Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Lợi ích kinh tế và các hình thức phân phối thu nhập ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.93 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC
BỘ MƠN KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN MƠN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN

Tên đề tài:

Lợi ích kinh tế và các hình thức phân phối thu nhập
ở Việt Nam hiện nay

Họ và tên

: Nguyễn Hải Đăng

Mã sinh viên : 20810340254
Lớp

: D15CNPM4

Hà Nội, 06/2021
1


Mục lục
Trang

2


A. MỞ ĐẦU


Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII một lần nữa khẳng định sự kiên trì
chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, và đề ra chính sách: Cơng nghiệp hố và
hiện đại hố để đưa nước ta nhanh chóng trở thành một nước có nền kinh tế phát triển
ngay trong thập kỷ đầu của thế kỷ XXI. Nền kinh tế nước ta đã chuyển đổi dần dần từ
nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, mở
cửa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết quản lý của Nhà nước. Khi nước ta
chuyển sang nền kinh tế thị trường, xây dựng nền cơng nghiệp hố hiện đạ i hố thì vấn
đề nổi lên không chỉ ở nước ta mà ở cả các nước đang phát triển là tình trạng cơ sở hạ
tầng kém, thiếu kinh nghiệm, trình độ đội ngũ cán bộ cơng nhân viên chưa cao. Vì thế,
cùng một lúc chúng ta phải bắt tay vào giải quyết nhiều vấn đề cấp bách thì mới đáp
ứng kịp thời với yêu cầu đặt ra. Đặc biệt vấn đề về lợi ích kinh tế là một trong những
vấn đề kinh tế lớn của Nhà nước mà đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã đề ra cho
giai đoạn phát triển kinh tế nước ta hiện nay.
Việt Nam trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung
sang cơ chế thị trườ ng có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
trong điều kiện đó nhiều loại hình Doanh nghiệp , nhiều loại hình kinh tế cùng tồn tại,
cùng tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh. Để tồn tại trong cơ chế mới với sự cạnh
tranh khốc liệt, đòi hỏi hoạt động kinh doanh nói chung, thì lợi ích kinh tế của các
doanh nghiệp nói riêng và lợi ích của tồn xã hội nói chung ln được quan tâm hàng
đầu. Bên cạnh những thành công, tiến bộ của một số Doanh nghiệp thì cịn khơng ít
những Doanh nghiệp hiệu quả kinh doanh thấp dẫn đến nguy cơ sa sút, không đứng nổi
trong cơ chế thị trường, phải sát nhập, phá sản hoặc giải thể. Mặt khác tình trạng hoạt
động kinh doanh nói chung gặp rất nhiều khó khăn lúng túng và bị động khi chuyển
sang cơ chế mới, chưa tìm ra được các giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả kinh
doanh của mình. Ngồi ra, khi chuyển sang cơ chế thị trườ ng, việc xem xét đánh giá,
phân tích hiệu quả kinh doanh của các Doanh nghiệp chưa được chú ý đúng mức, nhiều
Doanh nghiệp còn chưa đủ tiêu chuẩn để đánh giá, các giải pháp cho việc đẩy mạnh
kinh doanh .
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề hiệu quả trong việc đánh giá, phân
tích kết quả hoạt động kinh doanh, thì ta có thể thơng qua những hình thức phân phối

thu nhập của doanh nghiệp đó. Do đó tơi đã chọn đề tài: “Lợi ích kinh tế và các hình
thức phân phối thu nhập ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài cho bài nghiên cứu khoa học
của mình và hy vọng đóng góp một phần công sức nhỏ vào lý luận và phương pháp xây
3


dựng để nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường hiện nay của Việt Nam.
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
1. Khái niệm lợi ích kinh tế.
Để tồn tại, phát triển, con người cần được thoả mãn các nhu cầu vật
chất cũng như nhu cầu tinh thần. Lợi ích thu được khi con người được thỏa
mãn nhu cầu của mình. Lợi ích có thể là lợi ích vật chất, có thể là lợi ích
tinh thần. Lợi ích là sự thỏa mãn nhu cầu của con người mà sự thỏa mãn nhu
cầu này phải được nhận thức và đặt trong mối quan hệ xã hội ứng với trình
độ phát triển nhất định của nền sản xuất xã hội đó.
Trong mỗi điều kiện lịch sử, tuỳ từng bối cảnh mà vai trò quyết định
đối với hoạt động của con người là lợi ích vật chất hay lợi ích tinh thần.
Nhưng xun suốt q trình tồn tại của con người và đời sống xã hội thì lợi
ích vật chất đóng vai trị quyết định thúc đẩy hoạt động của mỗi cá nhân, tổ
chức cũng như xã hội.
Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, lợi ích thu được khi thực hiện các
hoạt động kinh tế của con người.
2. Bản chất và biểu hiện của lợi ích kinh tế.
Xét về bản chất, lợi ích kinh tế phản ánh mục đích và động cơ của
các quan hệ giữa các chủ thể trong nền sản xuất xã hội.
Các thành viên trong xã hội xác lập các quan hệ kinh tế với nhau vì
trong quan hệ đó hàm chứa những lợi ích kinh tế mà họ có thể có được. Về khía cạnh
này, Ph. Ănghen viết: “những quan hệ kinh tế của một xã hội

nhất định nào đó biểu hiện trước hết dưới hình thái lợi ích”. Các quan hệ xã hội ln
mang tính lịch sử, do vậy, lợi ích kinh tế trong mỗi giai đoạn
cũng phản ánh bản chất xã hội của giai đoạn lịch sử đó.
Về biểu hiện, gắn với các chủ thể kinh tế khác nhau là những lợi ích
tương ứng: lợi ích của chủ doanh nghiệp trước hết là lợi nhuận, lợi ích của
người lao động là thu nhập. Tất nhiên, với mỗi cá nhân, trong các mối quan
hệ xã hội tổng hợp gắn với con người đó, mặc dù có khi thực hiện hoạt
động kinh tế, trong nhất thời, không phải luôn đặt mục tiêu lợi ích vật chất
4


lên hàng đầu. Song, về lâu dài, đã tham gia vào hoạt động kinh tế thì lợi ích
kinh tế là lợi ích quyết định. Nếu khơng thấy được vai trị này của lợi ích
kinh tế sẽ làm suy giảm động lực hoạt động của các cá nhân. Nghiên cứu
về sự phân phối giá trị thặng dư trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa cho ta
thấy, mỗi chủ thể tham gia vào quá trình phân phối giá trị thặng dư đó, với
vai trị của mình mà có được những lợi ích tương ứng. Đây chính là nguyên
tắc đảm bảo lợi ích phù hợp với vai trò của các chủ thể.
Khi đề cập tới phạm trù lợi ích kinh tế có nghĩa hàm ý rằng, lợi ích
đó được xác lập trong quan hệ nào, vai trò của các chủ thể trong quan hệ đó
thể hiện chủ thể đó biểu hiện như thế nào, chẳng hạn họ là chủ sở hữu, hay
nhà quản lý; là lao động làm thuê hay trung gian trong hoạt động kinh tế; ai
là người thụ hưởng lợi ích, quyền hạn và trách nhiệm của các chủ thể đó,
phương thức để thực hiện lợi ích cần phải thơng qua các biện pháp
gì...Trong nền kinh tế thị trường, ở đâu có hoạt động sản xuất kinh doanh,
lao động ở đó có quan hệ lợi ích và lợi ích kinh tế.
3. Vai trị của lợi ích kinh tế đối với các chủ thể kinh tế xã hội.
Vai trò của lợi ích kinh tế đối với các chủ thể kinh tế - xã hội
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh tế được biểu hiện vô
cùng phong phú. Mặc dù vậy, điểm chung của hết thảy các hoạt động đó là

hướng tới lợi ích. Xét theo nghĩa như vậy, có thể khái qt vai trị của lợi
ích kinh tế trên một số khía cạnh chủ yếu sau:
- Lợi ích kinh tế là động lực trực tiếp của các chủ thể và hoạt động
kinh tế - xã hội
Con người tiến hành các hoạt động kinh tế trước hết là để thỏa mãn
các nhu cầu vật chất, nâng cao phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất
của mình. Trong nền kinh tế thị trường, phương thức và mức
độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất tùy thuộc vào mức thu nhập. Do đó, mức
thu nhập càng cao, phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất
càng tốt. Vì vậy, mọi chủ thể kinh tế đều phải hành động để nâng cao thu
nhập của mình. Thực hiện lợi ích kinh tế của các giai tầng xã hội, đặc biệt
của người dân vừa là cơ sở bảo đảm cho sự ổn định và phát triển xã hội,
vừa là biểu hiện của sự phát triển. “Nước độc lập mà dân khơng được
hưởng ấm no, hạnh phúc thì độc lập cũng khơng có ý nghĩa gì”.
5


Về khía cạnh kinh tế, tất cả các chủ thể kinh tế đều hành động trước
hết vì lợi ích chính đáng của mình. Tất nhiên, lợi ích này phải đảm bảo
trong sự liên hệ với các chủ thể khác trong xã hội. Phương thức và mức độ
thỏa mãn các nhu cầu vật chất trước hết phụ thuộc vào số lượng, chất lượng
hàng hóa và dịch vụ mà xã hội có được. Mà tất cả các nhân tố đó lại là sản
phẩm của nền kinh tế và phụ thuộc vào quy mơ và trình độ phát triển của
nó. Theo đuổi lợi ích kinh tế chính đáng của mình, các chủ thể kinh tế đã
đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế. Vì lợi ích chính đáng của mình,
người lao động phải tích cực lao động sản xuất, nâng cao tay nghề, cải tiến
công cụ lao động; chủ doanh nghiệp phải tìm cách nâng cao hiệu quả sử
dụng các nguồn lực, đáp ứng các nhu cầu, thị hiếu của khách hàng bằng
cách nâng cao chất lượng sản phẩm, thay đổi mẫu mã, nâng cao tinh thần
trách nhiệm trong phục vụ người tiêu dùng... Tất cả những điều đó đều có

tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, của nền kinh tế và
nâng cao đời sống của người dân.
- Lợi ích kinh tế là cơ sở thúc đẩy sự phát triển các lợi ích khác.
Phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất còn phụ thuộc địa vị của
con người trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội nên để thực hiện được lợi ích của
mình các chủ thể kinh tế phải đấu tranh với nhau để thực hiện quyền làm chủ đối với tư
liệu sản xuất. Đó là cội nguồn sâu xa của các cuộc đấu tranh giữa các giai cấp trong lịch
sử - một động lực quan trọng của tiến bộ xã hội. “Động lực của tồn bộ lịch sử chính là
cuộc đấu tranh của các giai cấp và những xung đột về quyền lợi của họ” và “nguồn gốc
vấn đề trước hết là những lợi ích kinh tế mà quyền lực chính trị phải phục vụ với tư
cách phương tiện” . Như vậy, mọi vận động của lịch sử, dù dưới hình thức như thế nào,
xét đến cùng, đều xoay quanh vấn đề lợi ích, mà trước hết là lợi ích kinh tế.
Lợi ích kinh tế được thực hiện sẽ tạo điều kiện vật chất cho sự hình
thành và thực hiện lợi ích chính trị, lợi ích xã hội, lợi ích văn hóa của các
chủ thể xã hội.
Lợi ích kinh tế mang tính khách quan và là động lực mạnh mẽ để
phát triển kinh tế - xã hội. C.Mác đã chỉ rõ: “Cội nguồn phát triển của xã
hội không phải là quá trình nhận thức, mà là các quan hệ của đời sống vật
chất, tức là các lợi ích kinh tế của con người”.
Điều cần lưu ý là, chỉ khi có sự đồng thuận, thống nhất giữa các lợi
ích kinh tế thì lợi ích kinh tế mới thực hiện được vai trị của mình. Ngược
6


lại, việc theo đuổi những lợi ích kinh tế khơng chính đáng, khơng hợp lý,
khơng hợp pháp sẽ trở thành trở ngại cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Ở Việt Nam, trong một thời gian rất dài, vì rất nhiều lý do, các lợi
ích kinh tế, nhất là lợi ích cá nhân, khơng được chú ý đúng mức. Hiện nay,
trong điều kiện cơ chế thị trường, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là:
coi lợi ích kinh tế là động lực của các hoạt động kinh tế; phải tơn trọng lợi

ích cá nhân chính đáng. Điều này góp phần tạo động lực cho sự phát triển
đất nước ta trong những năm vừa qua.
II. Vận dụng
1. Khái niệm và vai trò của phân phối thu nhập.
1.1. Khái niệm của phân phối thu nhập.
Quá trình tái sản xuất xã hội,theo nghĩa rộng, gồm 4 khâu: sản xuất, phân phối,
trao đổi, tiêu dùng. Các khâu này có quan hệ chặt chẽ với nhau,trong đó khâu sản xuất
là khâu cơ bản đóng vai trị quyết định; các khâu khác phụ thuộc vào sản xuất, nhưng
chúng có quan hệ trở lại đối với sản xuất cũng như ảnh hưởng tới nhau. Trong quá trình
tái sản xuất xã hội, phân phối và trao đổi là các khâu trung gian nối sản xuất và tiêu
dùng, vừa phục vụ và thúc đẩy sản xuất,vừa phục vụ tiêu dùng.
Phân phối bao gồm: Phân phối cho tiêu dùng sản xuất (sự phân phối cho tư liệu
sản xuất, sức lao động của xã hội vào các ngành sản xuất) là tiền đề ,đIều kiện và là một
yếu tố sản xuất , nó quyết định quy mơ, cơ cấu và tốc độ phát triển của sản xuất,phân
phối thu nhập quốc dân hình thành của các tầng lớp dân cư trong xã hội. Phân phối thu
nhập là kết quả của sản xuất, do sản xuất quyết định. Tuy là sản vật của sản xuất, song
sự phân phối có ảnh hưởng khơng nhỏ đối với sản xuất: có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm
sự phát triển của sản xuất. Ph.Ăngghen viết: "Phân phối không phải chỉ đơn thuần là kết
quả thụ động của sản xuất và trao đổi: nó cũng có tác động trở lại sản xuất và trao đổi".
Nó cũng có liên quan mật thiết với việc ổn định tình hình kinh tế- xã hội và nâng cao
đời sống nhân dân.
Như vậy, phân phối thu nhập là phân phối tổng sản phẩm xã hội và phân phối thu
nhập quốc dân và nó được thực hiện dưới các hình thái: Phân phối hiện vật. Phân phối
dưới hình thái giá trị. Phân phối qua quan hệ tài chính. Phân phối qua quan hệ tín
dụng…
1.2. Vai trị của phân phối thu nhập.
7


C.Mác đã nhiều lần nêu rõ quan hệ phân phối cũng bao hàm trong phạm vi quan

hệ sản xuất :"quan hệ phân phối về thực chất cũng đồng nhất với quan hệ sản xuất
ấy,rằng chúng cấu thành mặt sau của quan hệ sản xuất ấy". Xét về quan hệ giữa người
với người thì phân phối do quan hệ sản xuất quyết định. Vì vậy, mỗi phương thức sản
xuất có quy luật phân phối của cải vật chất thích ứng với nó. Quan hệ sản xuất như thế
nào thì quan hệ phân phối như thế ấy. Cơ sở của quan hệ phân phối là quan hệ sở hữu
về tư liệu sản xuất và quan hệ trao đổi hoạt động cho nhau.Sự biến đổi lịch sử của lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất kéo theo sự biến đổi của quan hệ phân phối.Quan hệ
phân phối có tác dụng trở lại đối với quan hệ sở hữu và do đó đối với sản xuất: có thể
làm tăng hoặc giảm quy mơ sở hữu, hoặc cũng có thể làm biến dạng tính chất của quan
hệ sở hữu. Các quan hệ phân phối vừa có tính đồng nhất, vừa có tính lịch sử. Tính đồng
nhất thể hiện ở chỗ, trong bất cứ xã hội nào, sản phẩm lao động cũng được phân chia
thành:
+ Một bộ phận cho tiêu dùng sản xuất
+ Một bộ phận để dự trữ
+ Một bộ phận cho tiêu dùng chung của xã hội
+ Một bộ phận cho tiêu dùng của cá nhân
Tính lịch sử của quan hệ phân phối là mỗi xã hội có quan hệ phân phối riêng phù
hợp với tính chất của quan hệ sản xuất của xã hội đó, nghĩa là quan hệ phân phối là một
mặt của quan hệ sản xuất và cũng như quan hệ sản xuất, quan hệ phân phối có tính chất
lịch sử. C.Mác viết : "Quan hệ phân phối nhất định chỉ là biểu hiện của một quan hệ sản
xuất lịch sử nhất định". Do đó, mỗi hình thái phân phối đều biến đi cùng một lúc với
phương thức sản xuất nhất định tương ứng với các hình thái phân phối ấy. Chỉ thay đổi
được quan hệ phân phối khi đã cách mạng hoá được quan hệ sản xuất đẻ ra quan hệ
phân phối ấy. Phân phối có quan hệ rất lớn đối với sản xuất nền nhà nước cách mạng
cần sử dụng phân phối như là một công cụ để xây dựng chế độ mới, để phát triển kinh tế
theo hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Các hình thức phân phối thu nhập ở Việt Nam hiện nay.
2.1. Phân phối theo lao động.
Phân phối theo lao động là phân phối trong các đơn vị kinh tế dựa trên cơ sở hữu
công cộng về tư liệu sản xuất (kinh tế nhà nước) hoặc các hợp tác xã cổ phần mà phần

góp vốn của các thành viên bằng nhau ( kinh tế hợp tác). Các thành phần kinh tế này
đều dựa trên chế độ khác nhau. Người lao động làm chủ những tư liệu sản xuất ,nên tất
8


yếu cũng làm chủ phân phối thu nhập.Vì vậy,phân phối phải vì lợi ích của người lao
động.
Trong thời kỳ q độ lên chủ nghĩa xã hội và ngay cả trong giai đoạn thấp của
chủ nghĩa cộng sản,tức là chủ nghĩa xã hội cũng chưa thể thực hiện phân phối theo nhu
cầu và cũng khơng thể phân phơí bình qn mà chỉ có thể phân phối theo lao động.
Trong những điều kiện đó , phải phân phối theo lao động để khuyến khích người
chăm, người giỏi, giáo dục kẻ lười, người xấu, gắn sự hưởng thụ của mỗi người với sự
cống hiến của họ. Đây cũng là hình thức nhằm khắc phục những tàn dư tư tưởng của xã
hội cũ, không chỉ trong thời kỳ quá độ mà cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xác lập, phân
phối theo lao động vẫn là hình thức phân phối chủ yếu.
Phân phối theo lao động là hình thức phân phối thu nhập căn cứ vào số lượng và
chất lượng lao động của từng người đã đóng góp cho xã hội. Theo quy luật này, người
làm nhiều hưởng nhiều, người làm ít hưởng ít, có sức lao động mà khơng làm thì khơng
hưởng; lao động có kỹ thuật cao, lao động ở những ngành nghề độc hại trong những
điều kiện khó khăn đều được hưởng phần thu nhập thích đáng.
2.2. Phân phối theo vốn, tài sản, cổ phần,…
Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế tồn tại nhiều thành
phần, tương ứng với mỗi thành phần kinh tế có một hình thức phân phối nhất định. Nếu
thành phần kinh tế quốc doanh tập thể phân phối theo lao động, thì các thành phần kinh
tế khác lại có những hình thức phân phối khác, rất đa dạng, rất khác nhau. Tuy nhiên,
điều đó khơng làm mất tính định hướng xã hội chủ nghĩa bởi chúng ta đảm bảo nguyên
tắc lấy phân phối theo lao động làm chính nhưng đồng thời sử dụng các hình thức phân
phối khác, miễn là nó phù hợp với tình trạng nền kinh tế của đất nước và thực hiện nó
có tác dụng tốt cho sự phát triển kinh tế xã hội cũng như phù hợp với lợi ích người lao
động; người lao động bằng lịng chấp nhận nó.

Đây là hình thức phân phối thích hợp với điều kiện của đất nước ta trong giai
đoạn quá độ. Vì do đặc điểm nước ta trong thời kỳ này là đi lên chủ nghĩa xã hội từ một
nền sản xuất nhỏ. Tình trạng thiếu vốn, phân tán vốn là phổ biến. Q trình sản xuất,
tích tụ, tập trung vốn chưa cao, một phần tương đối lớn vốn lại nằm trong tay người lao
động tư hữu nhỏ, tư sản nhỏ…
2.3. Phân phối thông qua các quỹ phúc lợi, xã hội.
Để nâng cao mức sống về vật chất và văn hoá của nhân dân đặc biệt là các tầng
lớp nhân dân lao động, sự phân phối thu nhập của mọi thành viên ,xã hội còn được thực
9


hiện thông qua quỹ phúc lợi, tập thể và xã hội. Sự phân phối này có ý nghĩa hết sự quan
trọng vì nó góp phần :
- Phát huy tính tích cực lao động của mọi thành viên trong xã hội
- Nâng cao thêm mức sống toàn dân, đặc biệt đối với những người có thu nhập
thấp, đời sống khó khăn làm giảm sự chênh lệch quá đáng về thu nhập giữa các thành
viên trong cộng đồng.
- Giáo dục ý thức cộng đồng, xây dựng chế độ xã hội mới.
- Quỹ phúc lợi tập thể và xã hội là một bộ phận khơng thể thiếu trong q trình
phân phối thu nhập cho cá nhân trong cộng đồng, song quỹ đó chỉ có ý nghĩa tích cực
khi được quy định và sử dụng một cách hợp lý phù hợp với yêu cầu và điều kiện khách
quan.
Tính hợp lý của quỹ phúc lợi tập thể và xã hội được biểu hiện như sau:
- Quỹ phúc lợi tập thể, xã hội không thể mở rộng quá khả năng của nền kinh tế
cho phép.
- Tốc độ tăng trưởng thu nhập trực tiếp của cá nhân trong cộng đồng phải tăng
nhanh hơn tốc độ tăng trưởng phúc lợi tập thể và xã hội.
- Trong giới hạn đã xác định, cần sử dụng có hiệu qủa, tiết kiệm ,hợp lý các quỹ
phúc lợi tập thể và xã hội. Việc sử dụng phải nhằm mục đích thiết thực, tránh lãng phí
xa hoa, phơ trương hình thức. Vì các quỹ này có quan hệ với lợi ích thiết thân của mỗi

thành viên tập thể cộng đồng, cho nên cần phát huy đầy đủ dân chủ, trưng cầu ý kiến
của quảng đại quần chúng, sao cho mỗi loại phúc lợi đều có thích hợp với nhu cầu bức
thiết của quần chúng, phát huy được tác dụng vốn có của nó.
- Quỹ phúc lợi xã hội là chính sách xã hội cần được giải quyết theo tinh thần xã
hội hoá. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt; đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh
nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia đóng
góp .
3. Thực trạng phân phối thu nhập ở Việt Nam.
3.1. Những thành tựu đạt được.
Thứ nhất, việc điều chỉnh mức lương tối thiểu của Nhà nước theo mức độ trượt
giá đã tăng thu nhập cho người lao động làm cơng ăn lương, nhất là những người có thu
nhập thấp, đáp ứng được một phần cơ bản nhu cầu cuộc sống của họ. Theo Ngân hàng
thế giới, Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng cao trong khi bất bình đẳng về thu nhập chỉ ở
10


mức tăng “khiêm tốn” trong thời gian qua. Từ năm 1932 đến 2012, thu nhập bình qn
của nhóm 40% có thu nhập thấp nhất tăng 9% mỗi năm. Đây là một trong các tỷ lệ tăng
cao nhất trên thế giới về thu nhập của nhóm 40% có thu nhập thấp nhất.
Thứ hai, việc điều chỉnh hệ số lương, thay đổi thang bảng lương là bước thay đổi
quan trọng trong tiến trình cải cách tiền lương của Nhà nước, khơng những tăng thu
nhập, mà còn tạo ra tâm lý phấn khởi cho người lao động, thúc đẩy tăng năng suất lao
động và tăng trưởng kinh tế.
Thứ ba, việc thống nhất mức lương tối thiểu chung cho khu vực doanh nghiệp
nhà nước và khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi xóa bỏ mức độ bất bình
đẳng thu nhập về tiền lương giữa 2 khu vực như trước đây. Theo thống kê của Bộ Lao
động-Thương binh và Xã hội, tiền lương bình quân của người lao động trong những
năm qua tiếp tục được ổn định và có xu hướng tăng. Năm 2014, tiền lương bình
qn/tháng của lao động làm cơng ăn lương là 4.397 nghìn đồng, tăng 34,3% so với
năm 2011. Mức lương trung bình tại khu vực nhà nước là 5.323 nghìn đồng (tăng 40%

so với năm 2011); Khu vực ngồi nhà nước là 3.860 nghìn đồng (tăng 30,4% so với
năm 2011); khu vực có vốn đầu tư nước ngồi là 4.946 nghìn đồng (tăng 23,4% so với
năm 2011) (Tổng cục Thống kê, 2015) [6]. Điều này cho thấy bên cạnh tốc độ tăng gia
tăng mức lương trung bình rất khác nhau trong nội bộ từng khu vực, hiện chênh lệch
mức lương giữa khu vực nhà nước với khu vực ngồi nhà nước và khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài là 1,4 lần – 1,1 lần và giữa khu vực có vốn đầu tư nước ngồi và khu vực
ngồi nhà nước là 1,3 lần.
Thứ tư, chính sách trợ cấp xã hội của Chính phủ trong thời gian qua thể hiện một
sự nỗ lực lớn của chính phủ trong bối cảnh kinh tế khó khăn như hiện nay, đã giảm bớt
một phần nào gánh nặng cuộc sống cho những đối tượng yếu thế, người lao động có thu
nhập thấp và đảm bảo an sinh xã hội cho người dân. Tỉ lệ hộ nghèo cả nước giảm
nhanh, từ 14,2% năm 2010 xuống còn 7% năm 2015 (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011
- 2015) và giảm từ 9,2% năm 2016 xuống dưới 3% vào năm 2020 (theo chuẩn nghèo đa
chiều). Cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các huyện nghèo, xã nghèo, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số được tăng cường. Đời sống người dân không ngừng được cải thiện; tạo sinh kế
và nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Thu nhập bình quân đầu người
tăng 3,1 lần, từ 16,6 triệu đồng năm 2010 lên 51,5 triệu đồng năm 2019 45. Thực hiện
nhiều giải pháp tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động. Tỉ lệ thất nghiệp
của lực lượng lao động trong độ tuổi khu vực thành thị có xu hướng giảm dần, từ mức
4,3% năm 2010 xuống còn khoảng 3,1% năm 2019, riêng năm 2020 do tác động của
dịch bệnh Covid-19 nhiều doanh nghiệp phải giãn, dừng, chấm dứt hoạt động, tỉ lệ lao
động mất việc làm, thất nghiệp gia tăng.
3.2. Bất bình đẳng thu nhập ở nước ta hiện nay.
Bất bình đẳng thu nhập (khoảng cách giàu nghèo) là chênh lệch thu nhập và tài
sản giữa các cá nhân, nhóm trong xã hội hay giữa các quốc gia gây ra ảnh hưởng tiêu
11


cực đến quá trình tăng trưởng kinh tế. Bất bình đẳng thu nhập xuất hiện tại hầu hết các
quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Mức độ bất bình đẳng thu nhập của quốc gia hiện nay dựa trên các thước đo như
hệ số GINI, hệ số chênh lệch giàu nghèo,... Thông qua hệ số GINI của Việt Nam trong
giai đoạn 2006 - 2018 cho thấy, bất bình đẳng thu nhập tại Việt Nam biến động không
nhiều, nằm trong khoảng 0,424 đến 0,436; trong đó khu vực thành thị có xu hướng
giảm, khu vực nơng thơn có xu hướng tăng và luôn cao hơn ở thành thị.
Bảng 1. Bất bình đẳng thu nhập thơng qua hệ số GINI tại Việt Nam giai
đoạn 2006-2018

Số liệu Bảng 1 cho thấy, trước năm 2010, hệ số GINI ở thành thị cao hơn ở nông
thôn, sau năm 2010 hệ số GINI ở nông thôn cao hơn ở thành thị, cho thấy xu hướng bất
bình đẳng thu nhập ở khu vực thành thị có xu hướng giảm cịn ở nơng thơn có xu hướng
tăng. Theo báo cáo “Wealth Distribution and Income Inequality by Country 2018”, hệ
số GINI của Việt Nam là 0,424 ở mức trung bình so với các quốc gia khác trong khu
vực. Theo Cornia và Court (2001), hệ số GINI trong khoảng 0,30 - 0,45 là nằm trong
ngưỡng an toàn và hiệu quả, phù hợp cho tăng trưởng cao. Theo đó, có thể khẳng định
bất bình đẳng thu nhập của Việt Nam hiện nay vẫn nằm trong phạm vi an toàn, nhưng
trong dài hạn có xu hướng tăng lên nếu Việt Nam khơng có những biện pháp hữu hiệu
để giải quyết vấn đề này.
Tuy nhiên, một số nghiên cứu đã chỉ ra bất bình đẳng trong phân phối thu nhập
ngày càng có xu hướng tăng lên sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại thế
giới, thậm chí cả cơ hội cũng như rủi ro đều tăng lên, tốc độ giảm nghèo chậm hơn tốc
độ tăng trưởng kinh tế… đồng thời việc Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế
giới sẽ tiếp tục tạo ra hiệu ứng hội tụ với lợi thế ngày càng gia tăng cho các thành phố
có vị trí gần cảng biển, dẫn đến sự hội tụ của các cơ hội việc làm và tạo thu nhập tại các
địa bàn này.
Bức tranh về phân phối thu nhập được thể hiện rõ nét trên tất cả các khía cạnh:
- Khoảng cách chênh lệch giữa nhóm 20% người giàu nhất và 20% người nghèo
nhất đang ngày càng rộng.
- Chênh lệch giữa các nhóm dân tộc thiểu số với nhóm người Kinh gia tăng.
12



Người dân tộc thiểu số ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong tổng số người nghèo,
đồng thời khoảng cách giữa người dân tộc thiểu số và các nhóm cịn lại đang tăng lên.
Chênh lệch thu nhập của nhóm 20% hộ có thu nhập thấp nhất của dân tộc thiểu số với
nhóm 20% thu nhập thấp nhất của dân tộc đa số cũng đã tăng từ mức 1,4 lần lên mức
2,1 lần. Theo một báo cáo Diễn đàn phát triển dân tộc thiểu số (2015) thì 53 dân tộc
thiểu số vủa Việt Nam với trên 13 triệu người (chiếm 14,28% dân số cả nước) nhưng tỷ
lệ đói nghèo rất cao chiếm 47% hộ nghèo ở các vùng dân tộc thiểu số, tỷ lệ tái nghèo
cũng cao.
- Khác biệt rõ trong cơ cấu nguồn thu và nguồn thu nhập chính giữa nhóm giàu
và nhóm nghèo.
Theo kết quả Điều tra mức sống hộ gia đình từ năm 2002 đến năm 2012 cho thấy
tăng thu nhập của hộ dân cư chủ yếu tăng từ công việc hưởng tiền lương, tiền công và
công việc tự làm xây dựng, tương ứng là 7,9 lần và 9 lần [5]. Trong tổng thu nhập giai
đoạn 2002-2012, bình quân tỷ trọng thu tiền từ tiền lương, tiền công tăng từ 32,7% lên
đến 46,2%; thu từ nông, lâm, thủy sản giảm từ 28,9% xuống 19,8%; thu từ công nghiệp,
xây dựng và dịch vụ giữ tương đối ổn định ở mức 22%. Có thể thấy cơ cấu thu nhập
năm 2012 đã có sự dịch chuyển so với các năm trước, theo hướng tăng mạnh các khoản
thu về tiền lương, tiền công và giảm các khoản thu về từ nông, lâm, thủy sản. Sự chênh
lệch thể hiện rõ trong nguồn gốc thu nhập giữa nhóm dân cư 20% giàu nhất và nhóm
dân cư 20% nghèo nhất. Năm 2012, nhóm giàu nhất có nguồn thu chủ yếu từ tiền
cơng/tiền lương (đóng góp 46,5% trong tổng thu nhập) thì thu nhập của nhóm nghèo
nhất chủ yếu vẫn dựa vào các hoạt động nông nghiệp (40,9%).
- Mặc dù mức chênh lệch trong thu nhập trung bình giữa thành thị và nơng thơn
có xu hướng giảm nhưng chênh lệch trong thu nhập tuyệt đối giữa thành thị và nông
thôn ngày càng gia tăng.
Năm 2002, thu nhập bình qn đầu người (TNBQĐN) một tháng ở nơng thơn là
275,1 nghìn đồng thì đến năm 2014 là 2041,4 nghìn đồng (gấp 7,4 lần); còn ở khu vực
thành thị TNBQĐN một tháng là 3968,2 nghìn đồng gấp 6,4 lần so với năm 2002 (622,1

nghìn đồng). Mặc dù thu nhập thành thị vẫn cao hơn nông thôn nhưng tốc độ tăng
trưởng thu nhập bình quân đầu người qua các năm ở giai đoạn này của khu vực nông
thôn luôn cao hơn khu vực thành thị. Hệ số chênh lệch thu nhập giữa thành thị và nông
thôn giảm 17,4% từ 2,3 lần vào năm 2002 xuống còn 1,9 lần vào năm 2012 nhưng lại
nhích lên 1,94 lần vào năm 2014. Tuy nhiên mức chênh lệch tuyệt đối về thu nhập bình

13


quân đầu người/tháng giữa hai khu vực đã gia tăng đến 554%. Nếu như năm 2002,
chênh lệch này chỉ là 347 nghìn đồng, thì đến năm 2014 đã lên đến 1926,8 nghìn đồng.
- Chênh lệch mức lương khơng chỉ theo giới tính, trình độ chun mơn, giữa
nơng thơn – thành thị, giữa các vùng miền mà đặc biệt rất lớn giữa các khu
vực, ngành kinh tế.
Theo thống kê của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, tiền lương bình quân
của người lao động trong những năm qua tiếp tục được ổn định và có xu hướng tăng.
Năm 2014, tiền lương bình qn/tháng của lao động làm cơng ăn lương là 4.397 nghìn
đồng, tăng 34,3% so với năm 2011. Mức lương trung bình tại khu vực nhà nước là
5.323 nghìn đồng (tăng 40% so với năm 2011); Khu vực ngoài nhà nước là 3.860 nghìn
đồng (tăng 30,4% so với năm 2011); khu vực có vốn đầu tư nước ngồi là 4.946 nghìn
đồng (tăng 23,4% so với năm 2011) (Tổng cục Thống kê, 2015) [6]. Điều này cho thấy
bên cạnh tốc độ tăng gia tăng mức lương trung bình rất khác nhau trong nội bộ từng khu
vực, hiện chênh lệch mức lương giữa khu vực nhà nước với khu vực ngoài nhà nước và
khu vực có vốn đầu tư nước ngồi là 1,4 lần – 1,1 lần và giữa khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài và khu vực ngoài nhà nước là 1,3 lần.
3.3. Nguyên nhân của tình trạng bất bình đẳng thu nhập.
Theo Ngân hàng thế giới, sự khác nhau giữa các vùng miền và mơ hình tăng
trưởng là ngun nhân gây nên tình trạng gia tăng bất bình đẳng, song ngun nhân
quan trọng nhất là do mơ hình tăng trưởng. Bất bình đẳng gia tăng cũng liên quan tới
những chuyển dịch về mơ hình sản xuất từ nơng nghiệp sang phi nông nghiệp. Trong

giai đoạn 2002-2014, tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động làm việc trong lĩnh vực nông
nghiệp giảm từ 65% xuống 46,3% trong khi lao động trong lĩnh vực công nghiệp tăng
từ 12% lên 14,1% và lĩnh vực dịch vụ tăng từ 20% lên 35%.
Bất bình đẳng thu nhập giữa nam nữ vẫn xuất phát từ những “định kiến giới” và
phân biệt đối xử giới” giữa nam giới và nữ giới. Tỷ lệ tham gia hoạt động kinh tế nữ
giới đã tương đương với nam giới song cùng làm việc một giờ công lao động nhưng nữ
giới chỉ nhận được mức lương bằng 70% so với nam giới. Số giờ công lao động của nữ
giới cao hơn của nam giới.
Bất bình đẳng thu nhập cịn do nhóm dân tộc thiểu số khơng đạt tiến bộ nhanh
chóng. Người dân tộc thiểu số có trình độ học vấn thấp hơn và bị hạn chế hơn về khả
năng tiếp cận nguồn vốn sản xuất chênh lệch về thu nhập giữa các dân tộc ngày càng
gia tăng.

14


Bất bình đẳng về thu nhập ở Việt Nam cho thấy, các tiến trình tăng trưởng khơng
cịn mang lại nhiều thuận lợi hơn cho người nghèo và những hộ gia đình nghèo đang bị
bỏ lại phía sau. Nhà nước cần có nhiều chính sách ưu đãi hơn nữa nhằm giúp các hộ gia
đình nghèo, nhất là khu vực miền núi vượt qua các cản trở về cơ cấu và đạt được tiềm
năng tăng trưởng của họ. Ngoài ra để giải quyết căn bản tình trạng bất bình đẳng nói
chung, cần thay đổi cách tiếp cận và xây dựng chiến lược tăng trưởng phù hợp hơn.
4. Một số giải pháp phân phối lại thu nhập và giảm bất bình đẳng thu nhập ở Việt
Nam hiện nay.
Thứ nhất, để giải quyết bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam, Chính phủ cần xây
dựng được một chiến lược tăng trưởng kinh tế mới cùng với các chính sách phân phối
thu nhập thích hợp, tập trung vào cải cách thể chế pháp luật, thị trường cạnh tranh, cơng
bằng và mở, tạo “sân chơi” bình đẳng cho cả các doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ; đồng
thời đặt ra vấn đề bình đẳng, cơng bằng xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư
dựa trên cơ sở phát triển các loại hình kinh tế, khuyến khích người dân làm giàu và thực

hiện phân phối thu nhập theo sự đóng góp của các nguồn lực.
Thứ hai, thực hiện công bằng trong phân phối tiền lương. Chính sách tiền lương
phải dựa vào thực tiễn của đất nước và có tính đến yếu tố hội nhập quốc tế, tiềm lực của
nền kinh tế, khả năng chi trả của tổ chức, doanh nghiệp, nâng cao mức sống và chất
lượng sống của người lao động. Chính sách phân phối tiền lương phải điều tiết các hình
thức phân phối, chú trọng nhất là phân phối theo kết quả và hiệu quả kinh tế, chất lượng
công việc.
Đối với khu vực doanh nghiệp, tiền lương phải đảm bảo đủ sống cho bản thân
người lao động và gia đình, phải được hình thành theo quy luật thị trường và do thị
trường quyết định. Nhà nước quy định tiền lương tối thiểu phải đáp ứng được nhu cầu
mức sống tối thiểu của người lao động, phù hợp với mặt bằng tiền lương trên thị trường,
khả năng của doanh nghiệp và trình độ phát triển của nền kinh tế. Tiền lương phải được
trả đúng theo giá trị sức lao động của người lao động, tùy theo năng suất lao động của
từng cá nhân và hiệu quả sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với khu vực hành chính nhà nước, tiền lương phải đảm bảo là thu nhập chính
của cán bộ, cơng chức. Đảm bảo tính cơng bằng trong phân phối tiền lương của khu vực
này phải trên cơ sở lương phải theo năng lực công tác. Đảm bảo công bằng về tiền
lương và thu nhập là nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động, nhất là những lao
động có mức thu nhập thấp so với mặt bằng chung của xã hội.
Thứ ba, thực hiện công bằng trong phân phối lại thu nhập. Cơ quan thuế phải có
một mạng lưới quản lý thu thuế rộng, phải đổi mới hình thức thu thuế và quan trọng
15


nhất là phải có sự phối hợp giữa cơ quan thuế và cơ quan quản lý, cấp phép kinh doanh
để rà soát các đối tượng nộp thuế. Đối với những trường hợp trốn thuế, pháp luật của
nhà nước phải xử lý nghiêm minh để giảm thiểu thất thoát nguồn thu của ngân sách và
nhằm đảm bảo công bằng cho những người nộp thuế. Cơ quan thuế phải thiết lập hệ
thống kiểm soát tự động kê khai giảm trừ gia cảnh của người nộp thuế để giải quyết tình
trạng nhiều người cùng khai giảm trừ cho một người phụ thuộc, tránh hiện tượng trốn

thuế bằng hình thức này. Nhà nước phải thắt chặt khâu quản lý, rà sốt chính xác các
đối tượng của chính sách ngay từ các cấp cơ sở. Đồng thời, phải nâng cao ý thức của
người dân, xử lý nghiêm với việc giả mạo đối tượng hưởng chính sách.
C. KẾT LUẬN
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta hiện nay tồn tại nhiều
thành phần kinh tế. Mạc dù quan hệ phân phối có sự đan xen giữa tính chất phân phối
của các thành phần kinh tế nhưng trong đó tính chất phân phối của các thành phần kinh
tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo. Do nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều quan hệ
sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất nên tất yếu tồn tại nhiều quan hệ phân phối thu
nhập. Ví như trong các doanh nghiệp nhà nước vốn và tài sản đều là của chung do vậy
không thể lấy vốn và tài sản làm thước đo mà buộc phải lấy số lượng và chất lượng lao
động làm cơ sở phân phối. Do đó hình thức phân phối thu nhập theo lao động. Cùng tồn
tại tương ứng với quan hệ sở hữu tập thể, sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất thì. Với đặc
trưng của nền kinh tế nhiều thanh phần thì hình thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất
cũng kéo theo hình thức phân phối thu nhập khác nữa cho Việt Nam. Đó là phân phối
theo vốn, tài sản và các nguồn lực khác. Đặc biệt là trong giai đoạn ngày nay khi bước
đầu hình thành các cơng ty cổ phần tại nước ta thì hình thức nay càng thể hiện rõ nét
thông qua lợi tức cổ phần mà các cổ đông nhận được tương ứng từ số vốn mà các cá
nhân trong hội đồng quản trị bỏ ra đẻ mua cổ phiếu. Khơng chỉ dừng lại ở việc góp
chung vồn kinh doanh mà từng bước đã hình thành rất nhiều các loại góp vốn khác nhau
như góp tư liệu sản xuất, đầu tư yếu tố sản xuất, máy móc, nhà xưởng và các nguồn lực
khác. Cùng với các hình thức phân phối thu nhập như đã nêu thì ở Việt Nam ta cịn tồn
tại phân phối thơng qua phúc lợi tập thể và xã hội. Mỗi hình thức phân phối lại tỏ ra có
một ưu thế nhất định, một khả năng riêng. Nhưng tất cả đếu hướng tới mục đích cơng
bằng xã hội, dân chủ văn minh. Vì thời gian nghiên cứu cũng như kiến thức sinh viên
năm đầu còn hạn chế. Nên bài viết khơng tránh khỏi thiếu sót .Rất mong được sự góp ý
và nhận xét từ phía các thầy các cô cũng như các bạn sinh viên để bài viết có thể hồn
chỉnh và có khả năng thực tiễn cao. Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của cơ Thùy đã
giúp đỡ em trong việc hồn thành bài viết này.
16



D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin, NXB CTQG, 2019.
2. TS. NGUYỄN THỊ THÁI HƯNG, Bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam hiện nay:
Thực trạng và khuyến nghị, 2020, />fbclid=IwAR3msXtSIt6iQIeYBgbAT235tuHH84rJtmREJvz-MtIoKj6k4st2pOBG4V0
3. GVCC,TS. Hà Quang Thanh, Chính sách phân phối thu nhập nhằm xóa đói giảm
nghèo ở Việt Nam, 2020, />
17



×