Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

Tiểu luận: Giả thuyết bộ ba bất khả thi trong kỷ nguyên sự mất cân bằng toàn cầu: định lượng và kiểm nghiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (569.44 KB, 41 trang )

GVHD: ThS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 1 - Lớp Cao học Khóa 18 –NH Đ2 Trang 1







Tiểu luận

GIẢ THUYẾT “BỘ BA BẤT KHẢ THI” TRONG KỶ NGUYÊN SỰ
MẤT CÂN BẰNG TOÀN CẦU: ĐỊNH LƯỢNG VÀ KIỂM NGHIỆM
GVHD: ThS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 1 - Lớp Cao học Khóa 18 –NH Đ2 Trang 2



TÓM TẮT:
Chúng tôi đã phát triển 1 phương pháp cho phép ta mô tả theo hướng trực giác
những chọn lựa mà các quốc gia đã thực hiện theo bộ ba bất khả thi trong thời kỳ hậu
Bretton-woods.
Bài viết này bàn về những khía cạnh tích cực của bộ ba bất khả thi, phác thảo
những hệ số đo lường mới để đo lường những biến động của tỷ giá , sự độc lập của
tiền tệ, tự do hóa tài chính và xem xét sự phát triển đáng kể của nguồn dự trữ tích lũy
quốc tế.
Những điều nêu trên bắt đầu được thực hiện với sự ra đời của chỉ số bộ ba.
+ Cụ thể là từ sau những đầu thập niên 1990 , các quốc gia công nghiệp hóa tăng dần
mở rộng tài chính nhưng lại giảm chừng mức độ độc lập về tiền tệ đồng thời tăng sự


bình ổn tỷ giá. Tiến trình này phát triển lên đến mức cực điểm vào cuối thập niên 1990
với sự ra đời của Euro.
+ Ngược lại, các quốc gia đang phát triển ưu tiên chính cho việc bình ổn tỷ giá cho đến
năm 1990, mặc dù nhiều quốc gia đã theo đuổi chính sách tỷ giá thả nổi từ đầu những
năm 1970 trở về sau.
+ Kể từ năm 2000, các phương pháp đo lường các tham số Bộ ba bất khả thi đã hội tụ
về những mức độ trung gian mô tả sự linh động và quản lí, sử dụng dự trữ quốc gia có
thể đo lường được như là BUFFER vì vậy duy trì được sự tự quản của tiền tệ.
Sử dụng những chỉ số này, chúng ta kiểm tra được tính tuyến tính của ba khái
niệm trong Bộ ba bất khả thi:
+ Độc lập của tiền tệ.
+ Tỷ giá hối đoái cố định.
GVHD: ThS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 1 - Lớp Cao học Khóa 18 –NH Đ2 Trang 3

+ Tự do hóa dòng vốn.
Chúng tôi khẳng định rằng tổng trọng số của các tham số trong chính sách bộ ba
là 1 hằng số, điều này có nghĩa là sự tăng lên của 1 biến trong bộ ba sẽ bù trừ bằng
tổng trọng số của 2 biến còn lại.
1. Giới thiệu

Một đóng góp cơ bản của hệ thống Mundell-Fleming là lý thuyết bộ ba bất khả
thi hay còn gọi là TRILEMMA.
Lý thuyết này chỉ ra rằng một quốc gia có thể lựa chọn cùng một lúc hai nhưng
không phải là cả ba mục tiêu sau đây: Chính sách tiền tệ độc lập, ổn định tỷ giá và tự
do hóa dòng vốn.
Bộ ba bất khả thi, “the impossible trinity”, được minh họa trong hình 1:

Mỗi cạnh của tam giác thể hiện chính sách tiền tệ độc lập, ổn định tỷ giá và tự

do hóa dòng vốn diễn tả một mục tiêu mong đợi có thể thực hiện được trong tương lai,
mà không có khả năng thực hiện đồng thời cả ba mục tiêu này.
Đỉnh trên cùng của tam giác được ký hiệu “thị trường vốn đóng”_là sự kết hợp
giữa chính sách tiền tệ độc lập và cố định tỷ giá nhưng không tự do hóa dòng vốn, đây
là sự lựa chọn tối ưu của những quốc gia đang phát triển giữa cuối những năm 1980.
GVHD: ThS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 1 - Lớp Cao học Khóa 18 –NH Đ2 Trang 4

Hơn 20 năm qua, những quốc gia đang phát triển đã lựa chọn tăng tự do hóa
dòng vốn. Lý thuyết bộ ba bất khả thi ngụ ý rằng, một đất nước đi theo con đường này
thì phải lựa chọn:
+ Hoặc là từ bỏ chế độ cố định tỷ giá nếu quốc gia đó muốn bảo vệ chính sách
tiền tệ độc lập.
+ Hoặc là từ bỏ chính sách tiền tệ độc lập nếu quốc gia đó muốn bảo vệ chế độ
tỷ giá cố định.
Mục dích của bài nghiên cứu này là phác họa một phương pháp mô tả và đánh
giá một cách dễ dàng và trực quan những lựa chọn của các quốc gia có liên quan đến
bộ ba bất khả thi trong suốt thời kỳ Bretton-Woods.
Phần đầu của nghiên cứu này giới thiệu “những chỉ số của bộ ba bất khả thi” mà
các chỉ số này giúp đo lường mức tiêu chuẩn đạt được trong 3 mục tiêu của bộ ba bất
khả thi: chính sách tiền tệ độc lập, ổn định tỷ giá và tự do hóa dòng vốn. Những chỉ số
này cho phép chúng ta thấy rõ cấu trúc vốn quốc tế.
Thứ hai, sử dụng những chỉ số này tìm ra những khía cạnh tích cực của bộ ba
bất khả thi và xem xét những cú sốc kinh tế bên ngoài (như là những thay đổi trong cấu
trúc vốn toàn cầu_ví dụ, sự sụp đổ của hệ thống Bretton-Woods_và khủng hoảng tài
chính theo diện rộng_ví dụ, khủng hoảng nợ ở Mexico và khủng hoảng tài chính ở
châu Á ) ảnh hưởng như thế nào đến các mục tiêu của quốc gia trong bộ ba bất khả thi.
Cuối cùng, chúng ta xem xét liệu sự ràng buộc dựa vào bộ ba bất khả thi có mối
liên kết nào với nhau hay không. Bằng cách, sử dụng một hàm tuyết tính đơn giản để

liên kết 3 chỉ số này lại, chúng ta kiểm tra liệu sự kết hợp tuyến tính của 3 chỉ số này
có hình thành một hằng số hay không? Nếu đúng như vậy, thì khái niệm quốc gia có
thể theo đuổi 2 trong 3 mục tiêu là đúng, và cũng có nghĩa là nếu tăng một biến này thì
phải giảm tỷ trọng tương ứng của 2 biến còn lại.
Chúng ta bắt đầu quan sát hơn 2 thập kỷ qua, một số lớn những quốc gia đang
phát triển đã lựa chọn tỷ giá hỗn hợp (lai). Ví dụ, điều hành chính sách thả nổi bằng
GVHD: ThS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 1 - Lớp Cao học Khóa 18 –NH Đ2 Trang 5

cách gia tăng dự trữ ngoại hối (IR). Mặc dù gia tăng thả nổi tỷ giá, thì tỷ số IR/GDP
vẫn tăng một cách đáng kể, đặc biệt là trong cuộc khủng hoảng tại quốc gia Đông Á.
Trên thực tế, chỉ số IR/GDP đã tăng ở những quốc gia có thị trường mới nổi. Những
con số này đang dao động: dự trữ ngoại hối tăng từ 1000 tỷ USD lên hơn 5000 tỷ USD
từ năm 1990 đến năm 2006. Tổng mức dự trữ ngoại hối thì không ổn định trong khi
IR/GDP của những nước công nghiệp thì tương đối ổn định ở mức xấp xỉ 4%, trong
khi tỷ số này của các quốc gia đang phát triển dao động trong khoảng từ 5% - 27%.
Ngày nay, khoảng ¾ dự trữ ngoại hối là của các quốc gia đang phát triển, hầu hết là ở
châu Á. Dự trữ ngoại hối ở các quốc gia châu Á tăng từ 5% năm 1980 lên 37% năm
2006 (châu Á chiếm 32%, chưa kể Trung Quốc). Sự thay đổi đáng kể nhất là tại Trung
quốc, tỷ lệ IR/GDP tăng từ 1% năm 1980 lên 41% năm 2006 (và đang tăng dần lên
50% trước năm 2008). Nhiều nghiên cứu theo chủ nghĩa kinh nghiệm yêu cầu có một
vài thay đổi trong tỷ lệ dự trữ ngoại hối. Một sự thay đổi lớn vào năm 1990 có liên
quan đến quản lý dự trữ ngoại hối của các quốc gia đang phát triển. Tỷ số IR/GDP đã
tăng và tăng một cách chóng mặt sau cuộc khủng hoảng Đông Á những năm 1997 –
1998, nhưng rõ nét nhất là vào năm 2000. Một sự thay đổi tỷ lệ dự trữ ngoại hối diễn ra
vào đầu những năm 2000, hầu hết là do ảnh hưởng của việc tăng dự trữ ngoại hối của
Trung Quốc.
Toàn cầu hóa thị trường tài chính là tất yếu trong điều kiện hội nhập tài chính
đang phát triển ở các nhóm quốc gia. Trong khi mô hình gốc của bộ ba bất khả thi ít đề

cấp đến vai trò của dự trữ thì xu hướng hiện tại xem tích lũy phải liên quan chặt chẽ
với sự thay đổi mô hình bộ ba bất khả thi trong những quốc gia đang phát triển. Nghiên
cứu ban đầu tập trung vào vai trò của dự trữ toàn cầu như là bước đệm để thực hiện chế
độ tỷ giá có điều chỉnh hay là thả nổi có kiểm soát. Mô hình hoạt động như vậy giới
hạn khả năng giải thích việc tăng dự dữ ngoại hối bởi lẽ việc linh hoạt hơn trong tỷ giá
hối đoái những thập niên gần đây làm giảm dự trữ ngoại hối, ngược lại với xu hướng
nêu trên.
Nghiên cứu gần đây tập trung những hướng bất lợi của việc hội nhập tài chính
sâu hơn ở những quốc gia đang phát triển.
GVHD: ThS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 1 - Lớp Cao học Khóa 18 –NH Đ2 Trang 6

+ Mở cửa thị trường tài chính sâu như vậy sẽ làm cho dòng vốn trong ngắn hạn
dễ thay đổi (gọi là “tiền nóng”) tùy thuộc vào mức độ đảo chiều và chấm dứt đột ngột
(xem Calvo, 1998). Kinh nghiệm cho rằng, dự trữ toàn cầu có thể giảm khả năng chấm
dứt đột ngột của dòng tiền và những hậu quả nghiệm trọng có thể xảy ra khi đó.
Aizenman và Lee (2007), đã liên kết sự gia tăng mạnh mẽ của dự trữ toàn cầu
và mở cửa thị trường tài chính ngày càng sâu của các quốc gia đang phát triển và tìm ra
bằng chứng việc tăng dự trữ ngoại hối như là một cách tự bảo vệ việc chấm dứt đội
ngột của dòng vốn vào.
Phân tích thực nghiệm trên 100 quốc gia từ năm 1975 – 2004, Cheung và Ito
(2007) nhận thấy rằng chỉ có mở cửa thị trường ngoại thương mới là yếu tố quan trọng
nhất trong các yếu tố được đưa ra đánh giá. Tuy nhiên, giải thích dựa vào yếu tố này đã
không còn đúng theo thời gian. Ngược lại, ý nghĩa giải thích của các yếu tố khác lại có
ý nghĩa hơn.
Tầm quan trọng của hội nhập tài chính có mối liên hệ giữa thay đổi cấu trúc bộ
ba bất khả thi và mức dự trữ ngoại hối. Thật vậy, theo Obtfield (2008), khoản vay nợ
trong nước có thể chuyển thành nợ ngoại tệ (M2). Mở cửa tài chính, có khả năng thu
hút ngoại tệ thông qua thị trường nợ, và chính sách tỷ giá hối đoái sẽ đưa ra những dự

đoán về mức dự trữ.
Chúng ta bắt đầu xây dựng phương pháp trực quan và dễ dàng để tổng hợp
những khuynh hướng nêu trên bằng “biểu đồ hình kim cương” mà trên biểu đồ này,
cộng thêm vào ba yếu tố của TRILEMMA.
Những con số này thông thường là trong khoảng từ 0 đến 1. Mô hình của mỗi
quốc gia được tổng hợp lại trong một “hình thể tổng quát” mà 4 cạnh biểu hiện: Chính
sách tiền tệ độc lập, tỷ giá cố định, IR/GDP và tự do hóa dòng vốn.
Một thông điệp rút ra từ lý thuyết bộ ba bất khả thi là thiếu những công cụ đo
lường. Những nhà hoạch định chính sách phải đối mặt với việc đánh đổi giữa các mục
tiêu trong bộ ba bất khả thi: gia tăng giá trị của một biến trong bộ ba bất khả thi (chẳng
hạn tăng tự do hóa dòng vốn) thì sẽ kéo theo sự sụt giảm giá trị của hai biến còn lại
GVHD: ThS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 1 - Lớp Cao học Khóa 18 –NH Đ2 Trang 7

(giảm cố định tỷ giá hay chính sách tiền tệ độc lập hoặc là cả hai). Vì vậy, như chúng
ta đã biết, giá trị của sự đánh đổi giữa ba biến không được kiểm chứng chính xác. Một
vấn đề đáng lưu ý nữa là mô hình bộ ba bất khả thi có bị giới hạn bởi sự liên kết giữa 3
biến hay không.
Chúng ta kết thúc vấn đề này bằng việc áp dụng hàm hồi quy đơn giản đối với
bộ ba bất khả thi. Ba mục tiêu chính sách trong bộ ba bất khả thi có quan hệ tuyến tính
với nhau hay không. Với giả thiết như vậy, chúng ta nêu ra ví dụ và tính được tổng
cộng 3 biến trong bộ ba bất khả thi là một hằng số. Kết quả này minh chứng cho khái
niệm: một sự gia tăng 1 trong 3 biến sẽ đánh đổi bằng sự giảm giá trị của 2 biến còn
lại. Kết quả này rút ra một công cụ dự đoán mức độ thay đổi giữa 3 mục tiêu trong
chính sách bộ ba bất khả thi.
Phần 2 phác thảo phương pháp luận cho việc xây dựng những chỉ số trilemma mà
những chỉ số này đo lường những kết quả đạt được trong mục tiêu chính sách của
trilemma. phần này cũng thống kê tổng quát những chỉ số và kiểm chứng rằng khi có 1
sự thay đổi trong cấu trúc trilemma đều có liên quan đến sự kiện kinh tế toàn cầu.

Phần 3 đã kiểm chứng mối quan hệ tuyến tính những chỉ số trong trilemma và để
chứng minh rằng: 3 mục tiêu chính sách này có sự đánh đổi hay không.
Phần 4 là phần kết luận.
2. Đo lường các biến trong trilemma:
Việc phân tích sự đánh đổi theo chủ nghĩa thực nghiệm được thực hiện để đánh
giá những chính sách này.
Tuy nhiên, chỉ có 1 số ít kết quả tốt. Trong bài này chúng tôi sẽ khắc phục những
khuyết điểm của cách đo lường trên bằng việc đưa ra một vài chỉ số đo lường.
2.1 Xây dựng phương pháp đo lường trilemma:
Phân tích thực nghiệm của việc “đánh đổi” được yêu cầu để đánh giá những
chính sách này. Tuy nhiên có 1 số kết quả cho kết quả tốt, và có những kết quả không
GVHD: ThS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 1 - Lớp Cao học Khóa 18 –NH Đ2 Trang 8

đạt như mong muốn, chưa được chính xác. Trong bài này chúng ta sẽ khắc phục những
khuyết điểm và đưa ra một số chính sách mới.
Tự do tiền tệ (MI)
Phạm vi của tự do tiền tệ được đo lường bởi hàm thuận nghịch định kỳ hàng
năm của lãi suất tháng giữa nước chủ nhà và nước so sánh
Chỉ số: mức độ tự do tiền tệ đựoc định nghĩa nh
ư sau:

MI =

1 -
Corr (i
i
, i
j

) – (-1)
1-(-1)

Trong đó:
i: Lãi suất của nước chủ nhà
j: Lãi suất của nước cơ sở
Bằng cách xây dựng này, giá trị MI nằm trong khoảng là 0 tới 1. Giá trị này
càng cao có nghĩa là chính sách tiền tệ càng tự do hơn.
ở đây, nước so sánh được định nghĩa là nước mà có chính sách tiền tệ gần giống với
nước chủ nhà (theo định nghĩa của Shambaugn, 2004). Những nước để so sánh như:
ÚC, Bỉ, Pháp, Đức, Malaysia, Nam Phi, Anh và Mỹ.
Số liệu của những nước này đã có sẵn theo từng năm theo bảng dữ liệu của
Shambaugn. Những nước cơ sở được đăng ký dựa trên báo cáo hàng năm “exchange
arrangement and exchange restrictions” (AREAER) của IMF và mạng CIA.
Tỷ Gía Hối Đoái cố định (ERS):
Để đo lường ERS , ta sử dụng độ lệch chuẩn của tỷ giá hối đoái của nước chủ nhà và
nước so sánh. kết quả của chỉ số này nằm trong khoảng từ 0 đến 1.
GVHD: ThS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 1 - Lớp Cao học Khóa 18 –NH Đ2 Trang 9






d log E1/dt + 0.01 là giá trị tuyệt đối của tỷ lệ của tỷ giá hối đoái của tháng 121 của
năm.
ERS cho kết quả càng cao thì biểu thị mức độ ổn định của tỷ giá nước đang so sánh so
với nước cơ sở và ngược lại.

Chỉ số KAOPEN hay còn gọi là tự do hóa dòng vốn:
Để đo lường được mức độ kiểm soát tài khoản vốn vô cùng khó khăn, mặc dù đã có
nhiều phương pháp tồn tại để đo lường phạm vi và cường độ của kiểm soát vốn, nhưng
những phương pháp này chưa đo lường được 1 cách đầy đủ được mức độ phức tạp của
kiểm soát tài khoản vốn trong thế giới thực. Tuy nhiên để đo lường mức độ tự do hóa
dòng vốn, chúng ta sử dụng chỉ số của: tài khoản vốn mở (capital account openness)
hay chỉ số KAOPEN (chỉ số này do ông CHINN và ông ITO phát triển vào năm 2006,
2008).
Chỉ số KAOPEN dựa vào những thông tin từ báo cáo hàng năm “exchange
arrangement and exchange restrictions” (AREAER). Đặc biệt là KAOPEN là chỉ số
được chuẩn hóa đầu tiên, là chỉ số chính cấu thành nên giá trị của bộ ba: tỷ giá hối
đoái, hạn chế trong giao dịch tài khoản vãng lai, tài khoản vốn và yêu cầu từ bỏ nhập
khẩu.)
Chỉ số Chinn và ITO được sắp xếp theo thứ tự từ 0 đến 1, giá trị càng cao cho thấy việc
chuyển giao vốn giữa các quốc gia ngày càng tăng (more open to cross-border capital
transactions) . Chỉ số này là theo số liệu báo cáo của 171 quốc gia giai đoạn từ năm
1970 đến năm 2006.
ERS =

1
1 +
Stdev (exch _rate)
d log E1/dt + 0.01
GVHD: ThS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 1 - Lớp Cao học Khóa 18 –NH Đ2 Trang 10

2.2 Theo dõi các chỉ số
Những thay đổi qua những nhóm quốc gia:
Việc so sánh những chỉ số này cho thấy vài nội dung về cấu trúc tài chính quốc

tế được giải quyết thế nào qua thời gian. Đối với mục tiêu này, “ biểu đồ tháp” hữu ích
nhất.
Hình 3 tóm lược khuynh hướng của những quốc gia công nghiệp bao gồm 12
quốc gia Châu Âu, những nước đang phát triển có thị trường tài chính mới nổi và chưa
nổi. Nó chỉ ra rằng, những quốc gia công nghiệp hướng tới tự do hóa tài chính qua các
năm. Một điều cũng có thể thấy được là những quốc gia công nghiệp hướng đến ổn
định tỷ giá hối đoái, nhưng kết quả này là chính yếu được đưa đến bởi những quốc gia
có sự bảo hộ của khối Euro. Khi những quốc gia Châu Âu dịch chuyển thì những quốc
gia có nền kinh tế công nghiệp đang duy trì tính độc lập tiền tệ. Con số cũng nhấn
mạnh thực tế rằng những quốc gia đang phát triển dịch chuyển về hướng linh hoạt tỷ
giá mạnh hơn, và hợp thành khối tài chính mạnh. Cả hai xu hướng được thay thế cho
những quốc gia có nền kinh tế thị trường mới nổi hơn là những quốc gia đang phát
triển có nền kinh tế thị trường chưa nổi. Thêm vào đó, nhóm những quốc gia có thị
trường mới nổi thì dễ nhận ra những sự tăng trưởng nhanh chóng về mức độ tích lũy dự
trữ quốc gia. Trong khi những quốc gia đang phát triển có thị trường chưa nổi cũng
từng đạt sự gia tăng trong dự trữ quốc gia của họ, sự thay đổi ở những quốc gia này
vừa phải hơn.


















GVHD: ThS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 1 - Lớp Cao học Khóa 18 –NH Đ2 Trang 11


Figure 3: The Trilemma and International Reserves Configurations over Time




GVHD: ThS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 1 - Lớp Cao học Khóa 18 –NH Đ2 Trang 12


GVHD: ThS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 1 - Lớp Cao học Khóa 18 –NH Đ2 Trang 13



Hình 4 so sánh những quốc gia phát triển thông quan những nhóm thuộc khu
vực địa lý khác nhau. Những quốc đang phát triển ở cả Châu Á và Mỹ Latin khuynh
hướng tỷ giá linh hoạt, trong khi các quốc gia LATAM (Châu Mỹ Latin) gia tăng
nhanh chóng việc mở cửa thị trường tài chính thì những quốc gia Châu Á không làm
được.

Những quốc gia Châu Á có thị trường tài chính mới nổi nghiêng về phía mở cửa
thị trường tài chính ở mức độ có thể so sánh được với những quốc gia thị trường mới
nổi ở LATAM, và điểm khác biệt quan trọng giữa hai nhóm quốc gia này là nhóm
GVHD: ThS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 1 - Lớp Cao học Khóa 18 –NH Đ2 Trang 14

Những quốc gia Châu Á có thị trường tài chính mới nổi nắm giữ (kiểm soát) nguồn dự
trữ quốc gia nhiều hơn nhóm quốc gia LATAM. Những quốc gia Châu Phi cận Sahara
cũng dịch chuyển theo hướng thả nổi tỷ giá và tự do hóa tài chính trong những năm
1980, nhưng thị trường ít chuyển đổi trên phạm vi rộng.
Những mô hình trong cân bằng Panel

Hình 5 một lần nữa thể hiện sự phát triển của chỉ số bộ ba từ những biến khác
nhau khi tập trung cùng một lúc chiều hướng phát triển của những chỉ số bộ ba, nhưng
mô hình cũng giới hạn, chỉ bao bồm những quốc gia mà ở đó ba chỉ số có khả năng
thực hiện trong thời gian xác định. Bằng việc cân bằng dữ liệu, số quốc gia bao gồm
trong mẫu giảm xuống 50 quốc gia trong đó có 32 quốc gia đang phát triển (18 quốc
gia trong số đó có thị trường tài chính mới nổi). Mỗi bảng thể hiện mẫu đầy đủ là trung
bình của chỉ số bộ ba và đường thể hiện độ lệch chuẩn của nó.
Có sự khác biệt rõ ràng giữa những quốc gia đang phát triển và những quốc gia
công nghiệp. Bảng đầu tiên bên trái chỉ ra rằng, giữa cuối những năm 1970, và cuối
GVHD: ThS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 1 - Lớp Cao học Khóa 18 –NH Đ2 Trang 15

những năm 1980, mức độ độc lập tiền tệ giữa những quốc gia công nghiệp hóa và đang
phát triển có mối quan hệ mật thiết nhau. Tuy nhiên trong những năm đầu 1990, hai
nhóm này phát triển phân kỳ theo hai hướng. Trong khi những quốc gia đang phát triển
dao động xung quanh giữa mức độc lập tiền tệ và hơi lệch hướng với đường trung bình,

thì những quốc gia công nghiệp ít độc lập hơn trong thời gian chính cách tiền tệ thực
thi, và di chuyển theo hướng xa đường trung bình hơn, phản ảnh hiệu quả thực thi của
thành viên các nước Châu Âu. Trong trường hợp tỷ giá hối đoái cố định, những quốc
gia công nghiệp từng ổn định tỷ giá cố định đến cuối những năm 1990, trong khi
những quốc gia đang phát triển có khuynh hướng chung là linh hoạt tỷ giá hơn từ giữa
những năm 1970.
Sau phần giới thiệu Châu Âu 1999, các quốc gia công nghiệp gia tăng ổn định tỷ
giá trong khi những quốc gia đang phát triển tiếp tục duy trì quanh mức giữa của tỷ giá
linh hoạt. Rõ ràng, những những quốc gia công nghiệp đạt mức độ cao về mở cửa tài
chính trong suốt thời gian qua. Tự do hóa dòng vốn giữa những năm 1990 được đánh
dấu cao hơn so với đường trung bình của mô hình và mô hình phụ LDC. Mặt khác,
những quốc gia đang phát triển cũng chuyển sang gia tăng mở cửa tài chính vào đầu
những năm 1990 sau vài suy giảm năm 1980. Nhìn chung khuynh hướng LDC cũng là
khuynh hướng toàn cầu của tự do hóa tài chính thông qua giai đoạn thử nghiệm. Tuy
nhiên, khoảng cách với những quốc gia công nghiệp gia tăng nhanh trong thập kỷ qua.
Sự khác biệt giữa những quốc gia thị trường tài chính phát triển và thị trường tài
chính chưa phát triển trong những QG đang phát triển (thể hiện cột hàng cuối cùng
hình 5) thì nhỏ hơn giữa mô hình IDC và LDC.
Tuy nhiên, sự lan tỏa liên quan đến vấn đề độc lập tiền tệ và mở cửa tài chính
được đề cập từ giữa những năm 1990. Trong khi quốc gia có thị trường tài chính chưa
nổi giữ độ tương quan nhất định trong độc lập tiền tệ, những quốc gia có thị trường tài
chính mới nổi trở nên ít độc lập tiền tệ. Những quốc gia EMG cũng mở cửa tài chính
hơn so với những quốc gia có thị trường tài chính chưa nổi.
GVHD: ThS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 1 - Lớp Cao học Khóa 18 –NH Đ2 Trang 16



Hình 6 chỉ ra đường phát triển liên quan của những chỉ số với nhau, tạo ra sự

khác biệt rõ nét giữa các quốc gia IDC và LDC.
GVHD: ThS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 1 - Lớp Cao học Khóa 18 –NH Đ2 Trang 17

+ Đối với những quốc gia công nghiệp, điều này thể hiện rõ ràng vào cuối
những năm 1990, mở cửa tài chính và ổn định tỷ giá là chính sách vĩ mô được đẩy
mạnh, phản ảnh qua những nước trong khối Euro 1999.
+ Nhóm những quốc gia đang phát triển là bức tranh khác biệt rõ. Đến năm
1990, ổn định tỷ giá là chính sách thuyết phục trong 3 chính sách của bộ ba, mặc dù nó
có hướng giảm đầu những năm 1970. Trong suốt những năm 1990, mức độ độc lập tiền
tệ gia tăng trung bình trong khi nhiều quốc gia theo đuổi chính sách thả nổi tỷ giá và tự
do hóa thị trường tài chính. Điều hấp dẫn là, bộ 3 chỉ số hội tụ từ năm 2000. Kết quả
này cho thấy, những quốc gia đang phát triển theo hướng linh hoạt tỷ giá có kiểm soát
và xem xét tới việc gia tăng nguồn dự trữ quốc gia để khẳng định độc lập tiền tệ trong
thời gian tự do hóa tài chính.
2.3 Nhận diện sự đổ vỡ cấu trúc tài chính:
Nhằm đánh giá đúng hơn về giá trị các chỉ số, chúng tôi nghiên cứu những sự
kiện kinh tế toàn cầu có liên quan đến sự đổ vỡ cấu trúc tài chính thông qua các chuỗi
chỉ số. Chúng tôi dự đoán trên các sự kiện chủ yếu chẳng hạn như sự sụp đổ của hệ
thống Bretton Wood năm 1973, cuộc khủng hoảng nợ Mexico năm 1982 (bắt đầu cho
những cuộc khủng hoảng nợ vào thập niên những năm 80 của những quốc gia đang
phát triển và cuộc khủng hỏang Châu Á năm 1997 -1998 (ảnh hưởng lớn đến nền kinh
tế các nước Châu Á (HPAEs) Nga và những quốc gia mới nổi khác) – có thể ảnh
hưởng đến nền kinh tế theo những cách nhất định mà quốc gia đã lựa chọn theo chính
sách điều hành kinh tế của mình
Chúng tôi nhận thấy sự đổ vỡ cấu trúc tài chính qua các năm 1973, 1982, 1997 –
1998 và năm 2001, việc kiểm chứng đối với các nhóm quốc gia và kết quả của những
chỉ số đã chỉ ra điểm đổ vỡ cấu trúc tài chính của mỗi nhóm. Kết quả này được thể hiện
trong Bảng 1 (a). Cột đầu tiên và cột thứ 2 của bảng trên cùng đã thể hiện rằng sau sự

sụp đổ của hệ thống Bretton Wood, giá trị chỉ số cố định tỷ giá hối đoái đối với những
nước công nghiệp hóa sụp đổ theo thống kê cụ thể từ 0.55 đến 0.45 trong khi giá trị của
chỉ số mở cửa tài chính (tự do hóa dòng vốn) tăng nhẹ từ 0.44 đến 0.47. Những nước
GVHD: ThS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 1 - Lớp Cao học Khóa 18 –NH Đ2 Trang 18

đang phát triển có thị trường tài chính chưa nổi có mức tăng ổn định trong tỷ giá hối
đoái (từ 0.52 đến 0.82) trong cùng giai đoạn mà họ áp dụng chính sách tiền tệ độc lập ít
hơn và mở cửa tài chính cao. Tuy nhiên, những nước đang phát triển có thị trường tài
chính phát triển lại hướng dến tỷ giá hối đoái thả nổi nhiều hơn thay vì tuân thủ chính
sách tỷ giá hối đoái ổn định.
Sau sự kiện khủng hoảng nợ ở Mexico, những nước công nghiệp tiếp tục gia tăng
chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt và mở cửa tài chính trong khi chính sách tiền tệ độc
lập không thay đổi. Ngược lại, cuộc khủng hoảng nợ đã hướng các nước đang phát
triển theo đuổi chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt, và như thực tế phản ánh những
quốc gia khủng hoảng không thể chịu nổi chính sách tỷ giá hối đoái cố định. Tuy
nhiên, những nước này cũng đồng thời theo đuổi chính sách tiền tệ độc lập. Đáng chú
ý, những nước có thị trường tài chính chưa nổi lại thắt chặt kiểm soát nguồn vốn và kết
quả là khủng hoảng nợ trong khi những nước có thị trường tài chính phát triển đã
không thay đổi chính sách của mình
Cuộc khủng hoảng Châu Á cũng xuất hiện như là một sự kiện cụ thể về việc áp
dụng chính sách bộ ba bất khả thi. Mức độ chính sách tiền tệ độc lập của những quốc
gia công nghiệp giảm trong khi chính sách tỷ giá hối đoái trở nên ổn định và những nỗ
lực của họ trong việc tiếp tục tự do hóa dòng vốn. Mặt khác, những nước đang phát
triển thị trường tài chính chưa nổi đang theo đuổi chính sách hội nhập tài chính và tỷ
giá hối đoái linh hoạt và tiền tệ độc lập. Những nước có thị trường tài chính mới nổi
bắt đầu tự do hóa thị trường tài chính cao nhưng giảm chính sách tiền tệ độc lập trong
khi lại theo đuổi chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt
Vài sự kiện chính khác cho thấy sự đổ vỡ cấu trúc tài chính được xác định. Ví dụ,

giai đoạn toàn cầu hóa tài khoản bắt đầu vào những năm 90 đã dẫn đến nhiều nước
đang phát triển bắt đầu tự do hóa thị trường tài chính. Nhìn lại sự gia nhập WTO của
Trung Quốc năm 2001 đã bắt đầu cho sự gia tăng những công ty con ở nước ngoài. Bởi
vì, ảnh hưởng của những sự kiện này có thể liên quan đến cuộc khủng hoảng Châu Á
GVHD: ThS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 1 - Lớp Cao học Khóa 18 –NH Đ2 Trang 19

mà chúng tôi đã kiểm chứng vào năm 1990 và 2001 có thể dẫn đến sự đổ vỡ cấu trúc
tài chính
Kết quả được thể hiện trong bảng 1 (b); hai cột đầu tiên cho thấy kết quả việc
kiểm tra như nhau chỉ số bộ ba bất khả thi năm 1990 đã dẫn đến sự đổ vỡ cấu trúc tài
chính trong khi hai cột cuối cùng thể hiện điều này năm 2001. Bảng đầu cho thấy
những nước công nghiệp có thể bị đổ vỡ cấu trúc tài chính vì áp dụng đồng thời ba
chính sách này năm 1990. Tuy nhiên, trong khi chúng tôi so sánh độ lớn thống kê của
sự thay đổi chỉ số trong chính sách tiền tệ độc lập ở một góc độ khác dẫn đến đổ vỡ cấu
trúc tài chính (chẳng hạn, so sách thống kê của chính sách tiền tệ độc lập ở cột 4 bảng
01 (a), ở cột 2 bảng 1(b) và cột 4 bảng 1(b), nghĩa là việc kiểm chứng giống nhau hoàn
toàn loại bỏ việc không có đổ vở cấu trúc tài chính của giả thuyết (1997-1998). Chúng
tôi đạt được kết quả như nhau về việc chính sách hối đoái ổn định cho dù mở cửa tài
chính, sự đổ vở cấu trúc tài chính năm 1990 đã bác bỏ sự không có giá trị của giả
thuyết
Chúng tôi áp dụng kiểm chứng như nhau đối với những nước đang phát triển có
thị trường tài chính chưa nổi và thị trường tài chính mới nổi. Đối với nhóm thị trường
tài chính chưa nổi, sự đổ vỡ cấu trúc tài chính năm 1990 là do áp dụng các chính sách
của bộ ba bất khả thi. Tuy nhiên, đối với nhóm có thị trường tài chính mới nổi, sự đổ
vỡ cấu trúc tài chính có ý nghĩa nhất là nhận ra chính sách tiền tệ độc lập năm 2001,
chính sách tỷ giá hối đoái cố định năm 1990, và tự do hóa tài chính năm 1997-1998
Cuối cùng, chúng tôi so sánh thống kê ở góc độ khác sự đổ vỡ cấu trúc tài chính
của từng chỉ số và nhóm nhỏ các quốc gia. Cho thấy rằng dữ liệu được sử dụng trong

bài nghiên cứu này, thống kê rộng nhất nên chỉ ra sự đổ vỡ cấu trúc tài chính ý nghĩa
nhất đối với chuỗi chỉ số này. Ví dụ, chính sách tiền tệ độc lập và tỷ giá hối đoái cố
định của những nước công nghiệp được thống kê rộng nhất khi sự đổ vỡ cấu trúc năm
1997-1998 được kiếm chứng. Tuy nhiên, mở cửa tài chính năm 1990 được nhìn nhận
như đổ vỡ cấu trúc tài chính đáng chú ý nhất. Kết quả của sự biến thiên khác và mẫu
nhỏ được thể hiện trong bảng 1 (c). Đối với những nước đang phát triển có thị trường
GVHD: ThS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 1 - Lớp Cao học Khóa 18 –NH Đ2 Trang 20

tài chính chưa nổi và mới nổi thì sự đổ vỡ cấu trúc tài chính do chính sách tiền tệ độc
lập và tỷ giá hối đoái cố định đã xảy ra vào năm 1982 và 2001. Trong khi sự sụp đổ
của hệ thống Bretton Woods là sự kiện đáng chú ý nhất đối với những nước đang phát
triển thị trường tài chính chưa nổi liên quan đến chính sách tự do hóa tài chính, còn
cuộc khủng hoảng Châu Á là sự kiện nổi bật của những nước có thị trường tài chính
mới nổi.
3. Mối quan hệ tuyến tính của các chỉ số bộ ba bất khả thi:
Trong khi sự phân tích ở trên hoàn toàn hữu ích cho việc theo đuổi định hướng
chính sách kinh tế vĩ mô quốc tế. Chúng tôi không chứng minh có hay không việc thực
hiện 3 mục tiêu chính sách kinh tế vĩ mô của lý thuyết Bộ ba bất khả thi có liên kết với
nhau hay không. Mà thật ra nó quan trọng đối với chúng tôi trong việc chứng minh
rằng các quốc gia phải có sự đánh đổi dựa trên bộ ba bất khả thi.
Một thách thức đang phải đối mặt là kiểm chứng việc đánh đổi trong lý thuyết
bộ ba bất khả thi này rằng hệ thống bộ ba bất khả thi không đánh thuế bất cứ mô hình
chức năng nào rõ ràng trong việc đánh đổi dựa trên sự biến thiên của trilemma. Để
minh họa, chúng tôi phải lưu ý sự khó khăn trong việc kết hợp 3 yếu tố của bộ ba muốn
nói rằng việc thay đổi một trong ba yếu tố, chẳng hạn như nâng cao tự do hóa tài chính
thì phải giảm tỷ giá hối đoái cố định, hoặc giảm chính sách tiền tệ độc lập, hoặc kết
hợp hai trong ba chính sách này. Vì thế, chúng tôi đã kiểm tra tính giá trị của bộ ba bất
khả thi - quan hệ tuyến tính của sự đánh đổi. Cụ thể chúng tôi kiểm tra có hay không

việc tổng hợp ba chính sách thay đổi bằng một hằng số ở mức cao nhất. Nếu chỉ số này
giảm chứng minh rằng tính chất của mô hình hồi quy này như sau:
1 = a
j
Mi
i,t
+ b
j
ERS
i,t
+ c
j
KAOPEN
i,t
+ e
t
(1) (j có thể là IDC, ERM hoặc LDC)
Bởi vì chúng tôi chỉ ra rằng nhóm khảo sát khác nhau của những quốc gia có chính
sách phát triển khác nhau. Chúng tôi cho các chỉ số biến thiên theo các nhóm quốc gia
khác nhau, quốc gia công nghiệp, những quốc gia nằm trong hệ thống ERM, và những
quốc gia đang phát triển bằng cách cho tác động qua lại lẫn nhau các biến giải thích và
thử chạy đối với các nhóm nhỏ quốc gia này. Kết quả thể hiện ở bảng 2
GVHD: ThS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 1 - Lớp Cao học Khóa 18 –NH Đ2 Trang 21


Lý do cơ bản của việc kiểm tra này là những nhà làm chính sách kinh tế phải lựa
chọn trong 03 chính sách này để đưa ra sự kết hợp tốt nhất hai trong ba chính sách. Từ
đó, nếu chúng ta có thể tìm thấy tính chất của sự phù hợp cho mô hình hồi quy ở trên là

cao, nghĩa là đề nghị một mối quan hệ tuyến tính cụ thể đủ để giải thích sự đánh đổi
trong việc lựa chọn ba chính sách. Nói các khác, nếu việc lựa chọn này thấp cho thấy
rằng mức đánh đổi thấp, chỉ ra rằng hoặc là lý thuyết bộ ba bất khả thi là sai hoặc là
mối quan hệ của chúng không có tác động qua lại với nhau.
Thứ hai, hệ số ước lượng trong mô hình hồi quy ở trên đã đưa cho chúng tôi
những dự đoán tương đối về lập trường của các quốc gia trong ba mục tiêu của chính
sách. Tuy nhiên, những hệ số ước lượng tự nó sẽ không đưa ra được những thông tin
hiệu quả về việc lựa chọn chính sách như thế nào mà quốc gia đó thực hiện. Sau đó,
hãy nhìn vào ước đoán trong việc sử dụng hệ số ước lượng và những giá trị thật cho sự
biến thiên (chẳng hạn như a MI, b ERS và c KAOPEN) sẽ đem lại nhiều thông tin hơn.
Thứ ba, so sánh giá trị được ước lượng dựa trên hồi quy ở trên, chẳng hạn như a
MI + b ERS + c KAOPEN trong một thời gian dài, chúng ta có thể rút ra được kết luận
về sự liên kết của bộ ba bất khả thi như thế nào. Nếu bộ ba được xem như có quan hệ
tuyến tính, giá trị ước lượng sẽ nằm trong khoảng 1 và nếu số liệu chạy ở trên có lỗi thì
GVHD: ThS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 1 - Lớp Cao học Khóa 18 –NH Đ2 Trang 22

chỉ ra rằng nên lựa chọn chính sách bộ ba bất khả thi như thế nào sao cho không thể
đồng thời hoặc làm cách nào để ba chính sách này không liên kết với nhau.
Bảng 2 thể hiện kết quả hồi quy. Kết quả này với đầy đủ dữ liệu mẫu được thể
hiện ở cột đầu tiên, và trong các cột tiếp theo với những giai đoạn chạy thử khác nhau.
Trước hết, việc điều chỉnh R2 cho mô hình đầy đủ dữ liệu trong các giai đoạn khoảng
trên 94%, mà chỉ ra rằng mục tiêu của 03 chính sách là hoàn toàn có quan hệ với nhau.
Đó là, các quốc gia đối mặt với sự đánh đổi trong việc lựa chọn ba chính sách này. Qua
các giai đoạn khác nhau, với những hệ số ước lượng khác nhau, đã cho thấy sự đánh
đổi là khác nhau. Hoặc là thay đổi các mục tiêu của chính phủ hoặc là thay đổi nền
kinh tế.

GVHD: ThS Nguyễn Khắc Quốc Bảo


Nhóm 1 - Lớp Cao học Khóa 18 –NH Đ2 Trang 23

Bảng 7 mô tả tính chất khác nhau từ quan điểm khác nhau. Ở bảng trên cùng, đường
màu đậm cho thấy ý nghĩa của những giá trị ước lượng (a MI + b ERS + c KAOPEN)
dựa trên mô hình mẫu hoàn chỉnh trong cột đầu tiên của bảng số 2 đối với nhóm các
quốc gia công nghiệp (bên trái) và các nước đang phát triển (bên phải). Để kết hợp chặt
chẽ thời gian dự đoán khác nhau, ý nghĩa của mẫu thử của giá trị ước lượng có độ tin
cậy khoảng 95% (thể hiện ở vùng nhạt màu). Bảng cũng thể hiện sự quay vòng ý nghĩa
của việc ước lượng mà sử dụng chỉ số và giá trị thực tế của hai trong ba yếu tố
trilemma - a MI + bERS (điểm hình hình kim cương màu nâu), aMI + cKAOPEN
(đường vòng tròn màu xanh), bERS + c KAOPEN (hình x màu cam)
Từ những hình vẽ của các bảng này, chúng ta có thể thấy được, giá trị ước
lượng dựa trên mô hình nằm ở khoảng giá trị 1 đối với 2 nhóm khảo sát. Đối với nhóm
các nước công nghiệp, dự đoán trung bình được thống kê nhỏ hơn 1 vào cuối những
năm 70, đầu những năm 80 và cuối những năm 80. Tuy nhiên, bắt đầu từ đầu những
năm 90 trở đi, giá trị dự đoán là 1, cho thấy rằng trilemma có sự liên kết đối với các
quốc gia công nghiệp. Đối với những nước đang phát triển, mô hình này theo dự đoán
từ cuối những năm 70 đến đầu những năm 90. Tuy nhiên, không giống như nhóm IDC,
ý nghĩa của ước lượng được thống kê lại nhỏ hơn 1 từ năm 2000 cho thấy rằng mặc dù
trong vài năm khi trilemma không có sự liên kết với nhau, ba chính sách kinh tế vĩ mô
có quan hệ tuyến tính với nhau.
Những trình bày ở phần đầu – biểu đồ cho ta thấy rằng, tại những nước công
nghiệp hoá, chính sách kết hợp giữa gia tăng sự ổn định của tỷ giá hối đoái và mở rộng
tài chính đã trở nên phổ biến sau những năm đầu của thập niên 90, ngược lại thì sự kết
hợp giữa sự độc lập về tiền tệ và sự ổn định của tỷ giá hối đoái đang dần trở nên xuống
dốc qua nhiều năm. Ở những nước đang phát triển, chính sách kết hợp giữa sự ổn định
của tỷ giá hối đoái và mở cửa tài chính ít phổ biến hơn so với tại những nước công
nghiệp hoá, và tác động rõ ràng nhất của điều này là kinh nghiệm nặng nề của cuộc
khủng hoảng tiền tệ. “Chính sách kết hợp giữa độc lập tiền tệ và sự mở cửa tài chính”

hoặc “chính sách kết hợp giữa sự độc lập về tiền tệ và ổn định tỷ giá hối đoái” đã có
GVHD: ThS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 1 - Lớp Cao học Khóa 18 –NH Đ2 Trang 24

ảnh hưởng lớn nhưng chủ yếu là do ưu thế của sự độc lập về tiền tệ trong một khoảng
thơi gian.
Qua những hình minh hoạ phía dưới. Chúng ta có thể nhận thấy được tác động
từ xu hướng của từng chính sách tới 02 nhóm nước: công nghiệp phát triển và các nước
kém phát triển. Những hình này minh hoạ phù hợp với luận điểm 5 và 6. Trong khi vẫn
giữ vững mức độc lập tiền tệ cao – mặc dù có biến động – cùng với của sự ổn định tỷ
giá hối đoái thấp nhưng bất biến, các nước kém phát triển dần dần gia tăng mức độ mở
cửa thị trường vốn (capital account openness) từ những năm đầu của thập niên 90.
Tuy nhiên, nỗ lực để đạt 3 mục tiêu chính sách cũng một lúc chỉ thực hiện được khi các
nước đã có được những dự trữ quốc tế ở mức độ cao, điều đó cho phép các nước này
can thiệp vào thị trường hối đoái, điều này phù hợp với thực tế của một số các nước
đang phát triển đã gia tăng được dự trữ ngoại hối của mình thông qua hậu quả của cuộc
khủng hoảng kinh tế châu á năm 1997-1998. Tuy nhiên, theo quan niệm của các nhà dự
đoán của học thuyết “bộ 3 bất khả thi”, loại môi trường này sẽ phải trả giá bằng việc
mất khả năng can thiệt đặc biệt khi khối lượng thực tế của biên độ giao động của các
tài sản tài chính tăng lên và khi không có sự đảo chiều trong 3 chính sách. Điều này
giải thích cho việc suy giảm mức độ độc lập tiền tệ sau năm 2000 của nhóm các nước
kém phát triển.
Theo kinh nghiệm của các nước công nghiệp hóa lại đưa ra một điều hoàn toàn
tương phản. Mặc dù mức độ độc lập về tiền tệ luôn là ưu tiên hàng đầu cho đến thập
niên 90, Tự do hóa tài chính đã được dẫn đến trong những năm đầu của thập niên 90
khi một số các nước công nghiệp hóa mở rộng tự do thị trường tài chính. Nỗ lực mở
rộng tự do tài chính là phù hợp với sự không ngừng suy giảm và trở nên ít ưu tiên nhất
của sự độc lập về tiền tệ trong những năm của thế kỷ 20. Việc thay đổi này trong tương
quan đến mức độ của 3 mục tiêu chính sách không yêu cầu các nước phải tích lũy dự

trữ quốc tế như trong trường hợp của một số nước phát triển.
Chúng ta cũng lập lại nghiên cứu với mô hình hồi quy cho từng khoảng thời
gian nhỏ đã được chọn làm mẫu (ngoại trừ những năm gãy). Kết quả (không được báo
GVHD: ThS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 1 - Lớp Cao học Khóa 18 –NH Đ2 Trang 25

cáo) là định tính hoàn toàn trùng khớp với luận điểm 7. Sử dụng những dự đoán dựa
trên nền tảng của các mẫu con, chúng ta kiểm tra xem liệu rằng có hay không những sự
đổ vở cấu trúc trong giá trị đã được dự đoán trong cùng một phương pháp như những
mục trước hay không. Và điều ngạc nhiên chúng ta nhận thấy rằng năm 1990 là đánh
dấu sự đổ vở cấu trúc quan trọng của cả nhóm nước công nghiệp hóa phát triển và
nhóm nước kém phát triển. Cũng dựa trên kết quả đã kiểm tra, năm 1990 là một trong
những năm bắt đầu cho làn sóng toàn cầu hóa và xuất hiện những sự kiện quan trọng
ảnh hưởng tới cấu trúc tài chính quốc tế.
4. Nhận xét, kết luận
Trong bài viết này, chúng ta mô tả một phương pháp luận để từ đó tìm ra các
mô hình thay đổi trong cấu hình của “học thuyết bộ 3 bất khả thi” được biểu lộ.
Phương pháp luận này đã hé mở ra các khác biệt nội bật trong sự lựa chọn giữa các
nước công nghiệp hoá và các nước đang phát triển đã thực hiện trong khoảng thời gian
từ năm 1970-2006. Xu hướng hiện tại gợi ý ra rằng giữa các nước đang phát triển với
nhau, 3 quy mô của cấu hình “bộ 3 bất khả thi” – độc lập về tiền tệ, ổn định tỷ giá hối
đoái và mở cửa tài chính – đang dần hội tụ về một điểm cân bằng chung với việc kiểm
soát: tính linh hoạt của tỷ giá hối đoái bằng việc nắm giữ quan trọng các dự trữ quốc tế,
mức độ trung bình của sự độc lập tiền tệ và mở của tự do thị trường tài chính. Mặt
khác, các nước công nghiệp hoá đã trải qua sự phân kỳ của 3 quy mô – kích thước của
mô hình “bộ 3 bất khả thi” và hướng tới sự kết hợp của sự ổn định tiền tệ cao, mở cửa
thị trường tài chính và mức độ độc lập tiền tệ thấp (minh hoạ rõ rệt nhất là sự ra đời
của đồng Euro).
Các phương pháp đều đã tiến triển theo thời gian, sẽ là một sai lầm khi nghĩ

rằng quy trình đang suôn sẻ và tiếp diễn. Hơn thế nữa, luôn luôn có những cấu trúc
gẫy rời rạc liên quan đến những sự kiện quan trọng: sự sụp đổ của hệ thống Bretton
Wood, khủng hoảng nợ năm 1982 và cuộc khủng hoảng Châu Á năm 1997-1998.
Thêm vào đó, việc đẩy nhanh toàn cầu hoá và việc nổi lên của Trung Quốc cũng đã
ảnh hưởng đáng kể đến việc sắp xếp các chính sách.

×