Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

tieu luan quy tac dao duc nghe nghiep

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (654.39 KB, 22 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

TIỂU LUẬN HỌC PHẦN
QUY TẮC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC

Sinh viên:
Mã sinh viên:
Lớp HP:
Giảng viên:

Hà Nội, 06/2021


Lời cảm ơn

2


Danh mục từ viết tắt

GV

Giáo viên

HS

Học sinh

GVBV


Giáo viên bộ môn

Mục lục
3


I. Đặt vấn đề............................................................................................................................. 5
1. Những phẩm chất, năng lực của nhà giáo ..................................................................... 6
1.1. Thế giới quan khoa học, lòng yêu nghề. .................................................................... 6
1.2. Một số phẩm chất đạo đức cần có của người giáo viên: ............................................. 7
1.3. Một số năng lực cần có của người giáo viên. ............................................................. 8
2. Đạo đức của HS ............................................................................................................. 11
3. Hình thành và phát triển đạo đức cho HS. ................................................................. 14
4.1. Cần thiết thực hơn trong việc xây dựng mối quan hệ giữa nhà trường và gia đình.. 14
4.2. Mỗi giáo viên phải thực sự là người mẹ, người cha và là người bạn biết lắng nghe
và chia sẻ .......................................................................................................................... 15
4.3. Ngành Giáo dục phải thay đổi tư duy trong công tác quản lý, cần phải tiếp thu
những mơ hình quản lý hiệu quả của lĩnh vực ngồi cơng lập ........................................ 15
4.4. Giáo dục cần giảm tải và cân bằng chương trình học ............................................... 15
4.5. Cần nghiên cứu để áp dụng những giá trị đạo đức Phật giáo vào trong việc giáo dục
đạo đức HS ....................................................................................................................... 16
4.5. Kết luận ..................................................................................................................... 17
II. Tình huống sư phạm ........................................................................................................ 18
Tài liệu tham khảo ............................................................................................................ 21

4


I. Đặt vấn đề
Chúng ta đã bước sang thế kỷ mới, thế kỷ đang và nhất định sẽ có rất nhiều những đổi

thay to lớn trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Trong giáo dục và đào tạo đã hình thành và
bước đầu phát triển mạnh mẽ các khuynh hướng mới như đa dạng hố các loại hình giáo dục,
sử dụng công nghệ thông tin trong dạy-học, diễn đàn khoa học trên mạng Internet ... Đảng ta
cũng đã quyết định đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố nhằm mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội và xác định rõ muốn
tiến hành cơng nghiệp hố, hiện đại hố thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục-đào tạo, phát
huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững. Chúng ta cũng
định hướng được rằng trong giáo dục-đào tạo giáo dục đại học giữ vai trị nịng cốt, bởi vì giáo
dục đại học có mục tiêu là đào tạo những con người có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức
phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Những tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhất là cơng nghệ thơng tin, đang làm thay đổi nhanh
chóng diện mạo của thế giới, thúc đẩy nhanh chóng tốc độ hội nhập và tồn cầu hố, theo đó
làm thay đổi mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy-học đại học. Nội dung giáo dục đại học
ngày nay mang tính hiện đại và phát triển, phương pháp giáo dục coi trọng việc bồi dưỡng
năng lực tự học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho người học phát triển tư duy sáng tạo và tạo
tiền đề để họ có khả năng tự học suốt đời.
Từ những yêu cầu trên nhiều trường đại học đã tập trung các nguồn lực vào việc đổi mới
phương pháp giảng dạy. Có nhiều giải pháp được đưa ra nhằm nâng cao chất lượng chất lượng
đào tạo, song những giải pháp có thể được coi là cơ bản và quyết định là xác định và xây dựng
nhận thức về vai trò trách nhiệm của người giáo viên trong q trình giảng dạy, tích cực đổi
mới phương pháp dạy-học hiệu quả, tăng cường hệ thống tài liệu và trang thiết bị dạy học, gắn
kết đào tạo với nghiên cứu khoa học. Trong bài viết này chúng tôi chỉ muốn đề cập đến vai
trò và trách nhiệm của người thầy trong đổi mới phương pháp giảng dạy ở đại học trên cơ sở
thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đại học.

5


Nghề giáo là một nghề đặc biệt, cũng là một lao động nhưng sản phẩm là con người,

công cụ lao động là nhân cách của chính mình: "dùng nhân cách để đào tạo nhân cách". Do
đó địi hỏi ở người GV một phẩm chất đạo đức và năng lực rất cao. Không thể kể hết những
yếu tố cụ thể, chỉ xét những điểm chung nhất mà một GV không thể thiếu: Phải có một nhân
cách mẫu mực, yêu nghề mến trẻ. Phải luôn luôn là tấm gương sáng cho mọi người, phải giữ
tư cách đạo đức trong nhà trường, gia đình và xã hội. nói chung trong mọi lúc mọi nơi luôn là
nười mẫu mực.
1. Những phẩm chất, năng lực của nhà giáo
1.1. Thế giới quan khoa học, lòng yêu nghề.
Là yếu tố quan trọng trong cấu trúc nhân cách, nó quyết định niềm tin chính trị, tồn bộ
hành vi cũng như ảnh hưởng của giáo viên đối với HS.
- Thế giới quan vừa là hiểu biết, quan điểm, vừa là sự thể nghiệm, vừa là tình cảm sâu sắc về
tự nhiên, xã hội và con người.
- Thế giới quan của người giáo viên là thế giới Mác –leenin, bao gồm quan điểm duy vật biện
chứng về quy luật phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy
- Thế giới quan của người giáo viên chi phối nhiều mặt hoạt động như thái độ về việc lựa chọn
nội dung, phương pháp dạy và giáo dục, kết hợp giáo dục với thực tiễn, với chính trị.
- Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ: đây là yếu tố hạt nhân trong cấu trúc nhân cách của người giáo
viên.
- Lý tưởng người giáo viên ln ln đi về phía trước, thấy hết giá trị lao động của mình đối
với thế hệ trẻ, lý tưởng của giáo viên có ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành nhân cách của
HS.
- Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ của người giáo viên biểu hiện bằng niềm say mê nghề nghiệp,
lòng yêu trẻ. Lương tâm nghề nghiệp, tận tụy với công việc, lối giản dị, giúp cho người giáo
viên vượt qua những khó khăn của cuộc sống đời thường làm việc tốt, yêu thương HS.
- Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ được hình thành và phát triển trong hoạt động tích cực trong
cơng tác giáo dục, nếu nhận thức về nghề càng cao thì tình cảm ngề nghiệp cành sâu sắc.

6



Lòng yêu nghề: muốn hoạt động trong một nghề nào đó có hiệu quả thì người đó phải có
lịng u nghề. cái “Tâm” đối với nghề giáo là một yêu cầu quan trọng khơng thể thiếu được.
Người thầy phải có tâm huyết với nghề mới có hứng thú, say mê chăm chút từng bài giảng,
từng nội dung tiết giảng; mới thường xun tìm tịi, nghiên cứu, chỉnh lý, bổ sung nội dung
và phương pháp giảng dạy để đem lại hiệu quả cao nhất cho người học. L.N.Tơnxtơi đã nói:
Để đạt được thành tích trong cơng tác, người giáo viên phải có một phẩm chất - đó là tình u.
Người giáo viên có tình u trong cơng việc là đủ cho họ trở thành người giáo viên tốt. Cái
“Tâm” người giáo viên tốt khơng phải chỉ lịng u ngành, u nghề mà phải được biểu hiện
thành những hành động cụ thể:
Thứ nhất, phải biết hiến thân cho nghề dạy học, biết hi sinh vì lợi ích tương lai, vì HS.
Thứ hai, luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm với nghề nghiệp. Phải cảm thấy sung sướng, hạnh
phúc khi được đứng lớp. Khơng có thái độ miễn cưỡng khi được phân cơng lên lớp.
Thứ ba, ln tìm tịi, học hỏi, sáng tạo để đem lại chất lượng cao nhất khi giảng dạy, giáo viên
không bị giới hạn không gian (lớp học) và thời gian không phải bước ra khỏi lớp học là chấm
dứt hoạt động sư phạm mà vẫn tiếp tục suy nghĩ về nội dung, phương pháp giảng, về thái độ
tiếp nhận bài học của sinh viên để tự đổi mới.
Thứ tư, nhiệt tình trong xây dựng đơn vị, chân thành trong giúp đỡ đồng nghiệp.

1.2. Một số phẩm chất đạo đức cần có của người giáo viên:
Hoạt động của người giáo viên là nhằm thay đổi nhân cách HS, do đó mối quan hệ giữa
thầy và trị ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng dạy học và giáo dục. Đồng thời người thầy luôn
là tâm gương sáng để HS noi theo về mọi mặt. Vì vậy, người giáo viên cần phải có những
phẩm chất đạo đức y chí sau:
- Tinh thần trách nhiệm, lịng nhân đạo , lịng tơn trọng, sự cơng bằng ,thẳng thắn, giản dị
khiêm tốn..
- Tính ngun tắc, mục đích, kiên trì, tính tự kiềm chế, tính tự chủ, kỹ năng tự điều chỉnh tâm
trạng của mình cho phù hợp với các tình huống sư phạm.

7



Vậy phẩm chất đạo đức là nhân tố để tạo nên sự cân bằng trong mối quan hệ thầy trò.
Những phẩm chất ý chí là sức mạnh để làm cho những phẩm chất và năng lực của người thầy
tác động đến sâu sắc HS.
Theo quan điểm hiện nay, người giáo viên phải coi sinh viên là khách hàng, mọi hoạt động
của giáo viên phải vì sinh viên. Đây là một quan niệm rất cần được qn triệt vì nó chi phối
các quan niệm và hoạt động khác của giáo viên. Khi quan niệm sinh viên là khách hàng thì
người giáo viên cần dạy những gì sinh viên cần chứ khơng dạy những gì mình có. Người giáo
viên phải giúp sinh viên có được những điều cơ bản mà thị trường lao động cần ở họ. Có quan
hệ đúng mực và tình cảm trong sáng với sinh viên, khách quan trong đánh giá và cơng bằng
trong đối xử.
Để hồn thành chức năng và nhiệm vụ của nhà sư phạm, người giáo viên cần phải có một
số phẩm chất năng lực cần thiết.
1.3. Một số năng lực cần có của người giáo viên.
Có 3 nhóm năng lực sư phạm:
- Nhóm năng lực dạy học
- Nhóm năng lực giáo dục
- Nhóm năng lực tổ chức hoạt động sư phạm
Ở đây đề tài của chúng ta là giáo dục đạo đức HS nên chúng ta sẽ chỉ đề cập đến nhóm năng
lực thứ hai là nhóm năng lực giáo dục.
Nhóm năng lực giáo dục:
a) năng lực vạch dự án phát triển nhân cách HS:
- Muốn vạch dự án phát triển nhân cách HS người giáo viên phải biết hình dung trước biểu
tượng nhân cách HS mà mình có nhiệm vụ đào tạo.
- Năng lực vạch dự án phát triển nhân cách HS là khả năng biết dựa vào mục đích giáo dục,yêu
cầu đào tạo hình dung trước phải giáo dục cho HS những phẩm chất nhân cách nào và hướng
hoạt động cho các em phát triển tốt.
- Năng lực này của người giáo viên được thể hiện:
8



+ Giáo viên có khả năng tiên đốn sự phát triển những phẩm chất và năng lực của từng HS,
đồng thời phải nắm được nguyên nhân sinh ra, mức độ phát triển dố.
+ Giáo viên cịn dự đốn được chính xác những biểu hiện nhân cách của những HS khác nhau,
sẽ thu được trong tương lai dưới ảnh hưởng của những dự án phát triển nhân cách do mình
xây dựng, hình dung được hiệu quả của các tác động giáo dục nhằm hình thành nhân cách
thơng qua dự án.
Vậy để có được năng lực này người giáo viên phải có óc tưởng tượng sư phạm, tính lạc
quan sư phạm, có niềm tin vào sức mạnh giáo dục, niềm tin vào con người và có óc quan sát
tinh tế.
b) Năng lực giao tiếp sư phạm:
- Trong hoạt động sư phạm diễn ra q trình giao tiếp giữa thầy và trị, q trình giao tiếp diễn
ra có hiệu quả thì làm cho hoạt động sư phạm có hiệu quả hơn. Do đó người giáo viên cần
phải có năng lực giao tiếp .
- Năng lực giao tiếp là khả năng nhận thức nhanh chóng những biểu hiện bên ngồi và những
diễn biến tâm lý bên trong của HS và của bản thân, đồng thời biết sử dụng hợp lý các phương
tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ biết cách tổ chức , diều khiển ,điều chỉnh quá trình giao tiếp
nhằm đạt được mục đích giáo dục.
- Năng lực giao tiếp sư phạm được biểu hiện ở kỹ năng sau:
+ Kỹ năng định hướng giao tiếp: là khả năng biết dựa vào sự biểu lộ bên ngoài như sắc thái,
biểu cảm, ngữ điệu, thanh điêu của ngôn ngữ, hành vi,cử chỉ, động tác, thời điểm và khơng
gian giao tiếp mà phán đốn chính xác về nhân cách cũng như mối quan hệ giữa chủ thể và
đối tượng giao tiếp.
+ Kỹ năng định vị: là khả năng biết xác định vị trí của mình trong q trình giao tiếp, biết
đặt vị trí của mình vào vị trí của đối tượng giao tiếp, là điều kiện để đối tượng chủ động, thoải
mái giao tiếp với mình.
+ Kỹ năng này đảm bảo sự đồng cảm giữa chủ thể và đối tượng giao tiếp, là điều kiện quan
trọng dể hai bên hiểu biết lẫn nhau trong quá trình giao tiếp.
- Kỹ năng diều khiển quá trình giao tiếp: Biết cách thu hút đối tượng tìm ra đề tài giao tiếp,
duy trì nó, xác định được nguyện vọng hứng thú của đối tượng, biết làm chủ trạng thái xúc

cảm của bản thân và biết sử dụng hợp lý các phương tiện giao tiếp.
9


Vậy để có năng lực này người giáo viên phải rẻn luyện nhân cách của mình đó là lịng nhiệt
tình, tơn trọng nhân cách HS, có thiện chí quan tâm giúp đỡ người khác, giúp đõ HS, phải biết
lắng nghe và làm chủ trong giao tiếp thì dễ dàng thiết lập mới quan hệ tốt với HS, để đạt kết
quả cao trong hoạt động sư phạm
c) năng lực cảm hóa HS:
- Muốn hiểu được đối tượng giáo dục, muốn cho các tác động sư phạm ảnh hưởng mạnh mẽ
đến sự hình thành nhân cách trẻ thì người giáo viên phải có năng lực cảm hóa HS.
- Năng lực cảm hóa HS là khả năng gây được ảnh hưởng trực tiếp nhân cách của mình đến HS
về mặt tình cảm và ý chí. Hay nói cách khác đó là khả năng làm cho HS nghe, tin và làm theo
mình bằng tình cảm, niềm tin…
- Biểu hiện của năng lực cảm hóa: Người giáo viên có các phẩm chất và năng lực; Tinh thần
trách nhiệm đối với cơng việc, có niềm tin vào sự nghiệp , có kỹ năng truyền đạt niềm tin đó,
lịng tơn trọng HS có sự chu đáo, ân cần, có đối xử khéo léo sư phạm, có lịng vị tha, có các
phẩm chất ý chí, có trình độ chun mơn vững vàng.
- Vậy để có năng lực này người giáo viên phải có nhân cách mẫu mực, trong sang, có uy tín,
có lời nói , hành vi cử chỉ đẹp, có tinh thần lao động hăng say, sán tạo, có lý tưởng đào tạo
u thương HS, cơng bằng tin tưởng dân chủ, chân thành ,giản dị và biết phát huy tích cực
sáng tạo của sinh viên.
d) Năng lực đối xử khéo léo sư phạm:
Người giáo viên cần phải có sự khéo léo đối xử sư phạm để có tác động sư phạm phù hợp
làm cho giáo dục có hiệu quả.
- Năng lực đối xử khéo léo sư phạm: là kỹ năng tìm ra những phương thức tác động đến HS
một cách có hiệu quả tốt nhất, có sự cân nhắc đứng đắn nhưng nhiệm vụ sư phạm cụ thể phù
hợp với những đặc điểm và khả năng của các nhân cũng như tập thể HS trong từng tình huống
sư phạm cụ thể.
Nói cách khác sự đối sử khéo léo sư phạm là kỹ năng trong bất cứ trường hợp nào cũng

tìm ra được những tác dộng sư phạm đúng đắn nhất, hiệu quả nhất
Biểu hiện của sự đối xử khéo léo sư phạm:

10


- Nhanh chóng xác định được vấn đề xảy ra và kịp thời áp dụng những biện pháp thích hợp
khơng nóng vội,thơ bạo.
- Biết biến cái bị động thành cái chủ động, giải quyết những mau lẹ những vấn đề phức tạp
đặt ra trong công tác dạy học và giáo dục
- Có sự nhạy bén về mức độ sử dụng một tác động sư phạm nào?
- Giáo viên còn phải quan tâm chu đáo,ân cần đến HS có tính đến đặt điểm tâm lý cá nhân
Để có năng lực này người giáo viên cần phải:
- Sự thống nhất tôn trọng và yêu cầu cao.
- Sự thống nhất tình thương yêu có lý.
- Sự thống nhất và niềm tin và sự kiểm tra sư phạm
- Sự cân bằng ý chí khi giao tiếp kết hợp với tính giản dị, tự nhiên, chân thật, có thiện chí của
những hình thức đối xử.
- Người giáo viên phải có lương tâm nghê nghiệp, niêm tin lịng tơn trọng, có tinh thơng
nghề nghiệp.

2. Đạo đức của HS
Có thể nói đạo đức, tác phong chuẩn mực, nghiêm túc là vẻ đẹp đầu tiên của HS trong
nhà trường và ngoài xã hội. Thế nhưng ngày nay, nhiều học có dấu hiệu suy thối nghiêm
trọng về đạo đức, tác phong. Họ có hành vi thiếu nghiêm túc, có tính chất nổi loạn khi vào
lớp học. Hiện tượng bạo lực học đường và số tội phạm ở lứa tuổi HS ngày càng tăng cao.
Đó là hiện tượng đáng báo động về đạo đức của HS ở các trường học hiện nay
Vậy đạo đức, tác phong là gì?
Đạo đức là các chuẩn mực về hành vi ứng xử được con người quy ước thành nguyên
tắc giao tiếp trong xã hội. Đạo đức được biểu hiện qua hành động, lối sống và vẻ đẹp tâm

hồn của con người. Tác phong là là hành vi ứng xử của con người trong công việc và trong
giao tiếp xã hội. Tác phong là lề lối, cách thức, phong thái đã trở thành nề nếp ổn định của
con người. Vẻ đẹp ấy được thể hiện trong tất cả các hoạt động như học tập, làm việc, lối
sống tạo nên nét riêng biệt của từng cá nhân.
11


Hiện trạng vấn đề đạo đức, tác phong của HS trong nhà trường hiện nay. Đạo đức tác
phong HS của một bộ phận ngày nay rơi vào đà suy thoái trầm trọng. Có thể thấy HS ngày
nay một số khơng còn biết lễ độ như trước đây. Họ trở nên ngang bướng, vơ lễ, khơng cịn
biết tơn trọng bạn bè, giáo viên, người lớn tuổi. Nhiều HS thường hay nói tục, chửi thề, sử
dụng ngôn ngữ tùy tiện trong giao tiếp. Nhiều HS lại có lối ăn mặc kiểu cách lạ lùng, đua
địi lối sống thời thượng. Họ thích làm nổi bậc mình một cách lố bịch, kịch cỡm bằng
những hành vi phản cảm, vơ văn hóa. Có thể kể như xăm hình, ngơn phong thái q, nhuộm
tóc nhiều màu, cắt tóc kiểu gangster,… Khơng những thế, họ cịn có thái độ đầy khiêu
khích trước cuộc sống. Họ sống bất cần, khơng tơn trọng đạo lí. Tỏ ra khinh thường xung
quanh, thách thức luật pháp.
Ngày càng có nhiều HS đánh nhau gây mấy trật tự, bạo lực học đường tăng cao. Hầu
hết những vụ gây gỗ, bạo lực của HS xuất phát từ những lí do khơng đâu. Có thể kể như
nhìn đểu, thấy ghét, cãi nhau trên mạng, khiêu khích, ghen tng, bị xúi giục, thích làm
anh chị,… Trong tình trang đó, tác phong khi vào lớp học của nhiều HS thiếu chuẩn mực,
không đúng quy định nhà trường. Nhiều HS nam cịn để tóc dài q tai hoặc cắt q ngắn.
Nhiều trường hợp khác thích nhuộm tóc nhiều màu, quần áo sộc xệch, mang dép không
quai,… HS nữ khơng chịu buộc tóc, hay son mơi khi vào lớp học. Trang phục tùy tiện
không đúng quy định như áo dài vắt tà ngang, mang túi xách đi học,… Hiện tượng HS trốn
học, bỏ tiết, hút thuốc lá trong trường học là vấn đề làm đâu đầu các nhà quản lí.
Nguyên nhân và hậu quả vấn đề đạo đức, tác phong HS bị suy thoái nghiêm trọng hiện
nay Trước tác động của sóng tồn cầu hóa, giới trẻ Việt Nam, đặc biệt là lứa tuổi HS chịu
ảnh hưởng to lớn. Một mặt, nó có tác động tích cực đến việc làm thay đổi lối sống khép
kín, cam chịu, phụ thuộc, ỉ lại vốn có của người Việt Nam. Con người chuyển sang một

lối sống cởi mở, năng động, tự lập, dám chịu trách nhiệm, phù hợp với xu thế thời đại. Tác
phong làm việc và học tập cũng hoàn toàn thay đổi. Tuy nhiên, cũng chính việc tiếp thu
lối sống mới đó một cách thiếu định hướng (tiếp thu cả mặt tiêu cực của nó) mà dẫn đến
việc xa rời lối sống theo chuẩn mực đạo đức dân tộc. Rất nhiều HS vì thế mà xem thường
việc học tập. Họ chạy theo lối sống đua đòi, thực dụng tầm thường mang tính thụ hưởng.
Họ lười biếng hoặc bỏ bê việc học hoặc học một cách đối phó, khiên cưỡng. Từ đó, khơng
12


những kết quả học tập yếu kém, chất lượng đào tạo sụt giảm mà đạo đức cũng suy thoái
nghiêm trọng.
Các công nghệ thông tin hiện đại đang truyền bá khắp thế giới lối sống sùng bái cá
nhân, vị kỷ, ăn chơi xa hoa, lãng phí, sống truỵ lạc, thác loạn, ưa dùng bạo lực… Lối sống
đó đang phần nào tác động đến một bộ phận tuổi trẻ. Đặc biệt là những HS sống ở các khu
đô thị lớn. HS bị kích động bởi việc tiếp xúc với những trang mạng có tính bạo lực qua
mạng Internet. Nhiều HS đã có những hành động mang tính bạo lực, hung hãn, gây nên
những hậu quả đau lòng. Hiện tượng bạo lực học đường bởi thế không ngừng gia tăng
trong các năm qua. Tâm lý sùng hàng ngoại và kiểu thời trang táo bạo đang xâm nhập khá
mạnh vào đời sống người Việt Nam. HS với tính tị mị, hiếu kì đã bắt chước một cách kịch
cỡm, đáng cười. Không những thế, những kiểu thời trang thiếu tế nhị, phản cảm còn xuất
hiện ngay trong trường học. Cũng không thể trách HS, những con người còn thiếu bản
lĩnh, chưa trưởng thành về nhân cách. Chính sự giao thoa về văn hóa đã phá vỡ các chuẩn
mực vốn đã ăn sâu vào cội rễ văn hóa dân tộc. Chính sự tràn ngập của hàng hóa của nền
sản xuất lớn đã tạo ra cho con người nhiều lựa chọn hơn. Từ đó tạo ra khả năng về sự tha
hóa trong nhân cách, đạo đức con người.
Văn hóa tiêu cực từ nước ngồi đã tác động tiêu cực tới đời sống tinh thần, văn hóa của
một bộ phận nhân dân. Ảnh hưởng của lối sống thực dụng đã làm xuất hiện tâm lý “chạy
theo đồng tiền”, coi tiền là trên hết. Con người không cần biết đến đạo lý phải trái, đánh
mất nhân cách và nhân tính. Khơng ít trường hợp vì tiền và danh lợi mà chà đạp lên tình
người. Tình nghĩa gia đình suy giảm. Quan hệ thầy trị khơng cịn gắn kết nữa. Tình trạng

chạy chức, chạy quyền, chạy tội, chạy án đã trở nên khá phổ biến. Từ thực trạng xã hôi đó,
nhiều HS ỷ lại vào vị thế gia đình, tỏ ra kiêu ngạo, xem thường học tập, trường lớp, bạn
bè, thầy cô. Nhiều HS khác tỏ ra bất mãn, không muốn học tập. Mọi lời hay ý đẹp trở nên
vô nghĩa, thậm chí là giả dối. Điều đó làm cho mối dây liên kết giữa cá nhân và tập thể
không bền chặt. Mối liên kết giữa HS và trường học trở nên lỏng lẻo. Một bộ phận giáo
viên suy thoái đạo đức, nhân cách. Chính họ đã nêu gương xấu cho nhiều HS. HS khơng
cịn tin tưởng vào giáo viên, trường học. Những bài học đạo đức bị xem là giáo điều vơ
nghĩa. Từ đó, HS khơng chấp hành nội quy, thích làm ý mình, tỏ ra khiêu khích hơn. Nền
13


giáo dục đang có khuynh hướng “thương mại hóa” cao. Những biểu hiện như dạy thêm,
học thêm tràn lan, mua bằng, bán điểm, lạm thu,… càng làm cho HS chán nản. Chất lượng
đào tạo và tuyển dụng cán bộ giáo viên còn nhiều bất cập. Chất lượng giáo dục trong nhà
trường suy giảm nghiêm trọng. Điều này góp phần làm mơi trường sư phạm xuống cấp.
Đạo lý thầy trị suy thối. Lối sống thiếu hồi bão, lý tưởng xuất hiện trong một bộ phận
HS, sinh viên, giáo viên.
Chương trình giáo dục nặng nề, thiên về lý thuyết hơn thực hành. Điều đó, khiến HS
càng học càng thấy khó, càng học càng thấy chán. Chế độ thi cử gây nhiều áp lực. Lại thêm
tâm lí chạy đua thành tích trong học tập, khiến cho HS khơng cịn hứng thú học tập. HS
cũng không say mê nghiên cứu hay sáng tạo. Học là để thi, để lên lớp, lấy bằng cấp mà
thôi. Kéo theo đó, HS cũng khơng ý thức rèn luyện đạo đức, tác phong của bản thân. Xem
đó chỉ là hình thức giao tiếp nhằm làm hài lịng người khác chứ khơng phải là văn hóa ứng
xử.
Như vậy, có thể thấy, ở HS hiện nay có sự xa rời những chuẩn mực đạo đức truyền
thống. Những chuẩn mực vẫn còn giá trị trong xã hội hiện đại đã không được duy trì. Một
khi những chuẩn mực đó khơng được giữ vững như là định hướng trong họat động của con
người thì sự suy thối là điều khơng tránh khỏi.
3. Hình thành và phát triển đạo đức cho HS.
Để nâng cao hiệu quả việc giáo dục đạo đức cho HS, chúng ta không thể trông chờ vào

các cơ quan quản lý nhà nước ở các lĩnh vực khác để hy vọng quản lý tốt việc kinh doanh
trò chơi điện tử hay hạn chế tác động tiêu cực của mạng xã hội và các loại hình giải trí, …
hoặc trơng chờ vào lương tâm của những người tạo ra sản phẩm “gây ngộ độc” cho đời
sống đạo đức của HS, mà chính chúng ta, những người làm công tác giáo dục phải tiên
phong. Vì thế, một số giải pháp xin được đề xuất như sau:
4.1. Cần thiết thực hơn trong việc xây dựng mối quan hệ giữa nhà trường và gia đình

14


Nghiên cứu của hai tác giả Clipa và Iorga (2012) cho thấy nếu nhà trường quan tâm đến
việc xây dựng mối quan hệ này thông qua những việc làm thiết thực như tập huấn cho phụ
huynh phương pháp giáo dục HS, tổ chức những buổi hội thảo để qua đó phụ huynh được
chia sẻ kinh nghiệm giáo dục con, tổ chức những buổi gặp gỡ giữa phụ huynh và các
chuyên gia tâm lý để được tư vấn, …, thì kết quả là khơng những thành tích học tập của
HS tốt hơn mà một số hành vi phi đạo đức như nói dối, ích kỷ, vơ kỷ luật giảm rõ rệt.
4.2. Mỗi giáo viên phải thực sự là người mẹ, người cha và là người bạn biết lắng nghe
và chia sẻ
Qua kinh nghiệm thực tiễn của cá nhân có trải qua những năm học gian nan, em nhận
thấy nếu giáo viên chỉ biết dùng kỷ luật và chỉ trích những học trị thuộc dạng khó dạy thì
khó mà chuyển hóa được học trò. Giáo viên phải ân cần lắng nghe, hiểu, chia sẻ và thỉnh
thoảng tìm những điểm tích cực để khen học trị nhằm khuyến khích các em phát huy
những điểm tích cực.
4.3. Ngành Giáo dục phải thay đổi tư duy trong công tác quản lý, cần phải tiếp thu
những mơ hình quản lý hiệu quả của lĩnh vực ngồi công lập
Bên cạnh việc chăm lo đời sống giáo viên, có chế độ đãi ngộ thỏa đáng, khơng mang
tính chất cào bằng thì cũng cần mạnh tay đưa ra khỏi ngành những giáo viên vi phạm đạo
đức nghề nghiệp nhằm làm trong sạch đội ngũ giáo viên, lấy lại vị thế cao quý của người
thầy để người thầy thực sự trở thành tấm gương cho học trò.
4.4. Giáo dục cần giảm tải và cân bằng chương trình học

Chú trọng hơn các mơn khoa học xã hội có tác dụng xây dựng nhân cách HS; thay đổi
cách dạy và học đạo đức dưới hình thức lý thuyết khơ khan và hơ hào khẩu hiệu bằng việc
học từ cuộc sống thực tiễn. Em đã từng đọc được những thông tin như: HS phổ thông của
một trường ở Anh quốc đến các siêu thị trong vùng để phụ giúp nhân viên thu ngân ở các
quầy bỏ hàng vào túi cho khách hàng và để đáp lại sự giúp đỡ đó, khách hàng có thể bỏ
một ít tiền vào thùng từ thiện đặt bên cạnh. Các em sử dụng tiền quyên góp được để mang
15


về trường làm từ thiện. Hoặc HS trên tay ôm thùng quyên góp xuống phố để quyên góp
tiền ủng hộ cho bệnh nhân ung thư nhân ngày Ung thư thế giới ở Anh quốc. Rõ ràng các
em đã được học một bài học rất thực tế về ý thức cộng đồng và cách thể hiện lịng nhân ái
bằng chính khả năng của mình, thay vì về nhà xin tiền cha mẹ để đóng góp từ thiện như đa
số HS ở nước ta hiện nay đã và đang làm. Ở Hồng Kơng, việc dạy đạo đức khơng q chú
trọng vào khía cạnh học thuật mà chú trọng vào tính thực tiễn. Những bài học đạo đức
xoay quanh các vấn đề xã hội mang tính thời sự, có tác động trực tiếp đến đời sống đạo
đức của HS như: sử dụng rượu, thuốc lá, tình dục, bạo lực,…Giáo viên có thể chọn các
chủ đề từ báo chí, truyền hình, mạng internet,… để cùng thảo luận với HS, chứ không dựa
vào giáo án một cách cứng nhắc, khô khan.
4.5. Cần nghiên cứu để áp dụng những giá trị đạo đức Phật giáo vào trong việc giáo
dục đạo đức HS
Đây có thể là một chủ đề mà một số người xem là rất nhạy cảm đối với các trường công
lập, nhưng giáo dục phải mạnh dạn nhìn đúng sự thật. Các nước trên thế giới đã và đang
nghiên cứu Phật giáo dưới góc nhìn khoa học và triết học, để từ đó áp dụng một cách có
hiệu quả vào việc phát triển nhân cách HS. Ngay cả ở các nước phương Tây, Phật giáo
không phải là tôn giáo truyền thống nhưng người phương Tây sẵn sàng tiếp thu để giải
quyết nhiều vấn đề phát sinh trong cuộc sống, trong đó có giáo dục. Chẳng hạn như nhóm
chuyên gia về tâm lý giáo dục của Mỹ và Ca-na-đa (Schonert-Reichl, et al., 2015) xem xét
ảnh hưởng của thiền Phật giáo đến tâm lý của HS tại một số trường tiểu học ở Ca-na-đa.
Sau bốn tháng thực hành thiền, HS khơng những có kết quả học tập tiến bộ hơn mà cịn có

khả năng kiểm sốt được cảm xúc và có mức độ hành vi thuận xã hội tốt hơn. Hay giáo sư
Ditrich (2017) của Đại học Sydney (Úc) nghiên cứu sự kết hợp giữa thực hành thiền Phật
giáo và những giá trị đạo đức khác của đạo Phật như là lịng từ bi, tình u thương và
những giá trị đạo đức từ Bát Chánh đạo (Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh
nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định) tại bốn trường phổ thông
trung học ở Úc. Kết quả thể hiện HS tập trung hơn trong việc học, nghiêm túc hơn trong
giờ học, quan hệ với bạn học tốt hơn và giải quyết mẫu thuẫn với nhau tốt hơn.
16


Ngay tại Việt Nam, trong những năm gần đây việc nghiên cứu mối quan hệ giữa đạo
đức Phật giáo và đạo đức xã hội đã và đang bắt đầu. Tác giả Tạ Chí Hồng (2004) nghiên
cứu những giá trị của đạo đức Phật giáo và ảnh hưởng của những giá trị đó đến đời sống
đạo đức của xã hội truyền thống. Cùng một góc độ nghiên cứu, tác giả Đặng Thị Lan
(2005) đã phân tích những mặt tích cực của đạo đức Phật giáo ảnh hưởng đến đạo đức con
người Việt Nam trong lịch sử cũng như trong hiện tại. Tác giả Đỗ Ngây (2012) khi nghiên
cứu về triết lý nhập thế của Phật giáo thời Lý – Trần đã phân tích những giá trị nhập thế
thể hiện qua một số lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực đạo đức. Tác giả Dương Thị Thu Hà
(2016) đánh giá ảnh hưởng văn hóa thiền tơng trong đời sống xã hội Việt Nam. Trong đó,
tác giả có một phần kết luận về tính tích cực của văn hóa thiền tơng trong việc giáo dục
hồn thiện nhân cách cho thanh thiếu niên. Nhìn chung, các tác giả đều có cùng nhận định
Phật giáo đã góp phần xây dựng tình thương u, đồn kết; hướng dẫn con người sống tốt,
đem lại lợi ích cho bản thân và cộng đồng, dấn thân với cộng đồng; phát huy tinh thần
tương thân, tương ái và hướng con người sống hiếu nghĩa.
Mặt khác, nếu nhìn lại lịch sử Việt Nam thì chúng ta sẽ thấy rõ Phật giáo khơng chỉ góp
phần vào cơng cuộc bảo vệ đất nước mà cịn đóng góp tích cực vào đời sống văn hóa của
dân tộc Việt, trong đó có đạo đức. Phật giáo xuất xứ từ Ấn Độ, nhưng đã du nhập vào Việt
Nam từ những thế kỷ đầu công nguyên và đã hịa nguyện được với văn hóa dân tộc để trở
thành Phật giáo Việt Nam. Phật giáo Việt Nam dưới thời vua Trần Nhân Tơng đã đóng
góp tích cực vào đời sống đạo đức xã hội thông qua việc Phật hồng Trần Nhân Tơng đi

khắp trong dân dạy người dân hành thập thiện - Không sát sinh, không trộm cắp, khơng
dâm dật, khơng nói dối, khơng nói thêu dệt, khơng nói lưỡi hai chiều, khơng nói lời hung
ác, khơng tham lam, khơng giận hờn, và khơng si mê – (Thích Thanh Từ, 2015, 35). Trần
Phu, một sứ thần của nhà Nguyên, sau khi sang nước ta trở về, đã viết về cuộc sống của
người dân Đại Việt trong tác phẩm An Nam tức sự rằng “dân cả nước đều là sư hết” (Trần
Nghĩa, 1972). Điều đó có thể hiểu rằng trong xã hội thời Trần, mọi người sống rất đạo đức.
4.5. Kết luận

17


Đạo đức HS trở nên yếu kém trong những năm qua xuất phát từ nhiều nguyên nhân,
nhưng hai nguyên nhân cơ bản cần phải khắc phục ngay đó là trách nhiệm của gia đình và
nhà trường. Giải quyết được các ngun nhân cơ bản, thì các ngun nhân khác khơng trở
thành quá khó khăn và phức tạp. Cụ thể là nếu HS được gia đình và nhà trường giáo dục
để đủ khả năng làm chủ được mình thì đồng nghĩa với việc các em có khả năng “miễn
nhiễm” với những tác động bên ngồi.
Muốn làm được điều đó, nhà trường phải thể hiện vai trị là chủ xướng, gia đình phải có
trách nhiệm phối hợp; mỗi giáo viên phải nhận thức và thực hiện đúng vai trị, trách nhiệm
của mình. Những nhà giáo dục phải biết trăn trở để cùng nhau hành động trước ý kiến rất
chân thật của một đại biểu quốc hội: “ Đạo đức xuống cấp nghĩa là giáo dục thất bại”.
II. Tình huống sư phạm
Tình huống 1:
Trong trường có một HS cá biệt, đã rất nhiều lần vi phạm nội quy của nhà trường.
Nhưng lần này là một sai lầm nghiêm trọng. Ban giám hiệu nhà tường yêu cầu giáo viên
chủ nhiệm cần đưa HS về gặp gia đình và trao đổi về vấn đề này. Khi đưa HS về nhà, trước
khi giáo viên giải thích xong thì bố của HS đã đứng dậy tát tới tấp vào mặt HS và nói vì
đã “làm xấu mặt” gia đình. Với địa vị là một người giáo viên chủ nhiệm của HS đó, thì
trong trường hợp này bạn sẽ xử lý tình huống này như thế nào ?
Hướng giải quyết:

Việc đầu tiên bạn phải làm là can thiệp vào không cho bố của HS tiếp tục đánh HS nữa,
trong khi đó bạn cũng đồng thời dùng những lời lẽ thích hợp để giải thích cho phụ huynh
của em biết rằng trong việc giáo dục con cái bằng bạo lực không bao giờ mang lại kết quả
tốt đẹp thậm chí nó cịn phản tác dụng khiến cho mối quan hệ trong gia đình trở nên xấu
đi và điểu đó là khơng ai trong gia đình mong muốn. Sau khi bạn đã can thiệp vào và vị
phụ huynh HS có vẻ bình tĩnh hơn, bạn sẽ quay lại câu chuyện của mình một cách nhẹ
nhàng, niềm nở và vui vẻ. Bên cạnh đó bạn cần làm cho phụ huynh HS hiểu rằng nhà
trường ln ln coi trọng vai trị của gia đình trong việc giáo dục HS đặc biệt là khi các
em mắc sai lầm. Dù cho đó là HS thế nào thì khơng bao giờ được giáo dục các em bằng
18


bạo lực hay dung những lời lẽ nặng nề, xúc phạm thậm chí làm ảnh hưởng đến danh dự
của HS. Ở độ tuổi của các em, các em đã ý thức được cái tôi cá nhân và các em cần được
tơn trọng. Chính vì vậy, việc dùng cách giáo dục bằng bạo lực hay dùng lời lẽ không hay
chỉ làm ảnh hướng đến các em thậm chí nó cịn có hậu quả tồi tệ hơn. Cuối cùng thì bạn
cần yêu cầu gia đình phối hợp với nhà trường để có hướng giáo dục tốt nhất cho em.
Tình huống 2:
Trong lớp bạn chủ nhiệm có em Ba. Giờ học nào cũng thế, cứ vào được mấy phút là Ba lại
xin phép ra ngồi, hay tệ hơn là cậu bỏ ln ra qn nước ngồi trường ngồi. Mà có ở lớp
thì Ba cũng chỉ bày trị nghịch ngồi mà thơi. Mỗi lần Ba xin phép ra ngồi là các thầy cơ
giáo phẩy tay mới ra luôn. Bẳng đi một thời gian không thấy Ba đến trường, các thày cô
đều thở phào nhẹ nhõm. Hôm nay ba đến trường xin rút học bạ.
Thầy hiệu phó hỏi em: – Tại sao em khơng đi học nữa? Em định ở nhà làm gì?
Ba cười chua chát, trả lời: –Có ai thích dạy em đâu thầy. Mà em bé thế này thì xin việc ở
đâu. Em là thằng dốt nát, lại hay phá phách, các thầy cô bảo thế. Thôi, thầy cho em xin bỏ
học để khỏi ảnh hưởng tới nhà trường, tới thầy cô, tới các bạn. Dù sao em cũng là đồ bỏ đi
rồi. Là GVCN của Ba, bạn sẽ có suy nghĩ gì về cách xử sự của thầy cô đối với Ba. Bạn sẽ
làm gì để làm cho Ba hứngthú học tập?.
Hướng xử lý:

- Khẳng định là một nhà giáo thì cách xử sự của thầy cô với Ba là chưa đúng, vi phạm một
số nguyên tắc giáo dục như: đảm bảo tính mục đích trong hoạt động giáo dục, thống nhất
giữa giáo dục ý thức và hành vi, nguyên tắc tôn trọng nhân cách, giáo dục trong tập thể và
thông qua tập thể, phát huy ý thức tự giáo dục của HS. Là một ngưịi thầy khơng phải chỉ
truyền đạt tri thức cho HS mà còn phải rèn rũa cả về mặt ý thức niềm tin và tinh thần. Phải
lôi kéo HS, làm sao cho HS thích học và muốn được học, đằng này cách cư sử của giáo
viên lại đẩy em Ba ra xa với môi trường giáo dục hơn.nhất là hành vi bĩu môi của cô giáo
và những lời nói của thầy giáo địa lý đã làm tổn thương lòng tự trọng của Ba, làm cho Ba
mất đi lòng tin vào nhà trường, nghĩ rằng khơng ai cần mình. nếu như Ba bỏ học thực sự
19


thì cuộc đời e sau này sẽ ra sao, trách nhiệm phần lớn thuộc về chính những người thầy
này.
– GV phải tạo được lịng tin với HS là điều khơng phải giáo viên nào cũng làm được, phải
thực sự tâm huyết với nghề, u nghề, khơng ngại khó. giáo dục cả 1 con người đâu phải
là điều dễ dàng, HS có thích học hay khơng cũng là do giáo viên 1 phần.
– Hãy xây dựng kế hoạch tác động sư phạm tới Ba làm cho Ba hứng thú học tập.
+ Tìm hiều hồn cảnh gia đình Ba, nói chuyện với bố mẹ Ba để hiểu hơn về cách nghĩ của
bố mẹ với việc giáo dục Ba và hiểu rõ hơn về Ba. Nếu thực sự gia đình Ba có vấn đề thì
cả giáo viên chủ nhiệm lẫn các bạn HS phải cùng nhau giúp đỡ Ba, thường xuyên nói
chuyện, tâm sự.
+ Cần tạo cho Ba hứng thú học tạp bằng cách phân cơng HS kèm thêm cho Ba. Nói chuyện
với GVBM để những bài dễ gọi lên làm và cho điểm khuyến khích cao hơn 1 chút so với
thực tế để kích thích tinh thần học. phân cơng các bạn trong lớp học cùng Ba
+ Phải tìm ra các ưu điểm cũng như nhược điểm của Ba để có thể tạo điều kiện cho những
ưu điểm đó phát huy đồng như vậy sẽ lấy lại sự tự tin cho Ba, từ đó những nhược điểm
cũng phần nào được loại bỏ dần.

Như vậy, người thầy tốt không chỉ truyền kiến thức cho người học mà có nhiệm vụ tổ

chức và điều khiển hoạt động của họ, hướng họ đi tìm kiếm và lĩnh hội tri thức. Disterwey
- một nhà sư phạm người Đức đã nhấn mạnh: “Người giáo viên tồi là người mang chân lý
đến sẵn, còn người giáo viên giỏi là người biết dạy HS đi tìm chân lý”. Chính vì vậy người
giáo viên phải: Nắm vững và sử dụng hợp lý các phương pháp dạy học tiên tiến; rèn luyện
năng lực ngôn ngữ truyền đạt kiến thức rõ ràng, dễ hiểu, vừa sức.
Ngồi ra, người giáo viên cịn phải có cái “Đức”, “Đức” là u cầu khơng thể thiếu đối
với mỗi giáo viên. Có “Tâm”, có “Tài” cũng chưa là người thầy tốt. Bác Hồ đã từng nói:
“Có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó, có tài mà khơng có đức là người vơ
20


dụng”. Càng quan trọng đối với lĩnh vực giáo dục, để tạo ra nhân cách người học thì trước
hết người thầy phải biết thuyết phục HS bằng chính nhân cách của mình...
Muốn xây dựng được nhân cách cho người học, người thầy trước hết phải có “Đức” thể
hiện ở thái độ, tác phong chuẩn mực khi thực hiện giảng dạy và trong lối sống, trở thành
tấm gương, vừa là người thầy, vừa là người cán bộ ưu tú, chuẩn mực cho người học noi
theo. Phải làm sao để mỗi người thầy khơng những là nhà sư phạm mà cịn là nhà mô
phạm.
Cái “Đức” của người thầy thể hiện ở sự hi sinh vơ tư “tất cả vì HS thân u”, giúp đỡ
người học một cách chân thành, khơng vì vụ lợi, không phân biệt đối xử, giúp đỡ trong hỗ
trợ kiến thức phải đến nơi đến chốn; giúp đỡ không có nghĩa là cho điểm cao, dễ dãi đối
với người học trong học tập. Cái “Đức” ấy còn được biểu hiện ở sự kiên quyết đấu tranh
chống những cái xấu, cái sai trong xã hội, trong chính bản thân mình và trong đồng sự.
Bác Hồ dạy: GV và HS phải thật thà. Sống thật, nói thật, làm thật để cống hiến thật sự, để
lời nói đi đơi với việc làm, làm có ích cho Tổ quốc, cho nhân dân và cho xã hội, cho chính
bản thân mình.
Ngày nay, những tình cảm tốt đẹp có tính truyền thống đó của người thầy vẫn được duy
trì. Đảng và nhà nước ta cũng đã xác định "Giáo dục là quốc sách hàng đầu", đã và đang
làm những gì có thể đối với ngành giáo dục bởi tầm quan trọng và ý nghĩa lớn lao của
ngành đặc thù này đối với sự phát triển trong hiện tại cũng như tương lai của xã hội và đất

nước. Sứ mệnh "trồng người" hết sức thiêng liêng, cao quí nhưng cũng hết sức nặng nề
được đặt lên vai người giáo viên.
Tài liệu tham khảo
1. Cheung, C. K., The teaching of moral education through media education, The Asia
Pacific-Education Researcher, 16(1), 2007, pp. 61-72.
2. Clipa, O. & Iorga, A. M., The role of school-family parnership on moral development,
Procedia - Social and Behavioral Sciences, 76, 2012, pp. 197 – 203.

21


3. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Chỉ thị 1737/CT-BGDĐT về việc tăng cường quản lý và nâng
cao đạo đức nhà giáo, Ban hành ngày 07/5/2018.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính
trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2006.
5. Đặng Đình Chương, Trần Đình Hùng, Vận dụng tư tưởng Phật giáo vào việc giáo dục
đạo đức, lối sống cho HS – sinh viên Việt Nam hiện nay, Phật giáo Kiên Giang. Nguồn:
/>6. Lê Duy Hùng, Giáo dục đạo đức cho HS trung học phổ thông: Thực trạng, nguyên nhân
và giải pháp, Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, số 50/2013, tr. 29-37.
7. Đặng Thị Lan, Đạo đức Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đạo đức con người Việt
Nam, Luận án Tiến sỹ Triết học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, 2005.

22



×