Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

tiểu luận thời cơ, thách thức của truyền hình trong kỷ nguyên số

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.52 KB, 31 trang )

TIỂU LUẬN MƠN TRUYỀN HÌNH
TRONG KỶ NGUN SỐ
Đề tài: “thời cơ, thách thức của truyền hình trong kỷ nguyên số; Nghiên cứu
chỉ ra những vấn đề đặt ra đối với truyền hình thế giới và truyền hình việt nam
trong kỷ nguyên số”
LỜI MỞ ĐẦU
Truyền hình là một loại hình truyền thơng đại chúng chuyển tải thơng tin
bằng hình ảnh và âm thanh về một vật thể hoặc một cảnh đi xa bằng sóng vơ
tuyến điện. Truyền hình xuất hiện vào đầu thế kỷ thứ XX và phát triển với tốc độ
như vũ bão nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ, tạo ra một kênh
thông tin quan trọng trong đời sống xã hội. Ngày nay, truyền hình là phương
tiện thiết yếu cho mỗi gia đình, mỗi quốc gia, dân tộc. Truyền hình trở thành vũ
khí, cơng cụ sắc bén trên mặt trận tư tưởng văn hóa cũng như lĩnh vực kinh tế
xã hội. Ở thập kỷ 50 của thế kỷ XX, truyền hình chỉ được sử dụng như là cơng
cụ giải trí, rồi thêm chức năng thơng tin. Dần dần truyền hình đã trực tiếp tham
gia vào quá trình quản lý và giám sát xã hội, tạo lập và định hương dư luận,
giáo dục và phổ biến kiến thức, phát triển văn hóa, quảng cáo và các dịch vụ
khác. Sự ra đời của truyền hình đã góp phần làm cho hệ thống truyền thơng đại
chúng càng thêm hùng mạnh, không chỉ tăng về số lượng mà cịn tăng về chất
lượng. Cơng chúng của truyền hình ngày càng đông đảo trên khắp hành tinh.
Với những ưu thế về kỹ thuật và cơng nghệ, truyền hình đã làm cho cuộc sống
như được cô đọng lại, làm giàu thêm ý nghĩa, sáng tỏ hơn về hình thức và
phong phú hơn về nội dung.
Ngày 7/9/1970 là ngày phát sóng đầu tiên của chương trình truyền hình
Việt Nam. Thấm thoắt đã 35 năm. Ngày 7/9 trở thành ngày kỉ niệm truyền
thống của truyền hình Việt Nam. Từ ngày ấy đến nay, truyền hình Việt Nam đã
trưởng thành nhanh chóng và có những tiến bộ vượt bậc. Từ phát hình đen trắng
chuyển sang phát hình màu, từ phát thử nghiệm chương trình 4 giờ/ ngày vào
ban đêm, đến năm 1995 phát 10 giờ/ ngày; đến nay Đài Truyền hình Việt Nam
phát với tổng số thời lượng là 200 giờ/ ngày trên 5 kênh VTV1, VTV2, VTV3,
VTV4, VTV5 cùng với 4 kênh truyền hình cáp hữu tuyến và 64 đài phát


thanh - truyền hình địa phương. Ngành truyền hình Việt Nam đã có nhiều nỗ lực
vượt bậc nhằm cải tiến, nâng cao chất lượng các chương trình truyền hình, đáp ứng
1


nhu cầu thông tin ngày càng cao của công chúng. Truyền hình Việt Nam cịn
chú trọng đẩy mạnh việc đào tạo đội ngũ cán bộ, công nhân viên, cán bộ kỹ
thuật, đặc biệt là đội ngũ phóng viên, biên tập nhằm nâng cao tính chuyên
nghiệp và sự quy chuẩn của đội ngũ người làm truyền hình hiện đại.
Trong những năm qua, phát thanh - truyền hình Việt Nam đã làm tốt
chức năng vừa là cơ quan ngôn luận của tổ chức Đảng, Nhà nước, vừa là diễn đàn
của nhân dân; góp phần tích cực giữ vững ổn định chính trị, tăng cường an ninh,
quốc phòng, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hầu hết các cơ
quan phát thanh - truyền hình đã bám sát thực tiễn của đời sống xã hội, thực hiện
đúng sự lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng thông tin của Đảng, Nhà nước; thơng tin
nhanh nhạy, kịp thời, đầy đủ, tồn diện về mọi diễn biến của đời sống chính trị,
kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế, đặc biệt là các sự kiện lớn, đáp ứng tốt
quyền được thông tin của nhân dân; thực hiện tốt chức năng là diễn đàn của nhân
dân, góp phần quan trọng thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội, kịp thời phát hiện
và biểu dương những gương người tốt, việc tốt, những điển hình tiên tiến.
phát thanh - truyền hình là một bộ phận hữu cơ trong hệ thống báo chí ở
nước ta, hướng đến việc phục vụ những cộng đồng người ở từng địa phương, từng
khu vực cụ thể. phát thanh - truyền hình có lợi thế là có khả năng thông tin cho
người dân ở địa phương về mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa xã
hội... bằng các thứ tiếng của chính họ, theo cách nói của địa phương, vùng, miền
nơi họ sinh sống. phát thanh - truyền hình phát triển sẽ tạo ra cơ hội để những
người sống trong cùng một địa phương kết nối với nhau, chia sẻ kinh nghiệm và hỗ
trợ lẫn nhau một cách dễ dàng. Việc kết hợp những ưu thế của loại hình phát thanh
- truyền hình với tính chất tác động sâu về thơng tin, do vậy báo chí địa phương đã
trở thành một phần khơng thể thiếu trong hệ thống phát thanh - truyền hình nói

riêng và hệ thống các phương tiện truyền thơng nói chung ở nước ta. Những năm
qua, đã có một vài cơ quan phát thanh - truyền hình (chủ yếu là các ở thành phố
lớn) tìm cách thích ứng với xu thế kỷ nguyên số và bước đầu thu được những thành
công nhất định. Nhiều các đài phát thanh - truyền hình vẫn sản xuất chương trình
theo lối truyền thống, khơng có những cải tiến thực sự về nội dung lẫn hình thức.
Phần lớn, họ vẫn “cho” cơng chúng cái họ “có”, chứ khơng cung cấp những “cái”
mà cơng chúng “cần”. Phóng viên chưa có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc sử
dụng các chất liệu khác nhau để chuyển tải thông tin nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu,
sở thích đa dạng của công chúng. Một số cơ quan chưa thấy được vai trò của kỷ
nguyên số trong sự phát triển của phát thanh, truyền hình hiện nay…
2


Chỉ có trên cơ sở nhận diện đúng về những thành công, hạn chế, cùng với
những vấn đề đang đặt ra đối với sự vận động, phát triển của phát thanh - truyền
hình mới có thể đề xuất được những giải pháp khoa học nhằm tạo lập các điều kiện
để phát thanh - truyền hình phát triển ngày càng mạnh hơn trong kỷ nguyên số.
Xuất phát từ thực trạng trên, cho thấy việc khảo sát, nghiên cứu phát thanh,
truyền hình ở Việt Nam hiện nay nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng là u cầu
mang tính cấp thiết từ đó đặt ra vấn đề: “thời cơ, thách thức của truyền hình
trong kỷ nguyên số; Nghiên cứu chỉ ra những vấn đề đặt ra đối với truyền hình
thế giới và truyền hình việt nam trong kỷ nguyên số” đã được lựa chọn làm đề tài
tiểu luận môn học phát thanh trong kỷ nguyên số để nghiên cứu chuyên sâu về phát
thanh trong bối cảnh phát triển xã hội và kỷ nguyên số ở Việt Nam hiện nay.
I. Những khái niệm về Truyền hình
1. Truyền hình là gì?
Truyền hình là một loại hình truyền thơng đại chúng, một loại hình báo chí
chuyển tải thơng tin bằng hình ảnh và âm thanh về một vật thể hoặc một cảnh đi xa
bằng sóng vơ tuyến điện. Báo truyền hình là một kênh truyền thơng giúp truyền tải
thơng tin bằng hình ảnh, âm thanh sống động với đầy đủ sắc màu từ lời nói đến âm

nhạc và tiếng động. Truyền hình cịn được khán giả gọi với những tên ưu ái như kẻ
mang bức tranh muôn màu cuộc sống, người đưa mang thông tin kết nối mọi người
lại với nhau.
Các loại hình truyền hình:
- Truyền hình sóng: thu phát qua ăngten
- Truyền hình cáp: truyền tín hiệu qua cáp nối
- Truyền hình số: dùng hạ tầng kỹ thuật số
- Truyền hình tương tự: dùng kỹ thuật analog (điện từ)
- Truyền hình cơng: phát quảng bá, phục vụ xã hội
- Truyền hình thương mại: phục vụ nhu cầu thơng tin và giải trí của các
nhóm cơng chúng trả tiền
1.1. Đặc trưng của truyền hình
3


Truyền hình mặc dù là một loại hình báo chí nhưng bên cạnh những đặc
điểm chung của báo chí nó cịn có những đặc điểm riêng biệt mang đặc trưng của
truyền hình.
1.2. Tính thời sự
Tính thời sự là đặc điểm chung của báo chí. Nhưng truyền hình với tư cách
là một phương tiện truyền thơng đại chúng hiện đại có khả năng thơng tin nhanh
chóng, kịp thời hơn so với các loại phương tiện khác. Với truyền hình, sự kiện
được phản ánh ngay lập tức khi nó vừa mới diễn ra thậm chí khi nó đang diễn ra,
người xem có thể quan sát một cách chi tiết, tường tận qua truyền hình trực tiếp và
cầu truyền hình. Truyền hình có khả năng phát sóng liên tục 24/24h trong ngày,
ln mang đến cho người xem những thơng tin nóng hổi nhất về các sự kiện diễn
ra, cập nhật những tin tức mới nhất. Đây là ưu thế đặc biệt của truyền hình so với
các loại hình báo chí khác.
Nhờ các thiết bị kỹ thuật hiện đại truyền hình có đặc trưng cơ bản là truyền
trực tiếp cả hình ảnh và âm thanh trong cùng một thời gian về cùng một sự kiện, sự

việc “khi sự kiện diễn ra phát thanh báo tin, truyền hình trình bày và báo in giảng
giải nó”.
1.3. Ngơn ngữ truyền hình là ngơn ngữ hình ảnh và âm thanh
Một ưu thế của truyền hình chính là đã truyền tải cả hình ảnh và âm thanh
cùng một lúc. Khác với báo in, người đọc chỉ tiếp nhận bằng con đường thị giác,
phát thanh bằng con đường thính giác, người xem truyền hình tiếp cận BÁO CHÍ
TRUYỀN HÌNH www.svbaochi.net 11 sự kiện bằng cả thị giác và thính giác. Qua
các cuộc nghiên cứu người ta thấy 70% lượng thông tin con người thu được là qua
thị giác và 20% qua thính giác. Do vậy truyền hình trở thành một phương tiện cung
cấp thơng tin rất lớn, có độ tin cậy cao, có khả năng làm thay đổi nhận thức của
con người trước sự kiện.
1.4. Tính phổ cập và quảng bá
Do những ưư thế về hình ảnh và âm thanh, truyền hình có khả năng thu hút
hàng tỉ người xem cùng một lúc. Cùng với sự phát triển của khoa học và cơng nghệ
truyền hình ngày càng mở rộng phạm vi phủ sóng phục vụ được nhiều đối tượng
người xem ở vùng sâu, vùng xa. Tính quảng bá của truyền hình cịn thể hiện ở chỗ
4


một sự kiện xảy ra ở bất kì đâu được đưa lên vệ tinh sẽ truyền đi khắp cả thế giới,
được hàng tỉ người biết đến. Ngày nay ngồi tại phịng nhưng người ta vẫn có thể
nắm bắt được sự kiện diễn ra trên thế giới.
1.5. Khả năng thuyết phục cơng chúng
Truyền hình đem đến cho khán giả cùng lúc hai tín hiệu cơ bản là hình ảnh
và âm thanh đem lại độ tin cậy, thông tin cao cho công chúng, có khả năng tác
động mạnh mẽ vào nhận thức của con người. Truyền hình có khả năng truyền tải
một cách chân thực hình ảnh của sự kiện đi xa nên đáp ứng yêu cầu chứng kiến tận
mắt của công chúng. “Trăm nghe khơng bằng mắt thấy”, chính truyền hình đã cung
cấp những hình ảnh về sự kiện thỏa mãn nhu cầu “thấy” của người xem. Đây là lợi
thế lớn của truyền hình so với các loại hình báo in và phát thanh.

1.6. Khả năng tác động dư luận xã hội mạnh mẽ và trở thành diễn đàn
của nhân dân
Các chương trình truyền hình mang tính thời sự, cập nhật, nóng hổi, hấp dẫn
người xem bằng cả hình ảnh, âm thanh và lời bình, vừa cho người xem thấy được
thực tế của vấn đề vừa tác động vào nhận thức của cơng chúng. Vì vậy, truyền hình
có khả năng tác động vào dư luận mạnh mẽ. Các chương trình của Đài truyền hình
Việt Nam như các chuyên mục “Sự kiện và bình luận”, “Đối thoại trực tiếp”,
“Chào buổi sáng” của ban Thời sự VTV1 không chỉ tác động dư luận mà còn định
hướng dư luận, hướng dẫn dư luận phù hợp với sự phát triển của xã hội và các
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Ngày nay, do sự phát triển của khoa học công nghệ, công chúng của truyền
hình ngày càng đơng đảo, nên sự tác động dư luận ngày càng rộng rãi. Chính vì
thế,truyền hình có khả năng trở thành diễn đàn của nhân dân. Các chuyên mục “ý
kiến bạn xem truyền hình”, “với khán giả VTV3”, “Hộp thư bạn xem truyền
hình” ,… đã trở thành cầu nối giữa người xem và những người làm truyền hình.
Qua đó người dân có thể nêu lên những ý kiến khen chê, ủng hộ, phản đối, góp ý
phê bình về các chương trình truyền hình của đài truyền hình hoặc gửi đi những
thắc mắc, bất cập, sai trái ở địa phương. Rất nhiều vụ tham nhũng, lạm dụng quyền
hạn đã được người làm báo làm sáng tỏ qua sự phản ánh của nhân dân.
2. Truyền hình trong kỷ nguyên số
5


Trong những năm gần đây, chúng ta đã chứng kiến sự phát triển như vũ bão
của Internet, hệ thống mạng xã hội, hệ thống truyền thông số. Điều này đã tác động
và làm thay đổi mạnh mẽ đến ngành truyền hình.
Những năm trước đây truyền hình chỉ phân phối qua các nền tảng truyền
thống như: Hệ thống vệ tinh, truyền hình cáp, truyền hình mặt đất. Đến nay,
Internet, mạng xã hội là những kênh phân phối không thể thiếu của truyền hình.
Thậm chí với Internet, thơng qua YouTube hay Facebook, từng cá nhân riêng lẻ

cũng có thể làm được truyền hình. Phát thanh, truyền hình cơng (của Nhà nước)
đang đứng giữa ngã tư đường - hoặc chí ít cũng là ngã ba đường, trong một thời
gian dài. Tuy nhiên, vấn đề không phải là chọn con đường nào mà là làm thế nào
để xác định đúng vị trí, cách tồn tại và phát triển của mình. Hay nói cách khác là
phải xác định vai trò, tác dụng, hiệu quả hoạt động của các đài truyền hình cơng
trong kỷ ngun số hóa.
2.1. Ứng dụng thiết bị cơng nghệ trong kỷ ngun số vào truyền hình
Sự phát triển của cơng nghệ Internet, số hóa đã thay đổi cơng chúng truyền
hình. Hiện nay, một phần khơng nhỏ người dùng khơng cịn muốn xem truyền hình
theo cách truyền thống. Trước đây, các đài truyền hình quyết định cho thính giả,
khán giả nghe gì, xem cái gì; nghe, xem khi nào và như thế nào, thì đến nay, cơng
chúng truyền hình đã chuyển sang vai trị chủ động, kiểm sốt, lựa chọn cái mình
muốn nghe, xem theo nhu cầu (thời gian, kênh, không gian). Họ có thể lựa chọn
khơng chỉ nội dung theo sở thích của mình mà cịn có thể lựa chọn cách thức
truyền nhận thơng tin. Như với mảng truyền hình thì đó là sự xuất hiện của mạng
xã hội chia sẻ video lớn nhất hiện nay - YouTube (năm 2020). Đến nay, đã có hơn 5
tỷ người dùng, tương đương 1/7 dân số thế giới. Mạng xã hội chia sẻ video này, tạo
xu hướng thơng tin, giải trí mới, với các kênh YouTube phổ biến nhất, thu hút
người xem cịn đơng hơn cả lượng khán giả của nhiều kênh truyền hình lớn, có thể
tạo nên những ngơi sao trên mạng khơng kém gì các kênh truyền hình lớn.
2.2. Trong những năm gần đây, chúng ta đã chứng kiến sự phát triển như
vũ bão hệ thống mạng xã hội.
Với mạng xã hội, ai cũng có thể lập cho mình một kênh riêng và dễ dàng
đem sản phẩm của mình đến với cơng chúng mà không phải cần đến một hệ thống
cồng kềnh như một kênh truyền hình truyền thống.

6


Và có một thực tế rằng trong những năm vừa qua khi công nghệ phát triển,

người đọc báo in, người nghe đài, người xem truyền hình giảm số lượng lớn; trong
khi đó cơng chúng nghe, xem, đọc trên Internet tăng cả về số lượng lẫn dung lượng
thơng tin.
Do đó, các đài truyền hình cần thay đổi để bắt kịp xu thế truyền thông hiện
đại. Và để thực hiện được điều đó thì trước hết các đài phải nắm được nhu cầu, sở
thích, hành vi của khán, thính giả, sự đa dạng về đối tượng sử dụng sản phẩm
truyền thông, các phương thức khán, thính giả tiếp cận và “tiêu dùng” sản phẩm
truyền thơng thì mới có thể cạnh tranh được với các loại dịch vụ truyền thông mới.
Ngày nay, hành vi và xu hướng tiếp cận thông tin của khán, thính giả đã thay
đổi rất nhiều. Họ muốn tìm kiếm thông tin bất cứ khi nào họ muốn, lựa chọn bất kỳ
loại hình truyền thơng (cách tiếp cận thơng tin) nào mà họ thấy thuận tiện nhất và
khai thác những nội dung, chủ đề mà họ quan tâm nhất. Những nội dung mà các
nhà đài khai thác và cung cấp phải đa dạng và đánh trúng nhu cầu của công chúng,
dưới nhiều dạng thức, gồm: video, audio, văn bản, phát trực tiếp liên tục 24/7, tin
vắn, Internet, podcast, mobile để tạo ra ảnh hưởng lớn nhất và rộng rãi nhất.
Trong lĩnh vực phát thanh, xu hướng của người nghe trên thế giới khơng cịn
bó buộc vào các kênh radio phát qua sóng FM hay AM truyền thống cổ điển.
Trong kỷ nguyên số, việc theo đuổi các công cụ và kỹ năng tác nghiệp bằng
công nghệ không phải là điều kiện tiên quyết mang lại thành cơng cho báo chí,
truyền hình. Đầu tư lớn cho công nghệ là cần thiết nhưng với báo chí, truyền hình
chính thống, nội dung vẫn ln là ưu tiên số một, có tính chất sống cịn.
Ngồi việc sản xuất ra những nội dung hay phù hợp, chúng ta cũng cần thay
đổi cách quản lý nội dung, quản lý bản quyền để có thể phân phối một cách hiệu
quả nhất trên nhiều nền tảng, trên nhiều hệ thống như mạng xã hội, hệ thống
internet OTP…; áp dụng cơng nghệ hiện đại vào sản xuất chương trình. Bên cạnh
đó, các phóng viên, biên tập viên cũng phải trang bị cho mình kiến thức, kỹ năng
cơng nghệ để có thể tác nghiệp một cách hiệu quả nhất, tin, bài, hình ảnh phải phục
vụ tối đa cho mọi nền tảng cơng nghệ của tịa soạn, từ báo giấy, báo điện tử, video
cho truyền hình và audio cho phát thanh.
7



Tác động của công nghệ, mạng xã hội đối với ngành truyền hình và cơng
chúng ngày càng lớn, đây vừa là thách thức, vừa là cơ hội không nhỏ đối với các
đài truyền hình trên cả nước. Để tận dụng được những cơ hội và lợi thế để bứt phá
có lẽ vẫn đang là một bài tốn khó đối với các nhà đài.
II. Thời cơ, thách thức của truyền hình trong kỷ nguyên số
1. Khó khăn, thách thức của báo chí truyền thống
Xu hướng số hóa là khơng thể đảo ngược trong tiến trình phát triển hiện
nay của thế giới. Và báo chí, truyền thơng - với tư cách là một ngành, nghề luôn
tiếp xúc sớm nhất, phản ứng nhanh nhạy nhất với mọi biến động xã hội, đương
nhiên, không thể ra ngoài quỹ đạo của sự phát triển này; trong đó, báo chí truyền
thống, bao gồm phát thanh, truyền hình, báo in... là lĩnh vực chịu tác động sâu sắc
nhất. Có thể nói, chúng ta đang đứng trước thời điểm “bản lề lịch sử” của nghề
báo mà nếu không nhận thức đúng, đề ra cách thức thay đổi, ứng phó phù hợp thì
sẽ bị tụt hậu.
Trong một bản báo cáo thực hiện cuối năm 2015, Viện Brookings, một cơ
quan nghiên cứu chiến lược hàng đầu thế giới tại Mỹ, đưa ra con số tại thị trường
báo chí lớn nhất thế giới là Mỹ như sau: số lượng đầu báo in tính trên 100 triệu dân
tại Mỹ đã giảm từ con số 1.400 báo/100 triệu dân năm 1945 xuống còn 400
báo/100 triệu dân vào năm 2014. Lượng vốn lưu chuyển trong công nghiệp báo in
giảm từ 35% xuống 15%, số lượng nhà báo có đăng ký thẻ tại Mỹ giảm từ 43.000
năm 1978 xuống còn 33.000 năm 2015. Một loạt các tờ báo in lâu đời và danh
tiếng tại Mỹ phải đóng cửa hoặc đình bản ấn phẩm in để chuyển sang ấn phẩm điện
tử. Ngoài Mỹ, thị trường báo chí lớn thứ hai thế giới là châu Âu cũng chứng kiến
sự suy giảm trầm trọng của báo in. Tính từ năm 2008 đến nay, một nửa số tòa soạn
báo in tại Anh đã thực hiện cắt giảm nhân sự hoặc giảm số lượng ấn phẩm.
Tại Việt Nam, chiều hướng đi xuống của báo giấy cũng thể hiện rõ, một số
tờ báo giấy buộc phải giảm số lượng bản in, thậm chí dừng hoạt động do thua lỗ.
Truyền hình sau một thời gian dài có sự tăng trưởng cao thì giờ đây cũng đang phải

đối mặt với rất nhiều thách thức; phát thanh cũng đang gặp nhiều khó khăn.
Trong khi đó, in-tơ-nét bùng nổ và có tốc độ tăng trưởng về số lượng người
dùng đến chóng mặt qua từng năm. Năm 2016, số người dùng in-tơ-nét trên toàn
8


cầu tăng 10% so với năm 2015, số người gia nhập các mạng xã hội tăng 21%.
Tổng kết năm 2016, Liên minh viễn thông thế giới (IUT) đưa ra các số liệu như
sau: 3,77 tỷ người tiếp cận được với in-tơ-nét, chiếm 50% dân số thế giới; 2,79 tỷ
người có đăng ký tham gia các mạng xã hội, chiếm 37% dân số thế giới; 4,9 tỷ
người dùng thiết bị di động, chiếm 66% dân số thế giới; 2,5 tỷ người tham gia
mạng xã hội qua thiết bị di động. Đời sống con người hiện nay ngày càng gắn chặt
vào các thiết bị và ứng dụng công nghệ. Con người hiện đại, đặc biệt tại các đô thị
lớn, hầu như không thể tách rời các hoạt động trong đời sống cá nhân và công việc
khỏi các thiết bị công nghệ và nền tảng số hóa. “Nghiện” điện thoại thơng minh
(smartphone) và mạng xã hội đã trở thành phổ biến, nhất là ở giới trẻ và qua đó,
mọi kênh tiếp cận thơng tin và hưởng thụ thông tin của người dùng cũng ngày càng
được số hóa.
Một thống kê khác của Hiệp hội báo chí xuất bản thế giới (WAN-IFRA) chỉ
ra, những trang web được xem nhiều nhất thế giới hiện nay là các kênh tiếp nhận,
tìm kiếm thơng tin tổng hợp (Google, Yahoo, Wikipedia), mạng xã hội (Facebook),
giải trí và tương tác video (YouTube), kênh thương mại điện tử (Amazon). Tức là
chỉ cần ngồi trước màn hình máy vi tính, hoặc mở máy tính bảng hay điện thoại
thơng minh, người dùng có thể thoả mãn mọi nhu cầu của mình, từ tiếp nhận thơng
tin, giao tiếp xã hội, giải trí và thực thi các nhu cầu cá nhân. Với các điều kiện đó,
họ khơng có nhu cầu bắt buộc phải tìm đến các nhà cung cấp truyền thống về mặt
thông tin, như phát thanh qua radio, truyền hình xem qua tivi hay đọc báo giấy.
Thách thức đặt ra với truyền hình, báo chí trong thời đại số này, vì thế, là phải
trang bị cho mình cơng cụ, kỹ năng và tư duy mới để tìm đến với những độc giả
giờ đây có khả năng có được mọi thơng tin qua máy vi tính, điện thoại thơng minh

hay máy tính bảng.
2. Xu hướng của truyền hình trong kỷ nguyên số
Theo các nhà nghiên cứu của Trường Đại học Cambridge (Anh), phát thanh,
truyền hình công (của nhà nước) đang đứng giữa ngã tư đường - hoặc chí ít cũng là
ngã ba đường, trong một thời gian dài. Tuy nhiên, vấn đề không phải là chọn con
đường nào mà là làm thế nào để xác định đúng vị trí, cách tồn tại và phát triển của
mình. Hay nói cách khác là phải xác định được vai trò, tác dụng, hiệu quả hoạt
động của các đài phát thanh, truyền hình cơng trong kỷ ngun số hóa. Năm 2010,
9


Hội đồng châu Âu đã xác định 4 sự biến đổi về cấu trúc ảnh hưởng tới các tổ chức
phát thanh, truyền hình cơng, bao gồm số hóa (lộ trình số hóa); sự thay đổi thói
quen tiếp cận thơng tin của khán, thính giả; những áp lực giữa chính trị và kinh tế;
sự cạnh tranh về quảng cáo thương mại.
Theo Viện Xã hội mở (Open Society Institute) có 3 lý do chính dẫn tới
khủng khoảng trong ngành phát thanh, truyền hình cơng ở châu Âu: Thứ nhất, phát
thanh, truyền hình công vẫn được tổ chức, vận hành và quản lý theo mơ hình cũ
trong q khứ; thứ hai, ngày càng có nhiều hơn sự cạnh tranh khốc liệt từ các công
ty truyền thông tư nhân và sự giảm mạnh nhu cầu xem - nghe với những nội dung
phải trả tiền của cơng chúng; thứ ba, chính phủ nhiều nước dường như quan tâm
nhiều hơn tới việc gia tăng kiểm duyệt phát thanh, truyền hình cơng hơn là tạo điều
kiện, tạo cơ chế cho các đài phát thanh, truyền hình cơng dễ dàng thích ứng với
mơi trường truyền thơng mới.
Một cách cụ thể, các đài phát thanh, truyền hình hơm nay, khác với các đài
phát thanh, truyền hình của thế kỷ XX, và chắc chắn, sẽ khác hơn rất nhiều trong
tương lai, thậm chí là tương lai gần. Sự phát triển của cơng nghệ in-tơ-nét, số hóa
đã thay đổi cơng chúng phát thanh, truyền hình. Từ việc các đài phát thanh, truyền
hình quyết định cho thính giả, khán giả nghe gì, xem cái gì; nghe, xem khi nào và
như thế nào, công chúng của lĩnh vực này đã chuyển sang vai trị chủ động, kiểm

sốt, lựa chọn cái mình muốn nghe, xem, thời gian nghe, xem và kênh mà mình lựa
chọn... Dấu tay của công chúng trên chiếc điều khiển của phát thanh, truyền hình
truyền thống đang thay đổi từng ngày. Không chỉ thay đổi việc nghe, xem là lựa
chọn kênh phát thanh, truyền hình, cơng chúng nghe nhìn hiện nay cịn đang có
những thay đổi cả phương thức truyền và nhận thơng tin, trong đó họ vừa là người
nhận, vừa là người cấp, họ tương tác với cơ quan báo chí và với nhau. Nền tảng
của in-tơ-nét và cơng nghệ số đã làm thay đổi sâu sắc cách thức mà công chúng
đến với thế giới trực quan sinh động bên ngồi. Với truyền hình, đó là sự xuất hiện
vào năm 2005 của mạng xã hội chia sẻ video lớn nhất hiện nay - Youtube. Đến nay,
với hơn 1 tỷ người, tương đương 1/7 dân số thế giới, dùng mạng xã hội chia sẻ
video này đang tạo xu hướng thông tin, giải trí mới, với các kênh Youtube phổ biến
nhất, thu hút người xem cịn đơng hơn lượng khán giả của nhiều kênh truyền hình
lớn. Youtube cũng hồn tồn có thể tạo nên những ngơi sao trên mạng khơng kém
gì các kênh truyền hình. Ai cũng có thể lập một kênh Youtube và có thể thành cơng
10


khi đem sản phẩm của mình đến với cơng chúng mà không cần phải một hệ thống
cồng kềnh như truyền hình truyền thống.
Tình hình vừa nêu khiến nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, nền tảng in-tơ-nét
đã tạo thách thức cho truyền hình. Người đọc báo in, người nghe đài giảm, người
xem truyền hình khơng tăng và sẽ giảm; trong khi đó cơng chúng nghe, xem, đọc
trên in-tơ-nét tăng cả về số lượng lẫn dung lượng thông tin, dung lượng thời gian.
Người xem truyền hình dành nhiều thời gian để xem các video trực tuyến (online)
gấp đôi so với các khán giả xem truyền hình truyền thống. Một số chuyên gia cho
rằng, việc chuyển sang số hóa giúp định vị lại vai trị của truyền hình, nó khơng chỉ
tạo ra khó khăn, thách thức mà còn mang lại rất nhiều cơ hội mới và lớn. Các đài
phát thanh, truyền hình là một phần khơng thể tách rời trong q trình làm mới,
làm hấp dẫn nội dung. Những công nghệ truyền thông mới giúp bổ sung, chứ
không phải là thay thế những cái cũ, và việc gây dựng nội dung từ nguồn do cơng

chúng cung cấp sẽ ln đóng vai trị quan trọng trong bối cảnh công nghệ phát
triển nhanh tới mức dư thừa nhưng lại tồn tại một sự khan hiếm tương đối trong
việc sản xuất, cung cấp những nội dung thơng tin có tính chun nghiệp.
Theo các nhà phân tích của tờ báo Người Bảo vệ (The Guardian) của Anh,
trong kỷ nguyên số các đài phát thanh, truyền hình truyền thống phải hiểu rõ sở
thích, hành vi của khán, thính giả, sự đa dạng về đối tượng sử dụng sản phẩm
truyền thơng, động lực và các phương thức khán, thính giả tiếp cận, “tiêu dùng”
sản phẩm truyền thông. Sự phát triển của in-tơ-nét và việc thay đổi cách thức truy
cập vào nhiều nguồn phương tiện truyền thông đã bắt buộc các tập đồn truyền
thơng phải tiến hành tìm hiểu sâu hơn, nghiên cứu kỹ hơn về cách công chúng sử
dụng các công nghệ truyền thông mới, về cách họ tiếp cận và tương tác với các nội
dung phát sóng của các đài truyền hình.
Giáo sư Rây-mơng Kun (Raymond Kuhn) từ Đại học Luân-đôn cho rằng,
các cơ quan truyền thông công trong thời đại số hóa đều phải đối mặt với những
vấn đề lớn, đặc biệt là làm thế nào để vừa thực hiện được nhiệm vụ của mình, vừa
phải thể hiện được vai trò và bắt kịp được xu thế mới. Trong đó, có 4 vấn đề chính
mà các cơ quan truyền thơng cần phải cân nhắc là tính chính trị; độ tin cậy về
thơng tin; nguồn kinh phí; tính thương mại để từ đó duy trì lịng tin, xác định các
nguồn thông tin, những kỹ năng cần thiết đối với các nhà báo trong kỷ nguyên số,
11


các công cụ truyền thông cần nắm bắt và sự cần thiết của đào tạo truyền thông đa
phương tiện.
Trong lĩnh vực phát thanh, xu hướng của người nghe trên thế giới khơng cịn
bó buộc vào các kênh radio phát qua sóng FM hay AM truyền thống/cổ điển.
Tháng 1-2017, Na Uy trở thành nước đầu tiên trên thế giới chính thức bỏ phát sóng
phát thanh qua sóng FM mà hướng tới chuyển 100% sang công nghệ số. Sau Na
Uy, dự kiến sẽ có nhiều nước trên thế giới sẽ từng bước thực nghiệm và tiến tới từ
bỏ sóng FM để chuyển hồn tồn sang phát sóng bằng cơng nghệ số với chất lượng

âm thanh tốt hơn, tích hợp và đồng bộ hóa được radio với các loại hình truyền
thơng khác, khả năng phát podcast, chi phí vận hành rẻ hơn nhiều lần (trong trường
hợp ở Na Uy là rẻ hơn 8 lần) so với phát sóng truyền thống.
Na Uy là một trường hợp đặc biệt để chúng ta cùng nghiên cứu. Xu hướng
này sẽ cịn một thời gian nữa mới có thể bùng nổ trên thế giới và sẽ tập trung trước
tiên ở các thị trường báo chí phát triển vốn đã có nền tảng hạ tầng cơng nghệ tốt,
nhưng các thế mạnh của công nghệ số trong phát thanh như đã nêu trên là không
thể phủ nhận. Phát thanh truyền thống bắt buộc phải hướng đến công nghệ số, áp
dụng cơng nghệ số để mở rộng diện phủ sóng, thu hút thêm các thành phần thính
giả trẻ vốn gắn chặt với thiết bị công nghệ, tăng chất lượng phục vụ cộng đồng và
giảm chi phí hoạt động. Phát thanh khơng chỉ còn giới hạn trong việc nghe đài trên
các làn sóng FM mà cịn phải là tương tác trên web và trên mạng xã hội. Việc phát
triển theo xu hướng này cũng đòi hỏi phải được thực hiện theo hướng đa nền tảng,
trong đó nền tảng di động là ưu tiên bởi trong năm 2016, các nền tảng di động
(điện thoại thơng minh, máy tính bảng) chính thức vượt qua máy vi tính để bàn để
trở thành cơng cụ truy cập in-tơ-nét lớn nhất của người dùng in-tơ-nét toàn cầu
(51,3% truy cập in-tơ-nét qua điện thoại thông minh và máy tính bảng và 48,7%
qua máy tính để bàn).
3. Hiệu quả rõ rệt của việc chuyển đổi
Trong sự bùng nổ của kỷ nguyên số, việc theo đuổi các công cụ và kỹ năng
tác nghiệp bằng công nghệ không phải là điều kiện tiên quyết mang lại thành cơng
cho báo chí. Sự phát triển của cơng nghệ hiện nay địi hỏi nghề báo, gồm phát
thanh, truyền hình và báo in phải thay đổi mạnh mẽ để thích nghi với các thách
thức và đáp ứng tốt nhu cầu mới của độc giả. Ở một mức độ nào đó, sự tác động
12


của công nghệ làm thay đổi cách thức làm báo, đặc biệt khi mỗi cơng dân giờ đây
đều có thể trở thành một người đưa tin hiển nhiên (và có thể là xuất sắc) cả về
thơng tin, hình ảnh lẫn video, qua các hình thức được gọi là “báo chí công dân”

đang nở rộ trên các mạng xã hội. Nhưng với báo chí dịng chính thống, theo đuổi
và cạnh tranh theo hướng đó khơng phải là điều đơn giản bởi một tồ soạn có đồ sộ
đến mấy cũng khơng thể nào cạnh tranh được với một mạng xã hội hoặc một trang
web có hàng trăm nghìn, hàng triệu, thậm chí đến hàng tỷ người dùng và tham gia
tương tác, như Facebook hay Twitter.
Vì thế, đầu tư lớn cho cơng nghệ nhưng với báo chí chính thống, nội
dung vẫn ln là ưu tiên số 1, có tính chất sống cịn. Bài học của tờ báo hàng đầu
thế giới New York Times là điển hình của việc áp dụng cơng nghệ số (chuyển
hướng từ báo giấy sang báo điện tử) nhưng không chạy đua theo lượng truy cập mà
tập trung vào việc khai thác nội dung và bán các bài báo đó. Chiến lược của New
York Times là cung cấp những câu chuyện báo chí đủ mạnh khiến hàng triệu người
sẵn sàng trả tiền để được đọc. Nhờ chiến lược đó, năm 2016, New York Times thu
về 500 triệu USD doanh thu chỉ từ phiên bản kỹ thuật số, nhiều hơn doanh thu của
bất cứ tờ báo lớn nào khác cộng lại. Đến tháng 1-2017, New York Times có hơn 1,5
triệu tài khoản đăng ký theo dõi phiên bản kỹ thuật số, tăng 0,5 triệu so với cách
đây 1 năm. Cách đây 6 năm, khi quyết định chuyển hướng chiến lược từ báo giấy
sang phiên bản số và tập trung vào nội dung trả tiền, con số đăng ký này là 0. Sự
chuyển hướng này là lựa chọn “sống hoặc chết” của New York Times bởi đến thời
điểm đó, thu nhập từ quảng cáo đối với ấn phẩm in ngày càng sụt giảm do sự cạnh
tranh từ in-tơ-nét. Thực tế cho thấy, hiện tại các nhà khổng lồ công nghệ, như
Google, Facebook... chiếm đến 99% doanh thu từ quảng cáo trực tuyến hay chi phí
marketing cho truyền thơng. Sự thay đổi kịp thời đã giúp New York Times tiếp tục
đứng vững và với chiến lược “nội dung là số 1” như hiện nay, New York Times đặt
mục tiêu doanh thu từ phiên bản kỹ thuật số đến năm 2020 là 800 triệu USD.
Thành công của New York Times và một số tờ báo in lớn khác trên thế giới
cho thấy, kể cả trong kỷ nguyên số, báo in vẫn có thể tồn tại được một cách vững
vàng nếu biết thay đổi phù hợp: tích hợp được cơng nghệ số để làm nền tảng nhưng
tập trung vào thế mạnh truyền thống của báo chí dịng chính là chất lượng thơng
tin. Điều này cũng được chứng minh trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình, với ví
dụ tiêu biểu là đài CNN của Mỹ hiện đã phát triển được 25 triệu người theo dõi trên

13


Facebook và ra mắt ứng dụng CNNGo từ năm 2014 không chỉ cho phép người
dùng theo dõi liên tục thông tin mà còn mở rộng được sang các lĩnh vực khác, như
thương mại điện tử hay dịch vụ.
Tựu trung, trong kỷ nguyên số bùng nổ hiện nay, báo chí, phát thanh, truyền
hình bắt buộc phải thay đổi nếu muốn tiếp tục tồn tại. Sự thay đổi này bao gồm cả
việc thay đổi cách thức quản lý (ở tầm quốc gia cũng như các bộ, ngành, địa
phương); áp dụng công nghệ vào quản lý toà soạn; đầu tư cho các nền tảng cơng
nghệ mới ở cơ quan báo đài; ở chính từ cấp cuối cùng là các phóng viên. Các
phóng viên cũng phải trang bị cho mình kiến thức, kỹ năng cơng nghệ để có thể tác
nghiệp một cách hiệu quả nhất, tin, bài, hình ảnh phải phục vụ tối đa cho mọi nền
tảng cơng nghệ của tồ soạn, từ báo giấy, báo điện tử, video cho truyền hình và
audio cho phát thanh. Nhưng, để trở nên khác biệt, để tiếp tục đứng vững và phát
triển trước sự cạnh tranh từ truyền thơng xã hội, truyền thơng cơng dân địi hỏi báo
chí, phát thanh, truyền hình chính thống vẫn phải sử dụng nhiều hơn thế mạnh của
mình là chất lượng thơng tin.
Sự phát triển của công nghệ truyền thông đã tạo cho báo chí một hướng đi
mới, đó là tích hợp các phương tiện truyền thông. Đây là xu hướng phát triển mang
tính khách quan, đáp ứng nhu cầu thơng tin của công chúng. Tác động của công
nghệ, mạng xã hội đối với các cơ quan báo chí và cơng chúng ngày càng lớn, đây
vừa là thách thức, vừa là cơ hội khơng nhỏ đối với báo chí và cả xã hội. Nhanh
nhưng phải bảo đảm tính chính xác, tính khoa học, tính nhân văn, có trách nhiệm
cao với xã hội, thể hiện được bản lĩnh chính trị, năng lực chuyên môn và đạo đức
nghề nghiệp vẫn là yêu cầu cốt lõi đối với phóng viên, nhà báo trong bất kỳ thời
đại nào. Trong kỷ nguyên số, nhà báo phải luôn trong tâm thế sẵn sàng, tác nghiệp
bất cứ lúc nào, ở đâu. Bên cạnh yếu tố thông tin phải luôn mới, “nóng”, nhanh
nhạy, chính xác, địi hỏi nhà báo phải biết tìm tịi những cái mới, cần thiết, bổ ích,
nhân văn mà cơng chúng quan tâm. Biên tập viên, phóng viên cũng phải thường

xuyên thay đổi tư duy, phương pháp, cách thức hoạt động, sáng tạo khơng ngừng
để có nhiều các tác phẩm tốt, hấp dẫn, không bị nhàm chán, đơn điệu. Trong kỷ
nguyên số, báo chí, phát thanh, truyền hình cơng là những cơng cụ quan trọng
được sử dụng để thực hiện chức năng tuyên truyền, giáo dục, kết nối, sẻ chia thơng
tin, tư tưởng, tình cảm trên in-tơ-nét và các loại hình truyền thơng mới.
14


4. Thời cơ của truyền hình trong kỷ nguyên số
Đồng hành cùng cơng cuộc đổi mới, đã có nhiều đóng góp to lớn vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; vươn lên mạnh mẽ thực hiện tốt chức năng
vừa là cơ quan ngôn luận của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, vừa
là diễn đàn của nhân dân; kịp thời thông tin, cổ vũ các phong trào, các điển hình
tiên tiến trong cơng cuộc xây dựng đất nước, vừa phản ánh tâm tư, nguyện vọng
chính đáng của các tầng lớp nhân dân. Phần lớn đội ngũ những người làm báo đã
thể hiện phẩm chất đạo đức trong sáng trong hoạt động nghề nghiệp; khẳng định
thành quả của công cuộc đổi mới; đồng thời tham gia tích cực cuộc đấu tranh
phịng chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các quan điểm sai trái của các thế
lực thù địch; góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp hơn.
Đó là mặt tích cực nổi rõ của giới báo chí nói chung, nhưng trong bối cảnh
bùng nổ kỷ nguyên kỹ thuật số, người làm báo cũng đang đứng trước nhiều thách
thức. Ngày nay báo chí truyền thống khơng cịn độc quyền trong việc cung cấp
thơng tin. Bạn đọc, người dân cùng một lúc tiếp cận, chọn lựa nhiều loại hình
truyền thơng cho mình, từ báo chí chính thống đến internet, mạng xã hội; vừa tiếp
nhận thông tin nhanh, hưởng thụ tiện ích này, đồng thời trở thành nguồn phát tin,
bình luận chỉ bằng một cơng cụ 3 - 4 trong 1, như điện thoại di động, máy ảnh kỹ
thuật số, iPad... Công dân - nhà báo và truyền thơng xã hội hình thành từ đây, có xu
hướng đánh bạt thơng tin chuẩn mực của báo chí chính thống.
Truyền thơng kỹ thuật số phát triển với những tính năng vượt trội trong việc
lan tỏa thông tin, không chỉ cuộc sống chung quanh ta, mà còn làm thế giới xích lại

gần nhau, giúp mọi giới nắm bắt các diễn biến diễn ra từng giờ, từng phút trên toàn
cầu bằng việc nghe, nhìn, đọc với các phương tiện đơn giản mọi lúc mọi nơi. Bạn
đọc bây giờ khơng cịn phải trông chờ vào kỳ phát hành báo, giờ điểm tin như
trước đây. Điều này đã làm thay đổi quy trình tác nghiệp của báo chí và xuất bản
thơng tin, truyền thơng chính thống (mainstream media) với các thơng tin mang
tính chất ban phát độc tơn, chậm chạp, khơng tồn diện, thiếu nhận định... mất dần
vị trí trước sức ép của truyền thông xã hội (social media). Với truyền thông xã hội,
bất cứ ai cũng có thể trở thành nguồn phát tin, thể hiện qua mạng cá nhân hoặc tập
thể (truyền thơng nhóm); việc kiểm sốt thơng tin và xác định tính chân thực, tin
cậy trở nên khó khăn hơn.
15


Mạng xã hội ngày càng phát triển đã đưa báo chí chính thống vào cuộc đua
khốc liệt trong việc cạnh tranh thơng tin, đưa thơng tin nhanh. Ngồi ưu điểm và
lợi ích nêu trên, mặt tiêu cực và hệ lụy của kỷ nguyên số lại là nơi phát tán các
thông tin khơng chính xác, sai sự thật, thơng tin vơ bổ hoặc thiếu kiểm chứng. Đó
là chưa kể thơng tin bịa tạc, dựng đứng thiếu căn cứ, đưa ra các vấn đề “nhạy cảm”
về tổ chức, đời tư cá nhân mang tính bơi bác, đả phá... vì lợi ích cá nhân, lợi ích
nhóm hoặc mang tính chống đối của các thế lực thù địch. Tác hại của việc này rất
lớn, nhưng loại tin trên lại lan truyền với tốc độ chóng mặt, gây bất an xã hội, tơ vẽ
cuộc sống tối tăm.
Điều đáng lo là trước sức ép cạnh tranh về tốc độ đưa tin, một số cơ quan
báo và nhà báo đang bị cuốn hút vào cuộc đua này. Không thể phủ nhận mạng xã
hội với nguồn thông tin đa dạng, bao phủ khắp nơi là công cụ để báo chí khai
thác, phát hiện nhiều vấn đề nóng bạn đọc quan tâm, triển khai các đề tài thích
hợp đáp ứng nhu cầu bạn đọc. Tuy nhiên, điểm “chết người” hiện nay là việc săn
tin, đưa tin theo mạng xã hội một cách thiếu kiểm chứng, làm nảy sinh thuật ngữ
“làm báo facebook” - nhất là với những người làm báo trẻ mới vào nghề và một
số báo điện tử, đang gây rối loạn thơng tin. Hiện tượng quay cóp, cắt dán, phát

tán thông tin xấu trở nên phổ biến. Hầu như một sự việc gì xảy ra ở đâu, chỉ cần
một trang mạng điện tử đưa tin trước, sau đó các báo khác đều đăng tải với nội
dung rất giống nhau.
Điều này không diễn ra ở ta, mà thế giới hiện nay đang đau đầu với vấn nạn
này. Theo khảo sát của BBC World Service, có đến 79% người dân tại 18 quốc gia
đã bày tỏ lo ngại về tin tức giả (Fake News) lan truyền mạnh trong thời gian gần
đây. Rõ nhất là thơng tin, hình ảnh cơ bé 12 tuổi Frida Sofia sống sót kỳ diệu trong
trận động đất ở Mexico, sau đó chính quyền phải cảnh báo là chuyện này khơng có
thật! Điều đáng nói là những thông tin không chỉ giới hạn trên mạng xã hội, mà đã
trở thành những bản tin được đăng trên báo chí có sự kiểm duyệt, các kênh truyền
hình uy tín.
Khơng thiếu các ví dụ về tin tức khơng chân thực, thiếu kiểm chứng đăng tải
trên các phương tiện truyền thơng nước ta, mà hội chứng dễ nhìn nhận nhất là tình
trạng “sáng đăng, trưa gỡ, bỏ bài”. Tại Hội nghị tồn quốc tổng kết cơng tác và
triển khai phương hướng nhiệm vụ năm 2017 mới đây, Hội Nhà báo Việt Nam đã
16


nhìn nhận những đóng góp to lớn của báo chí nước ta trong hoạt động nghề nghiệp,
nhưng cũng chỉ ra các biểu hiện tiêu cực ngày càng phức tạp và rất đáng lo ngại:
Tình trạng báo chí bị thương mại hóa khơng những chưa bị ngăn chặn, đẩy lùi mà
có xu hướng nghiêm trọng hơn, như thông tin sai sự thật, thổi phồng hoặc bóp méo
sự thật vì mục đích khơng trong sáng; đăng tải nhiều hình ảnh, bài viết giật gân câu
khách, thiếu văn hóa, nhân văn và phản giáo dục. Một số cơ quan báo chí và nhà
báo lạm quyền, lợi dụng công việc để vụ lợi và làm trái pháp luật. Điều này đã tác
động xấu đến vai trị, uy tín của báo chí trong đời sống xã hội, làm suy giảm lịng
tin của cơng chúng đối với báo chí, làm tổn hại lợi ích của đất nước và cộng đồng...
Mới đây trong cuộc họp với lãnh đạo báo chí, Thứ trưởng Bộ Thơng tin và
Truyền thơng Hoàng Vĩnh Bảo đã nhận xét: (i) Hiện tượng báo chí “ăn theo” mạng
xã hội là rất khơng ổn, lãnh đạo các cơ quan báo chí phải xem xét lại một cách rất

nghiêm túc để chấn chỉnh. (ii) Đơn thư khiếu nại các cơ quan báo chí chính thống
ngày càng tăng; các báo khi có khiếu nại của tổ chức, cá nhân phải phản hồi nhanh,
giải trình minh bạch.
Thực tế đòi hỏi phải trở lại vấn đề căn cốt của báo chí cách mạng: trung thực
trong thơng tin. Bất cứ tờ báo nào cũng phải bảo đảm quy trình xuất bản từ ban
phóng viên đến biên tập viên, thư ký tòa soạn, Ban biên tập – Tổng biên tập. Cần
rà sốt nguồn mạch của thơng tin, thẩm định kỹ, tránh tình trạng cạnh tranh đưa tin
nhanh để câu view, hoặc tệ hơn là lợi ích riêng, lợi ích nhóm của nhà báo, tờ báo để
đưa tin sai, ý đồ cá nhân. Khi việc kiểm soát của Ban Biên tập mạnh mẽ, chặt chẽ
sẽ tránh được tình trạng bơi đen, tơ hồng, dựng chuyện khơng có thật, lan truyền
thơng tin xấu, độc hại...
Sự chuyên nghiệp trong thông tin và trách nhiệm công dân của nhà báo là
điểm khác biệt của báo chí chính thống với mạng truyền thơng. Để có thơng tin
nhanh, chuẩn xác nhà báo và cơ quan báo cần phải kiểm chứng, xác minh độ chân
thực trước khi phát tin. Vì vậy, nhà báo ngồi việc nằm lịng “10 điều quy định đạo
đức nghề nghiệp người làm báo Việt Nam”, rất cần sự phối hợp, chia sẻ thông tin
của cơ quan, cá nhân có liên quan trong tin bài được đề cập. Điều đáng nói là
“cửa” này hiện nay vẫn chưa rộng mở, đợi đến khi người có trách nhiệm phát ngơn
của cơ quan này lên tiếng thì vấn đề đã trở nên nguội lạnh hoặc mạng truyền thông
tự do, khơng bị kiểm sốt đã đi rất xa, phát tán nguồn tin chưa kiểm chứng rộng rãi
17


ra xã hội. Báo chính thống vơ hình trung đã bị tước mất “vũ khí” nhạy bén, kịp thời
của mình.
Nhà báo chuyên nghiệp luôn được Nhà nước, cơ quan báo nâng đỡ, tạo điều
kiện phát huy kỹ năng, nghiệp vụ. Nhưng với sự phát triển của mạng xã hội với hệ
quả tiêu cực nêu trên, một số nhà báo đã sa đà trong việc tiếp nhận, phản hồi, chia
sẻ các thông tin thiếu kiểm chứng, sai sự thật hoặc tác nghiệp thiếu chuẩn mực.
Hậu quả tiêu cực từ việc khai thác thông tin bừa bãi đã gây hậu quả nặng nề cho cả

cơ quan báo và cá nhân nhà báo. Một điều chắc chắn rằng mạng xã hội vẫn không
thể thay thế báo chí chính thống, vì vậy cơng chúng vẫn ln cần những tác phẩm
báo chí chất lượng, khả tín, định hướng dư luận... chứ khơng chỉ là những bài viết
chỉ để thỏa mãn trí tị mị và hiếu kỳ giật gân, câu khách. Cơng chúng ln địi hỏi
người làm báo có trách nhiệm, đưa thơng tin hữu ích và chuẩn xác, cũng là đòi hỏi
đạo đức người làm báo phải được rèn luyện, xem trọng lợi ích xã hội hơn cá nhân
mình. Vì vậy chuẩn hóa đội ngũ và tôi rèn đạo đức cá nhân mỗi người làm báo ở
từng cơ quan báo là điều bức thiết đang đặt ra hiện nay.
III. Nghiên cứu chỉ ra những vấn đề đặt ra đối với truyền hình thế giới
và truyền hình việt nam trong kỷ nguyên số
1.Truyền hình trên thế giới trong kỷ nguyên số
Truyền hình là một hiện tượng mang tính tồn cầu, là điểm đến của cơ quan
báo chí của nhiều nước. Xu hướng là cần thiết để thích ứng với thói quen tiếp nhận
thơng tin của cơng chúng hiện đại. Nó cũng giống như các sản phẩm báo chí thay
đổi về khn khổ, màu sắc, hay các đài phát thanh và truyền hình thường xây dựng
chương trình mới hoặc thay đổi Fomat các chương trình để thu hút công chúng.
Công chúng hiện nay đang sử dụng nhiều phương tiện mới để tiếp nhận thơng tin
như máy tính và điện thoại thơng minh, thay vì chỉ mua báo in và xem truyền hình
như trước đây. Do đó các cơ quan truyền thơng cần có những biện pháp thích ứng
để duy trì và thu hút thêm cơng chúng.
Một trong những biểu hiện của xu hướng Truyền hình trên thế giới là quá
trình tập trung sở hữu Truyền hình qua việc các hãng truyền thông liên kết, sáp
nhập hoặc mua cổ phần của nhau, đó là sự sáp nhập vào những năn 2007 giữa
Google và Double Click, Yahoo và Right Media; một số tập đồn truyền thơng
khác như Thomson Corp (Canada) và Reuter Group PLC (Anh); Timer Warner và
18


American Online vào những năm 2008. Một số các trường hợp tòa soạn đa phương
tiện khác được phát triển bởi một số tờ như The Daily Telegrap (Anh) hay

Osterreich vào năm 2006… Sự liên kết đó là sự minh họa sinh động cho việc kết
hợp giữa các PTTT cũ và mới: báo mạng và báo giấy.
Ở Mỹ, dấu hiệu của yếu tố Truyền hình được chú ý bắt đầu ở các doanh
nghiệp địa phương, từ trung tâm tin tức truyền thơng Tampa ở Florida, Nhóm
Tribune ở Chicago và doanh nghiệp Bello ở Dallas. Báo New York Times,
Washington Post và Los Angeles Times cũng thực hiện truyền thông đa phương
tiện tại cơ sở của mình vào năm 2007.
Điển hình nhất là Trung tâm Thơng tin Truyền hình ở Tampa, bang Florida
(Mỹ) là một trong những hình mẫu nổi bật nhất đại diện cho mơ hình hội tụ này.
Theo các nhà nghiên cứu, năm 2000, tất cả nhân viên của Đài truyền hình Tampa
Tribune WFLA - TV và trang điện tử tbo.com đã chuyển đến làm việc tại một văn
phòng (tòa soạn hội tụ) mới trị giá 40 triệu USD. Với không gian làm việc đó đã
tạo ra sự gần gũi và khuyến khích các phóng viên có thể hợp tác với nhau trong
cơng việc, thay vì thường xun tác nghiệp “đơn thương độc mã” như trước. Theo
thiết kế, giữa tòa soạn là khu vực lãnh đạo - có một bàn siêu biên tập (super desk) nơi được coi là “sở chỉ huy” của tòa soạn, giúp lãnh đạo đưa ra chỉ thị một cách
nhanh nhất khi tác nghiệp. Ngoài ra, các ban (phịng) chun mơn cũng dễ dàng
trao đổi ý tưởng và có phản hồi lại ngay sau khi nhận được chỉ thị của lãnh đạo.
Lãnh đạo các phịng (ban) có thể trao đổi trực tiếp với nhau và lên kế hoạch sản
xuất tin tức, từ đó chỉ đạo phóng viên đưa tin một cách tốt nhất cho các loại hình
báo chí.
The Daily Telegraph - nhật báo ở London (Anh), có lượng phát hành rộng rãi
trên khắp đất nước Anh và trên toàn thế giới. Bắt đầu từ năm 2007, văn phòng tòa
soạn hội tụ của The Daily Telegraph với diện tích khoảng 6.500m² được thiết lập.
Tất cả phóng viên và biên tập viên của tòa soạn đều làm việc tập trung trong một
văn phòng và hợp tác làm việc với nhau để cùng sản xuất các ấn phẩm của The
Daily Telegraph bao gồm tờ báo in, trang web và các sản phẩm kỹ thuật số khác
như các loại băng đĩa thu âm hay băng đĩa phỏng vấn đều được sản xuất 24/24h.
Văn phịng Truyền hình The Daily Telegraph được thiết kế theo mơ hình
bánh xe. Phần trung tâm được tịa soạn được thiết kế là trung tâm tin tức (News
19



Hub) và các khu vực xung quanh dành cho ban biên tập và sản xuất, sắp xếp giống
như nan hoa của bánh xe đạp. Trong đó, bộ phận sản xuất nội dung đóng vai chủ
đạo trong việc truyền tải thơng tin đến với người đọc. Bộ phận truyền thông kỹ
thuật số ở bên trái phía trên phụ trách các lĩnh vực kỹ thuật của các kênh trực
tuyến. Phần nội dung chủ yếu do các ban chuyên môn và nhà báo thực hiện.
Theo thiết kế của The Daily Telegraph, các ban chun mơn Truyền hình
được sắp xếp gần trung tâm tin tức. Các biên tập viên ngồi ở hàng ghế đầu, tiếp
theo là hàng ghế dành cho các phóng viên. Mặc dù với cách thiết kế khá giống
nhau, nhưng các bộ phận trong tòa soạn hội tụ vẫn làm việc theo phương thức hồn
tồn riêng biệt. Tịa soạn đa dạng hóa hình thức làm việc, phóng viên có trách
nhiệm cung cấp thơng tin cho các loại hình báo chí gồm: báo in, trang web và kênh
truyền hình kỹ thuật số. Các phóng viên của tịa soạn này đều có kỹ năng đa
phương tiện tốt, làm việc với tinh thần trách nhiệm cao.
Đối với tờ Ưsterreich (Áo) tịa soạn đã xây dựng một phịng Truyền hình tin
tức theo mơ hình bánh xe. Bàn siêu biên tập hay còn gọi là “sở chỉ huy” được đặt ở
trung tâm. Với cách sắp xếp đó, phóng viên viết cho báo in và báo điện tử cùng làm
việc trong một mơi trường, có thể hỗ trợ nhau trong cơng việc, thay vì mỗi bên chỉ
quan tâm sản xuất nội dung cho kênh của mình như trước kia. Khi (phòng) ban báo in
họp bàn về nội dung, những phóng viên của báo điện tử cũng biết chính xác vấn đề gì
đang được thảo luận để chủ động tổ chức tin bài, mặc dù hai ban này được tổ chức
riêng rẽ.
Tòa soạn Nordjyske Stiftstidende của Đan Mạch được coi là mơ hình tịa
soạn hội tụ điển hình. Năm 2003, Nhật báo Nordjyske Stiftstidende có lượng phát
hành tới 75.000 bản đã thiết kế lại bộ phận biên tập, chuyển đổi từ mơ hình tịa
soạn trung tâm là báo giấy sang mơ hình tịa soạn hội tụ hiện đại. Mỗi ngày trung
tâm sản xuất tin tức của tòa soạn này có nhiệm vụ sản xuất và phát hành 1 tờ báo
miễn phí, 1 kênh truyền hình online và truyền hình cáp cùng với hai chương trình
phát thanh khác.

Mỗi kênh (loại hình báo chí) Truyền hình đều có một biên tập phụ trách ngồi
ở bàn siêu biên tập. Ngoài ra, biên tập ảnh cũng được sắp xếp ngồi ở khu vực bàn
siêu biên tập trong trường hợp đặc biệt. Nội dung được sản xuất ra bởi các ban
giống như các ban của tờ báo. Theo thiết kế này, tổng chỉ huy (hay còn gọi là “nhạc
20


trưởng” của tòa soạn) ngồi ở bàn siêu biên tập. Thông thường, tổng chỉ huy được
chọn từ 1 trong 5 người ở bàn siêu biên tập, những người còn lại phụ trách nội
dung của từng ban, là đội ngũ quan trọng trong bàn siêu biên tập. “Nhạc trưởng”
có trách nhiệm điều phối các sản phẩm đầu ra từ các ban cho từng loại hình báo in,
điện tử, radio và TV. Đầu tiên, “nhạc trưởng” trực tiếp thảo luận với những người
biên tập ở các kênh khác nhau, sau đó quyết định khi nào được đăng và đăng ở
đâu. “Nhạc trưởng” cũng là người “cầm cân nảy mực” điều tiết các mối quan hệ và
xung đột trong tòa soạn cũng như cân bằng trong việc xuất bản nội dung của từng
ban chun mơn. Có thể thấy, Nordjyske Stiftstidende rất thành cơng trong việc
sắp xếp, tổ chức lại tòa soạn hội tụ. Đặc biệt, sau khi thiết kế trung tâm sản xuất tin
tức của tòa soạn đặt ở bàn siêu biên tập, Nordjyske Stiftstidende đã mở rộng được
các nhóm cơng chúng khác nhau, tăng doanh thu cho tòa soạn.
Ở Châu Á, các tập đồn báo chí cũng bắt kịp xu hướng Truyền hình từ giữa
những năm 2004. Một số tập đồn tiên phong như Star Publications (Malayxia),
The nation Group (Thái Lan), Press Holding ( Singapo)… đều là những tập đoàn
hiện nay được phát triển mạnh theo hướng ĐPT.
Mơ hình Truyền hình giữa báo in và Truyền hình điện tử của Straits Times
(Singapore) chuyên sản xuất các tin tức hội tụ qua trang mạng www.stomp.com.sg.
Tờ báo mạng điện tử này kết hợp âm thanh và video của truyền hình, có khả năng
tương tác và lưu trữ rất cao. Theo đánh giá của một số chuyên gia, phần lớn các tin
tức ở trang này do công chúng cung cấp. Đây là một cách thức thể hiện mới, đồng
thời cũng là loại hình mới trong việc đưa tin của tòa soạn hội tụ. STOMP nhận tin
phản ánh từ độc giả, sau khi kiểm chứng thông tin, tịa soạn này sẵn sàng đăng

những tấm hình do độc giả cung cấp lên trang nhất. Như vậy, với cách làm đó,
STOMP đã tận dụng tối đa nguồn cung thông tin từ độc giả, độc giả không chỉ là
người tiếp nhận mà còn là người sản xuất, cung cấp thơng tin cho tịa soạn.
Một trong những vấn đề đang khiến các cơ quan Truyền hình trên thế giới
quan tâm trong xu thế Truyền hình là chi phí phát sinh từ việc triển khai nhiều sản
phẩm truyền thông ở các cơ quan, tập đồn truyền thơng. Mặc dù các sản phẩm
truyền thơng mới có tác dụng lớn đối với việc duy trì mức độ quan tâm của cơng
chúng nhưng vấn đề chi phí phát sinh thêm để duy trì các sản phẩm truyền thơng
mới khi tích hợp vào nhóm truyền thông cũ là vấn đề đáng quan tâm. Gillian
Doyle- Đại học Glasgow (Anh) trong bài viết “From television to Multi- Platform:
21


Less from more or more for less” đã chỉ ra rằng chi phí để BBC duy trì các sản
phẩm truyền thông online (Kênh BBC Three, BBC Four và trang web
) tính theo bình qn số giờ cơng chúng sử dụng dịch vụ cao
hơn nhiều so với việc sản xuất nội dung cho các kênh truyền thống (BBC One và
BBC Two).
Một vấn đề khác nữa trong xu thế Truyền hình đó là việc đào tạo phóng viên
đa kỹ năng - là nhóm phóng viên có thể thực hiện sản phẩm đối với nhiều loại hình
báo chí là điều khơng dễ dàng. Những phóng viên thạo việc đều là những người
được đào tạo theo kiểu sáng tạo sản phẩm báo chí cho một loại hình. Phóng viên
“đa kỹ năng” cần được đào tạo một cách toàn diện đối với tất cả các loại hình báo
chí và yếu tố kỹ thuật cũng khơng được xem nhẹ và mất nhiều thời gian đào tạo. Ở
nhóm này, hầu hết đều là những người mới bước vào nghề và chưa có nhiều kinh
nghiệm trong lĩnh vực báo chí. Vì vậy, cần chờ đợi một thế hệ nhà báo mới, năng
động hơn, khi mơi trường báo chí địi hỏi phải đa kỹ năng mới có thê tác nghiệp.
2. Truyền hình việt nam trong kỷ nguyên số
Vào những năm đầu của thế kỷ XXI, Việt Nam cho ra đời hai tờ báo điện tử
lớn là Tin nhanh Việt Nam () và Việt Nam Net

(). Từ đây, công chúng Việt nam quen dần với thuật ngữ báo
mạng điện tử, báo chí Truyền hình. Sự tăng trưởng của Internet tại Việt Nam đã cho
phép báo điện tử mở rộng dần với việc đăng tải các tệp âm thanh, hình ảnh động, và
dần chiếm ưu thế so với báo in. Thừa nhận Truyền hình trong kỷ nguyên số là một
xu thế khách quan, báo chí Việt Nam chủ động đón nhận và song song với việc phát
triển các loại hình báo chí truyền thống, sự phát triển, tích hợp, hội tụ về công nghệ
thông tin, truyền thông đang thúc đẩy sự ra đời của những loại hình và sản phẩm
truyền thơng mới. Các cơ quan báo in đang đẩy mạnh kênh thơng tin điện tử của
mình để áp dụng cơng nghệ thơng tin trong quy trình sản xuất, quản lý nội dung. Số
người dùng thiết bị cơng nghệ mới để tìm kiếm thông tin tăng mạnh hằng năm nhất
là các đối tượng trong độ tuổi lao động.
Tại Việt Nam, một trong những tờ báo điện tử đi tiên phong trong việc xây
dựng Truyền hình trong kỷ nguyên số là Vnexpress. Tháng 9/2011, Vnexpress
chuyển trụ sở về tòa nhà FPT Cầu Giấy, với tổng diện tích văn phịng gần 1.000 m 2.
Tịa soạn được thiết kế theo khơng gian mở, vị trí của tồn bộ phóng viên, biên tập
22


viên khơng có ngăn cách. Trung tâm tịa soạn là super desk - khu vực của ban biên
tập, xung quanh là các ban chun mơn, bố trí theo từng khối. Phương thức triển
khai nội dung của Vnexpress được thực hiện theo mơ hình tịa soạn hội tụ, nhằm
giúp luồng chảy thông tin giữa các bộ phận được mạch lạc, đảm bảo yếu tố tốc độ và
tối ưu hóa nhân lực.
Với cách sắp xếp trên một mặt phẳng như vậy, tòa soạn hội tụ buộc phải tích hợp
cơng nghệ và kỹ thuật. Tất cả các công nghệ để sản xuất ra một bài báo in, hay báo điện
tử, hoặc clip truyền hình, audio phát thanh đều được tích hợp trong một văn phòng.
Đến nay, gần như tất cả các tòa soạn Truyền hình trong kỷ ngun số đã có
phiên bản điện tử; nhiều tòa soạn còn tập trung phát triển báo điện tử, và giảm dần
số lượng in ấn. Các tờ báo trước đây đã từng có số lượng phát hành bản báo giấy
lớn nhất như Thanh Niên, Tuổi Trẻ, Tiền Phong, Lao động… đều phát triển phiên

bản báo điện tử song song, thậm chí vượt trội so với báo in. Ở các tịa soạn này cịn
có các hình thức đa phương tiện khác như phát thanh, truyền hình để chuyển tải
thông tin.
Đối với báo Tuổi Trẻ, độc giả không chỉ tìm kiếm được ở các sạp báo đầu
ngày, mà cịn có thể tìm xem trên Internet ở các cổng thơng tin chính mang tên các
măng séc báo này. Cơng chúng cịn được cung cấp thơng tin qua những phiên bản
báo mạng mobile khi họ ở bất cứ đâu, bất cứ thời gian nào. Kéo theo đó là các
kênh cơng nghệ khác cũng được tích hợp và phát triển. Kênh truyền hình Tuổi Trẻ,
nghe phát thanh qua máy tính, điện thoại di động cũng trở nên quen thuộc với công
chúng và nhu cầu của doanh nghiệp. Báo VietNamNet cũng phát triển theo hướng
Truyền hình trong kỷ nguyên số, mở rộng nhiều loại hình truyền thơng lấy báo
mạng làm trung tâm. Hiện nay VietnamNet có kênh truyền hình, cơng ty truyền
thơng tổ chức sự kiện. Độc giả có thể đón đọc VietNamNet qua mạng Internet, qua
điện thoại, qua các thiết bị điện tử cầm tay.
Xu thế Truyền hình trong kỷ nguyên số trên các loại hình báo chí được thể
hiện như sau:
- Báo in: Ngoài ấn phẩm báo giấy, nội dung báo in được xuất bản dưới hình
thức điện tử, phát hành qua môi trường mạng để hỗ trợ cho phát hành báo in, tiến
tới các cơ quan báo in xuất bản song song hai hình thức đó là hình thức ấn phẩm in
truyền thống và ấn phẩm điện tử. Trong các cơ quan báo chí hiện nay ở Việt Nam,
có một bộ phận biên tập phụ trách nội dung trên các trang điện tử. Từ một nhóm
23


nhỏ, các bộ phận này liên tục phát triển, trở thành những phịng, ban lớn, cụm từ
“báo chí Truyền hình” được sử dụng để chỉ các tòa soạn như vậy. Tuy nhiên, với
hầu hết các báo in khác, trang tin hay báo điện tử họ sở hữu thực chất chỉ là phiên
bản điện tử của báo in - chứ chưa có sự đầu tư để phát triển thành một Truyền hình
trong kỷ ngun số mới tích hợp với Truyền hình trong kỷ nguyên số đang có để
tăng cường hiệu quả và năng lực truyền thơng của mình.

- Phát thanh - truyền hình: Các loại hình này dựa trên sự phát triển của công
nghệ hạ tầng truyền thông và công nghệ sản xuất thiết bị đầu cuối PT-TH. Khi
mạng băng rộng ADSL bắt đầu phát triển mạnh ở Việt Nam, các Đài phát thanh và
truyền hình lớn trong nước đều có động thái chuyển tải các sản phẩm báo chí của
mình qua mạng Internet. PT-TH phát triển theo hai xu hướng sau:
+ Đa dạng hóa các phương thức truyền dẫn phát sóng bao gồm: PT-TH
tương tự, số mặt đất, số vệ tinh, truyền hình cáp, truyền hình Internet, truyền hình
di động.
+ Chuẩn phát, thiết bị đầu cuối: Truyền hình chất lượng chuẩn (SDTV),
truyền hình có độ phân giải cao (HDTV), truyền hình cơng nghệ 3D (3DTV).
Yếu tố Truyền hình trong kỷ nguyên số được thể hiện ở việc sản xuất các
chương trình PT-TH mở, tức là cho phép cơng chúng tham gia, đóng góp vào nội
dung, hình thức chương trình thơng qua giao thức điện thoại di động, mạng
Internet. Các chương trình PT-TH trực tiếp cho phép khán, thính giả nhắn tin, gọi
điện, chia sẻ thơng tin; hay có những chương trình phát thanh có phần lớn nội dung
thơng tin được cung cấp trực tiếp bởi thính giả qua điện thoại di động đang trở nên
phổ biến, bởi chúng không chỉ hấp dẫn mà cịn thiết thực với cơng chúng. Đây là
hình thức đưa q trình truyền thơng từ phương thức một chiều truyền thống về
gần với bản chất của truyền thơng - truyền thơng đa chiều, một q trình liên tục
chia sẻ, trao đổi thông tin, liên kết xã hội và thực hiện quyền can thiệp xã hội.
- Báo mạng điện tử: Qua báo mạng điện tử, cơng chúng có thể tiếp nhận
tồn bộ các thơng tin từ báo in, phát thanh, truyền hình, thơng tin điện tử. Để báo
điện tử có thể phát triển mạnh mẽ cần có hạ tầng truyền thơng mạng có khả năng
truyền tải dữ liệu với tốc độ lớn, các thiết bị đầu cuối có giá thành thấp, Internet
và di động băng thông rộng cần được phổ cập đến khu vực nông thôn trên phạm
vi cả nước.
Đến nay, Truyền hình số đã trở nên phổ biến ở nước ta. Hầu hết các cơ quan
báo chí đã có hai loại hình báo chí (báo in và trang tin điện tử), một số cơ quan báo
24



chí lớn hội tụ cả bốn loại hình báo chí trong tịa soạn như: Đài truyền hình Việt
Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài PT-TH Hà Nội… Tuy nhiên, ở các cơ quan báo
chí này, chưa có đội ngũ phóng viên tích lũy các kỹ năng Truyền hình số hoạt động
mà hầu hết họ vẫn đang hoạt động theo hướng “chuyên canh”, mỗi nhóm phóng
viên phụ trách sản xuất tác phẩm cho các loại hình báo chí khác nhau.
2.1. Tác động của Truyền hình trong kỷ nguyên số đến xã hội, báo chí và
cơng chúng
2.1.1. Tác động đến xã hội
Trong thời đại truyền thơng số, Truyền hình trong kỷ ngun số đã đem đến
những diện mạo mới. Các công nghệ mới làm thay đổi mạnh mẽ đời sống xã hội.
Chúng đang làm thay đổi quan điểm, cách sống, cách giải trí, nghỉ ngơi, giao
tiếp…
Trước hết, Truyền hình trong kỷ ngun số mở ra một thế giới quan mới:
Hiện nay, có hàng loạt các cơng nghệ giúp cơng chúng có thể lựa chọn để kết nối
với những cá nhân khác hay để tiếp nhận thông tin. Biên giới địa lý bị xóa nhịa bởi
đặc tính khơng giới hạn khoảng cách của Internet. Phần lớn các doanh nghiệp và cá
nhân trở thành một mắt xích trong việc truyền dẫn thơng tin liên lạc số để có thể
truyền thơng tin tới từ bất cứ ai đến bất cứ người nhận nào, mọi lúc mọi nơi. Máy
tính có hệ vi xử lý nhanh hơn, đồ họa tiên tiến và khả năng Truyền hình số là một
công cụ tuyệt vời để liên lạc với nhiều hình thức khác nhau. Truyền hình trong kỷ
ngun số cịn tiết kiệm được chi phí cần thiết để duy trì 3 hệ thống riêng biệt cho
âm thanh, hình ảnh và dữ liệu. Các hãng truyền thơng có thể tiết kiệm được 1
khoản đáng kể từ việc tiết kiệm chi phí thiết bị, nhân công và dịch vụ bằng việc sử
dụng Truyền hình số.
Truyền hình trong kỷ nguyên số làm thay đổi cách tổ chức: Các Truyền hình
truyền thống thường tách bạch khỏi nhau. Các dịch vụ thường rất chuyên biệt: Báo
giấy in ấn, phát thanh, truyền hình phát sóng, thơng tin trực tuyến trên máy tính.
Chúng hoạt động trên các phương tiện khác nhau và sử dụng kỹ thuật khác nhau,
radio, tivi, máy tính. Mỗi thứ trong số chúng đều được quản lý bằng các luật lệ và

hệ thống giám sát khác nhau, và thường ở cấp độ quốc gia. Dưới tác động của
Truyền hình trong kỷ nguyên số, các tập đồn truyền thơng, viễn thơng và cơng
nghệ cao đang sử dụng sự linh hoạt công nghệ kỹ thuật số để cung cấp các dịch vụ
ngoài lĩnh vực kinh doanh truyền thống của họ. Ví dụ, tổng cơng ty truyền thông
25


×