PHÒNG GD&ĐT
PHÒNG GD&ĐT THỊ XÃ VĨNH
CHÂU THCS
TRƯỜNG
TRƯỜNG ...................
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HỌC SINH
HỨNG THÚ HỌC PHÂN MÔN THƯỜNG THỨC MĨ THUẬT
Ở TRƯỜNG THCS
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY PHÂN MƠN VẼ TRANG TRÍ
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
Người thực hiện:
Năm học:
1
Tên SKKN: MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HỌC SINH HỨNG THÚ HỌC
PHÂN MÔN THƯỜNG THỨC MĨ THUẬT Ở TRƯỜNG THCS
I.
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Ngay từ buổi bình minh của nhân loại, khi con người phát hiện ra vẻ đẹp
của thiên nhiên và sự nhận thức thế giới thực được mở rộng, thì con người đã
biết ngưỡng mộ và đưa cái đẹp vào phục vụ cuộc sống với ý thức tự giác. Cũng
từ đó mĩ thuật ln gắn bó khăng khít với lịch sử phát triển của con người và
ngày càng đạt tới mức độ nghệ thuật cao.
Trong chương trình giảng dạy Mĩ thuật của các trường THCS có các phân
mơn: vẽ tranh, vẽ theo mẫu, vẽ trang trí nhằm đào tạo các em có một kĩ năng
nhất định về Mĩ thuật. Nhưng trong đó khơng thể thiếu phân mơn “Thường thức
Mĩ thuật”. Đây là một phân môn rất quan trọng, bởi vì học sinh học tập bộ mơn
Mĩ thuật khơng chỉ rèn luyện kĩ năng, sự sáng tạo, khả năng cảm thụ thẩm mĩ
(cái đẹp) mà còn một số lượng kiến thức nhất định về sự phát triển Mĩ thuật của
thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng. Bồi dưỡng khả năng thưởng thức
tranh nghệ thuật nói chung, tranh dân gian Việt Nam và tranh vẽ của chính các
em nói riêng. Thơng qua phân mơn này, học sinh thêm yêu mến và tự hào về nền
nghệ thuật của dân tộc và thế giới. Trên cơ sở đó thấy được trách nhiệm của
mình về việc trân trọng, yêu quý và giữ gìn những giá trị của cha ơng để lại.
Nhưng hiện nay việc giảng dạy mĩ thuật nói chung và phân mơn thường
thức mĩ thuật nói riêng chưa được phát huy bởi nhiều nguyên nhân đó là cơ sở
vật chất, đồ dùng dạy học, trường lớp thiết bị dạy học cịn nhiều hạn chế và bất
cập. Do vậy, tình trạng chung của giờ thường thức mĩ thuật là đơn điệu nhàm
chán, học sinh thường có thái độ thờ ơ với giờ học này. Điều đó cho thấy việc
đổi mới phương pháp dạy - học trong trường THCS đối với phân mơn này cịn
chậm chạp, chưa đáp ứng được u cầu của ngành giáo dục đào tạo nước ta hiện
nay.
2
Để khắc phục vấn đề này các giáo viên mĩ thuật cần phải đưa ra các phương
án thích hợp để làm cho giờ học thường thức mĩ thuật trở nên sinh động, tạo sự
hứng thú cho học sinh khi học phân môn này.
Trăn trở với những điều trên, tôi đã chọn đề tài “một số giải pháp giúp
học sinh hứng thú học phân môn
thường thức mĩ thuật ở
trường ...................” để đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giờ
dạy thương thức mĩ thuật trong môn học Mĩ thuật.
II.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lý luận
Dựa theo yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra, đánh giá
góp phần tích cực quan trọng vào việc nâng cao chất lượng giáo dục THCS. Mĩ
thuật ở trường phổ thơng nói chung và THCS nói riêng chủ yếu là giáo dục thẩm
mĩ; tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc, làm quen và thưởng thức vẻ đẹp của
thiên nhiên, của con người tạo ra. Qua đó vận dụng những hiểu biết về cái đẹp
vào sinh hoạt và học tập hàng ngày. Phân môn thường thức mĩ thuật ở THCS
cung cấp cho học sinh một lượng kiến thức cơ bản nhất định giúp các em hiểu
được cái đẹp của đường nét, hình mảng, đậm nhạt, màu sắc và bố cục thông qua
các tác phẩm, các công trình mĩ thuật. u thích phân mơn này các em sẽ tìm
thấy vai trị to lớn của mĩ thuật trong đời sống và xã hội. Ngồi ra, các em cịn
đựơc tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của các hoạ sĩ, các nhà điêu
khắc nổi tiếng Việt Nam và thế giới.
Để đạt được mục đích trên, giáo viên cần sử dụng linh hoạt các phương
pháp dạy học tích cực nhằm chuyển tải nội dung, ý nghĩa của các tác phẩm mỹ
thuật đến với học sinh để các em biết rung động, cảm xúc trước cái đẹp. Qua đó
tạo cho học sinh sự phát triển cân đối, tồn diện về tâm hồn, trí tuệ, óc thẩm mỹ,
sự hiểu biết để đạt đến mục đích cuối cùng là hồn thiện nhân cách con người.
2. Cơ sở thực tiễn
a. Thuận lợi
3
Nhà trường luôn quan tâm và tạo điều kiện về cơ sở vật chất và tài liệu chuyên
môn cho việc giảng dạy bộ mơn, bản thân ln tìm tịi nghiên cứu tài liệu tự
nâng cao trình độ chun mơn, ln cố gắng đầu tư soạn giảng theo phương
phương pháp mới để hướng học sinh học một cách tích cực, chủ động và sáng
tạo. Sau đó tự rút kinh nghiệm của bản thân để có giải pháp thích hợp cho tiết
dạy sau được tốt hơn.
b. Khó khăn
Có thể nói phân mơn thường thức Mĩ thuật là một phân môn tương đối khó
dạy đối với các giáo viên mĩ thuật bởi khi giảng dạy phân môn này các giáo viên
THCS thường gặp những hạn chế sau:
Lịch sử Việt Nam và thế giới vô cùng phong phú và đa dạng. Từ xã hội
nguyên thuỷ cho đến ngày nay, mĩ thuật phát triển liên tục, khơng ngừng, lồi
người đã chứng kiến sự ra đời của nhiều trào lưu, nhiều phong cách nghệ thuật
trải qua các thời kỳ khác nhau. Các tác phẩm mĩ thuật đa dạng được lưu giữ rất
nhiều ở các bảo tàng mĩ thuật trên thế giới. Khơng ai có thể nói rằng mình đã
được chiêm ngưỡng thưởng thức tất cả các tranh, tượng nguyên bản trong kho
tàng đồ sộ đó của mĩ thuật Việt Nam và thế giới. Phần lớn chúng ta mới chỉ
đựơc xem tranh, tượng đó qua các phiên bản, các ảnh chụp đen trắng hoặc màu
rất nhỏ bé trong các tuyển tập tranh tượng (ví dụ: tác phẩm Mô - na - li - da của
Lê - ô - nađờ - vanh xi).
Tuy là một giáo viên dạy môn mĩ thuật, tôi cũng như các giáo viên mĩ thuật
khác khơng tránh khỏi các hạn chế đó. Do vậy chưa thể nói rằng mình đã hiểu
biết một cách đầy đủ về nghệ thuật Việt Nam và thế giới. Hơn nữa, có những
nền nghệ thuật cổ đã bị mai một hoặc chỉ còn tồn tại trên sách vở, thơ, văn... đó
là một khó khăn rất lớn khi giảng dạy phân môn này.
Cái hạn chế nữa của phân môn này là đồ dùng dạy học, tài liệu liên quan
đến bài dạy Đồ dùng dạy học có một ý nghĩa vơ cùng quan trọng đối với việc
dạy và học môn mĩ thuật nói chung và phân mơn thường thức mĩ thuật nói riêng.
Bởi nó là sự hiện diện của kiến thức – các đường nét, hình mảng, hình khối, đậm
4
nhạt, màu sắc, bố cục, các cơng trình, các tác phẩm mĩ thuật nổi tiếng của các
họa sĩ... Nếu thiếu đồ dùng dạy học, học sinh khó có thể lĩnh hội đầy đủ kiến
thức ngôn ngữ mĩ thuật nhất là phân môn này. Thế nhưng đây lại là mặt hạn chế
lớn đối với các giáo viên khi giảng dạy phân môn này như việc sưu tầm tài liệu,
tranh ảnh liên quan đến bài học là rất khó và tốn kém. Bởi vì có rất nhiều cơng
trình, tác phẩm mĩ thuật, kiến trúc chỉ còn lại trong sách vở nên việc cho học
sinh xem các tranh ảnh liên quan là điều khó thực hiện. Ngay cả việc các tác
phẩm hội hoạ, điêu khắc, kiến trúc còn tồn tại được in trên sách báo bán trong
các nhà sách thì giáo viên cũng khơng dễ gì sưu tầm được bởi vì: Tài liệu được
in một cách rải rác không tập, mỗi cuốn sách lại in một tác phẩm hay một cơng
trình nào đó. Ví dụ: giáo viên muốn sưu tầm tài liệu tranh ảnh về nhà Lý thì phải
tìm và mua tới hơn 10 cuốn sách, tranh mới đủ cho một tiết dạy. Mỗi cuốn chỉ
nhắc tới một cơng tình hoặc một tác phẩm nghệ thuật trong một mục lục nhỏ còn
lại là những tài liệu khơng liên quan. Chính vì thế nếu mua thì người giáo viên
phải bỏ ra một số lượng tiền khơng nhỏ để có thể giảng một tiết dạy mĩ thuật
thời Lý. Như vậy muốn giảng hay, tốt và đầy đủ của phân mơn này trong trường
THCS thì người giáo viên hay nhà trường đó phải bỏ ra một số tiền lớn. Hơn
nữa, có những tài liệu được in từ rất lâu khiến cho việc sưu tầm trở nên khó
khăn. Ví dụ như cuốn “Mĩ thuật thời Trần” (nhà xuất bản văn hoá) đây là một
cuốn sách hay, giáo viên có thể sử dụng phần lớn tiết dạy vào cuốn sách này.
Thế nhưng không phải ai cũng sưu tầm được vì nó xuất bản năm 1977 mà khơng
có tái bản.
Hơn nữa việc phải đầu tư thời gian, công sức để sưu tầm các tài liệu địi hỏi
phải có thời gian nên dẫn đến việc các giáo viên không quan tâm sưu tầm tài liệu
mà chỉ dựa vào số lượng kiến thức, tranh ảnh ít ỏi trong sách giáo khoa và sách
giáo viên để giảng dạy cho học sinh. Tình trạng chung hiện nay của giờ thường
thức mĩ thuật là đơn điệu nhàm chán, học sinh thường có thái độ thờ ơ với giờ
học này. Với những giờ học, giáo viên chỉ cung cấp một số lượng kiến thức bằng
lý thuyết mà không cho học sinh xem hay chỉ xem một số ít hình ảnh nhỏ bé
trong sách giáo khoa nên đa số học sinh sau khi học thường không nhớ đựơc
5
những tác phẩm, cơng trình mĩ thuật của Việt Nam và thế giới. Nhưng cũng có
rất nhiều giáo viên chịu khó quan tâm và sưu tầm tranh ảnh liên quan đến bài
học. Tuy nhiên đa phần là những tranh ảnh trong sách báo, tạp chí có khung hình
nhỏ bé chỉ phù hợp cho giáo viên tham khảo còn nếu dùng làm trực quan giảng
dạy thì khơng phù hợp. Hiện nay công nghệ thông tin phát triển internet hỗ trợ
rất nhiều cho việc tìm kiếm tài liệu minh họa nhưng một số tranh lại khơng có
trên mạng hoặc là do trình độ sử dụng của giáo viên còn hạn chế hoặc là nếu tìm
có thì cũng khó bởi giáo viên khơng thể in tranh màu khổ lớn để dạy được vì rất
tốn kém hơn nữa trường thuộc xã nghèo, đường sá khó đi nên việc đi lại in tranh
cũng gặp nhiều khó khăn.
Về phía học sinh đa phần là con em nhà nơng kinh tế gia đình cịn khó
khăn, chưa có điều kiện tiếp xúc với công nghệ thông tin nhiều, sách báo cịn
hạn chế nên khơng có cơ hội tìm hiểu sâu hơn các tác phẩm, tác giả trong phân
môn thường thức mĩ thuật nên khó khăn trong tiết học thường thức mĩ thuật.
Trước tình trạng trên, là một giáo viên dạy bộ môn mĩ thật để thực hiện một
tiết dạy thường thức mĩ thuật và học sinh thích học môn thường thức mĩ thuật là
điều quan trọng là mục đích chính của phân mơn thường thức mĩ thuật.
III.
TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP:
- Phạm vi nghiên cứu: Học sinh trường ...................
- Đối tượng: đề tài này có thể áp dụng cho học sinh khối 6,7,8,9
- Thời gian nghiên cứu: từ tháng ……….đến tháng ……………
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Đọc tài liệu: nghiên cứu tài liệu có liên quan đến đề tài
+ Điều tra: Qua thực nghiệm của bản thân dạy trên lớp và qua kiểm tra chất
lượng của học sinh. Phân loại học lực học sinh và tìm hiểu thái độ học tập
của học sinh.
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp: phân tích và tổng hợp những thuận lợi
khó khăn của việc dạy học thường thức mĩ thuật để đề ra biện pháp phù hợp
6
+ Phương pháp thực nghiệm: Vận dụng dạy thử ở các lớp, áp dụng những
giải pháp đã đề ra xem kết quả dạy học có tốt hơn khơng.
+ Phương pháp so sánh và chứng minh: So sánh kết quả trước và sau khi tiến
hành thực nghiệm áp dụng các giải pháp.
Nội dung cơ bản của phân môn thường thức mĩ thuật : Giới thiệu, phân tích
tác phẩm mĩ thuật Việt Nam, thế giới: Sơ lược về mĩ thuật Việt Nam thời kì cổ
đại, thời Lý, thời Trần, thời Lê, thời Nguyễn và thời hiện đại, mĩ thuật thế giới
thời cổ đại (Ai Cập, Hy Lạp, La Mã); Mĩ thuật thời Phục hưng , mĩ thuật hiện
đại phương tây, mĩ thuật một số nước ở vùng Châu Á (Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật
Bản, Lào, Campuchia), Các bài thường thức mĩ thuật SGK thường tập trung vào
giới thiệu các nền mĩ thuật tiêu biểu, nêu những đặc điểm cơ bản. Để bài dạy có
hiệu quả tơi thực hiện một số giải pháp sau:
1. Giải pháp 1: Sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa và sách giáo
viên:
a) Thường thức mĩ thuật là phân môn giúp cho HS hiểu được phần nào bao quát
về lịch sử mĩ thuật, những trào lưu, trường phái, quan điểm của từng thời kỳ
cũng như những thành tựu đó. Nội dung kiến thức mang tính tổng hợp vì vậy để
học sinh hiểu, nhớ được nội dung bài học, không bị nhàm chán, tạo đượng hứng
thú cho học sinh thì vai trị của tranh ảnh phục vụ cho việc dạy - học là vô cùng
quan trọng và cần thiết. Nhưng hiện nay tranh ảnh cho phân môn thường thức
mĩ thuật khơng có nhiều, vì vậy giáo viên phải tận dụng hết những hình ảnh có ở
SGK. Để tìm hiểu nội dung bài học giáo viên phải yêu cầu học sinh bám sát vào
SGK, quan sát các hình ảnh ở SGK. Tùy vào từng bài để Giáo viên có phương
pháp khác nhau.
b) Giáo viên chia nhóm, yêu cầu học sinh đọc sách giáo khoa, xem tranh trong
sách giáo khoa và thảo luận theo phiếu bài tập mà giáo viên đã chuẩn bị, sau đó
học sinh trình bày kết quả thảo luận, GV chốt lại phần HS vừa trình bày.
7
Giáo viên có thể tận dụng hình ảnh ở SGK để thực hiện bài dạy bằng cách đưa
ra những yêu cầu VD:
- Em hãy quan sát bức tranh Nghỉ chân bên đồi của họa sĩ Tô Ngọc Vân
(trang 128, bài 21 Mĩ thuật 7 ) và cho biết bức tranh vẽ gì
Cuối giờ học yêu cầu học sinh thi vẽ hoặc viết ví dụ:
- Quan sát hình Rồng thời lý ( Trang 110, bài 12, mĩ thuật 6) và vẽ trang trí
hình vng hoặc hình trịn có sử dụng họa tiết hình Rồng
- Em hãy vẽ lại chân dung của một trong ba họa sĩ: Trần Văn Cẩn, Nguyễn
sáng, Bùi Xuân Phái (bài 21 TTMT lơp 7)
- Em hãy viết một đoạn văn ngắn miêu tả vẻ đẹp của tượng phật Bà Quan
Âm nghìn mắt nghìn tay (bài 5 TTMT lơp 8)
c) Như vậy giờ học không kém phần hấp dẫn đối với học sinh mà giáo viên
thoát ra khỏi tâm lí nặng nề về thiếu tranh ảnh tài liệu minh họa. Tóm lại nếu
giáo viên biết sử dụng SGK và SGV chúng ta vẫn có thể có giờ học tích cực và
hiệu quả.
2. Giải pháp 2: Kết hợp các phương pháp dạy học:
a) Học phân môn thường thức mĩ thuật trong trường THCS Việc đổi mới
phương pháp dạy học phân môn thường thức mĩ thuật trong trường THCS là
việc làm cần thiết và phải được làm liên tục nhằm tạo ra các giờ học bổ ích, lí
thú tạo sự hứng thú cho học sinh khi học những giờ học này. Nhưng đổi mới là
một khái niệm dễ hiểu mà khó làm. Mỗi một giáo viên phải tự tìm ra cho mình
một cách dạy như thế nào để phù hợp với điều kiện, khả năng của mình mà vẫn
tạo ra được một giờ học sôi nổi thiết thực? Trong quá trình giảng dạy tại trường
THCS tơi đã tự rút ra một số giải pháp mà giáo viên mĩ thuật có thể thực hiện
đựơc trong điều kiện hiện nay đáp ứng được yêu cầu đổi mới của ngành giáo
dục và đào tạo.
b)Sử dụng tốt đồ dùng dạy học: Đối với phân môn thường thức mĩ thuật
việc sử dụng đồ dùng dạy học là một phần quan trọng trong một tiết dạy. Vì
8
ngơn ngữ của mĩ thuật là hình ảnh, là trực quan sinh động cụ thể. Do đó phát
huy tối đa hiệu quả đồ dùng dạy học là một trong những phương pháp đổi mới
tốt nhất.
Sử dụng tranh ảnh minh hoạ Việc sử dụng tranh ảnh minh hoạ trong giờ thường
thức mĩ thuật là thường xuyên và không thể thiếu. Tuy nhiên bộ đồ dùng dạy
học trong các trường THCS mới chỉ có một số ít tranh, ảnh của lớp 6 và lớp 8
(thậm chí lớp 8 chỉ có một bài thường thức mĩ thuật). Tất cả những tranh ảnh
trên chỉ là hình ảnh phóng to trong sách giáo khoa. Hơn nữa các giáo viên
thường chỉ cho học sinh xem một số tranh này. Nên tính hiện thực và trực quan
cụ thể là không cao. Giáo viên cần phải sưu tầm các tài liệu có liên quan tới tiết
dạy có thể sưu tầm trong sách báo, tuyển tập hay tạp chí .... Từ đó tập hợp thành
quyển, bộ theo trình tự cho từng tiết dạy và từng thời kỳ lịch sử mĩ thuật
Ví dụ: Mĩ thuật Việt Nam có thể chia thành Mĩ thuật cổ đại và Mĩ thuật
hiện đại như: - Mĩ thuật thời nguyên thuỷ - Mĩ thuật thời Lý - Mĩ thuật thời Trần
- Mĩ thuật thời Lê – Mĩ thuật Việt Nam giai đoạn 1945-1975. Việc sưu tầm tranh
ảnh và tập hợp thành bộ, quyển cho riêng mình giúp giáo viên cung cấp được
nhiều kiến thức mĩ thuật cho học sinh mà khơng cần phải thuyết trình giảng giải
quá nhiều, hơn nữa còn giúp giáo viên định lượng được thời gian cho tiết học
một cách khoa học và hợp lý. Ngoài ra tập hợp thành bộ, quyển giáo viên có thể
bổ sung theo từng năm và sử dụng được nhiều năm liên tiếp.
Tận dụng tối đa các phương tiện hiện đại: Đổi mới trong dạy - học bộ mơn
mĩ thuật nói chung và phân mơn thường thức mĩ thuật nói riêng có một phần
được nhắc tới rất nhiều đó là việc hiện đại hố trong giảng dạy. Như đã phân tích
ở phần trên, việc sưu tầm tranh ảnh đối với giáo viên là rất khó nhưng sử dụng
nó như thế nào để phát huy hết tác dụng của những tài liệu đó lại khó hơn. Vì
tranh ảnh sưu tầm có nhược điểm chung là rất bé chỉ phù hợp cho giáo viên
tham khảo còn nếu cho học sinh xem thì cần hỗ trợ rất nhiều các phương tiện
hiện đại đó là máy chiếu (máy lập thể Projector). Sử dụng nó giáo viên có thể
cho các em thấy rõ hơn, chính xác hơn về vẻ đẹp của từng cơng trình nghệ thuật,
9
tác phẩm mĩ thuật. Tận dụng tối đa các phương tiện này giáo viên sẽ bớt đi rất
nhiều những hoạt động không cần thiết trong giờ dạy. Hơn nữa lại đảm bảo tính
thẩm mĩ của các tác phẩm của họa sĩ, các cơng trình kiến trúc.
Ví dụ: Giới thiệu cho học sinh xem một số tranh dân gian Việt Nam, khi sử
dụng máy chiếu học sinh sẽ thấy rõ được sự khác biệt giữa tranh dân gian Đông
Hồ và tranh dân gian Hàng Trống, khác nhau về màu sắc, đường nét, về bố
cục…vì khi có sự hỗ trợ của máy chiếu hình ảnh sẽ rõ ràng hơn
Sử dụng băng hình trong phân mơn thường thức mĩ thuật: Sử dụng băng
hình trong dạy học mĩ thuật là một phương tiện ít người nhắc tới do nhiều
nguyên nhân đó là để thực hiện được trước hết phải có đủ phương tiện vật chất
(đầu máy, tivi, ...) sau đó phải có băng hình để xem mà băng hình trong bộ đồ
dùng dạy học của trường THCS là chưa có mà giáo viên khơng thể tự đi quay
hay thu được. Tuy nhiên nếu băng hình trong giờ học này được sử dụng, nó
chính là một phương tiện dạy học hiệu quả nhất. Sự hiện diện của băng hình
giúp cho học sinh và giáo viên gần như trực tiếp quan sát các cơng trình, tác
phẩm nghệ thuật. Hơn nữa hình ảnh mà học sinh quan sát là hình ảnh động khác
với ảnh phiên bản minh hoạ cho nên tạo được hứng thú cho học sinh.
Ví dụ: Khi dạy bài “Một số cơng trình tiêu biểu của Mĩ thuật Ai Cập, Hi
Lạp, La Mã thời kì cổ đại”, để giúp học sinh hình dung rõ hơn về Kim tự tháp
giáo viên có thể cho học sinh xem một đoạn video ngắn miêu tả cấu trúc cũng
như cách xây dựng Kim tự tháp…
Sử dụng các phương pháp dạy và học: Chúng ta đã biết mỗi tác phẩm
nghệ thuật là tổng hợp các kiến thức của nhiều phân mơn, trong đó có cả âm
nhạc, thơ ca, văn học, lịch sử … Vì vậy phương pháp dạy học hiệu quả tốt nhất
là: - Phương pháp phân tích - Phương pháp gợi mở - Phương pháp trực quan Phương pháp so sánh - Phương pháp tích hợp - Phương pháp làm việc theo
nhóm - Phương pháp làm việc theo cặp, và liên hệ với thực tiễn cuộc sống sẽ có
lợi thế hơn vì nó đảm bảo cho học sinh được thảo luận trên cơ sở hiểu biết riêng
của mình, vận dụng các kiến thức liên môn đồng thời tiếp nhận ý kiến của học
10
sinh làm cho nhận thức của các em sâu rộng hơn, kiến thức khơng rời rạc, được
móc nối liên kết giữa các môn học với nhau, giữa kiến thức sách vở và thực tiễn
sinh động bên ngồi. Đây chính là tinh thần cơ bản của dạy tích hợp mà chúng ta
đang đề cập. Dùng các phương pháp này, giáo viên sẽ là người tổ chức điều
hành, học sinh vừa là người tổ chức vừa là người thực hiện.
Ví dụ: Giáo viên chia nhóm, yêu cầu mỗi nhóm chuẩn bị một nội dung
cùng câu hỏi gợi ý. Học sinh đọc tài liệu, xem hình ảnh minh hoạ sau đó các
nhóm thảo luận tìm ra kiến thức, tìm ra cách giải quyết bài tập, cử người ghi
chép và thảo luận trước lớp. Các nhóm khác trao đổi tiếp. Giáo viên tóm tắt bổ
sung vừa có tính chất nhắc lại, gói lại, vừa mở rộng thêm làm cho nhận thức của
học sinh sâu sắc và phong phú hơn. Ngoài tranh ảnh giới thiệu ở sách giáo khoa,
ở bộ đồ dùng dạy học, giáo viên còn yêu cầu học sinh sưu tầm thêm và gợi ý học
sinh phân tích, tự ghi chép nội dung theo cảm nhận riêng.
c) Nếu giáo viên biết sử dụng phương pháp đổi mới kết hợp đồ dùng dạy
học mĩ thuật phong phú và đa dạng sẽ tránh được việc học một chiều nghĩa là
giáo viên thuyết trình học sinh nghe và tưởng tượng một cách mơ hồ về kiến
thức đã học, không tạo được giờ học sôi nổi và hứng thú cho học sinh. Ngược lại
nếu có nhiều đồ dùng dạy học, học sinh sẽ phát huy tính tích cực, tự giác có thể
đưa ra nhận xét, cảm xúc của mình về từng giai đoạn mĩ thuật, cuộc đời sáng tác
và các tác phẩm nghệ thuật một cách khách quan và tổng hợp. Học sinh có ý
thức tìm tịi tự nhiên để học tập, gắn kết giữa học và hành, nhà trường và xã hội.
Hình thành ở học sinh tính tự giác trong học tập, phát triển khả năng độc
lập tư duy, suy nghĩ sáng tạo. Điều này rất cần cho con người lao động mới. Bồi dưỡng năng lực ghi chép theo cảm nhận riêng không quá lệ thuộc vào sách
và các tài liệu có sẵn. Đây mới là u cầu có tính chất cấp thiết đối với đổi mới
phương pháp dạy học hiện nay, là xu thế chung của các nhà trường trên thế giới.
Tự học, tự tìm tài liệu, tự tìm phương pháp học và tổ chức học tập, đánh giá
dưới sự điều hành của giáo viên.
3. Giải pháp 3: phương pháp tổ chức trò chơi:
11
a) Trong một tiết học có phần nặng về lý thuyết nhưng Thường thức mĩ thuật
nếu học sinh có thể tham gia trò chơi vừa giúp các em thoải mái, vui vẻ lại có
thể hiểu thêm nội dung bài học thì xem như tiết dạy đó đã thành cơng. Đối với
phân môn thường thức mĩ thuật, giáo viên cần cung cấp thêm cho các em những
hiểu biết về Mĩ thuật của Việt Nam và trên thế giới, tuỳ thuộc vào từng nội dung
bài học mà giáo viên có thể chọn những hình thức chơi phù hợp.
b) Ví dụ như trong bài 21: “Giới thiệu về một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu từ
cuối thế kỷ XIX đến năm 1945”. Mục tiêu của bài học là giúp các em có thêm
những hiểu biết về thân thế và sự nghiệp, cùng với những đóng góp to lớn của
những nhà hoạ sĩ tiêu biếu đối với nền văn học nghệ thuật ở nước ta.
Qua đó sẽ giúp các em có thêm những hiểu biết về một số chất liệu mà
những hoạ sĩ đã dùng rất thành công như hoạ sĩ Tô Ngọc Vân, Nguyễn Phan
Chánh…đã dùng. Chính từ bài học này, học sinh sẽ cảm nhận được vẻ đẹp của
một số tác phẩm, xây dựng thái độ, tình cảm yêu mến, trân trọng những giá trị
của lịch sử cũng như của các tác phẩm nổi tiếng của nền mỹ thuật Việt Nam. Và
từ đó có thể vẽ nên một số tác phẩm đẹp và đậm chất thiếu nhi.
Sau khi xác định được mục tiêu cụ thể đó, giáo viên có thể xây dựng trò
chơi “Nhanh tay nhanh mắt” giúp các em nắm bắt kiến thức tốt: Trong hoạt
động 2 của tiết học, giáo viên cho học sinh tìm hiểu về một số tác phẩm tiêu
biểu của các hoạ sĩ thì có thể chia đội chơi. Chia lớp thành ba đội chơi, mỗi đội
chon từ 2-3 học sinh. Cho trước một tờ giấy và những bức tranh của các hoạ sĩ.
Yêu cầu mỗi đội chơi tìm đúng tranh và dán ảnh tranh đó vào đúng tên của từng
hoạ sĩ. Trong 3 phút, đội nào tìm và dán đúng nhiều nhất sẽ là đội chiến thắng.
Cuối cùng cô giáo nhận xét phần thi của ba đội, có thể cho các em học sinh ở
dưới nhận xét phần thi của các bạn hoặc cũng có thể cho chính các em của từng
đội lên giải thích vì sao lựa chọn và nêu lên đặc điểm của từng hoạ sĩ…Sau đó
cơ giáo tổng hợp các ý kiến và đưa ra các kết luận cuối cùng cho phần thi. Tuyên
dương đội thắng cuộc và khích lệ động viên đối với các đội chơi khác.
12
Hoặc trong bài Tranh dân gian Việt Nam ( bài 19, mĩ thuật 6) có thể tổ chức chơi
trị chơi “ơ chữ bí mật”
Ở trị chơi này GV chuẩn bị hệ thống các hàng ngang, hàng dọc theo chủ đề.
Giáo viên đưa ra một số câu hỏi liên quan đến nội dung bài học tương ứng với
từng hàng ngang. HS tìm các chữ cái thích hợp để điền vào ơ trống đã cho theo
yêu cầu.
Đây là dạng trò chơi mà tôi và đồng nghiệp thường hay sử dụng nhất trong q
trình dạy học, vì hiệu quả của trị chơi này mang lại là rất cao.
-Dạng thứ nhất: Ơ chữ có một hàng ngang
VD: Màu sắc trong tranh Đông Hồ được lấy từ đâu?
T
H
I
Ê
N
N
H
I
Ê
N
- Dạng thứ hai: Ơ chữ có nhiều hàng ngang và có từ chìa khố bí mật hàng dọc
(mơ phỏng trị chơi Đường lên đỉnh Ơlimpia)
c) Qua trị chơi, học sinh được hình thành năng lực quan sát, được rèn luyện kỹ
năng nhận xét, đánh giá hành vi. Bằng trò chơi, việc học tập được tiến hành
một cách nhẹ nhàng, sinh động, không khô khan, nhàm chán. Học sinh được lơi
cuốn vào q trình luyện tập một cách tự nhiên, hứng thú và có tinh thần trách
nhiệm, đồng thời giải trừ được những mệt mỏi, căng thẳng trong học tập. Nhất
là đối với bộ môn mỹ thuật, là bộ mơn sáng tạo ra cái đẹp thì việc phương pháp
tổ chức trị chơi sẽ giúp cho các em có được khơng khí học tập nhẹ nhàng - tạo
cảm xúc bất ngờ cho học sinh để có những điều bất ngờ hay độc đáo trong bố
cục, xây dựng hình và cách dùng màu được tốt hơn. Có tinh thần đồn kết hơn
giữa các thành viên trong đội chơi.
III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
Với một số giải pháp trên, nếu giáo viên sử dụng tốt, linh hoạt, hài hịa thì
giờ học sẽ sôi nổi, học sinh tiếp thu nhanh hơn, hiệu quả hơn, dần dần cảm nhận
được cái đẹp, cái hay trong tác phẩm cũng như trong cuộc sống.
13
Áp dụng một số giải pháp giúp học sinh hứng thú học phân môn thường
thức mĩ thuật nêu trên và qua một các bài học cụ thể, tôi khảo sát và thấy chất
lượng học thường thức mĩ thuật của học sinh trường ................... được nâng lên
rõ rệt.
Sau khi học xong tiết thường thức mĩ thuật tôi làm phiếu điều tra như sau
Em hãy nêu suy nghĩ của mình qua tiết học vừa rồi?
Em có thích học phân mơn thường thức mĩ thuật không?
Và kết quả thu được trước và sau khi áp dụng các giải như sau:
Trước khi áp dụng các giải pháp năm học 20…. – 20…:
Khối
Sĩ số
Yêu thích
SL
Tỉ lệ
Khơng thích
SL
Tỉ lệ
6
7
8
9
Tổng
Sau khi áp dụng các giải pháp năm học 20…. – 20…..:
Khối
Sĩ số
u thích
SL
Tỉ lệ
Khơng thích
SL
6
7
8
9
Tổng
I.
ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
14
Tỉ lệ
Các kết quả nghiên cứu trên tôi hy vọng rằng các phương pháp, giải pháp
đưa ra góp một phần nào trong chương trình dạy mỹ thuật nói chung và giảng
dạy phân mơn thường thức mĩ thuật nói riêng
Là giáo viên giảng dạy môn Mĩ thuật tại trường tôi thấy cơ sở vật chất cịn
thiếu thốn vì vậy đề nghị các cấp có thẩm quyền tạo mọi điều kiện thuận lợi, cung
cấp các thiết bị cần có, hiện đại phù hợp với từng bộ mơn để giúp giáo viên có
điều kiện nghiên cứu và vận dụng vào công việc giảng dạy của mình được tốt
hơn, giúp học sinh có tiết học sinh động, dễ hiểu đạt hiệu quả cao. Đối với mơn
Mĩ thuật cần có phịng học Mĩ thuật rộng, đầy đủ ánh sáng. Phương tiện (bàn,
ghế, giá vẽ, mẫu vẽ, giấy, màu, máy chiếu hình, tranh, tượng, phiên bản, các tài
liệu tham khảo …) theo đặc thù của bộ môn
Trên thực tế, việc ứng dụng sáng kiến này có khả năng áp dụng trong phạm vi
rộng trên toàn thị xã. Tôi rất mong nhận được sự giúp đỡ cùng những lời góp ý
chân thành từ các cấp lãnh đạo và các thầy cơ giáo để sáng kiến này ngày một
hồn thiện hơn.
NGƯỜI THỰC HIỆN
(Ký tên và ghi rõ họ tên)
15