Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Hiệp định chống bán phá giá của WTO và luật chống bán phá giá của hoa kỳ và vụ kiện bán phá giá cá tra, cá ba sa của các công ty hoa kỳ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191 KB, 26 trang )

MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................ 1
NỘI DUNG

Chương 1: Hiệp định chống bán phá giá của WTO và luật chống bán phá
giá của Hoa Kỳ...................................................................................................3
1.1. Hiệp định chống bán phá giá của WTO.......................................................3
1.1.1. Khái niệm bán phá giá...............................................................................3
1.1.2. Điều chỉnh chống bán phá giá của GATT.................................................3
1.1.3. Xác định việc bán phá giá.........................................................................4
1.1.4. Xác định biên phá giá và mức độ tổn thất.................................................5
1.2. Luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ............................................................5
1.2.1. Phạm vi điều chỉnh....................................................................................5
1.2.2. Điều kiện để khởi xuất một vụ kiện bán phá giá.......................................6
1.2.3. Các giai đoạn chính của một cuộc điều tra chống bán phá giá.................6
1.2.4. Bắt đầu điều tra..........................................................................................7
1.2.5. Chứng cứ để kết luận hàng hố có bán phá giá hay không.......................7
1.2.6. Xác định việc bán phá giá.........................................................................8
1.2.7. Xem xét lại................................................................................................8
Chương 2. Vụ kiện công ty Việt Nam bán phá giá cá tra, cá ba sa của các
công ty Mỹ..........................................................................................................9
2.1 Nguyên nhân dẫn đến vụ kiện bán phá giá cá tra và cá ba sa giữa Việt
Nam và Mỹ..........................................................................................................9
2.1.1. Nguyên nhân..............................................................................................9
2.1.2. Danh sách các bên trong vụ kiện...............................................................9
2.1.2.1 Bên nguyên đơn.......................................................................................9
2.1.2.2. Bên bị đơn..............................................................................................10

1



2.2. Diễn biến vụ kiện.........................................................................................11
2.2.1. Diễn biến...................................................................................................11
2.2.2. Phân tích lợi thế của phía Việt Nam trong vụ kiện....................................14
2.2.3. Phân tích những cáo buộc phi lý của Mỹ..................................................15
2.2.4. Kết quả vụ kiện..........................................................................................15
2.2.5. Ảnh hưởng của kết quả cuối cùng của vụ kiện đối với cả hai phía...........16
2.2.5.1. Ảnh hưởng của kết quả cuối cùng đối với Mỹ.......................................16
2.2.5.2. Ảnh hưởng của kết quả cuối cùng đối với Việt Nam.............................16
2.2.5.3. Phân tích phản ứng của hai phía trước kết quả này................................17
Chương 3: Một số giải pháp hạn chế ảnh hưởng của luật chống bán phá giá
của Mỹ đối với hoạt động xuất khẩu thủy sản của các doanh nghiệp Việt
Nam vào thị trường Mỹ....................................................................................18
3.1. Các giải pháp mang tính định hướng chung.................................................18
3.2. Các giải pháp cụ thể.....................................................................................20
3.2.1. Về kỹ thuật và pháp lý...............................................................................20
3.2.2. Tăng cường hơn công tác quản lý xuất nhập khẩu....................................20
3.2.3 Các doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược marketing ở Mỹ....................20
3.2.4. Đẩy mạnh quảng bá thương hiệu, nâng cao chất lượng sản phẩm...........21
3.2.5.Liên kết với các nhà nhập khẩu Mỹ và nghiên cứu các đối thủ cạnh
tranh ở Mỹ..........................................................................................................21
3.2.6. Đẩy mạnh việc sản xuất cá theo mơ hình khép kín...................................22
KẾT LUẬN..........................................................................................................23
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TÀI LIỆU THAM KHẢO

2


LỜI MỞ ĐẦU

Q trình tồn cầu hóa kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, mang lại nhiều lợi
ích và thúc đẩy sự phát truển kinh tế của nhiều quốc gia trên cơ sở một nền
thương mại đầu tư và công bằng. Trong những năm qua, sự nghiệp đổi mới của
Việt Nam tiếp tục đạt được những thành tựu hết sức to lớn trên mọi lĩnh vực.
Nền kinh tế của nước ta liên tục đạt tốc độ tăng trưởng cao và ổn định. Quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Các quan hệ kinh tế đối ngoại
khơng ngừng mở rộng và phát triển, trong đó Hoa Kỳ trở thành một đối tác rất
quan trọng.
Hoa Kỳ trong những năm gần đây đã trở thành một thị trường lớn đầy
tiềm năng của các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam. Một trong các sản phẩm
xuất khẩu đó là cá tra, cá ba sa được nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ dưới dạng
philê đơng lạnh đã góp phần đáp ứng nhu cầu tiêu thụ cá của người dân Hoa Kỳ
đồng thời thúc đẩy được nghề nuôi loại cá này, tạo công ăn việc làm cho hàng
vạn lao động ngư trại và nhà máy chế biến thủy sản tại Việt Nam. Phát triển
buôn bán cá tra, cá ba sa giữa Việt Nam và Hoa Kỳ là nhằm mang lại lợi ích cho
cả hai quốc gia. Mặt khác là hàng loạt các rào cản thương mại đặc biệt là kiện
chống phá giá vào thị trường Hoa Kỳ luôn là mối lo ngại và có ảnh hưởng rất lớn
đối với các sản phẩm xuất khẩu từ các tra, các ba sa của Việt Nam.
Với mục đích tìm hiểu và nêu ra một số giải pháp hạn chế ảnh hưởng của
luật chống bán phá giá của Mỹ đối với hoạt động xuất khẩu thủy sản của các
doanh nghiệp Việt Nam vào thị trường Mỹ, khắc phục những hạn chế của các
doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản nói chung và các sản phẩm xuất khẩu từ các
tra, các ba sa nói riêng và tối đa hóa doanh số bán và lợi nhuận trên thị trường
đầy tiềm năng và biến động như thị trường Hoa Kỳ. Mang lại nguồn thu cho
doanh nghiệp và khẳng định được vị thế của các doanh nghiệp Việt Nam trên
trường quốc tế. Bởi hiện nay, Việt Nam đã trở thành thành viên của tổ chức

3



thương mại thế giới WTO thì việc các doanh nghiệp và hiệp hội Việt Nam nắm
vững pháp luật thương mại quốc tế nói chung và luật chống bán phá giá nói riêng
là vấn đề quan trọng hơn bao giờ hết, để chủ động đối phó khi cần thiết và có kế
hoạch sản xuất cho phù hợp.
Trên cơ sở đó em đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: “ Hiệp định chống bán
phá giá của WTO và Luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ và vụ kiện bán phá
giá cá tra, cá ba sa của các công ty Hoa Kỳ”. Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS
Nguyễn Như Bình đã giúp em hoàn thành đề tài này.

Bố cục đề tài gồm :
LỜI MỞ ĐẦU
NỘI DUNG:
Chương 1: Hiệp định chống bán phá giá của WTO và luật chống bán
phá giá của Hoa Kỳ.
Chương 2: Vụ kiện công ty Việt Nam bán phá giá cá tra, cá ba sa của các
công ty Mỹ.
Chương 3: Một số giải pháp hạn chế ảnh hưởng của luật chống bán
phá giá của Mỹ đối với hoạt động xuất khẩu thủy sản của các doanh nghiệp
Việt Nam vào thị trường Mỹ.
KẾT LUẬN
Vinh. Ngày

tháng

năm 2011

HỌC VIÊN

Nguyễn Trung Hiểu


4


Chương 1:
Hiệp định chống bán phá giá của WTO và luật chống bán phá
giá của Hoa Kỳ.
1.1. Hiệp định chống bán phá giá của WTO.
1.1.1. Khái niệm bán phá giá.
Khái niệm bán phá giá được nêu ở Điều 2 của Hiệp định. Một hành vi được
coi là bán phá giá nếu như hàng hoá được sản xuất ở một nước và được bán ở
nước khác với giá thấp hơn giá bán ở trong nước. Thông thường bán phá giá
được xem là hành vi thương mại không công bằng và do vậy các chính phủ có
quyền hành động để chống lại việc bán phá giá nhằm bảo vệ quyền các ngành
sản xuất nội địa.
Người ta thường phân biệt đa dạng bán phá giá: phân biệt giá quốc tế, định
giá mang tính cướp bóc, phá giá tuỳ từng lúc. Trong ba dạng trên định giá mang
tính cướp bóc được định nghĩa là việc đặt giá thấp hơn chi phí với mục đích làm
tổn hại hoặc loại trừ đối thủ cạnh tranh ở ngành sản xuất nội địa để nâng giá
hàng nhập khẩu về sau. Do vậy, hình thức bán phá giá này thường được xem là
lý do chủ yếu xem xét về mặt kinh tế của việc áp dụng luật chống bán phá giá.
1.1.2. Điều chỉnh chống bán phá giá của GATT
Cả GATT 1947 và GATT 1994 đều không đưa ra luật chống bán phá giá mà
chỉ cho phép các thành viên có thể áp dụng các biện pháp chống bán phá giá và
đưa ra các quy tắc điều chỉnh việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá.
Hiệp định chống bán phá giá cho phép các chỉnh phủ được phép áp đặt các
biện pháp chống bán phá giá khi ngành cạnh tranh nội địa thực sự bị tổn hại.
Muốn áp dụng các biện pháp chống phá giá một nước phải:
Chỉ ra được đang diễn ra việc bán phá giá ( theo định nghĩa bán phá giá )
Tính tốn được mức độ phá giá, hay biên phá giá có nghĩa là giá xuất khẩu
thấp hơn bao nhiêu so với giá trị ở thị trường nội địa các nước xuất khẩu

5


Chứng minh được rằng phá giá gây ra tổn thất đủ lớn về mặt vật chất
Biện pháp chống bán phá giá các nước thường áp dụng là áp đặt thuế chống
bán phá giá nhằm tăng giá trở lại mức thông thường.
1.1.3. Xác định việc bán phá giá.
Một sản phẩm bị coi là bán phá giá nếu như giá xuất khẩu thấp hơn giá trị
thơng thường của nó. Giá trị thơng thường được định nghĩa là giá trong điều kiện
thương mại bình thường của hàng hóa tương tự tại thị trường nội địa của nước
xuất khẩu.
Trong trường hợp không xác định được giá trị thơng thường theo định
nghĩa trên, ví dụ do sản phẩm thương tự không được bán ở thị trường nội địa, thì
giá trị thơng thường được xác định như sau:
Dựa vào nước xuất khẩu thứ 3: Lấy giá nhà xuất khẩu bán cho nước thích
hợp thứ 3.
Tính tốn giá trị thơng thường: bằng chi phí sản xuất ở nước xuất xứ cộng
với một mức chi phí hợp lý về quản lý, bán hàng, và đưa mức lợi nhần hợp lý.
Về điểm này, Hiệp định cũng đưa ra những quy định cụ thể cho một số trường
hợp đặc thù.
Trong trường hợp nước bán phá giá có nền kinh tế thị trường, WTO cho
phép thành viên của nó có thể khơng chấp nhận giá cả hoặc chi phí trong nền
kinh tế phi thị trường đó làm cơ sở thích hợp cho việc tính tốn giá trị thơng
thường do họ cho rằng giá hoặc chi phí đó là chính phủ áp đặt và không bị chi
phối bởi các lực lượng thị trường. Trong trường hợp đó cơ quan điều tra có
quyền sử dụng giá cả hoặc chi phí ở nước thứ ba làm căn cứ cho việc tính giá trị
thơng thường. Trên thực tế đây là một điều thiệt thòi cho các nước bị quy là
khơng có nền kinh tế thị trường vì chi phí thường bị đánh giá cao hơn nhiều so
với thực tế. Đây là trường hợp xảy ra trong vụ các chủ trại cá ba sa Hoa Kỳ kiện
các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá.


6


1.1.4. Xác định biên phá giá và mức độ tổn thất.
Biên phá giá thường xác định bằng cách so sánh bình quân gia quyền của
giá bán nội địa với bình quân gia quyền của giá bán ở thị trường xuất khẩu hoặc
bằng cách so sánh giá nội địa và giá xuất khẩu trên cơ sở giao dịch với giao dịch.
Để xác định mức độ tổn thất do việc bán phá giá gây ra, WTO u cầu phải có
q trình điều tra tuân thủ các thủ tục quy định. Về nguyên tắc, quá trình điều tra
phải tạo cơ hội cho các bên liên quan đưa ra các bằng chứng của mình.
Hiệp định đưa ra các quy đinh cụ thể sau:
Việc điều tra chống bán phá giá phải được chấm dứt ngay lập tức nếu các
cơ quan có thẩm quyền xác định rằng biên phá giá là không đáng kể, cụ thể là
nhỏ hơn 2% so với giá xuất khẩu.
Việc điều tra cũng phải kết thúc nếu tổng mức nhập khẩu bị phá giá là
khơng đáng kể, có nghĩa là tổng mức nhập khẩu từ một nước là nhỏ hơn 3% tổng
mức nhập khẩu sản phẩm đó. Tuy nhiên, việc điều tra vẫn có thể tiền hành nếu
nhiều nước gộp lại chiếm bằng hoặc hơn 7% tổng mức nhập khẩu mặc dù từng
nước chỉ cung cấp ít hơn 3%.
Các biện pháp chống bán phá giá chỉ có hiệu lực trong vịng 5 năm tính từ
ngày có hiệu lực, trừ khi việc điều tra chỉ ra rằng việc chấm dứt các biện pháp
chống bán phá giá sẽ lại dẫn đến sự tổn thất cho ngành sản xuất nội địa.
Mọi khiếu kiện về sự khơng nhất trí với Hiệp định có thể tham khảo quy tắc
giải quyết tranh chấp của WTO.
1.2. Luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ.
1.2.1. Phạm vi điều chỉnh.
Luật chống bán phá giá của Mỹ cho phép chính quyền Mỹ thu thuế nhập
khẩu đặc biệt (được gọi là thuế chống bán phá giá) để bù lại phần thiệt hại do
việc nhập khẩu hàng hố với giá thấp ở mức “khơng công bằng”. Để áp dụng


7


thuế chống bán phá giá, DOC và ITC phải xác định được hàng hoá nhập khẩu
nào đang được bán ở mức thấp hơn giá trị bình thường và gây ra hoặc đe dọa gây
thiệt hại đáng kể cho một ngành sản xuất trong nước.
Nếu hàng nhập khẩu từ một nước đang bị điều tra được coi là không đáng
kể (thường được xác định là nhỏ hơn 3% tổng giá trị nhập khẩu của sản phẩm bị
điều tra) thì việc điều tra nước đó sẽ dừng lại. Luật này cũng quy định các trường
hợp được hưởng miễn trừ ví dụ như đối với Ixraen.
Luật chống bán phá giá còn cho phép các ngành công nghiệp của Mỹ được
nộp đơn khiếu nại về hoạt động bán phá giá ở nước thứ ba. Nếu Đại diện Thương
mại Mỹ xác định là có đủ cơ sở để điều tra, họ sẽ đưa yêu cầu lên các cơ quan có
thẩm quyền ở nước thứ ba yêu cầu họ phải thay Mỹ tiến hành việc chống bán
phá giá.
Các bên không đồng ý với đánh giá cuối cùng của DOC và ITC về các vụ
chống bán phá giá có thể nộp đơn yêu cầu xử lại lên Toà án Thương mại quốc tế
của Mỹ ở New York.
1.2.2. Điều kiện để khởi xuất một vụ kiện bán phá giá.
Muốn được khởi kiện, nguyên đơn phải là một cá nhân, tổ chức có liên
quan, ví dụ như là nhà sản xuất hay một tổ chức, hiệp hội nằm trong một khu
vực, ngành sản xuất mà có hàng hố đang phải cạnh tranh với hàng hố nhập
khẩu. Để có sự ủng hộ của số đông các thành viên trong khu vực, ngành sản
xuất, Luật địi hỏi ngun đơn phải có thẩm quyền đại diện, ít nhất là phải có
trên 25% tổng số sản phẩm của loại hàng đang cạnh tranh.
1.2.3. Các giai đoạn chính của một cuộc điều tra chống bán phá giá.
Trình tự một cuộc điều tra chống bán phá giá tại Mỹ gồm 6 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Khởi sự điều tra để áp đặt thuế chống bán phá giá (thơng thường là
20 ngày sau khi có đơn khiếu nại yêu cầu áp đặt thuế chống phá giá của các

doanh nghiệp hoặc hiệp hội trong nước).

8


Giai đoạn 2: Điều tra sơ bộ của Ủy ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ về thiệt hại
(thông thường là 45 ngày sau khi có đơn khiếu nại)
Giai đoạn 3: Xác định sơ bộ của Bộ Thương mại Hoa Kỳ (140 ngày sau khi bắt
đầu điều tra, tối đa là 190 ngày đối với những trường hợp phức tạp).
Giai đoạn 4: Quyết định cuối cùng của Bộ Thương mại Hoa Kỳ (215 ngày sau
khi bắt đầu điều tra, tối đa là 275 ngày).
Giai đoạn 5: Quyết định cuối cùng của Ủy ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ về
thiệt hại (260 ngày sau khi bắt đầu điều tra)
Giai đoạn 6: Lệnh áp đặt thuế chống phá giá (khoảng một tuần sau khi có quyết
định cuối cùng của Ủy ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ).
Tổng thống có thể huỷ bỏ lệnh của Uỷ ban Thương mại quốc tế tròng vịng
60 ngày vì “những lý do chính trị”.
Hàng năm vào chính ngày lệnh thuế chống bán phá giá được ban hành, các
bên có cơ hội đưa ra yêu cầu xem xét lại theo thủ tục hành chính về biên độ phá
giá cho một khoảng thời gian một năm kế tiếp đó.
1.2.4. Bắt đầu điều tra
Các cuộc điều tra chống bán phá giá được bắt đầu trên cơ sở một đơn
khiếu kiện yêu cầu điều tra do một hoặc các bên có quyền và lợi ích liên quan đệ
trình. Những đơn kiện phải được gửi đồng thời đến cả DOC và ITC và các bên
có quyền và lợi ích có liên quan
DOC có trách nhiệm tiến hành điều tra khi một đơn kiện được đệ trình
“bởi ngành cơng nghiệp trong nước hoặc bởi đại diện của nó” và trong đơn đưa
ra những yếu tố cần thiết để yêu cầu áp đặt một mức thuế chống bán phá giá,
cũng như bao gồm tất cả những thơng tin hợp lý sẵn có của người đệ đơn.
1.2.5. Chứng cứ để kết luận hàng hoá có bán phá giá hay khơng.

Việc thu thập những thơng tin cần thiết để xác định liệu có tồn tại việc bán
phá giá hay không và phá giá với mức độ nào sẽ được thực hiện bằng cách DOC

9


gửi cho các nhà nhập khẩu và xuất khẩu những mặt hàng đang được điều tra
những bản yêu cầu cung cấp thông tin hoặc bảng câu hỏi.
DOC phải thẩm tra tất cả các thông tin mà DOC căn cứ vào đó để đưa ra
quyết định cuối cùng về việc tiến hành hay hủy bỏ quá trình điều tra đầu tiên.
DOC buộc phải nhận được sự đồng ý của bên nước ngồi có liên quan biết về
q trình thẩm tra này. DOC viết báo cáo theo tiến trình thẩm tra và đồng thời
tạo cơ hội cho bên khiếu kiện và bên bị kiện đệ trình biện hộ và giải thích.
1.2.6. Xác định việc bán phá giá.
DOC xác định biên độ bán phá giá bằng việc so sánh giá cả của các sản
phẩm đối tượng được bán tại Hoa Kỳ (giá xuất khẩu) với “giá trị chuẩn” của
hàng hố đó. “Giá trị chuẩn” được xác định là giá, mà tại một thời điểm tương
ứng hợp lý với thời điểm bán hàng hoá với giá đó, được sử dụng để xác định giá
xuất khẩu hoặc giá xuất khẩu xây dựng, hoặc là giá “tại một thời điểm mà sản
phẩm nước ngoài được bán đầu tiên cho một người mua khơng có quan hệ chi
phối để tiêu thụ tại nước xuất khẩu, với số lượng thương mại thường xun và
trong q trình bn bán trao đổi thơng thường và trong phạm vi có thể thực hiện
được, cùng mức độ thương mại với giá xuất khẩu hoặc giá xuất khẩu cấu thành”.
1.2.7. Xem xét lại.
Nếu được các bên có quyền và lợi ích liên quan yêu cầu, việc xem xét lại
theo thủ tục hành chính các lệnh chống bán phá giá và các thoả thuận đình chỉ
thường được DOC tổ chức một lần sau mỗi khoảng thời gian 12 tháng tính từ
ngày bắt đầu áp dụng lệnh.
Do yêu cầu của Hiệp định Chống bán phá giá WTO, luật pháp Hoa Kỳ
quy định rằng cứ 5 năm một lần các lệnh thuế chống bán phá giá phải được DOC

và ITC xem xét lại, và huỷ bỏ trừ khi nó được chứng minh rằng việc bán phá giá
và thiệt hại vật chất có khả năng vẫn tiếp tục diễn ra hoặc tái diễn trong khoảng
thời gian dự đoán hợp lý.

10


Chương 2.
Vụ kiện công ty Việt Nam bán phá giá cá tra, cá ba sa
của các công ty Mỹ.
2.1 Nguyên nhân dẫn đến vụ kiện bán phá giá cá tra và cá ba sa giữa
Việt Nam và Mỹ.
2.1.1. Nguyên nhân
Việt Nam bắt đầu xuất khẩu cá tra, cá basa sang Mỹ từ năm 1996. Năm
1998, sản phẩm cá da trơn phi lê đông lạnh của Việt Nam xuất khẩu sang đây đạt
260 tấn, năm 2000 là 3.000 tấn, đến năm 2001 thì xấp xỉ đạt 8.000 tấn. Sản phẩm
cá tra, cá basa philê do Việt Nam sản xuất được người tiêu dùng Mỹ đặc biệt ưa
chuộng do ngon, giá thành hạ. Trước tình hình sản phẩm hải sản của Việt Nam
bước đầu đặt chân được vào thị trường Mỹ, CFA đã thể hiện phản ứng bằng việc
đưa ra chủ trương chống các sản phẩm cá tra, cá basa của Việt Nam. Những luận
điểm chính của CFA chống việc nhập khẩu cá tra, basa Việt Nam vào Mỹ là:
Sự xuất hiện của sản phẩm cá da trơn giá rẻ từ Việt Nam đã khiến tổng trị
giá catfish bán ra của các nhà nông nghiệp Mỹ giảm mạnh từ 446 triệu USD năm
2000 xuống còn 385 triệu USD năm 2001. Sản phẩm của Việt Nam thường có
giá rẻ hơn từ 0,008 đến 1 USD/pound .CFA cho rằng cá da trơn Việt Nam đã
nhập khẩu ồ ạt vào Mỹ, làm cho giá cá của Mỹ cũng giảm theo. Mặt khác, CFA
nói rằng cá Việt Nam nuôi trong môi trường nước bị ô nhiễm, khơng đảm bảo
chất lượng và an tồn thực phẩm cho người tiêu dùng. Phía CFA yêu cầu sản
phẩm cá da trơn khơng được gọi là catfish, vì như vậy là vơ hình chung ăn theo
uy tín của cá nheo Mỹ.

2.1.2. Danh sách các bên trong vụ kiện
2.1.2.1 Bên nguyên đơn:
Hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ. Đại diện cho bên nguyên đơn:

11


Liên doanh Luật Akin Gump Strauss Hauer & Field LLP, với nhóm luật
sư: Valerie A. Slater, J. David Park và Thea D. Rozman- Louis Thompson, Chủ
tịch CFA, Hugh Warren, Phó Chủ tịch CFA
Các nhà sản xuất cá catfish:
Ông Randy Rhodes, Công ty Southern Pride Catfish
Kim Cox và Bill Dauler, Công ty Consolidated Catfish
Randy Evans, Trại cá nheo Evans Fish
Seymour Johnson, Công ty Marie Planting
Charles Pilkinton, Trại cá nheo Pilkinton Brothers Catfish
Các công ty chế biến catfish:
David Pearce, đại diện Hãng Pearce Catfish Farm
Danny Walker, đại diện Công ty Heartland Catfish
Thomas L. Rogers, đại diện Hãng Capital Trade
Daniel W. Klett, đại diện Hãng Capital Trade
2.1.2.2. Bên bị đơn:
DN thành viên Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam. Đại
diện là:
PGS. TS Nguyễn Hữu Dũng, Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thuỷ
sản Việt Nam.
Ơng Ngơ Phước Hậu, Tổng giám đốc công ty XNK Thuỷ sản An Giang
Ơng Nguyễn Hữu Chí, Phó Vụ trưởng Vụ pháp chế Bộ Thương mại Việt Nam.
Christine Ngo, Giám đốc Công ty Thực phẩm quốc tế H&N.
Matthew Fass, Chủ tịch Tập đoàn Maritime Products International.

Robin Rackowe, Chủ tịch tập đoàn International Marine Fisheries.
TS. Carl Ferraris, Học viện Khoa học California.
Diệp Hoài Nam, Luật sư của White & Case Vietnam.
Đại diện Đại sứ quán Việt Nam tại Mỹ là ông Nguyễn Hữu Chí, cùng nhóm luật
sư William J. Clinton, K. Minh Dang, Lyle Vander Schaaf và Keir A. Whitson.
12


2.2. Diễn biến vụ kiện
2.2.1. Diễn biến
Vào cuối năm 2000, CFA tung lên báo chí Mỹ những thơng tin thất thiệt
về hình ảnh cá tra, cá basa Việt Nam. Đến tháng 2/2001, lúc này ở Mỹ khan hiếm
cá nheo, cá Việt Nam nhập khẩu tăng, CFA bắt đầu một chiến dịch quảng cáo
kéo dài 9 tháng, tiêu tốn 5,2 triệu USD do Viện cá nheo Mỹ phát động và được
CFA tài trợ để chống lại việc nhập khẩu cá tra và basa của Việt Nam.
Tháng 6/2001, Chủ tịch CFA gửi thư yêu cầu đến Tổng thống Bush đề
nghị Chính phủ Mỹ đàm phán với Việt Nam một hiệp định riêng về vấn đề cá
catfish. Ngày 5/10/2001, Hạ viện Mỹ thông qua dự luật HR. 2964 chỉ cho phép
sử dụng tên cá "catfish" cho riêng các loài thuộc họ Ictaluridae (họ cá Nheo Mỹ).
Sau đó khơng lâu, Quốc hội Mỹ thơng qua Đạo luật An ninh trang trại và Đầu tư
nông thơn HR. 2646 cấm hồn tồn việc dùng tên "catfish" cho cá tra, cá basa
Việt Nam, trong vòng 5 năm và có khả năng sẽ kéo dài vĩnh viễn. Trước tình
hình này, các doanh nghiệp của ta đã phải từ bỏ cái tên catfish để trở về với cái
tên thuần Việt nam là cá basa, cá tra.
Ngày 28/6/2002, CFA đã chính thức khởi kiện Việt Nam bán phá giá cá tra
và cá basa vào thị trường Mỹ tại Washington DC. CFA cáo buộc 53 doanh
nghiệp Việt Nam bán phá giá cá tra, basa Việt Nam nhập khẩu vào Mỹ.
Ngày 29/6/2002, VASEP đã ra tuyên bố bác bỏ cáo buộc của CFA về việc
các doanh nghiệp của VASEP bán phá giá cá tra, cá basa sang thị trường Mỹ.
VASEP khẳng định rằng các thành viên của Hiệp hội đã tuân thủ nghiêm túc quy

tắc thương mại của Mỹ và luật pháp quốc tế.
Ngày 3/7/2002, ITC đã gửi đến VASEP một bảng câu hỏi liên quan vấn đề
cá tra, cá basa. Phiên điều trần thứ nhất của vụ kiện đã diễn ra tại Washington
D.C vào ngày 19/7/2002 và kết thúc vào ngày 20/7/2002 tại Washington DC. Tại
buổi điều trần, các doanh nghiệp Việt Nam đã đưa ra tài liệu để bảo vệ và chứng
minh Việt Nam không hề bán phá giá cá tra, cá basa. Các sản phẩm cá da trơn
13


phi lê đông lạnh của Việt Nam chỉ chiếm một thị phần rất nhỏ khơng thể gây ảnh
hưởng tới tình hình ni trồng và chế biến cá nheo của Hoa Kỳ. Đến ngày
8/8/2002, ITC đã bỏ phiếu và thống nhất kết luận: "Dựa trên kết quả điều tra sơ
bộ, ITC thấy ngành ni cá da trơn của Mỹ có thể có nguy cơ bị đe dọa bởi mặt
hàng cá da trơn đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam bán với giá thấp”
Ngày 12/8/2002, DOC tiếp nhận vụ kiện, tiến hành các bước điều tra tiếp
theo và yêu cầu 53 doanh nghiệp Việt Nam chuẩn bị báo cáo về tình hình chế
biến và doanh số xuất cá basa, cá tra sang Mỹ. Ngày 22/8/2002, ITC công bố
quan điểm về vụ kiện. Theo đó, ITC khơng coi catfish là sản phẩm cạnh tranh
trực tiếp với cá basa, cá tra của Việt Nam và loại 500 chủ nông trại cá nheo Mỹ
ra khỏi danh sách nguyên đơn. Ngày 26/8/2002, DOC đã công bố hoãn thời gian
đưa ra kết luận về cuộc điều tra sơ bộ đến 24/1/2003, chậm 50 ngày so với lộ
trình ban đầu.
Ngày 2/10/2002, Đồn chun gia của DOC do Phó trợ lý Bộ trưởng
Thương mại Mỹ - ông Joseph. A. Spetrini dẫn đầu đã tới Hà Nội và có buổi làm
việc với Bộ Thương mại Việt Nam về vụ kiện này. Chuyến đi này chỉ nhằm mục
đích là tìm hiểu tình hình ni cá tra, cá basa của một vài tỉnh phía Nam, gặp gỡ
các doanh nghiệp Việt Nam tham gia xuất khẩu cá tra, cá basa vào thị trường
Mỹ, hướng dẫn trả lời các câu hỏi điều tra của DOC liên quan đến vụ kiện này.
Ngày 8/11/2002, Phịng Chính sách của Bộ Thương mại Mỹ kiến nghị coi
nền kinh tế Việt Nam là phi thị trường. Ngày 14/11/2002, DOC đã phê chuẩn

kiến nghị coi Việt Nam là nước có nền kinh tế phi thị trường và chọn Ấn Độ là
nước thứ ba.
Ngày 29/11/2002, Hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ nộp đơn lên
DOC cho rằng đã xuất hiện “tình trạng khẩn cấp ” trong vụ kiện cá basa.
Theo luật chống bán phá giá của Mỹ, để xác định “trường hợp khẩn cấp”
cần phải có quyết định của cả DOC và ITC. Ngồi ra, bên ngun đơn cịn phải
chứng minh “có thiệt hại đáng kể” nhưng tại thời điểm này thì ITC mới quyết
14


định sơ bộ là “chỉ có nguy cơ gây thiệt hại nghiêm trọng” chứ khơng phải là “có
thiệt hại đáng kể vào thời điểm hiện tại” nên sự tồn tại của cái gọi là “trường hợp
khẩn cấp” của CFA bị bác bỏ.
Ngày 27/1/2003, DOC ra phán quyết các doanh nghiệp Việt Nam xuất
khẩu sang Mỹ bán phá giá và đề nghị mức thuế đối với cá basa Việt Nam nhập
vào Mỹ là 37,94% - 63.88%. Mức thuế do DOC đưa ra sẽ được áp dụng ngay
sau khi thông báo. Ngày 1/3/2003, DOC sửa mức thuế phá giá đối với cá basa
Việt Nam (trong khoảng 31,45% - 63,88% thay vì 37,94% - 63,88%).
Tên công ty
Mức trước đây Mức sau khi sửa
Agifish
61,88%
31,45%
Cataco
41,06%
41,06%
Vĩnh Hồn
37,94%
37,94%
Navifishco

53,96%
38,09%
Các cơng ty khác có 49,16%
36,76%
tham gia vụ kiện
Các cơng ty không 63,88%
63,88%
tham gia vụ kiện
Bảng Điều chỉnh mức thuế chống bán phá giá của DOC.
Nguồn: Vnexpress ngày 1/3/2003 Bài DOC sửa mức thuế phá giá đối với cá
basa của Việt Nam.
Ngày 17/6/2003 phiên điều trần cuối cùng diễn ra tại Washington, DOC
vẫn tuyên bố Việt Nam bán phá giá cá tra và cá basa và dự định áp dụng một
mức thuế rất cao với cá tra, basa của Việt Nam trong khoảng 36,84% - 63,88%
thay vì 31,45% - 63,88% như trước đây. Theo kết luận này các công ty tham gia
vào quá trình điều tra bán phá giá của DOC gồm Agifish, Cataco, Nam Việt,
Vĩnh Hoàn sẽ chịu mức thuế từ 36,84% đến 52,90%. Những đơn vị khác có tham
gia vụ kiện nhưng chỉ trả lời các câu hỏi phần A của DOC (bộ câu hỏi điều tra
bán phá giá) như Afiex, Cafatex, Đà Nẵng… sẽ chịu mức thuế 44,66%. Các đơn
vị khác cũng tham gia xuất sản phẩm sang Mỹ nhưng không theo kiện sẽ chịu

15


mức thuế 63,88%. Theo quy định của Luật chống bán phá giá Mỹ, quyết định
cuối cùng sẽ do Uỷ ban Thương mại quốc tế Mỹ đưa ra trong 45 ngày sau.
2.2.2. Phân tích lợi thế của phía Việt Nam trong vụ kiện
Tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long, cá tra, cá basa chủ yếu được nuôi
trong lồng bè hoặc đăng quầng trên sơng. Hiện nay, hầu hết người ni có thể tự
cho cá tra đẻ nhân tạo. Nhờ đó, giá thành con giống giảm một nửa so với trước

đây. Giá cá tra bột 2-3 đ/con, cá giống 300-500 đ/con. Con cá tra, basa được nuôi
trong môi trường nước luôn luôn chảy nên có thể ni với mật độ cao gấp nhiều
lần và tỷ lệ hao hụt rất thấp so với nuôi cá catfish trong ao ở Mỹ. Khối lượng cá
khi thu hoạch có thể đạt 120 -150 kg, thậm chí đến 170 kg/m3 lồng. Đó là chưa
kể đến rất nhiều chi phí khác ở Việt Nam cũng thấp hơn ở Mỹ.
Một lợi thế khác mà nghề nuôi cá nheo ở đồng bằng sơng Mississippi khó
có thể sánh được là khí hậu ở ĐBSCL rất thích hợp cho sự sinh trưởng quanh
năm của cá không như ở Mỹ cá rất chậm lớn về mùa đông. Cá nheo Mỹ sau 18
tháng nuôi mới đạt 1,5 pao (680 g). Cùng sử dụng thức ăn tự chế biến giàu đạm,
cá tra chỉ cần 8-10 tháng đạt 1 kg và cá basa là 12-14 tháng đạt 1,5 kg. Các
doanh nghiệp Việt Nam ln tìm mọi cách tiết kiệm, hạ chi phí sản xuất và liên
tục đưa ra thị trường các mặt hàng mới như xúc xích cá, cá hun khói... Nhờ vậy
đã giúp các nhà chế biến giảm 5-10% giá thành sản phẩm.
Mặt khác, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ của dư luận đặc biệt là sự
ủng hộ của chính người tiêu dùng Mỹ trong vụ kiện này. Phòng thương mại Mỹ
tại Việt Nam (Amcham) cũng gửi thư cho DOC và ITC để phản đối vụ kiện cá
tra, cá basa. Sáu thượng nghị sỹ Mỹ thuộc cả hai đảng (Cộng hoà và Dân chủ),
tại 6 bang cũng gửi thư đến ITC kêu gọi cơ quan này đưa ra kết luận cơng bằng.
Cịn giới báo chí Mỹ thì cho rằng “Cá basa Việt Nam đã viết nên huyền
thoại về ngoại giao và những tranh cãi quanh bàn ăn về bảo hộ”. Họ cho rằng
trên vũ đài của Luật chống bán phá giá, ngành sản xuất cá da trơn của Mỹ được
nâng đỡ quá nhiều so với đối thủ đến từ nước ngoài.
16


2.2.3. Phân tích những cáo buộc phi lý của Mỹ
Cuối tháng 12/2001, các nhà lập pháp vùng đồng bằng sông Mississippi đã
tìm cách chèn vào luật pháp Mỹ điều khoản nói rằng người Việt Nam khơng thể
gọi cá da trơn bán cho Mỹ là catfish mà phải gọi bằng cá tra, cá basa. Thế nhưng,
CFA lại đưa ra so sánh giá bán cá tra, basa Việt Nam với giá cá catfish Mỹ và

cho rằng các doanh nghiệp Việt Nam đã bán phá giá, vi phạm Luật chống bán
phá giá của WTO và kiện "catfish" Việt Nam ảnh hưởng đến thị trường của họ.
CFA cho rằng Việt Nam đã bán phá giá cá tra, cá basa sang thị trường Mỹ
vì nhận thấy giá bán xuất khẩu của phía Việt Nam thấp hơn nhiều so với giá bán
cá nheo Mỹ. Nhưng thực tế đã chứng minh rằng đồng bằng sông Cửu Long được
thiên nhiên ưu đãi với những điều kiện tuyệt vời để ni cá tra và cá basa, cịn tại
Mỹ người nuôi cá nheo phải đầu tư vốn rất lớn mới có thể tạo ra các điều kiện
cần thiết cho cá phát triển.
Năm 1999, Mỹ nhập khẩu của Việt Nam gần 1000 tấn cá tra, cá basa. Năm
2001 đã nhập tới khoảng hơn 8000 tấn. Các số liệu thống kê của Việt Nam cho
thấy, lượng xuất khẩu cá tra, cá basa của Việt Nam chỉ chiếm khoảng 2% tổng
lượng tiêu thụ trên thị trường Mỹ. Tuy nhiên, phía Mỹ cho rằng con số này ít
nhất vào khoảng 13%. CFA cho rằng cá xuất khẩu của Việt Nam được nuôi trong
một môi trường khơng đảm bảo vệ sinh trong khi chính đồn tuỳ viên nông
nghiệp của họ đã trực tiếp điều tra quy trình ni cá tra, cá basa tại Cần Thơ, An
Giang, Đồng Tháp… đã kết luận môi trường nuôi cá tại Việt Nam đảm bảo vệ
sinh, thức ăn cho cá gồm hai loại tự chế và công nghiệp đều đảm bảo vệ sinh,
trong đó có cả thức ăn cơng nghiệp do Cargill, một công ty của Mỹ cung cấp.
2.2.4. Kết quả vụ kiện
Sáng ngày 24/7/2003, ITC đã đưa ra phán quyết cuối cùng về vụ kiện cá
basa. Theo đó cơ quan này đã khẳng định các doanh nghiệp Việt Nam bán cá
basa vào thị trường Mỹ thấp hơn giá thành, gây tổn hại cho ngành sản xuất cá da
trơn của Mỹ và ấn định mức thuế suất chống bán phá giá rất cao từ 36,84% đến
17


63,88%. Cả 4 thành viên của ITC dự họp đều bỏ phiếu thuận theo đề nghị của
DOC và khẳng định các bằng chứng về việc cá filê đông lạnh của Việt Nam
được bán phá giá là hợp lý, bất chấp sự phản đối gay gắt từ các doanh nghiệp
thủy sản Việt Nam, của nhiều thượng nghị sỹ và báo giới Mỹ.

Quyết định của ITC đã chấm dứt các tranh cãi liên quan đến vụ kiện bán
phá giá cá basa. Ngày 6/8/2003, sau khi cơ quan này ra văn bản chính thức gửi
Bộ Thương mại Mỹ, mức thuế chống bán phá giá mới sẽ có hiệu lực.
2.2.5. Ảnh hưởng của kết quả cuối cùng của vụ kiện đối với cả hai phía
2.2.5.1. Ảnh hưởng của kết quả cuối cùng đối với Mỹ
Trong vụ kiện này, ITC đã thuận tình với CFA để kết luận Việt Nam bán
phá giá cá tra, cá basa vào thị trường Mỹ và áp đặt một mức thuế chống bán phá
giá rất cao. Điều này cũng có nghĩa, sự bảo hộ dành cho các nhà chế biến lại là
cái giá mà người tiêu dùng và các nhà kinh doanh nhập khẩu cá tra và cá basa
của Mỹ phải chi trả thêm một cách rất vô lý để chính phủ Mỹ phân phối lại cho
một nhóm nhỏ các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ vốn không đủ năng lực để sản xuất
ra các sản phẩm cạnh tranh. Việc này sẽ tạo ra một tiền lệ không tốt là khi Chính
phủ Mỹ càng bảo hộ sản xuất trong nước thì những nhà sản xuất của nước này
càng địi hỏi nhiều hơn, và hành động trên của Mỹ cũng sẽ làm chậm q trình
quốc tế hố thị trường cá da trơn
2.2.5.2. Ảnh hưởng của kết quả cuối cùng đối với Việt Nam
Những cố gắng trước đây của phía Mỹ nhằm hạn chế triệt để mặt hàng cá
da trơn của Việt nam trên thị trường nước này (bằng cách viện cớ rằng cá khơng
đảm bảo vệ sinh, sau đó là cấm sử dụng tên thương mại catfish) đã làm rất nhiều
nông dân Việt Nam thua lỗ và chịu hậu quả nặng nề. Mặc dù xuất khẩu cá sang
Mỹ tăng 10,2% (năm 2002) nhưng xuất khẩu catfish đã giảm mạnh nhất là 65%
trong tháng 3 và tháng 4/2002 so với cùng kỳ năm 2001.
Nhiều doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu cá tra, cá basa coi thị trường
Mỹ là thị trường xuất khẩu chủ lực lâm vào cảnh khốn đốn. Việc phải giảm sản
18


lượng xuất khẩu cá tra, cá basa sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong q trình giải
quyết cơng ăn việc làm cho hàng vạn công nhân trong các nhà máy chế biến, lao
động trong khu vực kỹ thuật dịch vụ nghề nuôi, các doanh nghiệp cung cấp thức

ăn và vật liệu nuôi cá và cuộc sống của hàng vạn ngư dân nghèo sống phụ thuộc
vào nghề nghề nuôi cá tra, cá basa khơng có nghề sinh nhai do chưa có điều kiện
làm nghề khác.
2.2.5.3. Phân tích phản ứng của hai phía trước kết quả này
Kết luận của vụ kiện đã đi ngược lại mong muốn và sự trông đợi của công
luận và nhân dân hai nước. Những người Mỹ trọng công lý đã lên tiếng phản đối
mạnh mẽ Quyết định này của DOC và ITC. Ngày 5/8/2003, Thượng nghị sỹ
Edward M. Kennedy (bang Massachuset) đã gửi thư cho Bà Deanna T. Okun,
Chủ tịch ITC yêu cẩu Uỷ ban này xem xét lại hoặc tiến hành bỏ phiếu lại để có
quyết định đúng đắn. Đại diện cho giới kinh doanh Mỹ Ông Andrew H. Forman,
Chủ tịch công ty Infinity Seafood Inc (Mỹ) đã gửi thư cho các thành viên VASEP
và cơ quan Thương vụ Việt Nam tại Mỹ, ông cho rằng ITC và DOC đã hành
động sai lầm vì vậy quyết định của họ cần được xem xét lại ngay lập tức.
Theo hãng tin Bloomberg ngày 23/7/2003, quyết định này là sự dọn đường
cho việc áp đặt các mức thuế suất trong đó cao nhất là 64% đối với Việt Nam,
một trong những đối tác thương mại có mức tăng trưởng lớn nhất của Mỹ, điều
này có thể khuyến khích một hành động tương tự ở ngư dân khai thác tôm Mỹ.
Cịn về phía Việt Nam - Bị đơn bị xử ép trong vụ kiện này, đã bày tỏ sự
bất bình của mình ngay từ khi vụ kiện này cịn là khả năng tiểm ẩn.
Ngày 14/5/2002 Việt Nam đã lên tiếng phản đối việc Tổng thống Mỹ phê
chuẩn Đạo luật An ninh trang trại và Phát triển nông thôn HR 2646, trong đó có
điều khoản 10806 quy định chỉ đặt tên, dán mác hoặc quảng cáo “catfish” cho
các loại cá da trơn thuộc loại cá da trơn Mỹ (Letaluriidae).
Ngày 24/7/2003, Việt Nam cho rằng quyết định của ITC kết luận Việt
Nam bán phá giá cá tra, cá basa vào thị trường Mỹ gây tổn hại cho ngành công
19


nghiệp nuôi cá nheo nước này vẫn là một quyết định không công bằng, không
phản ánh đúng thực tế khách quan. Điều này đã gây thất vọng không chỉ cho các

doanh nghiệp, hàng vạn hộ nuôi cá ở Việt Nam mà cho cả người tiêu dùng Mỹ.
Việc áp đặt các mức thuế chống bán phá giá sẽ gây khó khăn cho ngành
sản xuất cá tra và cá basa Việt Nam. Tuy nhiên, VASEP cho rằng, sản phẩm này
vẫn có khả năng cạnh tranh và phát triển ngay tại thị trường Mỹ và nhiều nước
khác trên thế giới.

20


Chương 3.
Một số giải pháp hạn chế ảnh hưởng của luật chống bán phá giá
của Mỹ đối với hoạt động xuất khẩu thủy sản của các doanh
nghiệp Việt Nam vào thị trường Mỹ.
3.1. Các giải pháp mang tính định hướng chung.
Phải biết kết hợp sức mạnh quốc tế với sức mạnh dân tộc để đối phó với
các vụ kiện. Rõ ràng trong vụ kiện này Việt Nam đã nhận được nhiều sự ủng hộ
của cộng đồng quốc tế, của chính những người tiêu dùng Mỹ. Điều này không
chỉ buộc các cơ quan xét xử của Mỹ không xử ép Việt Nam một cách quá sai lầm
và hạn chế được thiệt hại về kinh tế cho Việt Nam khi bị áp thuế chống bán phá
giá mà còn dành được sự yêu mến của cộng đồng người tiêu dùng thế giới đối
với các sản phẩm cá của Việt Nam.
Phát huy vai trò của các Hiệp hội chuyên ngành, tăng cường sự phối hợp
của các doanh nghiệp để làm mạnh thêm năng lực kháng kiện của các doanh
nghiệp. Quá trình điều tra càng sâu bao nhiêu thì các doanh nghiệp càng phải
phối hợp nhịp nhàng và chặt chẽ với nhau.
Các doanh nghiệp của Việt Nam nên có tinh thần tích cực theo đuổi các vụ
kiện khi bị kiện bán phá giá, bên cạnh các biện pháp hỗ trợ từ phía Chính phủ.
Theo quy tắc của WTO trong giải quyết bán phá giá, doanh nghiệp đóng vai trị
chính cịn Chính phủ của doanh nghiệp bị khởi kiện chỉ đóng vai trị phụ. Nếu
doanh nghiệp từ bỏ quyền lợi kháng kiện, cho dù là bị oan, thì Chính phủ cũng

khơng có cách nào làm thay để cứu vãn.
Chính phủ nên phổ biến rộng rãi kiến thức về WTO và Hiệp định thương
mại song phương Việt - Mỹ cho các doanh nghiệp xuất khẩu, bồi dưỡng đội ngũ
chuyên gia giỏi, hình thành những tổ chức chuyên phục vụ việc ứng phó với các
tranh chấp về ngoại thương có khả năng tư vấn cho doanh nghiệp và hỗ trợ chính
phủ khi có các vụ kiện xảy ra
21


Khi bị kiện tụng các doanh nghiệp nên tích cực hoàn thành các hồ sơ thẩm
vấn. Đây là bảng cầu hỏi hoặc bảng yêu cầu mà Cơ quan tiến hành điều tra
chống bán phá giá đại diện cho bên nguyên cung cấp. Các doanh nghiệp cần đưa
ra đầy đủ các tư liệu, chứng cứ... qua đó sẽ thể hiện tinh thần hợp tác của bị đơn
cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình điều tra chống bán phá giá được
tiến hành một cách nhanh chóng.
Các doanh nghiệp cũng có thể yêu cầu cơ quan tư pháp nước nhập khẩu
can thiệp. Nếu khơng chấp nhận kết luận của Chính phủ nước khởi kiện, có thể
kháng án lên cơ quan tư pháp của nước nhập khẩu. Ở Mỹ là Toà án Thương mại
quốc tế ITC và cao hơn nữa là Tồ án liên bang.
Đề nghị Chính phủ can thiệp. Nếu có đủ chứng cứ chứng minh hành vi
kiện bán phá giá là chuyện nước nhập khẩu muốn bảo hộ mậu dịch, gây thiệt hại
cho doanh nghiệp thì bị đơn có thể đề nghị Chính phủ can thiệp đến WTO.
Kịp thời đề nghị phúc thẩm. Trong thời gian 5 năm kể từ ngày nộp thuế
chống bán phá giá, nếu bên bị đơn đã chấm dứt hành vi bán phá giá thì cần kịp
thời đề nghị Chính phủ nước khởi kiện bán phá giá phúc thẩm, để huỷ bỏ các
hình thức xử phạt trước đây.
Hình thành cơ chế thu thập và xử lý thông tin một cách nhanh nhất trong
các doanh nghiệp. Điều này không những giúp các doanh nghiệp luôn nắm được
diễn biến của thị trường quốc tế mà còn chủ động hơn trong các vụ kiện khi đã
hiểu rõ phần nào đối phương của mình.

3.2. Các giải pháp cụ thể.
3.2.1. Về kỹ thuật và pháp lý.
Trước một vụ kiện chống bán phá giá, để thành công Việt Nam cần phải
chủ động chuẩn bị thật tốt hai yếu tố: kỹ thuật và pháp lý. Về kỹ thuật, cần phải
nhanh chóng hồn chỉnh ngay từ khâu nguyên liệu đến nuôi trồng, chế biến…
Chúng ta cần phải có những hồ sơ trình bày kỹ thuật thật hồn chỉnh để đối
phương khơng thể bắt bẻ mình. Về mặt pháp lý, việc đầu tiên là chúng ta không
22


chỉ biết lo liệu cho mình mà cịn phải thu thập thơng tin đầy đủ về đối phương ví
dụ như việc họ sẽ nhờ công ty luật nào, quan hệ của họ cũng như mẫu thuẫn giữa
họ với các nhà nhập khẩu… Hay phải xác định được rằng giá cả cá nheo cũng
như của nhiều mặt hàng thủy sản khác của Mỹ tăng cao là do hậu quả của một
loạt những yếu tố như: sự hợp nhất giữa các công ty cá nheo, một nền kinh tế suy
thối chưa có dấu hiệu phục hồi và sự kiện ngày 11/9… chứ không phải nguyên
nhân giá cá tra, cá basa rẻ hơn là do Việt Nam bán phá giá.
3.2.2. Tăng cường hơn cơng tác quản lý xuất nhập khẩu.
Về phía các cơ quan chức năng cần phải tăng cường hơn công tác quản lý
xuất nhập khẩu và việc cấp giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) Việt Nam nhằm kiểm
sốt được chính xác số liệu hàng xuất khẩu của Việt Nam đồng thời hạn chế tối
đa việc C/O bị làm giả hoặc bị lợi dụng. Đây là vấn đề hết sức quan trọng bởi
qua thực tế các vụ kiện chống bán phá giá vừa qua giữa Việt Nam và các nước
khởi kiện thường có sự khác biệt lớn về số liệu thống kê hàng xuất khẩu có xuất
xứ từ Việt Nam. Thêm nữa, Chính phủ cũng nên giúp doanh nghiệp tổ chức các
hội chợ thương mại nhằm giới thiệu sản phẩm cá tra và cá basa trên đất Mỹ để
quảng bá thương hiệu, giới thiệu sản phẩm và chiếm được lòng tin của người
tiêu dùng Mỹ.
3.2.3 Các doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược marketing ở Mỹ.
Về phía các doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược marketing ở Mỹ.

Trước tiên để thâm nhập một thị trường lớn phải tìm những khách hàng mua lớn.
Đây chính là kinh nghiệm thành cơng của Hồng Kơng, Đài Loan, Hàn Quốc…
Các doanh nghiệp Việt Nam nên chú ý đến những nhà bán lẻ trên toàn nước Mỹ.
Nên mời họ đến Việt Nam, xây dựng mối quan hệ với họ, sau đó sẽ mời họ đặt
hàng. Đây là những khách hàng lớn, đồng thời sẽ giúp các doanh nghiệp Việt
Nam phát triển. Họ sẽ nhận hàng của Việt Nam tại một điểm và phân phối khắp
nước Mỹ. Trước mắt là như vậy, về lâu dài thì các doanh nghiệp Việt Nam cũng
phải xây dựng một hệ thống phân phối của mình. Từ đó có thể kiểm sốt được
23


mức giá bán chung và tránh được việc các doanh nghiệp tự mình phá giá để cạnh
tranh với nhau.
3.2.4. Đẩy mạnh quảng bá thương hiệu, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Các doanh nghiệp cần đẩy mạnh việc quảng bá thương hiệu và nâng cao
chất lượng sản phẩm thông qua các hội chợ thương mại, các chiến dịch quảng
cáo. Để làm được việc này trước tiên các doanh nghiệp cần tự “tổng kiểm tra sức
khoẻ” của chính mình, phân tích ma trận SWOT và xây dựng chiến lược kinh
doanh phù hợp, đổi mới công nghệ sản xuất, và cải thiện cơ chế thu thập và xử lý
thông tin một cách nhanh nhất. Bên cạnh đó các doanh nghiệp cũng cần phải tập
trung khắc phục điểm yếu lớn nhất của mình đó là năng lực sản xuất cịn hạn
chế, đây chính là yếu tố cản trở nguồn cung xuất khẩu vào Mỹ.
3.2.5.Liên kết với các nhà nhập khẩu Mỹ và nghiên cứu các đối thủ cạnh
tranh ở Mỹ.
Liên kết với các nhà nhập khẩu Mỹ để có thể sản xuất cá tra và cá basa
ngay trên đất Mỹ. Việc đó khơng những giảm được chi phí vận chuyển khi xuất
khẩu mà cịn giúp các doanh nghiệp hiểu rõ hơn về cách kinh doanh trên thương
trường Mỹ, tạo được sự ủng hộ của chính người dân Mỹ.
Nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh ở Mỹ để tránh xung đột quyền lợi đến
mức kiện tụng lên tồ án. Chúng ta sẽ cịn gặp nhiều bất lợi ở thị trường Mỹ nếu

khơng có chiến lược sống chung với các đối thủ mạnh có thế lực ở ngay xứ sở
của họ; Các doanh nghiệp cần phải biết rằng khi một nước xuất khẩu đến một
nước khác những sản phẩm có nhiều ưu thế hơn về chất lượng, giá cả thì chắc
chắn dù ít hay nhiều cũng sẽ đụng phải phản ứng của những nhà sản xuất cùng
sản phẩm trong nước đó. Đây có thể là phản ứng không công bằng nhưng thực tế
vẫn thường xảy ra và ta phải chấp nhận nó như một quy luật của thương trường.
Vấn đề mấu chốt là chúng ta phải dự báo và định lượng được mức độ phản ứng
đó ngay cả lúc trước khi đem hàng qua bán để đề ra được những sách lược đối
phó thích hợp. Mặt khác, Các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần nghiên cứu để
24


nắm chắc thể chế, chính sách hiện hành của Mỹ đối với hàng nhập khẩu, Luật
Thương mại và Luật Khống bán phá giá. Đồng thời, Việt Nam cũng nên chú ý
nghiên cứu thật kỹ Luật Thương mại quốc tế và các Quy định điều ước quốc tế
đa biên để không bị các cường quốc kinh tế như Mỹ lấn át.
3.2.6. Đẩy mạnh việc sản xuất cá theo mơ hình khép kín
Đẩy mạnh việc sản xuất cá theo mơ hình khép kín. Từ đó chủ động được
vấn đề cung cấp ngun liệu sản xuất, chế biến và xuất khẩu. Tiết kiệm được
khoản chi phí khá lớn do cắt giảm chi phí vận chuyển, tận dụng được nguồn chất
thải công nghiệp, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn HACCP từ
khâu nuôi trồng đến khâu sản xuất chế biến, giảm thiểu được lượng chất thải gây
ô nhiễm môi trường xung quan. Mục đích của việc này là nhằm nâng cao chất
lượng sản phẩm xuất khẩu và tính cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam trên thị
trường Mỹ. Một trong những yếu tố quan trọng khác là chúng ta cần xây dựng
một hệ thống phương tiện, máy móc kỹ thuật hiện đại nhằm xác định và đảm bảo
vệ sinh an toàn thực phẩm cho hàng xuất khẩu sang Mỹ
Như vậy trước mắt dù các sản phẩm cá tra và cá basa của Việt Nam có bị
đánh thuế chống bán phá giá cao đi chăng nữa thì với một sản phẩm có chất
lượng và đảm bảo vệ sinh như vậy thì chúng ta vẫn có thể trụ vững trên thị

trường Mỹ, vẫn giữ được thị phần của mình.

25


×