà chỉ có thể hạn chế tuỳ vào chính sách tín dụng cũng
như khả năng quản trị của mỗi ngân hàng.
Nếu nói về các cú sốc ngoại sinh của nền kinh tế, ta có thể nhắc đến môi trường kinh tế mà
các ngân hàng này tồn tại như môi trường pháp lý, chính sách vĩ mô… hay đôi khi chính là hiệu ứng
“domino” phát sinh và lan truyền mỗi khi có một sự kiện xuất hiện từ chính các định chế tài chính
này.
Môi trường pháp lý và chính sách vĩ mô là hai yếu tố cực kỳ quan trọng, chúng thể hiện suy
nghĩ của những người làm chính sách định hướng cho nền kinh tế. Các tổ chức kinh tế có hoạt động
dễ dàng và hiệu quả hay không là do những yếu tố này chi phối, tiếp đó mới là sự lan truyền trong
hệ thống các định chế tài chính.
3
Rủi ro
của quá

trình hội
nhập
Rủi ro
môi
trường
pháp lý
Rủi ro
thanh
khoản
Rủi ro tín
dụng
3
Rủi ro
môi
trường
pháp lý
Rủi ro về
giá
Rủi ro hệ
thống
khác
Rủi ro tín
dụng
Khả năng
quản trị
và rủi ro
đạo đức
Hệ thống
kiểm soát
nội bộ

Sự hợp
tác giữa
các
NHTM
3
Rủi ro hệ
thống
khác
Sự hợp
tác giữa
các
NHTM
4
1.3 Các nhân tố tác động đến tính dễ tổn thương của các ngân hàng thương mại
1.3.1 Các nhân tố nội sinh
1.3.1.1 Rủi ro thanh khoản – sự mất cân đối giữa tài sản nợ và tài sản có
Rủi ro thanh khoản xảy ra khi cung về tiền ít hơn cầu về tiền, rủi ro thanh khoản liên quan
đến khả năng chuyển các tài sản chính thành tiền một cách nhanh chóng mà không chịu thất thoát về
giá cả. Hay nói một cách khác rủi ro thanh khoản là rủi ro khi ngân hàng không đủ tiền đáp ứng các
khoản phải trả khi đến hạn thanh toán, hoặc vì một biến cố nào đó mà khách hàng rút tiền ào ạt.
Sự mất cân đối giữa tài sản nợ (Tài sản nợ của ngân hàng gồm: nguồn vốn huy động được,
vốn vay từ các tổ chức tín dụng khác) và tài sản có (Tài sản có của ngân hàng gồm: tiền mặt, nguồn
tín dụng, tiền gửi ở các ngân hàng khác, đầu tư, chứng khoán và các tài sản khác) là trạng thái chênh
lệch, không cân đối giữa nguồn vốn huy động được và cho vay trên thị trường, giữa dư nợ cho vay
ngắn hạn với cho vay trung hạn, giữa nguồn huy động ngắn hạn dùng để cho vay trung, dài hạn.
Việc cơ cấu tài sản nợ và tài sản có phù hợp nhằm hạn chế thấp nhất rủi ro có thể xảy ra, đây là công
việc hết sức quan trọng để quản lý rủi ro thanh khoản của các ngân hàng thương mại.
Nếu các ngân hàng thương mại để xảy ra trạng thái mất cân đối giữa tài sản nợ và tài sản có
thì ngân hàng sẽ dễ dàng rơi vào tình trạng mất khả năng thanh khoản. Một khi rủi ro thanh khoản
của ngân hàng cao thì rủi ro đỗ vỡ của ngân hàng cũng sẽ cao vì vậy thanh khoản có ý nghĩa đặc biệt

quan trọng đối với ngân hàng.
Có hai nguyên nhân giải thích tại sao thanh khoản lại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với
ngân hàng:
1
- Thứ nhất, cần phải có thanh khoản để đáp ứng yêu cầu vay mới mà không cần phải thu hồi
những khoản cho vay đang trong hạn hoặc thanh lý các khoản đầu tư có kỳ hạn.
- Thứ hai, cần có thanh khoản để đáp ứng tất cả các biến động hàng ngày hay theo mùa vụ về
nhu cầu rút tiền một cách kịp thời và có trật tự. Do ngân hàng thường xuyên huy động tiền gửi ngắn
hạn (với lãi suất thấp) và cho vay số tiền đó với thời hạn dài hạn (lãi suất cao hơn) nên ngân hàng về
cơ bản luôn có nhu cầu thanh khoản rất lớn.
Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng thể hiện nhiệm vụ cơ bản nhất của ngân hàng đó
là huy động vốn và cho vay vốn. Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa các cá nhân và tổ chức, hút
vốn từ nơi nhàn rỗi và bơm vào nơi khan thiếu. Nền tảng cơ bản cho hoạt động của ngân hàng đó là
lòng tin của người gửi tiền, nếu người gửi tiền không còn niềm tin vào các hoạt động của ngân hàng
nữa thì việc đỗ vỡ của hệ thống ngân hàng thương mại là điều không tránh khỏi. Thanh khoản ảnh
1
Theo taichinh24h.com
5
hưởng đến lòng tin của người gửi tiền và người cho vay. Thanh khoản kém, chứ không phải là chất
lượng tài sản có kém, mới là nguyên nhân trực tiếp của hầu hết các trường hợp đổ vỡ ngân hàng.
1.3.1.2 Rủi ro tín dụng - Sự quản lý và giám sát tín dụng
Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất
trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả
năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.
2
Trong quan hệ tín dụng có hai đối tượng tham gia là ngân hàng cho vay và người đi vay.
Nhưng người đi vay sử dụng tiền vay trong một thời gian, không gian cụ thể, tuân theo sự chi phối
của những điều kiện cụ thể nhất định mà ta gọi là môi trường kinh doanh, và đây là đối tượng thứ ba
có mặt trong quan hệ tín dụng. Rủi ro tín dụng xuất phát từ môi trường kinh doanh gọi là rủi ro do
nguyên nhân khách quan. Rủi ro xuất phát từ người vay và ngân hàng cho vay gọi là rủi ro do

nguyên nhân chủ quan.
Rủi ro khách quan do môi trường kinh doanh là rủi ro mang tính chất hệ thống nên sẽ được
đề cập ở phần sau. Ở đây, chúng ta sẽ tập trung nói về rủi ro tín dụng có nguyên nhân chủ quan từ
người vay và ngân hàng (sự quản lý và giám sát tín dụng).
 Rủi ro từ người đi vay:
- Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay: Đa số các doanh nghiệp
khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh doanh cụ thể, khả thi. Số lượng các doanh nghiệp
sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên
những vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu
đến các doanh nghiệp khác.
- Khả năng quản lý kinh doanh kém: Khi các doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để mở rộng
quy mô kinh doanh, đa phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít doanh nghiệp nào
mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán
theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá to so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn
đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.
- Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch: Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ
bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài
ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh
nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp
cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Khi cán bộ ngân hàng lập
2
Trích Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN
6
các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh nghiệp cung cấp, thường
thiếu tính thực tế và xác thực. Đây cũng là nguyên nhân vì sao ngân hàng vẫn luôn xem nặng phần
tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống rủi ro tín dụng.
 Rủi ro từ phía ngân hàng:
Trước hết phải nói đến các ngân hàng còn thiếu một chính sách tín dụng nhất quán, chính
sách tín dụng ở đây phải bao gồm định hướng chung cho việc cho vay, chế độ tín dụng ngắn hạn,
trung và dài hạn, các quy định về bảo đảm tiền vay, danh mục lựa chọn khách hàng trong từng giai

đoạn… Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng từ phía ngân hàng có thể được khái quát cơ bản dưới
đây:
- Ngân hàng không có đủ thông tin về các số liệu thống kê, chỉ tiêu để phân tích và đánh giá
khách hàng,… dẫn đến việc xác định sai hiệu quả của phương án xin vay, hoặc xác định thời hạn
cho vay và trả nợ không phù hợp với phương án kinh doanh của khách hàng.
- Sự lơi lỏng trong quá trình giám sát trong và sau khi cho vay nên không phát hiện kịp thời
hiện tượng sử dụng vốn sai mục đích.
- Quá tin tưởng vào tài sản thế chấp, bảo lãnh, bảo hiểm, coi đó là vật đảm bảo chắc chắn cho
sự thu hồi cả gốc và lãi tiền vay.
- Chạy theo số lượng (hoặc theo kế hoạch) mà sao lãng việc coi trọng chất lượng khoản vay,
quá lạc quan và tin tưởng vào sự thành công của phương án kinh doanh của khách hàng.
- Ngân hàng thiếu một bộ phận chuyên trách theo dõi, quản lý rủi ro, quản lý hạn mức tín
dụng tối đa cho từng khách hàng thuộc từng ngành nghề, sản phẩm địa phương khác nhau để phân
tán rủi ro, các dự báo cần thiết trong từng thời kỳ. Các ngân hàng thường có thói quen tập trung
nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi cho vay mà lơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng
vốn sau khi cho vay. Khi ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lý một cách chủ
động để đảm bảo sẽ được hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong những trách nhiệm quan trọng nhất của
cán bộ tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung. Việc theo dõi hoạt động của khách hàng vay
nhằm tuân thủ các điều khoản đề ra trong hợp đồng tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng nhằm
tìm ra những cơ hội kinh doanh mới và mở rộng cơ hội kinh doanh. Tuy nhiên trong thời gian qua
các NHTM chưa thực hiện tốt công tác này. Điều này một phần do yếu tố tâm lý ngại gây phiền hà
cho khách hàng của cán bộ ngân hàng, một phần do hệ thống thông tin quản lý phục vụ kinh doanh
tại các doanh nghiệp quá lạc hậu, không cung cấp được kịp thời, đầy đủ các thông tin mà NHTM
yêu cầu.
7
- Năng lực và phẩm chất đạo đức của một số cán bộ tín dụng ngân hàng chưa đủ tầm và vấn đề
quản lý sử dụng, đãi ngộ cán bộ ngân hàng chưa thỏa đáng. Ngoài ra việc lỏng lẻo trong công tác
kiểm tra nội bộ các ngân hàng của cán bộ ngân hàng cũng là nguyên nhân gây ra rủi ro. Kiểm tra nội
bộ có điểm mạnh hơn thanh tra NHNN ở tính thời gian vì nó nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa
phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người kiểm tra viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường

xuyên cùng với công việc kinh doanh.
- Ngân hàng không giải quyết hợp lý quan hệ giữa nguồn vốn huy động và nguồn vốn sử
dụng, cụ thể là: dự trữ vốn quá ít so với nhu cầu bảo đảm thanh toán, từ đó dẫn đến mất khả năng
thanh toán nếu khách hàng có nhu cầu rút vốn nhiều; hoặc dự trữ vốn quá nhiều, gây ứ đọng vốn,
lãng phí trong sử dụng vốn; hoặc lấy vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn quá mức quy định.
- Cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng chưa thực sự lành mạnh, việc chạy theo quy mô, bỏ qua
các tiêu chuẩn, điều kiện trong cho vay, thiếu quan tâm đến chất lượng khoản vay.
Sau đây, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về các chỉ tiêu đánh giá tính dễ tổn thương của các ngân
hàng thương mại ở khía cạnh rủi ro tín dụng:
a. Tỷ lệ nợ xấu
Nợ xấu là khoản cho khách hàng vay mà khoản nợ này đang ở tình trạng dưới tiêu chuẩn, có
khả năng không thu được đầy đủ lãi vay và vốn gốc hoặc có khả năng mất vốn. Đối với các khoản
nợ xấu buộc ngân hàng phải trích lập dự phòng rủi ro hoặc khi khoản nợ này không thu hồi được
đầy đủ đều làm giảm lợi nhuận của ngân hàng, đồng thời nó cũng làm cho ngân hàng bị giảm sút uy
tín, thậm chí có thể làm cho ngân hàng bị khủng hoảng khi các khoản nợ xấu trở nên quá lớn.
Nợ xấu (hay nợ có vấn đề, nợ không lành mạnh, nợ khó đòi, nợ không thể đòi,…) là những
khoản nợ mang các đặc trưng :
- Khách hàng đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng khi các cam kết này đã hết
hạn.
- Tình hình tài chính của khách hàng đang và có chiều hướng xấu dẫn đến có khả năng ngân
hàng không thu hồi được cả vốn lẫn lãi.
- Tài sản đảm bảo (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh) được đánh giá là giá trị phát mãi không đủ
trang trải nợ gốc và lãi.
- Thông thường về thời gian là các khoản nợ quá hạn ít nhất là 90 ngày.
Tỷ lệ nợ xấu là tỷ lệ nợ dưới tiêu chuẩn trên tổng dư nợ cho vay của ngân hàng.
ỷ ệ ợ ấ
(
%
)
=

ợ ấ
ổ ư ợ
× %
8
b. Tỷ lệ nợ quá hạn
Nợ quá hạn được hiểu một cách đơn giản đó là khoản nợ đến hạn mà khách hàng không
thanh toán đủ tiền gốc và tiền lãi cho ngân hàng. Có thể nói nợ quá hạn là một dạng nợ xấu, và cũng
giống như các khoản nợ xấu, các khoản nợ quá hạn cũng buộc các ngân hàng phải trích lập dự
phòng và cũng làm tăng tính dễ tổn thương cho các ngân hàng.
ỷ ệ ợ á ạ (%) =
ư ợ á ạ
ổ ư ợ
× %
c. Hệ số rủi ro tín dụng
Hệ số này cho thấy tỷ trọng của các khoản mục tín dụng trong tài sản có, khoản mục tín dụng
trong tổng tài sản càng lớn thì lợi nhuận sẽ lớn nhưng đồng thời rủi ro tín dụng cũng rất cao.
ệ ố ủ í ụ (%) =
ổ ư ợ
ổ à ả ệ ó
× %
Thông thường, tổng dư nợ cho vay của ngân hàng được chia thành 03 nhóm :
- Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng xấu: là những khoản cho vay có mức độ
rủi ro lớn nhưng có thể mang lại thu nhập cao cho ngân hàng. Đây là khoản tín dụng chiếm tỷ trọng
thấp trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng.
- Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng tốt: là những khoản cho vay có mức độ
rủi ro thấp nhưng có thể mang lại thu nhập không cao cho ngân hàng. Đây là khoản tín dụng cũng
chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng.
- Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng trung bình: là những khoản cho vay có
mức độ rủi ro có thể chấp nhận được và thu nhập mang lại cho ngân hàng là vừa phải. Đây là khoản
tín dụng chiếm tỷ trọng áp đảo trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng.

d. Phương pháp đánh giá rủi ro – VAR
VAR là một phương pháp đánh giá rủi ro bằng cách sử dụng các công cụ toán học và thống
kê. Một cách tổng quát, VAR được đo lường như tổn thất tối đa ở tình huống xấu nhất trong một
khoảng thời gian xác định với một mức xác suất cho trước (thường gọi là độ tin cậy), VAR được xác
định theo cách này được gọi là VAR tuyệt đối. Tuy nhiên, nhằm mục đích xác định vốn kinh tế mà
ngân hàng cần nắm giữ, VAR thường được xác định bằng chênh lệch giữa tổn thất ngoài dự tính và
tổn thất dự tính, trong đó tổn thất dự tính và tổn thất ngoài dự tính được xác định từ phân phối tổn
thất trong tương lai của ngân hàng. Trong hoạt động tín dụng, tổn thất dự tính được xem như là một
loại chi phí, loại chi phí này thể hiện bản chất của kinh doanh tín dụng là kinh doanh rủi ro. Các
ngân hàng thường trích lập dự phòng để bù đắp loại chi phí này. Chính vì vậy, Basel II đã đề xuất
9
loại bỏ quỹ dự phòng này trong công thức tính toán vốn cấp 2 (Tier 2 Capital). Vốn chỉ được nắm
giữ để bù đắp cho phần tổn thất ngoài dự tính, và đây chính là phần được xác định tương ứng với
VAR.
VAR tương đối dễ hiểu về mặt khái niệm, tuy nhiên khá phức tạp khi triển khai thực hiện,
đặc biệt trong đo lường rủi ro tín dụng. Vì phần lớn các khoản vay được cấp bởi các ngân hàng
không được mua bán trên thị trường thứ cấp, các dữ liệu cần thiết giúp cho việc ước lượng phân
phối tổn thất tín dụng trong tương lai hầu như rất hạn chế. Để giải quyết khó khăn này, hầu hết các
cách tiếp cận mô hình rủi ro tín dụng đều dựa trên một vài giả thiết nhất định cũng như các lý thuyết
kinh tế để mô phỏng phân phối tổn thất tín dụng, từ đó xác định VAR tín dụng.
Hầu như các ngân hàng ở các nước phát triển đều áp dụng các mô hình đo lường rủi ro tín
dụng khác nhau phù hợp với đặc điểm riêng của mỗi ngân hàng, thế nhưng các mô hình đo lường
VAR tín dụng hiện nay đều dựa trên bốn nhóm mô hình chính: CreditMetrics của JP Morgan,
PortfolioManager của KMV, CreditRisk của Credit Suisse, và CreditPortfolioView của McKinsey
3
.
Các mô hình trên sử dụng các cách tiếp cận khác nhau, nhưng nhìn chung để ước lượng phân
phối tổn thất của danh mục tín dụng, các thông số cần thiết bao gồm: Xác suất không hoàn trả của
khách hàng – đây là thông số tương đối phức tạp và thường được ước lượng trực tiếp, xem như là
một dữ liệu đầu vào cụ thể của các mô hình rủi ro tín dụng; tổn thất tín dụng trong trường hợp khách

hàng không hoàn trả (có tính đến nợ được thu hồi khi khách hàng không hoàn trả, ví dụ như thanh lý
tài sản đảm bảo) – được ước lượng bằng cách ấn định từ đầu thông qua đánh giá giá trị tài sản đảm
bảo, hoặc có thể được ước lượng bằng cách mô phỏng; tương quan không hoàn trả giữa các khách
hàng – có thể được ước lượng trực tiếp như một dữ liệu đầu vào cụ thể của mô hình, nhưng cũng có
thể được ước lượng gián tiếp như một giá trị ẩn trong các thông số khác. Khi tất cả các thông số trên
đã được ước lượng, VAR tín dụng có thể được xác định dễ dàng.
1.3.1.3 Khả năng quản trị, điều hành và rủi ro đạo đức
Trong những năm gần đây, số lượng ngân hàng thương mại tăng nhanh, làm tăng sự cạnh
tranh hoạt động giữa các ngân hàng thương mại. Thế nhưng khả năng quản trị điều hành trong các
ngân hàng còn rất yếu kém chưa đáp ứng, đối phó kịp với những thay đổi, biến động của thị trường
trong nước cũng như những tác động của nền kinh tế thế giới. Ban quản trị của nhiều ngân hàng còn
mang nặng “bệnh thành tích” chạy đua theo lợi nhuận bất chấp những rủi ro mà ngân hàng có thể
gặp phải, đó là một thực tế đáng lo ngại mà phải nhanh chóng khắc phục.
3
Theo Đặng Tùng Lâm – Sử dụng các mô hình quản trị rủi ro danh mục đầu tư tín dụng dựa trên khung Value at risk
(VAR) – Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng – 2010.
10
Một số cán bộ hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng có tư chất ngày càng tha hóa, họ vì những
lợi ích cá nhân họ mà bỏ qua những nguyên tắc, quy định trong các nghiệp vụ ngân hàng. Trên thực
tế đã có xảy ra một số vụ án kinh tế lớn trong thời gian vừa qua có liên quan đến cán bộ NHTM đều
có sự tiếp tay của một số cán bộ ngân hàng cùng với khách hàng làm giả hồ sơ vay, hay nâng giá tài
sản thế chấp, cầm cố lên quá cao so với thực tế để rút tiền ngân hàng. Đây là một hành động cực kỳ
nguy hiểm làm cho rủi ro tín dụng tăng cao dẫn đến rủi ro thanh khoản tăng cao ảnh hưởng đến uy
tín hoạt động của ngân hàng. Đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố tối quan trọng để giải
quyết vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ kém về năng lực có thể bồi dưỡng thêm, nhưng
một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật vô cùng nguy hiểm khi được bố
trí trong công tác tín dụng. Bên cạnh đó thì trình độ chuyên môn của lực lượng đội ngũ cán bộ,
chuyên viên ngân hàng còn yếu nên cần được đào tạo nhiều hơn nữa về chuyên môn nghiệp vụ để
nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành ngân hàng.
1.3.1.4 Hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ

Kiểm tra nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra NHNN ở tính thời gian vì nó nhanh chóng, kịp
thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người kiểm tra viên, do việc kiểm tra được
thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh. Thế nhưng thực tế trong thời gian qua, công
việc kiểm tra nội bộ của các ngân hàng hầu như chỉ tồn tại trên hình thức. Kiểm tra nội bộ cần phải
được xem như hệ thống “thắng” của cỗ xe tín dụng. Cỗ xe càng lao đi với vận tốc lớn thì hệ thống
này càng phải an toàn, hiệu quả thì mới tránh cho cỗ xe khỏi đi vào những ngã rẽ rủi ro vốn luôn
luôn tồn tại thường trực trên con đường đi tới.
1.3.1.5 Sự hợp tác giữa các ngân hàng thương mại
Kinh doanh ngân hàng là một nghề đặc biệt huy động vốn để cho vay hay nói cách khác đi
vay để cho vay, do vậy vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng là không thể tránh khỏi, các ngân
hàng cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm hạn chế rủi ro. Sự hợp tác nảy sinh do nhu cầu quản
lý rủi ro đối với cùng một khách hàng khi khách hàng này vay tiền tại nhiều ngân hàng. Trong quản
trị tài chính, khả năng trả nợ của một khách hàng là một con số cụ thể, có giới hạn tối đa của nó.
Nếu do sự thiếu trao đổi thông tin, dẫn đến việc nhiều ngân hàng cùng cho vay một khách hàng đến
mức vượt quá giới hạn tối đa này thì rủi ro chia đều cho tất cả chứ không chừa một ngân hàng nào.
Trong tình hình cạnh tranh giữa các NHTM Việt Nam ngày càng gay gắt như hiện nay, vai
trò của CIC là rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin kịp thời, chính xác để các ngân hàng có
các quyết định cho vay hợp lý. Đáng tiếc là hiện nay ngân hàng dữ liệu của CIC chưa đầy đủ và
thông tin còn quá đơn điệu, chưa được cập nhật và xử lý kịp thời.
11
1.3.2 Các nhân tố ngoại sinh
1.3.2.1 Rủi ro của quá trình tự do hoá tài chính, hội nhập quốc tế
Quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra
một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các doanh nghiệp, những khách hàng thường
xuyên của ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị
trường. Bên cạnh đó, bản thân sự cạnh tranh của các ngân hàng thương mại trong nước và quốc tế
trong môi trường hội nhập kinh tế cũng khiến cho các ngân hàng trong nước với hệ thống quản lý
yếu kém gặp phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên bởi hầu hết các khách hàng có tiềm lực tài chính
lớn sẽ bị các ngân hàng nước ngoài thu hút.
1.3.2.2 Rủi ro môi trường pháp lý

Một trong những yếu kém đáng chú ý nhất của hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam
là sự tăng trưởng một cách không cân đối trong nhiều năm. Sự mất cân đối này cần được nhìn nhận
cả trên phương diện vĩ mô và vi mô. Sự tăng trưởng nhanh về quy mô và vốn trong khi các thiết chế
quản lý chưa theo kịp là các vấn đề nội tại của khu vực này.
Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội, Chính phủ, Ngân hàng
Nhà nước và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật, văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành
luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, luật và các văn bản đã có song việc
triển khai vào hoạt động ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều vướng mắc bất
cập như một số văn bản về việc cưỡng chế thu hồi nợ. Những văn bản này đều có quy định: trong
những hợp khách hàng không trả được nợ, NHTM có quyền xử lý tài sản đảm bảo nợ vay. Trên thực
tế, các NHTM không làm được điều này vì ngân hàng là một tổ chức kinh tế, không phải là cơ quan
quyền lực nhà nước, không có chức năng cưỡng chế buộc khách hàng bàn giao tài sản đảm bảo cho
ngân hàng để xử lý hoặc việc chuyển tài sản đảm bảo nợ vay để Tòa án xử lý qua con đường tố
tụng… cùng nhiều các quy định khác dẫn đến tình trạng NHTM không thể giải quyết được nợ tồn
đọng, tài sản tồn đọng.
1.3.2.3 Rủi ro về giá
a. Rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến gắn với thay đổi của lãi suất
và nhiều nhân tố khác như cấu trúc và kỳ hạn của tài sản và nguồn, quy mô và kỳ hạn các hợp đồng
kỳ hạn…
Các nguyên nhân chính của rủi ro lãi suất bao gồm: sự không cân xứng về kì hạn giữa tài sản
nợ và tài sản có; ngân hàng sử dụng các mức lãi suất khác nhau trong hoạt động huy động vốn và
12
cho vay (Một ví dụ đơn giản như trường hợp ngân hàng huy động vốn với lãi suất cố định nhưng
cho vay, đầu tư với lãi suất biến đổi. Khi lãi suất giảm, rủi ro lãi suất sẽ xuất hiện vì chi phí lãi phải
trả lớn hơn lãi thu được, làm giảm lợi nhuận; Ngược lại, khi ngân hàng huy động vốn với lãi suất
biến đổi nhưng cho vay, đầu tư với lãi suất cố định. Khi lãi suất tăng, rủi ro lãi suất sẽ xuất hiện vì
chi phí lãi phải trả lớn hơn lãi thu được); Do có sự không phù hợp về khối lượng, thời hạn giữa
nguồn vốn huy động với việc sử dụng nguồn vốn đó để cho vay; Do tỷ lệ lạm phát dự kiến không
phù hợp với tỷ lệ lạm phát thực tế làm cho lãi suất thị trường thay đổi khác với dự kiến của ngân

hàng khiến vốn của ngân hàng không được bảo toàn sau khi cho vay; Ngoài ra, khi lãi suất thị
trường thay đổi, ngân hàng còn có thể gặp rủi ro giảm giá trị tài sản.
Khi rủi ro lãi suất xuất hiện sẽ làm tăng chi phí nguồn vốn của ngân hàng; giảm thu nhập từ
tài sản của ngân hàng; làm giảm giá trị thị trường của tài sản có và vốn chủ sở hữu của ngân hàng.
Chúng ta có thể đánh giá rủi ro lãi suất thông qua các chỉ số sau:
4
- Hệ số chênh lệch lãi thuần (còn gọi là hệ số thu nhập lãi ròng cận biên NIM – Net Interest
Margin).
- Hệ số rủi ro lãi suất (R) – Khe hở nhạy cảm lãi suất (Interest rate sensitive gap).
- Khe hở kỳ hạn (Duration gap).
Theo kinh nghiệm của các nước, để kiểm soát rủi ro lãi suất, các ngân hàng thực hiện các
biện pháp: Mua bảo hiểm rủi ro lãi suất để chuyển giao toàn bộ rủi ro lãi suất cho cơ quan bảo hiểm
chuyên nghiệp; Áp dụng các biện pháp cho vay thương mại (cho vay ngắn hạn) để ngân hàng có thể
linh động thay đổi lãi suất cho vay khi lãi suất thị trường thay đổi theo chiều hướng tăng; Áp dụng
chiến lược chủ động trong quản trị rủi ro lãi suất: Nếu ngân hàng có thể dự báo được chiều hướng
thay đổi lãi suất, ngân hàng có thể chủ động điều chỉnh khe hở nhạy cảm lãi suất và khe hở kỳ hạn
một cách hợp lý; Vận dụng các kỹ thuật bảo hiểm lãi suất như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai,
quyền chọn, Swap.
b. Rủi ro tỷ giá hối đoái
Rủi ro tỷ giá hối đoái là dạng rủi ro xuất hiện khi ngân hàng tiến hành các giao dịch trên thị
trường ngoại hối hay khi tỷ giá thay đổi làm thay đổi giá trị tài sản bằng ngoại tệ của ngân hàng.
Tiềm ẩn là đặc điểm cần lưu ý trong rủi ro về tỷ giá. Điều này có nghĩa là với trình độ và
phương pháp quản lý rủi ro không phù hợp với hoạt động kinh doanh ngoại tệ, ngân hàng vẫn có thể
hoạt động bình thường và thậm chí có lãi trong điều kiện thị trường bình thường, thuận lợi. Chỉ đến
4
Theo Mã Thị Nam Chi: “Rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh tại các NHTMCP Việt Nam thực trạng và giải
pháp” – Luận văn thạc sĩ kinh tế.
13
khi tỷ giá biến động bất lợi, thị trường có nhiều biến động, lúc đó mức độ rủi ro tiềm ẩn mới được
hiện thực hóa bằng những khoản lỗ thực sự ngoài dự kiến.

Một số ngân hàng thực hiện kinh doanh ngoại tệ để đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Điều
này có nghĩa là khi khách hàng có nhu cầu mua, bán ngoại tệ, ngân hàng mới thực hiện giao dịch đối
ứng để đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ của khách hàng. Trong trường hợp này, rủi ro ngoại hối của
ngân hàng ít. Ngược lại, những ngân hàng lớn hoạt động đa dạng, năng động trên thị trường quốc tế
không chỉ kinh doanh ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu của khách hàng mà còn tự kinh doanh cho bản
thân ngân hàng để thu lợi nhuận (được gọi là hoạt động tự doanh hay còn gọi là đầu cơ). Trong
trường hợp này, rủi ro tỷ giá của ngân hàng rất lớn. Các ngân hàng có hoạt động tự doanh như vậy
đòi hỏi phải có một cơ chế quản lý rủi ro rõ ràng đầy đủ và phù hợp với mức độ rủi ro của Ngân
hàng. Trong những năm gần đây, các ngân hàng thường tiến hành nhiều giao dịch ngoại hối để đảm
bảo cho lượng ngoại tệ mà ngân hàng cần sử dụng. Không những thế, các ngân hàng có mục đích
tìm kiếm lợi nhuận trên thị trường ngoại hối khiến rủi ro về tỷ giá hối đoái ngày càng dễ làm cho các
ngân hàng bị tổn thương hơn.
Như chúng ta đã biết, các giao dịch mua bán ngoại tệ của NHTM làm chuyển giao quyền sở
hữu về ngoại tệ, từ đó, làm phát sinh trạng thái ngoại tệ trường hoặc đoản. Một NHTM duy trì trạng
thái ngoại tệ trường sẽ gặp rủi ro hối đoái nếu như ngoại tệ giảm giá; và ngược lại, họ sẽ gặp rủi ro
khi ngoại tệ tăng giá trong trường hợp NHTM đó duy trì trạng thái ngoại tệ đoản. Điều đó có nghĩa
là khả năng rủi ro hối đoái sẽ xảy ra nếu như NHTM đó duy trì trạng thái ngoại tệ mở và tỷ giá trên
thị trường biến động. Việc giới hạn trạng thái ngoại tệ như vậy chủ yếu là giúp các ngân hàng phòng
tránh rủi ro tỷ giá đặc biệt là các ngân hàng có tư tưởng kinh doanh mạo hiểm, hạn chế các ngân
hàng này có trạng thái ngoại tệ mở quá lớn so với vốn tự có. Bởi khi rủi ro tỷ giá thực sự phát sinh,
các ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ mất vốn và nếu để trạng thái ngoại tệ mở quá cao thì ngân
hàng sẽ chịu nhiều thua lỗ, giảm năng lực tài chính. Thực tế cho thấy, các NHTM thường duy trì
trạng thái ngoại tệ đoản và hậu quả là phải đối mặt với rủi ro tỷ giá khi tỷ giá tăng.
 Giá trị chịu rủi ro (VAR – Value At Risk) là tổn thất dự kiến của ngân hàng đối với
những biến động về tỷ giá. Hạn mức giá trị chịu rủi ro là mức tổn thất dự kiến tối đa mà ngân hàng
có thể chịu đựng được.
Giá trị chịu rủi ro = Trạng thái ngoại hối × Độ biến động dự tính của tỷ giá × Tỷ giá đóng cửa
Trong đó:
- Trạng thái ngoại hối được tính theo từng đồng tiền.
- Mức độ biến động tỷ giá dự tính được tính như sau:

Mức độ biến động tỷ giá dự tính (với mức độ tin cậy là 99%)
14
ứ độ ế độ ỷ á ự í =
∑ (

)
× ,
Với: = ( )
Trong đó:
- Ln : Hàm lô-ga-rit tự nhiên
- E
i
: Tỷ giá vào thời điểm i
- E
i-1
: Tỷ giá vào thời điểm i-1
Giá trị chịu rủi ro phản ánh được mức độ rủi ro về tỷ giá trên cơ sở xem xét 2 yếu tố trạng
thái ngoại hối và mức độ biến động tỷ giá dự kiến đối với từng đồng tiền. Ngoài ra, giá trị chịu rủi ro
đo lường được mức độ rủi ro về tỷ giá, tức là mức độ tổn thất dự kiến đối với ngân hàng khi tỷ giá
biến động. Như vậy, hạn mức về giá trị chịu rủi ro cho phép ngân hàng giới hạn được mức độ tổn
thất. Trong khi đó, hạn mức về trạng thái mặc dù có thể hạn chế rủi ro tỷ giá nhưng chưa tính đến sự
biến động của tỷ giá, nên chưa đo lường được mức độ tổn thất dự kiến và do đó chưa giới hạn được
tổn thất của ngân hàng.
1.3.2.4 Rủi ro hệ thống khác
 Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của NHNN:
Bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra ngân hàng và đảm bảo an
toàn hệ thống chưa có sự cải thiện căn bản về chất lượng. Năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa
đáp ứng được yêu cầu, thậm chí một số nghiệp vụ kinh doanh và công nghệ mới Thanh tra ngân
hàng còn chưa theo kịp. Nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát lạc hậu, chậm được đổi mới.
Vai trò kiểm toán chưa được phát huy và hệ thống thông tin chưa được tổ chức một cách hữu hiệu.

Thanh tra tại chỗ vẫn là phương pháp chủ yếu, khả năng kiểm soát toàn bộ thị trường tiền tệ và giám
sát rủi ro còn yếu. Thanh tra ngân hàng còn hoạt động một cách thụ động theo kiểu xử lý vụ việc đã
phát sinh, ít có khả năng ngăn chặn và phòng ngừa rủi ro và vi phạm. Mô hình tổ chức của thanh tra
ngân hàng còn nhiều bất cập.
Do vậy mà có những sai phạm của các NHTM không được thanh tra NHNN cảnh báo, có
biện pháp ngăn chặn từ đầu, để đến khi hậu quả nặng nề đã xảy ra rồi mới can thiệp. Hàng loạt các
sai phạm về cho vay, bảo lãnh tín dụng ở một số NHTM dẫn đến những rủi ro rất lớn, có nguy cơ đe
dọa sự an toàn của cả hệ thống lẽ ra có thể đã được ngăn chặn ngay từ đầu nếu bộ máy thanh tra phát
hiện và xử lý sớm hơn.
15
 Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập:
Hiện nay ở Việt Nam chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và ngân
hàng. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) của NHNN chưa phải là cơ quan định mức tín
nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập và hiệu quả, thông tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật
và ngoài ra việc kết nối thông tin với trang Web – CIC qua đường X25 của Chi cục tin học ngân
hàng còn nhiều trục trặc, chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu tra cứu thông tin tại TP.HCM. Đó cũng
là thách thức cho hệ thống ngân hàng trong việc mở rộng và kiểm soát tín dụng cho nền kinh tế
trong điều kiện thiếu một hệ thống thông tin tương xứng. Nếu các ngân hàng cố gắng chạy theo
thành tích, mở rộng tín dụng trong điều kiện môi trường thông tin không cân xứng thì sẽ gia tăng
nguy cơ nợ xấu cho hệ thống ngân hàng.
1.4 Nội dung tính dễ tổn thương – các tiêu chuẩn trên thế giới và Việt Nam để đánh giá mức
độ tổn thương của các ngân hàng thương mại
Tính dễ tổn thương là một khái niệm còn khá trừu tượng và khó để có thể khái quát hoá một
cách đầy đủ. Nhưng trong đề tài này, nhóm nghiên cứu sẽ khái quát nội dung của nó theo cách nêu
lên cách thức mà các ngân hàng có thể hoạt động tốt, hay nói cách khác chính là phương thức để hạn
chế tính dễ tổn thương. Đó chính là tính ổn định trong các hoạt động và mức độ an toàn trong cơ cấu
vốn, cơ cấu tài chính cũng như trong hoạt động của các ngân hàng thương mại. Sau khi xem xét mức
độ ổn định trong hoạt động của ngân hàng, chúng ta sẽ cùng xem xét các tiêu chuẩn trên thế giới
cũng như những qui định trong nước về độ an toàn hay chính là để đánh giá tính dễ tổn thương của
các ngân hàng thương mại.

1.4.1 Mức độ ổn định trong hoạt động của các ngân hàng thương mại
Mức độ ổn định trong hoạt động ngân hàng ở đây thể hiện ở 2 bộ phận là ổn định trong huy
động vốn và ổn định trong hoạt động cho vay.
1.4.1.1 Ổn định trong huy động vốn
Hoạt động cơ bản của các ngân hàng thương mại là huy động vốn và cho vay, đây là 2 hoạt
động giúp các ngân hàng thực hiện được chức năng trung gian tài chính của nó. Tại các ngân hàng
thương mại thì huy động vốn chính là huy động tiền gửi từ các thành phần kinh tế cũng như từ dân
cư.
Vốn là nền tảng cho mọi hoạt động của ngân hàng, ngân hàng nào có vốn mạnh thì sẽ có
nhiều lợi thế trong kinh doanh. Nếu ngân hàng nào huy động được nhiều tiền gửi thì sẽ có được
nguồn tiền ổn định để dùng trong hoạt động cho vay, không bị khan hiếm tiền. Quy mô lượng tiền
gửi cùng với vốn tự có của ngân hàng sẽ góp phần làm tăng uy tín của ngân hàng và đặc biệt là tăng
16
tính thanh khoản cho ngân hàng, giúp cho ngân hàng hạn chế được tính dễ tổn thương vốn có trước
những biến động của thị trường, những thay đổi tâm lý đột ngột của những người gửi tiền.
Có thể nói tiền gửi là bộ phận quan trọng nhất trong tài sản nợ của từng ngân hàng thương
mại cũng như toàn bộ hệ thống ngân hàng. Sự ổn định của tiền gửi được biểu hiện ở tốc độ tăng tiền
gửi, biến động của cơ cấu tiền gửi (tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi
bằng nội tệ, tiền gửi bằng ngoại tệ…).
ố độ ă ề ử à ă
(
%
)
=
ổ ề ử ố ă − ổ ề ử đầ ă
ổ ề ử đầ ă
%
Nhân tố quyết định đến ổn định tiền gửi là tỷ lệ tiết kiệm, niềm tin của người gửi tiền và khả
năng tiếp cận dịch vụ của ngân hàng, lợi nhuận thu được từ tiền gửi. Bên cạnh đó, tốc độ tăng tiền
gửi còn bị chi phối bởi khả năng lựa chọn của người gửi tiền và tập quán tiết kiệm trong dân cư. Các

nước đang phát triển có thị trường tài chính chậm phát triển, các công cụ tài chính còn ít, độ rủi ro
cao, thêm vào đó là tâm lý tiết kiệm để có thể dùng cho những khoản chi tiêu lớn trong điều kiện thu
nhập còn thấp nên tỷ lệ tiền gửi ngân hàng thường tăng ở tốc độ cao. Ngoài ra, tỷ lệ tiết kiệm còn bị
ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố vĩ mô như chính sách tiền tệ, lãi suất, tỷ giá hối đoái và các điệu kiện
dân số cũng như địa lý… khi những nhân tố này có sự thay đổi sẽ kéo theo những thay đổi trong xu
hướng tiết kiệm của người dân.
Ở đây, chúng tôi muốn chú trọng đến tính ổn định trong huy động vốn do chính bản thân các
NHTM. Ngoài các nhân tố khách quan quyết định đến quy mô nguồn vốn huy động tiền gửi: chính
sách tiền tệ, chính sách tài chính của Chính phủ; thu nhập và động cơ của người gửi tiền …, các
NHTM phải có được những chính sách phát triển đúng đắn, thường xuyên nâng cao chất lượng dịch
vụ và chăm sóc khách hàng ngày càng tốt hơn, có chính sách cạnh tranh về lãi suất và đa dạng hoá
các hình thức gửi tiền thì mới có thể tạo được sự ổn định trong huy động vốn.
- Lãi suất: lãi suất cao sẽ làm tăng chi phí, giảm thu nhập tiềm năng của ngân hàng. Nhưng
trước áp lực cạnh tranh, các ngân hàng buộc phải duy trì lãi suất cạnh tranh để thu hút khách hàng
mới và giữ chân khách hàng cũ.
- Chất lượng dịch vụ ngân hàng: Các ngân hàng có dịch vụ tốt và đa dạng sẽ có lợi thế hơn các
ngân hàng khác; Trụ sở kiên cố, phòng gửi tiền an toàn, tiện nghi cũng tạo nên ưu thế cho ngân
hàng; Đội ngũ nhân sự rất quan trọng trong việc phát triển quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng.
Với đội ngũ nhân viên được đào tạo chuyên nghiệp, các khách hàng sẽ yên tâm hơn khi nhận được
sự tư vấn của họ. Điều đó làm hình ảnh của ngân hàng có ấn tượng sâu sắc trong lòng khách hàng.
17
- Các chính sách của ngân hàng (chính sách tín dụng, chính sách đầu tư, chính sách ngân
quỹ,…) là một tiêu chuẩn đo lường quan trọng để đánh giá năng lực, trình độ của các nhà quản lý
ngân hàng. Một ngân hàng luôn đề ra những chính sách đúng đắn sẽ được khách hàng tin tưởng khi
giao dịch.
1.4.1.2 Ổn định trong hoạt động cho vay
Cho vay là hoạt động cơ bản tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng, ngoài ra ở tầm vĩ mô nó còn là
một trong những yếu tố quyết định đầu tư và tăng trưởng kinh tế.
Ổn định trong hoạt động cho vay biểu hiện tốc độ tăng các khoản cấp tín dụng. Tính ổn định
này giúp cho ngân hàng duy trì được nguồn lợi nhuận và tránh việc ứ đọng vốn tại ngân hàng.

ố độ ă à ă
(
%
)
=
ổ ố ă − ổ đầ ă
ổ đầ ă
%
Tốc độ tăng trưởng tín dụng (tăng trưởng cho vay) chủ yếu phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng
của nền kinh tế. Một nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng càng cao thì tốc độ tăng trưởng tín dụng càng
lớn do nhu cầu về vốn của các thành phần trong nền kinh tế là rất lớn, đặc biệt là các doanh nghiệp ở
những nước đang phát triển có đặc điểm là hoạt động dựa nhiều vào nguồn vốn vay từ các ngân
hàng. Ngoài ra, sự can thiệp từ phía chính phủ vào hoạt động ngân hàng thường xuyên xảy ra ở các
nước đang phát triển buộc các NHTM phải tăng cường cho vay với các điều kiện ưu đãi dưới sự chỉ
định hay bảo lãnh của Chính phủ cũng là một nhân tố thúc đẩy tốc độ tăng trưởng tín dụng.
 So sánh tốc độ tăng trưởng tiền gửi và tốc độ tăng trưởng hoạt động cho vay:
- Nếu tốc độ tăng tiền gửi nhanh hơn tốc độ tăng cho vay trong một thời gian dài có thể đẩy
ngân hàng vào tình thế tiến thoái lưỡng nan do dư thừa nguồn vốn mà không cho vay được trong khi
vẫn phải chi trả lãi cho những người gửi tiền. Hệ quả là ngân hàng buộc phải giảm tốc độ tăng tiền
gửi thông qua việc giảm lãi suất hay cố gắng tăng nhanh tốc độ cho vay thông qua việc nới lỏng các
điều kiện cho vay. Cả 2 biện pháp này đều có khả năng làm mất uy tín, niềm tin hay tăng rủi ro cho
ngân hàng, tức là làm gia tăng tính dễ tổn thương cho chính ngân hàng.
- Nếu tốc độ tăng tiền gửi thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng cho vay thì ngân hàng dễ
lâm vào tình trạng khan hiếm nguồn vốn cho vay, buộc ngân hàng phải tăng lãi suất tiết kiệm để thu
hút tiền gửi. Tuy nhiên, việc này không phải là dễ dàng trong điều kiện tự do hoá lãi suất như hiện
nay và quan trọng hơn là khi tăng lãi suất tiết kiệm tương ứng cũng sẽ làm cho lãi suất cho vay tăng
cao, từ đó làm giảm tốc độ cho vay của ngân hàng xuống quá thấp. Như thế, có thể ngân hàng lại
18
phải điều chỉnh các điều kiện cho vay xuống, đồng thời cũng làm gia tăng tính dễ tổn thương cho
ngân hàng.

- Như vậy, ta có thể thấy một cách rất rõ ràng rằng khi tốc độ tăng trưởng tiền gửi và cho vay
đều đặn, không có đột biến và khoảng cách giữa 2 tốc độ này không quá lớn sẽ đảm bảo cho sự ổn
định trong hoạt động của ngân hàng. Qua đó giúp tăng uy tín cũng như niềm tin cho ngân hàng, tạo
sự ổn định cho ngân hàng phát triển và quan trọng nhất chính là giảm khả năng bị tổn thương của
chính nó.
1.4.2 Mức độ an toàn trong hoạt động của các ngân hàng thương mại
1.4.2.1 Đánh giá theo các tiêu chuẩn trong Hiệp ước Basel I và II
a. Basel I
Sau một thời gian hoạt động, Ủy ban đã nghiên cứu và đưa ra các yêu cầu về an toàn vốn,
được ban hành lần đầu vào năm 1988 và gọi là Basel I. Hiệp ước Basel I năm 1988 mang tính chất
thỏa thuận quốc tế và các tiêu chuẩn về vốn đã trở thành chuẩn mực quốc tế về vốn tự có. Nó quy
định về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu và quản lý rủi ro tín dụng đối với ngân hàng, là một trong những
căn cứ, tiêu chuẩn để các ngân hàng của các quốc gia trên thế giới áp dụng quản lý, bảo đảm an toàn
trong hoạt động. Tuy nhiên, Basel I mới chỉ đề cập đến những rủi ro về tín dụng chứ chưa đề cập
đến những rủi ro khác như rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất... Nội dung cơ bản của
hiệp ước Basel I chủ yếu về yêu cầu vốn tối thiểu.
Vốn tự có:
 Vốn cấp 1, cấp 2 và cấp 3
- Cấp 1 - Vốn nòng cốt
 Vốn chủ sở hữu vĩnh viễn.
 Dự trữ công bố (Lợi nhuận giữ lại).
 Lợi ích thiểu số (Minority interest) tại các công ty con, có hợp nhất báo cáo tài chính.
 Lợi thế kinh doanh (goodwill).
- Cấp 2 – Vốn bổ sung
 Lợi nhuận giữ lại không công bố.
 Dự phòng đánh giá lại tài sản.
 Dự phòng chung/dự phòng thất thu nợ chung.
 Công cụ vốn hỗn hợp.
 Vay với thời hạn ưu đãi.
 Đầu tư vào các công ty con tài chính và các tổ chức tài chính khác.

19
- Cấp 3 (Dành cho rủi ro thị trường) - Vay ngắn hạn
Vốn cấp 1 ≥ Vốn cấp 2 + Vốn cấp 3
 Vốn tính theo rủi ro gia quyền
Tài sản tính theo rủi ro gia quyền (RWA) = Tổng (Tài sản x Mức rủi ro phân định cho từng
tài sản trong bảng CĐKT) + Tổng (Nợ tương đương x Mức rủi ro ngoại bảng)
Tỉ lệ an toàn vốn (CAR) - Định mức về vốn:
 Tỉ lệ an toàn vốn (CAR):
Tỉ lệ này được phát triển bởi BCBS với mục đích củng cố hệ thống ngân hàng quốc tế, đối
tượng ban đầu là những ngân hàng hoạt động quốc tế, nhưng sau này đã được thực thi trên hơn 100
quốc gia.
Ngân hàng phải giữ lại lượng vốn bằng ít nhất 8% của rổ tài sản, được tính toán theo nhiều
phương pháp khác nhau và phụ thuộc vào độ rủi ro của chúng.
ố ắ ộ = %× à ả í độ ủ ề
ỉ ệ ảđá ề ố ( ) = ố ắ ộ / à ả í độ ủ ề
 5 định mức về vốn:
- Mức vốn tốt: CAR > 10%.
- Mức vốn thích hợp: CAR > 8%.
- Thiếu vốn: CAR < 8%.
- Thiếu vốn rõ rệt: CAR < 6%.
- Thiếu vốn trầm trọng: CAR < 2%.
b. Basel II
Trước đòi hỏi của sự phát triển, về bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng của các tổ
chức tín dụng, đặc biệt là đối với những tập đoàn ngân hàng lớn có phạm vi hoạt động quốc tế và
nhằm bổ sung cải thiện những thiếu sót của hiệp ước Basel I đáp ứng nhu cầu thực tiễn hoạt động
của hệ thông ngân hàng thì Hiệp ước Basel II đã ra đời. Hiệp ước Basel II là hiệp ước quốc tế về tiêu
chuẩn an toàn vốn, tăng cường quản trị toàn cầu hóa tài chính cũng như việc khai thác tối đa tiềm
năng lợi nhuận và hạn chế rủi ro. Hiệp ước Basel II đề cập tới các vấn đề chính gồm những quy định
liên quan tới tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu, quá trình xem xét giám sát của cơ quan quản lý và cuối cùng
là các quy tắc thị trường. Basel II bao gồm những khuyến nghị về luật và quy định ngành ngân hàng,

được ban hành bởi Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng. Về bản chất, hiệp ước Basel II đơn thuần
làm tinh xảo hơn, hoàn thiện hơn cách thức đo lường và tính toán những rủi ro nhằm giúp các ngân
hàng quản lý rủi ro.

×