Tải bản đầy đủ (.docx) (58 trang)

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.98 KB, 58 trang )

CHƯƠNG I: VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Bối cảnh nghiên cứu
1.1.1. Tầm quan trọng của đề tài nghiên cứu
Thanh tra là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý Nhà nước,
là một cơng cụ kiểm tra kiểm sốt, bảo vệ pháp luật, tăng cường pháp chế
Xã hội chủ nghĩa, tăng cường hiệu lực của bộ máy quản lý Nhà nước và
thực hiện dân chủ xã hội. Qua đó nhằm phát hiện những sơ hở trong cơ chế
quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền các biện pháp khắc phục; phịng ngừa, phát hiện và xử lý các sai
phạm; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp
luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Ngân sách nhà nước (NSNN) được xem là huyết mạch của nền kinh
tế nước ta, là yếu tố cơ bản quyết định đến sự phát triển bền vững của nền
kinh tế - xã hội, quốc phòng và an ninh. Những năm gần đây, NSNN bước
đầu được cơ cấu lại một cách mạnh mẽ theo hướng tích cực, tồn diện,
đảm bảo an tồn tài chính, khai thác và sử dụng nguồn lực quốc gia một
cách hiệu quả nhất. Với xu hướng chung đó, cân đối NSNN của huyện
Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang ngày càng vững chắc, nguồn thu ngân sách
được đảm bảo, đáp ứng những nhu cầu thiết yếu, đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ
tầng, phát triển toàn diện mọi mặt kinh tế, xã hội và quốc phịng, an ninh.
Tuy nhiên, cơng tác quản lý, sử dụng NSNN của địa phương vẫn còn
một số tồn tại hạn chế, thu ngân sách chưa bao qt, tình trạng thất thu
ngân sách vẫn cịn tiếp diễn, hiệu quả các khoản chi thấp, chi đầu tư phát
triển dài trải, thiếu tập trung gây lãng phí, thất thoát NSNN.
1.1.2. Khái quát về chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức bộ
máy của cơ quan Thanh tra huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang
1.1.2.1. Chức năng, nhiệm vụ của cơ quan Thanh tra huyện
Châu Thành A
Căn cứ Luật Thanh tra năm 2010, Nghị định số 86/2011/NĐ-CP


ngày 22 tháng 9 năm 2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật thanh tra; Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLTTTCP-BNV ngày 08/9/2014 của Thanh tra Chính phủ và Bộ Nội vụ Quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Thanh tra tỉnh,
Thanh tra huyện; Căn cứ Quyết định số 01/2014/QĐ-UBND ngày 18 tháng
12 năm 2014 của Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành A về việc Quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức Bộ máy của Thanh tra
huyện Châu Thành A, có các nhiệm vụ, quyền hạn như sau:


- Tham mưu, đề xuất UBND huyện ban hành các chương trình, kế
hoạch, chỉ thị, biện pháp tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chương trình, kế
hoạch về quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố
cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu nại,
tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật.
- Trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện kế hoạch thanh tra hàng
năm theo quy định của pháp luật.
- Thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về lĩnh vực
thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; hướng
dẫn chuyên môn, nghiệp vụ công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo,
phòng, chống tham nhũng cho cán bộ, công chức các xã, thị trấn.
- Hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc Chủ tịch Ủy ban nhân dân các xã,
thị trấn, Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện
Châu Thành A trong việc thực hiện pháp luật về thanh tra, giải quyết khiếu
nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng.
- Phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện Châu
Thành A hướng dẫn nghiệp vụ công tác cho các Ban Thanh tra nhân dân
các xã, thị trấn.
1.1.2.2. Cơ cấu, tổ chức bộ máy của cơ quan Thanh tra huyện
Châu Thành A
Từ năm 2015 cho đến nay, cơ quan Thanh tra huyện được UBND

huyện Châu Thành A giao chỉ tiêu biên chế là 05 định biên, hiện tại sử
dụng 5/5 biên chế. Ban lãnh đạo của cơ quan gồm: Chánh Thanh tra huyện,
02 Phó Chánh Thanh tra huyện, 02 Thanh tra viên.

TPC H ÓANHÁNHC H ÁNHT RH AANHVIT H Ê ANHTN R ( At h ựT cR (hAĐ i ệ (ềnTu nh eư àoệiờnmdh gõvcitụhrcựuô tnc igế- p, Tt ácrhựôecnot igếdh põa ânic hôp ,n gụ i ảdt irâá nc ,h g ci ảô in g t á c
qtc rhôua ny, gếPhtC KNTá rTca N)P C T ) N )
Sơ đồ 1.1: Cơ cấu, tổ chức bộ máy của Thanh tra huyện Châu Thành A

1.2. Lý do chọn đề tài nghiên cứu
Công tác thanh tra NSNN có ý nghĩa quan trọng trong việc phát hiện
kịp thời các cơ chế yếu kém, đề xuất kiến nghị cơ chế quản lý, chính sách
2


và các biện pháp giải quyết, hồn thiện cơng tác thu, chi ngân sách tại các
địa phương nói chung và tại huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang nói
riêng.
Căn cứ Nghị quyết số 27/2016/QH14 ngày 11 tháng 11 năm 2016
của Quốc hội khóa XIV về dự tốn NSNN năm 2017. Theo đó, nghị quyết
đã chỉ rõ “Tăng cường kỷ luật tài chính - ngân sách, thực hiện dự tốn
NSNN đúng quy định của pháp luật. Đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra và công
khai, minh bạch việc sử dụng NSNN, nhất là trong các lĩnh vực dễ phát
sinh tham nhũng, lãng phí”. Nghị quyết số 16/NQ-HĐND ngày 20 tháng
12 năm 2017 của Hội đồng nhân dân (HĐND) huyện Châu Thành A và
Báo cáo số 2009/BC-UBND ngày 15 tháng 12 năm 2017 của Ủy ban nhân
dân (UBND) huyện Châu Thành A về tình hình thực hiện nhiệm vụ NSNN
năm 2017 và dự tốn NSNN năm 2018 theo đó cũng đưa ra các giải pháp
“Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thu, chi NSNN tại UBND các
xã, thị trấn, các dự án đầu tư xây dựng cơ bản của huyện đồng thời thực
hiện nghiêm túc Luật Thực hành tiết kiệm chống lãng phí, Luật Phịng

chống tham nhũng, kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi tiêu cực, gây thất
thốt, lãng phí ngân sách”.
Từ những nhận định, căn cứ nêu trên thì cơng tác thanh tra NSNN
đã và đang được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm, coi đây là nhiệm vụ
chính trị quan trọng, là công cụ quan trọng trong công tác phịng, chống
tham nhũng, thực hành tiết kiệm, lãng phí và những vấn đề mà trong thời
gian qua gây búc xúc, làm giảm lòng tin của quần chúng Nhân dân vào sự
lãnh đạo của Đảng và sự quản lý điều hành của Chính phủ. Cùng với việc
thực hiện cải cách hành chính, cải cách bộ máy nhà nước, phục vụ yêu cầu
phát triển của đất nước theo đường lối đổi mới của Đảng, việc hoàn thiện,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong công tác thanh tra NSNN là một yêu cầu
cấp thiết. Chính vì lý do này, bản thân mạnh dạn chọn nghiên cứu đề tài
nghiên cứu “Hồn thiện cơng tác thanh tra NSNN trên địa bàn huyện
Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang”.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
1.3.1. Mục tiêu chung
Phân tích, đánh giá thực trạng công tác thanh tra NSNN tại huyện
Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang, giai đoạn từ năm 2017 đến năm 2019. Từ
đó, đề xuất các giải pháp nhằm hồn thiện cơng tác thanh tra NSNN trên
địa bàn huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang, giai đoạn 2021 - 2023.
1.3.2. Mục tiêu cụ thể
Hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn cơng tác thanh tra nói chung,
cơng tác thanh tra NSNN nói riêng.
Phân tích, đánh giá thực trạng về công tác thanh tra NSNN tại Thanh
tra huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang, giai đoạn 2017 – 2019 (tập trung
3


vào các nội dung gồm: kết quả đạt được; những tồn tại, hạn chế; nguyên
nhân).

Đề xuất các giải pháp để hồn thiện và nâng cao chất lượng cơng tác
thanh tra NSNN tại Thanh tra huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang.
1.4. Nhiệm vụ của nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề về cơng tác thanh tra NSNN, vai trị của công
tác thanh tra NSNN đối với hoạt động quản lý nhà nước đối với công tác
thu, chi NSNN trong giai đoạn hiện nay.
Nghiên cứu thực trạng về công tác thanh tra NSNN, vai trị của cơng
tác thanh tra NSNN trong giai đoạn 2017 – 2019.
Đề xuất một số giải pháp nhằm để hồn thiện cơng tác thanh tra
NSNN tại Thanh tra huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang, giai đoạn 2021
- 2023.
1.5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.5.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác thanh tra NSNN của cơ quan Thanh tra cấp huyện.
1.5.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Luận văn được nghiên cứu trên địa bàn huyện
Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang.
- Phạm vi thời gian: Số liệu thống kê, tài liệu nghiên cứu, chủ yếu
tham khảo từ những cuộc thanh tra kinh tế - xã hội, thanh tra tài chính
ngân sách trên địa bàn huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang trong giai
đoạn từ năm 2017 đến năm 2019.
1.6. Phương pháp nghiên cứu
1.6.1. Phương pháp thu thập số liệu
Thu thập số liệu về công tác lập dự toán, thực hiện dự toán, quyết
toán ngân sách của UBND huyện Châu Thành A, các đơn vị, phòng, ban
ngành huyện và đơn vị sự nghiệp thuộc UBND huyện, UBND các xã, thị
trấn; thông qua các Báo cáo quyết toán ngân sách, Nghị quyết HĐND
huyện, cấp xã.
Thu thập số liệu liên quan đến công tác thanh tra trên địa bàn huyện
Châu Thành A các Báo cáo định kỳ hàng tháng, quý, và Báo cáo tổng kết,

Báo cáo chuyên đề về công tác thanh tra của UBND huyện, cơ quan Thanh
tra huyện Châu Thành A. Các Báo cáo đánh giá, tổng kết công tác thanh tra
trên địa bàn tỉnh theo năm, theo giai đoạn của UBND tỉnh, Thanh tra tỉnh
Hậu Giang.
Thu thập số liệu chi tiết về công tác thanh tra thu, chi NSNN qua các
Kết luận thanh tra chấp hành các quy định của pháp luật về quản lý, sử
4


dụng ngân sách của Chủ tịch UBND huyện Châu Thành A đối với các đơn
vị sử dụng ngân sách thuộc UBND huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang.
Thu thập thông tin về các cơng trình nghiên cứu liên quan đến cơng
tác thanh tra NSNN thơng qua Tạp chí Thanh tra, Báo Thanh tra, Viện
khoa học Thanh tra,…
1.6.2. Phương pháp xử lý, số liệu
Tổng hợp số liệu thu, chi NSNN: Kết quả công tác thanh tra thu, chi
NSNN (sai phạm về kinh tế phát hiện qua thanh tra; xử lý sai phạm về kinh
tế bằng các biện pháp thu hồi, hoàn trả kinh phí,…) qua các năm, trong
tồn bộ giai đoạn nghiên cứu. Từ đó đưa ra kết luận tổng quát về nội dung
nghiên cứu.
Phân tích mơ tả thống kê cho dữ liệu định tính: Cụ thể là sử dụng kết
quả của việc phân tích dưới dạng số liệu thực tế hay tỷ lệ phần trăm để thể
hiện các dữ liệu so sánh của từng năm. Từ đó, làm rõ tầm quan trọng, vị sự
biến động của từng chỉ tiêu nghiên cứu,…

5


CHƯƠNG II: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC THANH TRA
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

2.1. Khái quát về công tác thanh tra
2.1.1. Khái niệm về thanh tra
Theo Từ điển tiếng Việt phổ thơng, thanh tra là: “kiểm sốt xem xét
tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp”. Với nghĩa này, thanh
tra bao hàm việc kiểm soát, xem xét và phát hiện ngăn chặn những gì trái
với quy định. Thanh tra là hoạt động của một chủ thể có thẩm quyền:
Người làm nhiệm vụ thanh tra, đoàn thanh tra và đặt trong phạm vi quyền
hành của một chủ thể nhất định.
Theo từng giai đoạn lịch sử, khái niệm về thanh tra cũng được nhận
thức khác nhau. Đó là sự phản ánh về mơ hình tổ chức các cơ quan nhà
nước; về sự kiểm soát đối với hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước:
Năm 1945, ngay sau khi Nhà nước dân chủ nhân dân được thành
lập, ngày 23 tháng 11 năm 1945, Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh số 64/SL thành
lập Ban Thanh tra đặc biệt. Sắc lệnh nêu rõ: “Chính phủ sẽ lập ngay một
Ban Thanh tra đặc biệt, có uỷ nhiệm là đi giám sát tất cả các công việc và
các nhân viên của Ủy ban nhân dân và các cơ quan của Chính phủ”, từ đây
thuật ngữ “Thanh tra” xuất hiện, được chỉ một cơ quan cụ thể, quyền thanh
tra được xác định và chính thức giao cho Chính phủ.
Năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta được ban hành.
Trong đó quy định quyền “kiểm sốt” đối với Chính phủ được giao cho
Ban Thường vụ của Nghị viện: “Khi Nghị viện không họp, Ban Thường vụ
có quyền kiểm sốt, phê bình Chính phủ”, thực chất đây là quyền giám sát
của cơ quan dân cử (cũng như quyền giám sát của Quốc hội và Ủy ban
thường vụ Quốc hội đối với Chính phủ).
Hiến pháp năm 1959 đã đề cập đến một số nội dung về kiểm tra việc
thi hành các quyết định quản lý nhà nước: “Hội đồng Chính phủ ra những
thơng tư, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành các Thông tư và Chỉ thị ấy” và
“Ủy ban hành chính các cấp quản lý cơng tác hành chính... ra Quyết định,
Chỉ thị và kiểm tra việc thi hành Quyết định, Chỉ thị ấy”. Như vậy, thanh
tra, kiểm tra ở đây ngoài việc xem xét vi phạm của các cơ quan, nhân viên

hành chính hay Chính phủ cịn mở rộng ra giám sát, kiểm tra các hoạt động
xây dựng, ban hành, thực hiện các văn bản pháp quy.
Hiến pháp 1980 sử dụng thuật ngữ “thanh tra” với nội dung là một
chức năng của cơ quan quản lý nhà nước. Khoản 15 Điều 107 của Hiến
pháp quy định Hội đồng Bộ trưởng có nhiệm vụ: “Tổ chức và lãnh đạo
công tác thanh tra và kiểm tra của Nhà nước”, Điều 110 quy định: “Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng lãnh đạo công tác của Hội đồng Bộ trưởng, đôn
6


đốc, kiểm tra việc thi hành những quyết định của Quốc hội, Hội đồng Nhà
nước, Hội đồng Bộ trưởng”. Về Ủy ban nhân dân, Điều 124 quy định: “Ủy
ban nhân dân các cấp chiểu theo quyền hạn do luật định, ra những Quyết
định, Chỉ thị và kiểm tra việc thi hành những văn bản đó”.
Hiến pháp 1992, khái niệm thanh tra, kiểm tra được thể hiện rõ hơn
qua các Điều 112, 115, 116 và 124. Khoản 7 Điều 112 quy định Chính phủ
có nhiệm vụ “tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà
nước, công tác thanh tra, kiểm tra nhà nước, chống quan liêu, tham nhũng,
trong bộ máy nhà nước; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơng
dân”. Điều 115 quy định “...Chính phủ ra Nghị quyết, Nghị định, Thủ
tướng Chính phủ ra Quyết định, Chỉ thị và kiểm tra việc thi hành các văn
bản đó...”. Đối với Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ, thủ
trưởng các cơ quan thuộc Chính phủ “ra Quyết định, Chỉ thị, Thông tư và
kiểm tra việc thi hành các văn bản đó...” (Điều 116). Đối với Ủy ban nhân
dân, Điều 124 Hiến pháp 1992 cũng quy định “Ủy ban nhân dân... ra
Quyết định, Chỉ thị và kiểm tra việc thi hành những văn bản đó”.
Trong Pháp lệnh Thanh tra năm 1990, hoạt động thanh tra của các tổ
chức thanh tra được xác định là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản
lý nhà nước. Điều 8 Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 quy định nhiệm vụ của
các tổ chức thanh tra nhà nước là: “thanh tra việc thực hiện chính sách,

pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước của các cơ quan, tổ chức và cá
nhân, trừ hoạt động điều tra truy tố, xét xử của các cơ quan điều tra, kiểm
sát, toà án và việc giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế, xử lý vi phạm
hợp đồng kinh tế của các cơ quan trọng tài kinh tế”.
Đến Luật Thanh tra năm 2010, Thanh tra là hoạt động xem xét, đánh
giá của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về việc chấp hành chính sách,
pháp luật, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm phát hiện và
xử lý những hành vi vi phạm pháp luật để xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến
nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý, phát hiện những sơ hở trong cơ chế,
chính sách pháp luật để kiến nghị việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện. Thanh
tra là một chức năng không thể thiếu của hoạt động quản lý, là một khâu
của chu trình quản lý của Nhà nước.
Thanh tra có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
Một là, thanh tra gắn liền với quản lý nhà nước:
- Với tư cách là một chức năng, là một giai đoạn của chu trình quản
lý nhà nước, thanh tra gắn liền với quản lý nhà nước.
- Thanh tra là một phạm trù lịch sử, thanh tra gắn liền với vai trị của
Nhà nước trong kiểm sốt nhà nước, kiểm sốt xã hội. Chính bản chất của
q trình lao động xã hội đã đòi hỏi tất yếu phải có sự quản lý của Nhà
nước để điều hồ những hoạt động đơn lẻ và thực hiện những chức năng
chung.
7


- Như vậy, việc xem xét, định hướng đánh giá kết quả quản lý là một
phương diện của quản lý xã hội. Quản lý nhà nước là một bộ phận quản lý
xã hội và ở đâu có quản lý nhà nước ở đó có thanh tra.
Hai là, thanh tra là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước
- Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra có mối liên hệ
chặt chẽ với tính quyền uy - phục tùng của quản lý nhà nước. Là một chức

năng của quản lý nhà nước, thanh tra phải thể hiện như một tác động tích
cực nhằm thực hiện quyền lực của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản
lý. Nói về quyền lực nhà nước trong quá trình thanh tra cũng có nghĩa là
xác định về mặt pháp lý tính chất nhà nước của tổ chức thanh tra. Vì vậy,
thanh tra phải được Nhà nước sử dụng như một công cụ có hiệu quả trong
q trình quản lý.
- Thanh tra là một hoạt động ln ln mang tính quyền lực nhà
nước. Chủ thể tiến hành thanh tra luôn luôn là cơ quan nhà nước. Thanh tra
(ở đây được dùng với tính chất là một danh từ chỉ cơ quan có chức năng
này) luôn luôn áp dụng quyền năng của Nhà nước trong q trình tiến hành
hoạt động của mình và nó nhân danh Nhà nước khi áp dụng quyền năng
đó. Thanh tra chỉ xuất hiện từ khi Nhà nước ra đời trong lịch sử và nó cũng
sẽ tiêu vong cùng với sự tiêu vong của Nhà nước. Theo Mác, đến một giai
đoạn nào đó, Nhà nước sẽ tự tiêu vong và khi đó, chức năng thanh tra sẽ
cùng với Nhà nước được “xếp bên cạnh chiếc xa kéo sợi và chiếc rìu đồng
cổ”. Chủ thể duy nhất tiến hành thanh tra là Nhà nước, thanh tra xuất hiện,
tồn tại và tiêu vong cùng với Nhà nước.
- Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra thể hiện ở chỗ, các
cơ quan thanh tra nhà nước có quyền hạn được xác định và khả năng thực
hiện những quyền hạn đó: Quyết định tổ chức các cuộc thanh tra theo
chương trình, kế hoạch được phê duyệt; Trình thủ trưởng cơ quan quản lý
hành chính phê duyệt hoặc quyết định thanh tra đột xuấtkhi phát hiện có
dấu hiệu vi phạm pháp luật; Yêu cầu đối tượng thanh tra, các cơ quan, tổ
chức, cá nhân cung cấp thơng tin, tài liệu có liên quan; Niêm phong tài
liệu, kiểm kê tài sản, trưng cầu giám định; Tạm đình chỉ hành vi vi phạm,
tạm giữ tiền, đồ vật, giấy phép, thu hồi tài sản; Xử phạt hành chính theo
quy định của pháp luật (đối với thanh tra chuyên ngành); Yêu cầu cấp có
thẩm quyền giải quyết đề nghị của thanh tra, yêu cầu truy cứu trách nhiệm
đối với những người có lỗi gây ra những vi phạm được phát hiện, kể cả
việc chuyển hồ sơ vụ việc vi phạm pháp luật có dấu hiệu của tội phạm

sang cơ quan điều tra để xử lý; Trong một số trường hợp trực tiếp áp dụng
các biện pháp cưỡng chế nhà nước.
- Tính quyền lực nhà nước trong quá trình thanh tra được cụ thể hố
trong chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra, phương
thức tiến hành thanh tra, xử lý kết quả thanh tra, quan hệ giữa cơ quan
8


thanh tra với đối tượng bị thanh tra,... Nếu chỉ chú trọng đến một mặt nào
đó mà khơng thực hiện đồng bộ tính quyền lực nhà nước trên các lĩnh vực
trên đều dẫn đến hạ thấp vai trò và hiệu quả của hoạt động thanh tra, hạn
chế hiệu lực thanh tra.
Ba là, thanh tra có tính độc lập tương đối
- Đây là đặc điểm vốn có, xuất phát từ bản chất của thanh tra. Đặc
điểm này phân biệt thanh tra với các loại hình cơ quan chức năng khác của
bộ máy quản lý nhà nước. Khác với hoạt động kiểm tra thường do bản thân
các cơ quan, tổ chức tự thực hiện, hoạt động thanh tra thường được tiến
hành bởi một cơ quan chuyên trách. Ngoài những nhiệm vụ như những cơ
quan quản lý nhà nước khác, các cơ quan thanh tra có nhiệm vụ chủ yếu là
xem xét, đánh giá một cách khách quan việc thực hiện chính sách, pháp
luật, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức và cá nhân.
- Các cơ quan thanh tra nhà nước là bộ phận quan trọng, không thể
thiếu trong cơ cấu bộ máy nhà nước, là công cụ đắc lực để giữ gìn, bảo vệ
và tăng cường trật tự, kỷ cương quản lý, là chức năng thiết yếu của các cơ
quan quản lý nhà nước, nhưng có tính độc lập tương đối với cơ quan quản
lý.
Từ những phân tích nêu trên, Thanh tra được hiểu như sau: Thanh
tra là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước, là việc
xem xét, đánh giá, xử lý của cơ quan nhà nước đối với việc thực hiện
chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Hoạt

động thanh tra được thực hiện bởi cơ quan thanh tra chuyên trách hoặc
cơ quan có chức năng thanh tra theo một trình tự, thủ tục luật định,
nhằm phịng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật,
phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để
kiến nghị với Nhà nước các biện pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích
cực, góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực của hoạt động quản lý nhà
nước, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của
cơ quan, tổ chức và cá nhân.
2.1.2. Vai trị và vị trí của cơng tác thanh tra trong quản lý nhà
nước
2.1.2.1. Thanh tra là chức năng thiết yếu của QLNN
a. Quản lý và vai trò của quản lý trong đời sống xã hội
Quản lý là một chức năng lao động xã hội, bắt nguồn từ tính chất xã
hội hố của lao động. Quản lý là một khái niệm rộng bao gồm nhiều lĩnh
vực như kinh tế, văn hố, sản xuất, chính trị, xã hội... Theo quan điểm của
điều khiển học, quản lý là sự tác động có mục đích đến một hệ thống nào
đó nhằm biến đổi nó từ trạng thái này sang trạng thái khác theo nguyên lý
phá vỡ hệ thống, tạo lập hệ thống, điều khiển hệ thống...
9


Quản lý có rất nhiều dạng, dấu hiệu chung của các dạng quản lý là:
- Chia thành chủ thể quản lý (gây ra tác động điều hành) và đối
tượng quản lý (chấp hành các động điều hành của chủ thể).
- Có mối liên hệ ngược và có mối liên quan đến việc trao đổi thơng
tin.
- Có khả năng tự thích nghi.
Gộp chung là quản lý gồm 3 loại: quản lý giới vơ sinh (máy móc,
đất đai, tài ngun...), quản lý giới sinh vật (cây trồng vật nuôi...); quản lý
xã hội (tập thể những con người). Trong các loại quản lý thì quản lý xã hội

là phức tạp nhất. Một mặt, xã hội là một hệ thống trên của kinh tế, bao
gồm toàn bộ các hoạt động cả về kinh tế, chính trị, đạo đức, tinh thần... nên
nó chứa đựng tất cả những sự phức tạp của các đối tượng bị quản lý. Mặt
khác, trong quản lý xã hội có những quan hệ phi kết cấu như quan hệ đạo
đức, quan hệ cá nhân, quan hệ nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của pháp
luật. Hơn nữa, sự tác động qua lại giữa các đối tượng, các quan hệ như
quan hệ kinh tế với quan hệ hành chính, quan hệ pháp lý... làm cho việc
quản lý càng phức tạp và khó khăn hơn.
Khi phân tích về vai trị quan trọng của quản lý xã hội, Các Mác
viết: “bất kỳ một xã hội hay cộng đồng nào được tiến hành trên qui mô
tương đối lớn cũng đều cần có sự quản lý, nó xác lập mối quan hệ hài hồ
giữa các cơng việc riêng rẽ là thực hiện chức năng chung nhất xuất phát từ
vận động của toàn bộ cơ cấu sản xuất (khác với sự vận động của từng bộ
phận độc lập trong nền sản xuất ấy). Một nghệ sĩ chơi đàn chỉ phải điều
khiển chính mình, nhưng một dàn nhạc cần có nhạc trưởng”. Trình độ xã
hội hố càng cao thì tính chất, nội dung quản lý càng phức tạp và phong
phú. Khi trình độ phân cơng lao động xã hội cịn ở mức độ thấp thì tác
động điều khiển để các hành vi hoạt động của con người ở các bộ phận
riêng phát triển phù hợp với ý chí của chủ thể quản lý còn tương đối đơn
giản, nhưng khi xã hội phát triển, sự phân công lao động trong xã hội sâu
hơn thì việc nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan vào quản lý để
xã hội phát triển theo ý chí của chủ thể khơng cịn đơn giản nữa. Do vậy,
khi hướng sự tác động của mình vào đối tượng bị quản lý, chủ thể quản lý
phải cần nhận biết qui luật vận động của nó, đồng thời, phải tự điều chỉnh
ý chí của mình. Vậy quản lý là gì? Quản lý là sự tác động có tính chỉ huy,
điều khiển các q trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để
chúng phát triển phù hợp với qui luật, đạt tới mục đích nhất định và đúng
với ý chí của chủ thể quản lý. Như vậy, quản lý vừa là khoa học vừa là
nghệ thuật, nó tác động lên hành vi của mỗi cá nhân, nhờ đó mà tạo nên
hành động chung có sức mạnh lớn hơn của cả tập thể. Ở đâu có lao động

của con người, có phân cơng, có hợp tác mà muốn đạt năng suất lao động
chung lớn hơn thì ở đó phải có lao động quản lý, đây chính là mặt tổ chức,
10


kỹ thuật của quản lý. Về bản chất của quản lý thì: quản lý là hoạt động có
mục đích của giai cấp thống trị, của người chủ quản lý nhằm đảm bảo duy
trì và đảm bảo lợi ích của mình. Cho nên bản chất của quản lý gắn liền với
chế độ sở hữu tư liệu sản xuất là cái mà giai cấp thống trị, người chủ nắm
giữ. Đây chính là mặt kinh tế - xã hội của quản lý.
b. Quản lý nhà nước và chức năng thanh tra trong quản lý nhà
nước
Nhà nước là chủ thể của quản lý nhà nước. Khái niệm quản lý nhà
nước ở đây không chỉ có hệ thống các cơ quan hành pháp mà là cả cơ cấu
bao gồm các cơ quan lập pháp, tư pháp, hành pháp. Hệ thống các cơ quan
này trong phạm vi trách nhiệm của mình đều thực hiện chức năng quản lý
đối với xã hội. Nhà nước CHXHCN Việt Nam là tổ chức tập trung quyền
lực của nhân dân, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân;
thực hiện quyền lực của mình để quản lý mọi mặt hoạt động của xã hội
bằng pháp luật theo đường lối, chính sách của Đảng. Như vậy, đối tượng
của quản lý nhà nước sẽ là các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của
con người. Từ đó, có thể hiểu quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức
và điều chỉnh mang tính quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã hội
và hành vi hoạt động của con người để duy trì, phát triển các mối quan hệ
xã hội và trật tự xã hội nhằm thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của
Nhà nước.
Nội dung quản lý nói chung với tính cách là một quá trình được thực
hiện qua các chức năng quản lý. Chức năng quản lý là một thể thống nhất
những hoạt động tất yếu của chủ thể quản lý nảy sinh từ sự phân cơng,
chun mơn hố trong hoạt động quản lý nhằm thực hiện mục tiêu. Những

chức năng này là những hình thức hoạt động nhờ đó chủ thể quản lý tác
động đến đối tượng quản lý. Không có chức năng quản lý thì khơng thể
hình dung được quá trình quản lý ấy trong một hệ thống nhất định, chủ thể
quản lý sẽ không thể điều hành được hệ thống quản lý.
Chức năng quản lý xác định vị trí, mối quan hệ giữa các bộ phận,
các khâu, các cấp trong hệ thống quản lý. Từ những chức năng quản lý mà
chủ thể xác định các nhiệm vụ cụ thể, thiết kế bộ máy và bố trí con người
phù hợp. Đồng thời, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ mà chủ thể quản lý
có thể theo dõi, kiểm tra, đánh giá, điều chỉnh sự hoạt động của mỗi bộ
phận và toàn bộ hệ thống quản lý. Chức năng quản lý xác định khối lượng
các công việc cơ bản và trình tự các cơng việc của q trình quản lý, mỗi
chức năng có nhiều nhiệm vụ cụ thể là quá trình liên tục của các bước cơng
việc tất yếu phải thực hiện.
Có nhiều cách phân loại các chức năng quản lý khác nhau: ở phạm
vi nghiên cứu về quản lý nhà nước với khái niệm và nội hàm được làm rõ
trên đây và xét theo giai đoạn tác động quản lý thì quản lý nhà nước có 3
11


chức năng cơ bản sau đây: ra quyết định quản lý; tổ chức thực hiện; kiểm
tra việc thực hiện quyết định ấy. Quyết định quản lý là hành vi sáng tạo của
chủ thể quản lý nhằm định ra chương trình và tính chất hoạt động của tập
thể để giải quyết vấn đề đã chín muồi, trên cơ sở hiểu biết các qui luật vận
động khách quan của hệ thống quản lý và việc phân tích các thơng tin về
hiện trạng của hệ thống. Quyết định quản lý là sản phẩm đặc biệt của lao
động quản lý và có ở tất cả các cấp quản lý nhưng việc chuẩn bị và đề ra
các quyết định mới chỉ là điểm xuất phát trong q trình quản lý. Có thể có
những quyết định đúng đắn, hứa hẹn hiệu quả cao, nhưng thiếu tổ chức
thực hiện thì quyết định đó cũng chỉ nằm trên giấy hoặc cũng chỉ nằm
trong đầu óc người ra quyết định mà thôi.

Tổ chức thực hiện quyết định và kiểm tra việc thực hiện quyết định
là những giai đoạn tiếp theo của quá trình quản lý. Các giai đoạn này gồm
những công việc như: truyền đạt quyết định; lập kế hoạch tổ chức; điều
chỉnh quyết định; kiểm tra việc thực hiện quyết định và tổng kết tình hình
thực hiện quyết định. Ở đây kiểm tra được hiểu là hình thức tác động có
hướng đích nhằm quan sát cả hệ thống để phát hiện những sai lệch so với
yêu cầu đề ra, tìm ra ngun nhân và từ đó có những giải pháp phù hợp
đảm bảo để đối tượng bị quản lý tự điều chỉnh hoạt động, để hoạt động của
nó đạt tới mục tiêu mà chủ thể quản lý đã xác định.
Vấn đề ở đây là làm thế nào để tìm ra giải pháp phù hợp? Có tìm ra
được giải pháp phù hợp hay không phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong
đó có yếu tố thuộc về chất lượng và hiệu quả của hoạt động kiểm tra.
Muốn cho công việc kiểm tra có kết quả, cần có những kế hoạch rõ ràng,
làm căn cứ cung cấp những chỉ tiêu xác đáng cho việc kiểm tra; sắp xếp tổ
chức khoa học, hợp lý nhằm xác định chính xác nhiệm vụ của từng bộ
phận, cá nhân trong việc thực hiện kế hoạch. Cần tiến hành thường xuyên
và kết hợp linh hoạt nhiều hình thức kiểm tra: kiểm tra trực tiếp, kiểm tra
gián tiếp, kiểm tra định kỳ, kiểm tra bất thường, kiểm tra từ trên xuống,
kiểm tra từ dưới lên...
Trong một phạm vi, chừng mực nhất định nào đó, hoạt động kiểm
tra theo nghĩa thơng thường có thể đưa lại những thông tin cần thiết, đáp
ứng được yêu cầu của việc tìm giải pháp phù hợp. Nhưng ở một cấp độ nào
đó của cơng tác quản lý nhà nước, hoạt động kiểm tra theo nghĩa thông
thường chưa đáp ứng được yêu cầu của việc tìm giải pháp phù hợp đó.
Thực tiễn điều hành và quản lý nói chung và đặc biệt quản lý nhà nước nói
riêng địi hỏi phải có một phương thức kiểm tra khác với nghĩa kiểm tra
thông thường. Loại phương thức kiểm tra này không chỉ dừng lại ở chỗ
phát hiện sai lệch của đối tượng bị quản lý so với u cầu đề ra mà cịn
phải tìm ra những nguyên nhân chủ quan, khách quan của sự sai lệch đó.
Nếu có yếu tố trách nhiệm thì đương nhiên phải chỉ rõ trách nhiệm đó

thuộc về ai? tổ chức, cá nhân nào? chính từ việc tìm ngun nhân và qui
12


trách nhiệm cùng những yếu tố khác đã làm nảy sinh những yêu cầu mới
đối với chính hoạt động kiểm tra như phải thu thập và xử lý; nhận xét và
đánh giá, phân tích tổng hợp nguyên nhân, dữ liệu, số liệu nhiều hơn,
phức tạp hơn, loại hình kiểm tra như vậy hay nói cách khác phương thức
kiểm tra như vậy rất gần với hoạt động thanh tra. Thực chất thanh tra là
một phương thức của kiểm tra, là công cụ của quản lý. Trong quá trình
thực hiện chức năng quản lý nhà nước các cơ quan quản lý nhà nước nhất
thiết phải tiến hành việc hoạt động thanh tra thực hiện các quyết định mà
mình đã ban hành. Đó là một khâu khơng thể thiếu được trong q trình
hoạt động quản lý nhà nước. Chính vì vậy, thanh tra được xác định là chức
năng thiết yếu của quản lý nhà nước.
2.1.2.2. Thanh tra góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
nhà nước
Thực tiễn chỉ ra rằng: hiệu lực quản lý của Nhà nước phần lớn tuỳ
thuộc vào nội dung, chất lượng và biện pháp tổ chức thực hiện các quyết
định quản lý nhà nước. Hiệu lực quản lý nhà nước bị ảnh hưởng nếu quyết
định quản lý nhà nước khơng đảm bảo tính giai cấp, tính Đảng, tính pháp
luật; khơng dựa trên những luận cứ khoa học (phù hợp với quy luật và
điều kiện thực tế, khách quan), không phù hợp nguyện vọng của quần
chúng và không đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Hiệu lực quản lý nhà
nước cũng bị ảnh hưởng ngay cả khi nội dung, chất lượng quyết định quản
lý đã bảo đảm các yêu cầu cơ bản, nhưng lại thiếu biện pháp bảo đảm cho
quyết định đó được thực hiện. Để các quyết định quản lý nhà nước được
các cơ quan, tổ chức và cá nhân tuân thủ và chấp hành quyết định, phải đề
ra qui trình thực hiện quyết định. Trong qui trình đó khơng thể thiếu được
hoạt động thanh tra, kiểm tra. Thanh tra, kiểm tra là để đánh giá, nhận xét

tình hình và kết quả thực hiện quyết định quản lý; để kiểm nghiệm lại
chính nội dung và chất lượng quản lý; khi cần thiết phải bổ sung, sửa đổi,
thậm chí phải huỷ bỏ một phần hay tồn bộ quyết định quản lý. Trong
trường hợp nội dung và chất lượng quyết định quản lý được thực tế kiểm
nghiệm là đúng, là phù hợp, nhưng đối tượng thi hành vẫn khơng tn thủ
và chấp hành nghiêm chỉnh thì khi đó hoạt động thanh tra, kiểm tra phải
phục vụ cho việc làm rõ nguyên nhân (cả chủ quan lẫn khách quan), xác
định rõ trách nhiệm thuộc khâu nào, thuộc ai để chấn chỉnh hoặc xử lý
(khi có vi phạm), với ý nghĩa đó thanh tra thực chất đã góp phần nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước.
Trong hoạt động thực tiễn, thanh tra không chỉ là một trong những
phương thức đảm bảo các quyết định quản lý được tuân thủ một cách
nghiêm túc, mà cịn góp phần xem xét cả tính hiệu quả của quản lý nhà
nước. Hiệu quả suy đến cùng, là chỉ tiêu so sánh giữa hai yếu tố: kết quả
và chi phí. Hiệu quả trong quản lý là đạt kết quả và mục tiêu đề ra với chi
phí ở mức tối thiểu.
13


Công tác thanh tra không chỉ hướng đến xem xét, đánh giá thực hiện
một quyết định quản lý cụ thể, mà phải hướng đến xem xét kết luận, đánh
giá kết quả thực hiện các mục tiêu, chương trình, nhiệm vụ của chính cơ
quan quản lý nhà nước. Chỉ đánh giá kết quả mà khơng so sánh với chi phí
đã bỏ ra thì chưa tiếp cận đến khái niệm hiệu quả. Chưa đánh giá được
hiệu quả thì thanh tra chưa đáp ứng được u cầu của quản lý. Chính vì
vậy, cơng tác thanh tra còn hướng đến xem xét và tổ chức việc hoạt động
cụ thể của cơ quan quản lý nhà nước thông qua các yếu tố: cơ cấu tổ chức
bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, năng lực, uy tín, phong cách
của cán bộ; thời gian đầu tư giải quyết các tình huống quản lý; tinh thần
trách nhiệm, tính dân chủ và uy tín chính trị đối với xã hội.v.v... Tất cả

những nội dung đó là nhằm cho công tác thanh tra hướng tới mục tiêu
nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.
2.1.2.3. Thanh tra là phương thức bảo đảm pháp chế xã hội chủ
nghĩa
Một trong những nguyên tắc cơ bản phải được tuân thủ của hệ thống
chính trị và bộ máy nhà nước ta là nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Nội dung của nguyên tắc pháp chế là sự bảo đảm cho pháp luật được tn
thủ một cách tuyệt đối, khơng có một thực thể nào đứng trên pháp luật hay
đứng ngoài pháp luật. Nguyên tắc pháp chế hiện hữu ở việc chấp hành
pháp luật cả từ phía các cơ quan nhà nước và từ phía các cá nhân, tổ chức
là đối tượng chịu sự quản lý của nhà nước. Về phía các cơ quan nhà nước,
nguyên tắc pháp chế thể hiện ở việc các cán bộ, công chức Nhà nước thực
thi đúng chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà pháp luật đã quy
định. Ở bình diện rộng hơn, nó cịn là việc mỗi cơ quan nhà nước thực thi
đúng phạm vi, thẩm quyền, trách nhiệm đã được quy định trong các văn
bản pháp luật. Ngay trong hoạt động ban hành các quyết định, các văn bản
của cơ quan cấp dưới phải phù hợp với các quy định trong các văn bản của
cơ quan cấp trên, văn bản có hiệu lực cao hơn và mọi văn bản pháp luật
phải phù hợp với Hiến pháp - đạo luật gốc, có hiệu lực pháp lý cao nhất.
Về phía các đối tượng quản lý, mọi công dân, cá nhân, tổ chức trong
mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội đều phải thực hiện theo các quy định
của pháp luật. Hệ thống pháp luật quy định cho mỗi công dân, mỗi doanh
nghiệp, mỗi tổ chức có những quyền nhất định như quyền tự do kinh
doanh, tự do đi lại, quyền được học tập, quyền có nhà ở... Đồng thời pháp
luật cũng quy định cho họ những nghĩa vụ nhất định. Ngồi ra, pháp luật
cịn có những qui phạm điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội, pháp chế
đòi hỏi tất cả những quy định đó đều phải được tuân thủ một cách tuyệt
đối.
Với tư cách là chức năng quản lý, thanh tra chính là hoạt động xem
xét tại chỗ việc làm của các cơ quan, tổ chức cá nhân có đúng chính sách,

pháp luật hay không. Nếu họ làm sai hoặc làm chậm thì giúp họ sửa chữa
14


và làm cho đúng. Mục đích của thanh tra là nhằm phòng ngừa, phát hiện và
xử lý những vi phạm pháp luật, bảo đảm để các cơ quan, tổ chức và cá
nhân tuân thủ và chấp hành một cách chính xác, đầy đủ và nghiêm chỉnh
pháp luật nhà nước. Muốn có pháp chế cần phải làm cho mọi người hiểu
biết pháp luật. Mặc dù công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật khơng
phải là chức năng chính của thanh tra, nhưng thơng qua hoạt động của
mình, cơng tác thanh tra đã góp phần tích cực vào việc giúp các cơ quan, tổ
chức, cá nhân hiểu đúng và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật và đó cũng
là một hoạt động bảo đảm tăng cường pháp chế.
Tuy nhiên, trong thực tế khơng ít trường hợp vi phạm pháp luật,
nhưng khơng phải do không hiểu đúng các quy phạm pháp luật, mà do
thiếu trách nhiệm dẫn đến vi phạm, hoặc cố tình vi phạm. Trong những
trường hợp đó địi hỏi thanh tra phải có hình thức xử lý nghiêm khắc. Xử
lý mạnh mẽ, nghiêm khắc là để cho đối tượng quản lý phải sửa chữa những
vi phạm pháp luật và việc xử lý đó cịn có tác dụng lâu dài đến đối tượng
quản lý đó cũng như mang tính chất răn đe đối với các đối tượng quản lý
khác.
Tóm lại, sự vi phạm pháp luật đã, đang và sẽ còn là một thực tế với
nhiều lý do khác nhau. Để giải quyết vấn đề này, chủ thể quản lý có thể áp
dụng nhiều biện pháp từ giáo dục, thuyết phục đến cưỡng chế. Các biện
pháp đó đều có thể được thực hiện thơng qua cơng tác thanh tra, qua thanh
tra có thể đánh giá được một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào đó chấp hành
pháp luật như thế nào, có vi phạm pháp luật hay không, vi phạm ở mức độ
nào... Từ đó đề ra những biện pháp xử lý thích hợp. Do vậy, thanh tra là
một phương thức bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa.
2.1.2.4. Thanh tra là một biện pháp phòng ngừa, phát hiện,

ngăn chặn và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật
Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: lãnh đạo, chỉ
đạo, điều hành, quản lý mà thiếu sự kiểm tra, thanh tra thì đó chính là
ngun nhân của bệnh quan liêu, dẫn đến tham ơ, lãnh phí. Để chống
bệnh quan liêu, Người cho rằng chỉ có một cách, đó là phải kiểm tra,
kiểm soát. Người khẳng định: người lãnh đạo phải “kiểm sốt kết quả
cơng việc của cán bộ của mình”. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”
Người viết: đối với người lãnh đạo “Giao công việc mà không kiểm tra,
đến lúc thất bại mới chú ý đến. Thế là khơng biết u dấu cán bộ”. Người
cịn khẳng định: “Muốn chống bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy; muốn biết
các Nghị quyết có được thi hành khơng, thi hành có đúng không; muốn
biết ai ra sức làm, ai làm cho qua chuyện, chỉ có một cách là khéo kiểm
sốt” và “kiểm sốt khéo, bao nhiêu khuyết điểm lịi ra hết, hơn nữa
kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi”.

15


Ngay từ năm 1945, trong Sắc lệnh số 64/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh
ký ngày 23/11/1945 về thành lập Ban thanh tra đặc biệt đã có quy định
quyền hạn của Ban thanh tra đặc biệt là: “Đình chức, bắt giam bất cứ nhân
viên nào trong Ủy ban nhân dân hay Chính phủ đã phạm lỗi”. Tiếp đó,
trong Sắc lệnh số 138b/SL ngày 18/12/1949 về việc thành lập Ban thanh
tra Chính phủ có quy định nhiệm vụ của Ban là “ thanh tra các nhân viên
Ủy ban kháng chiến hành chính và viên chức về phương diện liêm khiết”.
Tại Sắc lệnh số 261/SL ngày 28/3/1956 về việc thành lập Ban thanh tra
Trung ương của Chính phủ có nhiệm vụ “ thanh tra việc thực hiện kế
hoạch nhà nước, việc sử dụng, bảo quản tài sản nhà nước, chống phá hoại,
tham ô, lãng phí”. Tháng 6/1978, Ban thanh tra Trung ương ra Thông tư số
44/TT về công tác chống quan liêu, cửa quyền, tham ơ, lãng phí có nhấn

mạnh: “ tổ chức thanh tra ở các cấp, các ngành được giao nhiệm vụ là cơ
quan thường trực phụ trách theo dõi, kiểm tra, đơn đốc, tổng hợp tình hình,
nghiên cứu các biện pháp chỉ đạo và chủ trì sự phối hợp với những cơ quan
có liên quan để xử lý vụ việc được phát hiện”.
Ngày 21/5/1988, Ban thanh tra Trung ương ra Chỉ thị số 38/CT-TW
về việc tiến hành đợt thanh tra tài chính trong tồn bộ nền kinh tế quốc
dân, trong đó đã khẳng định biện pháp “tăng cường cơng tác kiểm tra,
thanh tra, đặc biệt là thanh tra tài chính nhằm lập lại trật tự kỷ cương trong
quản lý kinh tế, tài chính, đấu tranh bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, chống
mọi biểu hiện tiêu cực, tham ô, lãng phí”.
Trong Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 và nhiều văn bản pháp luật
khác cũng có quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra
và các cơ quan có chức năng kiểm tra, giám sát khác trong việc đấu tranh
phòng chống những hành vi vi phạm pháp luật.
Trong các văn bản pháp luật về chống tham nhũng và pháp luật về
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí đều có những quy định về trách nhiệm
của các cơ quan thanh tra cùng với các cơ quan khác như: Ủy ban Thường
vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; các cơ quan
hành chính nhà nước; các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án; Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong
việc thanh tra, kiểm tra, giám sát việc phòng ngừa phát hiện và xử lý hành
vi tham nhũng.
Trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX cũng đã nhấn
mạnh việc “định kỳ kiểm tra, đánh giá cán bộ, công chức, kịp thời thay thế
những cán bộ, công chức yếu kém và thoái hoá”. Nghị quyết cũng xác định
một trong những biện pháp đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng là
phải “tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm kê, kiểm sốt, bảo đảm tính
minh bạch trong việc sử dụng NSNN, tài sản cơng, tài chính Đảng, đồn
thể, tài chính các doanh nghiệp nhà nước, các quỹ do nhân dân đóng góp
và do nước ngồi viện trợ”.

16


Vai trị của cơng tác thanh tra khơng chỉ và không phải chủ yếu là
phát hiện và xử lý mà quan trọng hơn, thanh tra đóng vai trị như một biện
pháp phòng ngừa hữu hiệu các hành vi vi phạm pháp luật. Tính phịng
ngừa của thanh tra đối với các hành vi vi phạm pháp luật.
Với bản chất dân chủ, Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của
dân, do dân và vì dân; pháp luật là để thể hiện ý chí của nhân dân cho nên
thanh tra góp phần tăng cường pháp chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý nhà nước và ngăn ngừa, phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm pháp
luật cũng chính là góp phần phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.
2.1.3. Mục đích và nguyên tắc của hoạt động thanh tra
- Mục đích thanh tra là nội dung quan trọng được đề cập trong Luật
Thanh tra và mang tính định hướng cho hoạt động của các cơ quan thanh
tra. Theo quy định của Luật Thanh tra năm 2010 thì mục đích thanh tra
cũng có sự bổ sung, phát triển. Nếu như Luật Thanh tra năm 2004 đề cao
mục đích thanh tra là phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật thì Luật Thanh tra năm 2010 đã thể hiện rõ hơn mục đích thanh
tra theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Thanh tra là tai mắt của trên,
là người bạn của dưới”. Điều 2 của Luật Thanh tra năm 2010 quy định về
mục đích thanh tra như sau: "mục đích thanh tra nhằm phát hiện những sơ
hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan
nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục; phịng ngừa, phát hiện
và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân
thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp
phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân".
- Nguyên tắc hoạt động thanh tra là những quy tắc chỉ đạo, tiêu
chuẩn hành động xuyên suốt trong quá trình tiến hành thanh tra của các cơ

quan thực hiện chức năng thanh tra nhà nước. Theo quy định trong Luật
Thanh tra năm 2004 thì “hoạt động thanh tra phải tuân theo pháp luật; bảo
đảm chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời;
không làm cản trở đến hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức và cá
nhân là đối tượng thanh tra”. các nguyên tắc này là phù hợp, đáp ứng được
yêu cầu hoạt động của các cơ quan nhà nước thời gian qua. Tuy nhiên,
thực tế công tác thanh tra cũng cho thấy vẫn cịn tình trạng trùng lắp,
chồng chéo trong hoạt động của các cơ quan thực hiện chức năng thanh
tra. Để khắc phục tình trạng này, giúp các cơ quan thanh tra hoạt động theo
đúng phạm vi được pháp luật quy định, bảo đảm cho cơng tác thanh tra
góp phần thiết thực hơn nữa trong việc hoàn thiện cơ chế quản lý, bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá
nhân là đối tượng thanh tra, Luật Thanh tra năm 2010 đã bổ sung thêm
nguyên tắc hoạt động thanh tra “không trùng lặp về phạm vi, đối tượng,
nội dung, thời gian thanh tra giữa các cơ quan thực hiện chức năng thanh
tra”.
17


- Nguyên tắc tuân theo pháp luật trong hoạt động thanh tra
phù hợp với nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa - một nguyên tắc cơ bản
của quản lý hành chính nhà nước, hoạt động thanh tra địi hỏi tuân thủ
nguyên tắc tuân theo pháp luật. Nguyên tắc này đặt ra hai yêu cầu căn bản
dưới đây: Mọi công việc cần tiến hành trong hoạt động thanh tra phải được
thực hiện trên cơ sở những quy định của pháp luật hiện hành về Thanh tra;
Không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào
hoạt động thanh tra. Khi có đầy đủ những căn cứ do pháp luật quy định, cơ
quan thanh tra được quyền tiến hành hoạt động thanh tra một cách độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật. Việc can thiệp không có căn cứ pháp luật của
bất kỳ tổ chức, cá nhân nào đều là bất hợp pháp và tùy theo mức độ nặng,

nhẹ sẽ bị xử lý theo các quy định của pháp luật.
- Nguyên tắc đảm bảo chính xác, khách quan, dân chủ, công khai,
kịp thời trong hoạt động thanh tra:
+ Thanh tra là hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực hiện kế hoạch,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, trên cơ sở đó đề ra những biện pháp
xử lý thích hợp, đảm bảo cho chính sách, pháp luật, kế hoạch được tôn
trọng thực hiện. Mỗi kết luận, kiến nghị hay quyết định trong hoạt động
thanh tra đều rất quan trọng bởi nó phải làm rõ tính đúng sai, nêu rõ tình
hình, tính chất, hậu quả của sự việc, xác định trách nhiệm của tổ chức, cá
nhân nếu họ sai phạm và yêu cầu các đối tượng này có những biện pháp
tích cực loại trừ những sai phạm đó. Vì vậy, tính chính xác phải được coi là
một nguyên tắc của hoạt động thanh tra. Bản thân nguyên tắc tuân theo
pháp luật trong hoạt động thanh tra đã tạo ra cơ sở quan trọng để đảm bảo
cho nguyên tắc chính xác. Điều này có nghĩa là hoạt động thanh tra phải
được tiến hành trên cơ sở có đầy đủ những căn cứ rõ ràng đã được quy
định trong pháp luật; việc thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn, các
quyền và nghĩa vụ pháp lý khác hoàn toàn phải phù hợp với quy định của
pháp luật về hoạt động thanh tra.
+ Nguyên tắc khách quan trong hoạt động thanh tra địi hỏi, mọi
cơng việc tiến hành trong hoạt động này phải xuất phát từ thực tiễn quản lý
hành chính nhà nước. Mọi quyết định, kết luận hay kiến nghị trong hoạt
động thanh tra đều phải xuất phát từ thực tiễn khách quan đó chứ khơng
phải là kết quả của việc suy diễn chủ quan, hời hợt hay mang tính áp đặt.
Muốn khách quan trong hoạt động thanh tra, cán bộ thanh tra phải có trình
độ hiểu biết về chính trị, pháp luật, am hiểu chuyên môn nghiệp vụ để có
thể độc lập, khách quan trong suy nghĩ và hành động của mình.
Cơng khai, dân chủ là bản chất chế độ xã hội của chúng ta và nó
cũng đã trở thành một nguyên tắc trong hoạt động thanh tra. Các quy định
pháp luật về cơ cấu, tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn, trình tự, thủ tục thanh
tra đều thể hiện rõ nét những nội dung của nguyên tắc công khai, dân chủ.


18


+ Ngun tắc cơng khai, dân chủ địi hỏi: Nội dung các công việc
của hoạt động thanh tra phải được thông báo một cách đầy đủ và rộng rãi
cho mọi đối tượng có liên quan biết; Cơ quan thanh tra phải có trách nhiệm
thu hút đơng đảo quần chúng nhân dân tích cực tham gia vào hoạt động
thanh tra, đảm bảo phát huy mạnh mẽ tính dân chủ của hoạt động này; Các
kết luận, kiến nghị, quyết định về thanh tra trong hoạt động thanh tra được
thông báo công khai cho các đối tượng có liên quan biết.
Kịp thời là một yêu cầu mang tính đặc thù trong phương pháp hoạt
động của thanh tra. Yêu cầu này nhằm đảm bảo phát hiện, ngăn ngừa và xử
lý kịp thời những việc làm vi phạm pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của Nhà nước, tập thể và các cá nhân trong xã hội. Nguyên tắc kịp
thời trong hoạt động thanh tra địi hỏi: Khi có đầy đủ cơ sở tiến hành thanh
tra, tổ chức thanh tra có thẩm quyền phải nhanh chóng tiến hành hoạt động
thanh tra theo đúng quy định của pháp luật; Mọi công việc cần tiến hành
trong hoạt động thanh tra đều phải thực hiện trong thời hạn được pháp luật
quy định.
+ Nguyên tắc không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời
gian thanh tra giữa các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra; khơng làm
cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng
thanh tra:
Theo nguyên tắc này: Thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước cần
nghiên cứu, xem xét kỹ các căn cứ và những điều kiện khác có liên quan
trước khi ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn Thanh tra để tránh
trùng lặp, cố gắng tránh hiện tượng có thể xảy ra là 1 năm liên tiếp có
nhiều Đồn kiểm tra, thanh tra đến 1cơ quan, đơn vị, nhất là thanh tra,
kiểm tra về cùng 1 nội dung. Trong quá trình thanh tra, kiểm tra, Trưởng

đoàn và các thành viên Đoàn Thanh tra cần thực hiện đúng kế hoạch thanh
tra, đúng quyền hạn, trình tự thủ tục và đúng thời gian, thời hiệu thanh tra.
Thực hiện hoạt động thanh tra nhằm góp phần đảm bảo tuân thủ
pháp chế và kỷ luật nhà nước, tăng cường hiệu quả, hiệu lực hoạt động
quản lý hành chính nhà nước. Pháp luật trao cho cơ quan thanh tra những
nhiệm vụ, quyền hạn đặc biệt để tiến hành hoạt động thanh tra nhằm đạt
được mục tiêu quan trọng nêu trên. Tuy nhiên, khi tiến hành hoạt động
thanh tra, trong đó có việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đặc biệt này, cơ
quan thanh tra phải đảm bảo không cản trở đến hoạt động bình thường của
các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân là đối tượng thanh tra. Có như vậy,
thanh tra mới thực sự là công cụ để củng cố và tăng cường pháp chế và kỷ
luật nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Ngun tắc
khơng cản trở hoạt động bình thường của đối tượng thanh tra có ý nghĩa
thực tiễn rất quan trọng, đặc biệt khi trên thực tế xuất hiện tình trạng một
bộ phận cán bộ thanh tra lợi dụng việc thanh tra để thực hiện nhưng hành
vi tiêu cực, gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của đối tượng thanh
19


tra, đặc biệt là của các đơn vị thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh
doanh.
2.1.4. Phân loại hoạt động thanh tra
Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra
chuyên ngành:
- Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực
hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
- Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn –

kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó.
2.2. Thanh tra NSNN
2.2.1. Khái quát về NSNN
- Theo quy định Khoản 14 Điều 4 Luật Ngân sách nhà nước năm
2015 có nêu “NSNN là tồn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước được dự
toán và thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quyết định để bảo đảm thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước”.
- NSNN có vai trị vơ cùng quan trọng trong tồn bộ hoạt động kinh
tế, xã hội, quốc phịng, an ninh và đối ngoại của đất nước. Vai trị NSNN
ln gắn liền với vai trò của nhà nước theo từng giai đoạn nhất định, sự
phát triển của đất nước. Đối với nền kinh tế thị trường, NSNN đảm nhận vị
trị vai trị quản lý vĩ mơ đối với tồn bộ nền kinh tế, xã hội. NSNN là công
cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội, định hướng phát triển sản xuất,
điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đời sống xã hội.
2.2.2. Khái niệm về thanh tra NSNN
Từ những cơ sở định nghĩa về thanh tra, có thể khái quát về thanh
tra NSNN như sau: Thanh tra NSNN là việc xem xét, đánh giá, xử lý của
cơ quan quản lý nhà nước đối việc thực hiện chính sách, pháp luật của nhà
nước về cơng tác thu – chi NSNN, nhằm phòng ngừa, phát hiện, xử lý các
hành vi pháp luật, chính sách, chế độ thu, chi NSNN đối với các tổ chức,
đơn vị, cá nhân.
Thanh tra NSNN là một phần trong hoạt động thanh tra tài chính,
thuộc lĩnh vực thanh tra nhà nước, được tiến hành trong quá trình chấp
hành nghĩa vụ thu, chi NSNN. Trong thời gian qua, xã hội đã chứng kiến
rất nhiều vụ án với giá trị sai phạm rất lớn, mà chủ yếu phát sinh trong lĩnh
vực chi tiêu NSNN, gây thiệt hại rất lớn cho NSNN. Đồng tiền của Nhà
nước chi ra đã không mang lại hiệu quả phục vụ cho sự phát triển của đất
nước, bị thất thoát và lãng phí nhiều. Từ những thực trạng đó Đảng và Nhà
20



nước ta hiện nay rất quan tâm và là một địi hỏi cần thiết nhất đối với cơng
cuộc phịng, chống tham nhũng hiện nay ở nước ta.
2.2.3. Mục tiêu của thanh tra NSNN
Từ những mục tiêu chung của công tác thanh tra, mục tiêu cụ thể
của thanh tra NSNN được xác định như sau:
- Phòng ngừa, ngăn chặn những thiếu sót, sai phạm, tiêu cực có thể
xảy ra trong quá trình thực hiện các nghiệp vụ kinh tế phát sinh thu, chi
NSNN của các tổ chức, đơn vị và cá nhân,
- Phát hiện những điểm bất cập, lạc hậu, không cịn phù hợp của cơ
chế, chính sách quan liên đến công tác quản lý và sử dụng NSNN để kiến
nghị kịp thời sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chế độ, chính sách cho phù hợp
thực tiễn.
- Góp phần từng bước hoàn thiện tổ chức bộ máy thu, chi NSNN,
tăng cường công tác quản lý cán bộ thực hiện thu, chi NSNN và nâng cao
ý thức tuân thủ của các đối tượng liên quan.
- Tác động đến việc thực hiện tốt dự tốn thu, chi NSNN, đảm bảo
tính đúng đắn, chính xác, kịp thời, công khai và minh bạch.
2.2.4. Nguyên tắc hoạt động của thanh tra NSNN
Theo Điều 7 Luật Thanh tra năm 2010 và Điều 4 Quyết định số
32/2006/QĐ-BTC ngày 06/6/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định
về hoạt động thanh tra, kiểm tra tài chính, nêu như sau:
- Hoạt động thanh tra, kiểm tra tài chính phải tuân theo pháp luật;
bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời;
Không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra giữa
các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra; không làm cản trở hoạt động
bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra.
- Khi tiến hành thanh tra, kiểm tra người ra quyết định thanh tra,
kiểm tra, Trưởng đoàn thanh tra, kiểm tra, thanh tra viên, thành viên đoàn

thanh tra, kiểm tra phải thực hiện đúng các qui định của pháp luật về thanh
tra, kiểm tra và phải chịu trách nhiệm cá nhân về hành vi, quyết định của
mình.
- Sau khi kết thúc thanh tra, phải có Kết luận thanh tra; các Đồn
thanh tra tài chính phải bàn giao đủ hồ sơ, tài liệu, chứng lý cho cơ quan
quyết định thanh tra theo đúng qui định của Luật Thanh tra và các văn bản
hướng dẫn thực hiện.
Mặc khác, để đạt được mục đích, yêu cầu đã đặt ra, trong quá trình
tiến hành thanh tra, cán bộ làm công tác thanh tra thu, chi NSNN phải đảm
bảo đáp ứng được các yêu cầu sau: Phải nắm vững các văn bản quy phạm
pháp luật, hướng dẫn có liên quan đến công tác quản lý, sử dụng NSNN;
nắm vững quy trình tiến hành một cuộc thanh tra. Phải quán triệt một cách
21


đầy đủ các nguyên tắc thanh tra; người làm công tác thanh tra phải có quan
điểm thanh tra đúng đắn (quan điểm toàn diện, lịch sử, hiện tại cụ thể,…).
Đánh giá kết luận vấn đề phải chính xác, khách quan, có căn cứ, đúng pháp
luật. Những kiến nghị, đề xuất các biện pháp xử lý phải có căn cứ vào các
quy định của pháp luật (khoản, điều, luật, nghị định,….) phù hợp với tình
hình thực tế và đảm bảo tính khả thi mang lại hiệu lực, hiệu quả trong quản
lý.
Đây là những yêu cầu cụ thể về nguyên tắc hoạt động thanh tra nói
chúng và hoạt động thanh tra NSNN nói riêng. Các cuộc thanh tra, thành
viên Đồn thanh tra phải tuân thủ đúng những yêu câu, nguyên tắc này
trong quá trình hoạt động, thực hiện nhiệm vụ, đảm bảo đoàn thanh tra
thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.
2.2.5. Nội dung công tác thanh tra NSNN
- Nội dung thanh tra NSNN gồm có:
+ Thanh tra việc lập, quyết định và giao dự toán NSNN.

+ Thanh tra việc chấp hành NSNN.
+ Thanh tra việc quyết toán NSNN.
- Trong các nội dung tiến hành cần xác định rõ nội dung trọng tâm,
trọng điểm. Xây dựng nội dung chi tiết cho từng nội dung thanh tra; những
nơi đến thanh tra, kiểm tra, xác minh; thời gian thực hiện.
2.2.5.1. Thanh tra việc lập, quyết định và giao dự toán NSNN
a. Thanh tra việc lập và quyết định dự toán thu ngân sách
- Căn cứ vào quyết định giao dự toán ngân sách của UBND tỉnh cho
huyện, Nghị quyết của HĐND huyện quyết định dự toán ngân sách của
huyện để lập bảng tổng hợp số liệu tình hình về dự toán thu ngân sách. Chi
tiết theo từng loại, khoản thu trên địa bàn.
- Xác định số tăng, giảm giữa dự toán thu UBND tỉnh giao và
HĐND huyện quyết định gồm cả tổng số thu và chi tiết từng loại, khoản
thu trên địa bàn.
- Xác lập các căn cứ địa phương quyết định số thu tăng, giảm so với
số giao của UBND tỉnh về tổng số thu và chi tiết từng loại, khoản thu trên
địa bàn huyện. Kiểm tra xác định tính đúng đắn của các căn cứ làm cơ sở
quyết định tăng hoặc giảm số thu ngân sách nêu trên của huyện.
- Rà sốt tình hình, số liệu các năm trước liền kề và năm hiện tại,
tình hình biến động về kinh tế xã hội tại địa phương, các yếu tố ảnh hưởng
đến số thu do thay đổi chế độ chính sách để phát hiện đối tượng, nguồn thu
chưa được đưa vào dự toán thu ngân sách.
- Xác định tính đúng đắn về việc tính tổng số thu ngân sách huyện
gồm: các khoản thu ngân sách được hưởng trên tổng số thu ngân sách trên
22


địa bàn theo quy định về tỷ lệ phân chia số thu giữa các cấp ngân sách
thuộc ngân sách địa phương (gồm số thu của ngân sách cấp huyện và số
thu ngân sách cấp xã được hưởng); các khoản thu từ ngân sách cấp tỉnh bổ

sung cho huyện (gồm số thu bổ sung cân đối và bổ sung có mục tiêu).
- Phân tích tính tích cực của dự tốn thu, việc chấp hành quy định về
chỉ tiêu phấn đấu tăng thu hàng năm, những khó khăn vướng mắc.
b. Thanh tra việc lập, quyết định dự toán chi ngân sách
- Căn cứ vào quyết định giao dự toán ngân sách của UBND tỉnh cho
huyện, Nghị quyết của HĐND huyện quyết định dự toán ngân sách của
huyện để lập bảng tổng hợp số liệu tình hình về dự tốn chi ngân sách. Chi
tiết theo từng loại, khoản chi trên địa bàn.
- Xác định số tăng, giảm giữa dự toán chi UBND tỉnh giao và
HĐND huyện quyết định về cả tổng số chi và chi tiết từng loại, khoản chi
ngân sách của huyện.
- Xem xét việc huyện chấp hành các quy định của TW và của tỉnh về
quyết định dự toán chi một số nội dung:
- Xác lập những căn cứ để huyện lập và ra quyết định dự toán chi
như: Quy định về phân cấp nhiệm vụ chi; tiêu chuẩn định mức chi ngân
sách; số biên chế cán bộ, công chức, viên chức nhà nước cấp huyện được
tỉnh giao,…
- Xem xét đánh giá tính đúng đắn về các nội dung của quyết định dự
toán chi.
- Đối với một số huyện được tỉnh giao dự tốn chi chương trình mục
tiêu quốc gia và nguồn kinh phí hỗ trợ có mục tiêu được HĐND huyện
xem xét, quyết định trong dự toán chi ngân sách huyện:
- Phân tích làm rõ nguyên nhân của việc huyện quyết định chênh
lệch tăng, giảm so với UBND tỉnh giao. Trường hợp giảm so với UBND
tỉnh giao, kiểm tra xác định rõ nguồn vốn cịn dư đã bố trí chi cho nội dung
chi khác, nguyên nhân.
2.2.5.2. Thanh tra việc chấp hành dự toán NSNN
a. Thanh tra việc thực hiện dự toán thu ngân sách
- Thanh tra việc thực hiện các chỉ tiêu dự toán thu ngân sách: Lập
bảng tổng hợp số liệu tình hình về thực hiện thu ngân sách trong kỳ thanh

tra của huyện. Xác minh, đối chiếu tại Chi cục Thuế huyện, Kho bạc Nhà
nước huyện về tổng số thu ngân sách và chi tiết từng khoản thu theo nội
dung giao dự toán hoặc theo sắc thuế. Xác định số tuyệt đối và tỷ lệ phần
trăm thực hiện được của từng chỉ tiêu; so với dự toán thu UBND tỉnh giao,
HĐND địa phương quyết định, UBND địa phương giao. Phân tích ngun
nhân thực hiện đạt hoặc khơng đạt dự toán thu ngân sách được giao.
23


- Thanh tra quản lý thu từ bán tài sản nhà nước: Tổng hợp tình hình
tài sản cơng của các cơ quan, đơn vị nhà nước, trong đó tài sản bán, thanh
lý trong kỳ thanh tra; Xác định số tiền bán thanh lý tài sản, số đã nộp ngân
sách, số còn nợ; làm rõ nguyên nhân.
- Thanh tra quản lý thu từ cho thuê tài sản nhà nước, thu từ dự án
Nhà nước đầu tư vốn: Tại phịng Tài chính - Kế hoạch huyện hoặc các
phòng chức năng thuộc huyện: Tổng hợp tình hình, số liệu theo từng đối
tượng Nhà nước cho thuê tài sản (thuê nhà, thuê kho bãi…) hoặc các dự án
Nhà nước có đầu tư vốn có thu hồi (dự án đầu tư chợ, đầu tư hạ tầng xã hội
theo phương thức có thu hồi vốn...) trong thời kỳ thanh tra; Kiểm tra việc
thực hiện thời gian thuê, mức tiền thuê, thời hạn phải nộp của hợp đồng
cho thuê. Qua đó phát hiện các trường hợp vi phạm thỏa thuận hợp đồng
như: Thực hiện không đúng về thời gian thuê; nộp không đủ mức tiền thuê;
chậm nộp hoặc chây ì khơng nộp tiền th vào NSNN. Kiểm tra việc thực
hiện phương án được phê duyệt về đầu tư vốn ngân sách có thu hồi vốn: số
vốn đầu tư đã được quyết toán, thời hạn thu hồi, thời gian bắt đầu thu hồi
vốn được duyệt. Qua đó phát hiện các trường hợp không tuân thủ phương
án đầu tư được duyệt như: Dự án đầu tư xây dựng kéo dài, phát sinh tăng
vốn; dự án đã hoạt động phát sinh số phải thu nhưng không thu hoặc chưa
thu; số phải thu nhưng không thu được; dự án đầu tư thất thốt khơng thu
hồi được vốn như quyết định phê duyệt đầu tư....

- Thanh tra quản lý thu từ xử phạt hành chính, bán hàng hóa tịch thu:
Tổng hợp số liệu, báo cáo về số vụ việc xử lý vi phạm, số tiền xử phạt
hành chính, giá trị hàng tịch thu của các cơ quan Quản lý thị trường, Kiểm
lâm... thuộc huyện phát sinh trong kỳ. Số liệu về số lần tổ chức bán đấu giá
hàng tịch thu, số tiền thu được từng vụ việc và thu nộp vào ngân sách. Đối
chiếu số liệu phát sinh thu, chi tài khoản tạm giữ chờ xử lý của cơ quan tài
chính với số liệu báo cáo phát sinh số vụ việc xử lý vi phạm, số tiền xử
phạt hành chính của các cơ quan hữu quan để xác định số tiền thu xử phạt,
bán hàng tịch thu chưa nộp kịp thời về tài khoản tạm thu chờ xử lý của cơ
quan tài chính. Kiểm tra việc thực hiện trình tự, thủ tục pháp lý của các
quyết định xử lý trích trừ chi phí cho đơn vị thực hiện, trích nộp ngân sách
số tiền thu từ công tác chống kinh doanh trái pháp luật. Phân loại số dư
cuối kỳ của tài khoản tạm thu về hành vi kinh doanh trái pháp luật để đánh
giá việc phối hợp, đôn đốc các cơ quan hữu quan xử lý trích nộp nguồn thu
kịp thời vào NSNN.
- Thanh tra các khoản thu phí, lệ phí được để lại chi quản lý qua
ngân sách: Tổng hợp số thực hiện dự tốn thu các khoản phí, lệ phí tại các
đơn vị hành chính, sự nghiệp, ngân sách các xã thuộc huyện có phát sinh
thu được để lại một phần để chi quản lý qua ngân sách. Đánh giá tình hình
thực hiện. Kiểm tra việc chấp hành chế độ quản lý thu phí, lệ phí của tổ
chức, cơ quan đơn vị, các xã về chế độ biên lai ấn chỉ, mở sổ sách theo dõi

24


phản ánh số thu và thực hiện nộp ngân sách gồm tính số phải nộp trên tổng
thu, đã nộp hoặc chưa nộp ngân sách.
b. Thanh tra việc thực hiện dự toán chi NSNN
- Thanh tra việc thực hiện các chỉ tiêu dự toán chi ngân sách: Lập
bảng tổng hợp số liệu tình hình về thực hiện chi ngân sách của địa phương

trong kỳ thanh tra. Xác định số tuyệt đối và tỷ lệ phần trăm thực hiện được
của từng chỉ tiêu; so với dự toán thu UBND tỉnh giao, HĐND huyện quyết
định, UBND huyện giao. Đánh giá mức độ thực hiện về tổng số và từng
chỉ tiêu chi ngân sách. Xác định những yếu tố, nguyên nhân ảnh hưởng dẫn
tới chi vượt cao hoặc thực hiện đạt thấp; mức độ ảnh hưởng cụ thể của
từng yếu tố.
- Thanh tra việc quản lý chi đầu tư xây dựng cơ bản: Kiểm tra việc
thực hiện giải ngân, thanh toán về tổng số và chi tiết theo từng nguồn vốn
đã được giao. Xác định tỷ lệ phần trăm thực hiện của từng chỉ tiêu được
giao; Phân tích, đánh giá chung việc thực hiện của từng nguồn vốn đầu tư,
các nguyên nhân dẫn đến thực hiện kế hoạch vốn đạt thấp; Kiểm tra xác
định tình trạng dự án giải ngân chậm; khơng giải ngân được so với kế
hoạch vốn đầu tư được giao; nguyên nhân của tình trạng trên; Kiểm tra
phân loại theo thời gian tạm ứng gắn với thời gian, kế hoạch thi cơng, thực
tế triển khai thi cơng của cơng trình để phát hiện các dự án tồn tại các
khoản tạm ứng chậm thanh toán; Kiểm tra, đánh giá việc chấp hành chế độ
quyết tốn vốn đầu tư đối với cơng trình, dự án xây dựng hoàn thành cả về
thời gian và mức vốn. Xác định số đã được thẩm tra phê duyệt quyết tốn
trong kỳ thanh tra; số đã có quyết tốn nhưng chưa được thẩm tra; số đã
hồn thành nhưng chưa có quyết tốn; ngun nhân của tình trạng trên.
- Thanh tra việc quản lý chi thường xuyên: Kiểm tra đánh giá tình
hình thực hiện dự tốn, xác định số tăng, giảm chi thường xuyên cả về tổng
số và chi tiết theo từng khoản chi; phân tích các nguyên nhân dẫn đến thực
hiện tăng, giảm so với dự toán được giao; Tổng hợp số bổ sung dự toán chi
thường xuyên phát sinh trong năm, cân đối các nguồn bổ sung dự toán;
đánh giá việc chấp hành các quy định của Nhà nước trong việc điều hành,
xử lý quyết định bổ sung các khoản chi thường xuyên; kiểm tra tính hợp
lý, hợp pháp trong việc huy động các nguồn bổ sung tăng chi thường
xuyên; Kiểm tra việc chấp hành chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức
chi tiêu của Nhà nước và chính quyền địa phương ban hành; Kiểm tra, xác

định tính đúng, sai của việc thanh, quyết tốn các khoản chi; Kiểm tra,
đánh giá việc chấp hành các quy định về xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ,
việc trích lập sử dụng các quỹ; việc mua sắm quản lý tài sản cơng của các
đơn vị dự tốn trên địa bàn; Thanh tra tại một số đơn vị dự toán để đánh
giá việc chấp hành dự toán ngân sách, việc chấp hành chế độ tài chính về
quản lý thu chi trong kỳ.

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×