Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Vai trò của viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát xét xử vụ án hình sự từ thực tiễn hoạt động của viện kiểm sát nhân dân tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (659.79 KB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ TỐ LOAN

VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC
TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỈNH NGHỆ AN

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Vinh, 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ TỐ LOAN

VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG KIỂM SÁT
XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nước và pháp luật
Mã số: 60.38.01.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Việt Hương


Vinh, 2017


LỜI CẢM ƠN
Luận văn là kết quả của quá trình cố gắng của bản thân và được sự giúp
đỡ, động viên khích lệ của các thầy cơ, bạn bè đồng nghiệp và người thân.
Qua trang viết này tác giả xin gửi lời cảm ơn tới những người đã giúp đỡ tôi
trong thời gian học tập - nghiên cứu khoa học vừa qua.
Tơi xin tỏ lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối với cô giáo PGS.TS
Nguyễn Thị Việt Hương đã trực tiếp tận tình hướng dẫn cũng như cung cấp
tài liệu thông tin khoa học cần thiết cho luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo trường Đại học Vinh, Khoa Sau
đại học và Ban lãnh đạo, các thầy cô giáo Khoa Luật – Đại học Vinh đã tạo
điều kiện cho tơi hồn thành tốt cơng việc nghiên cứu khoa học của mình.
Cuối cùng tơi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp,
đơn vị cơng tác đã giúp đỡ tơi trong q trình học tập và thực hiện luận văn.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Tố Loan


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………..…1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH
SỰ...................................................................................................................... 9
1.1. Khái niệm, đặc điểm hoạt động kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện
kiểm sát nhân dân .............................................................................................. 9
1.2. Nội dung và phương thức thực hiện vai trò của Viện kiểm sát nhân dân

trong kiểm sát xét xử vụ án hình sự ................................................................ 19
1.3. Điều kiện đảm bảo vai trị của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát xét
xử vụ án hình sự .............................................................................................. 31
Tiểu kết chương 1............................................................................................ 38
Chương 2. THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TRONG KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN............................................................ 39
2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm
sát xét xử vụ án hình sự tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An ................ 39
2.2. Thực trạng thực hiện vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát
xét xử vụ án hình sự tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An ..................... 42
Tiểu kết chương 2............................................................................................ 59
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN
HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN .................................................................... 60
3.1. Quan điểm nâng cao vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát
xét xử vụ án hình sự từ thực tiễn hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Nghệ An .......................................................................................................... 60


3.2. Giải pháp nâng cao vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát xét
xử vụ án hình sự từ thực tiễn hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ
An. ................................................................................................................... 66
Tiểu kết chương 3............................................................................................ 78
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. .................................................... 81


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1 : Kết quả xét xử sơ thẩm ………………………………………….43
Bảng 2.2: Kết quả kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Nghệ An ……………………………………………………….……………45
Bảng 2.3: Kết quả kiểm sát xét xử phúc thẩm ……………………………...48


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những nhiệm vụ của cải cách tư pháp được nêu ra trong
Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020 là “xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm
quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp” trong đó nêu rõ
“trước mắt, viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là
thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp”. Yêu cầu trên đã
được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 2014.
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự thể
hiện chức năng của Viện kiểm sát, bảo đảm hoạt động xét xử đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật; không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm
oan người vô tội. Đồng thời còn là biểu hiện của việc thực hiện quyền lực nhà
nước góp phần ổn định xã hội, phát triển kinh tế. Vì vậy tại khoản 3 Điều 107
Hiến pháp năm 2013 đã quy định “ Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo
vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất.” Để đáp ứng yêu cầu này ngành kiểm sát phải không ngừng nâng
cao chất lượng thực hiện chức năng của mình trong quá trình giải quyết vụ án.
Thực tiễn những năm qua cho thấy, Viện kiểm sát đã cố gắng thực
hiện tốt chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử vụ án

hình sự, chủ động phát hiện các vi phạm trong hoạt động xét xử để kiến nghị,
kháng nghị, yêu cầu khắc phục, sửa chữa, hạn chế oan, sai và bỏ lọt tội phạm,
góp phần có hiệu quả trong đấu tranh, phịng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, bên
cạnh kết quả đạt được, hoạt động của Viện kiểm sát vẫn có những hạn chế


2
trong việc thực hiện chức năng của mình, vẫn để xảy ra tình trạng xét xử oan,
sai. Theo báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tình hình oan, sai trong
việc áp dụng pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự, trong 3 năm từ năm 2012
đến 2014, các cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố, điều tra 219.506 vụ với
338.379 bị can, trong đó có 71 trường hợp bị xử oan, sai, chiếm 0,02%.
Những hạn chế đó đã gây ra những hậu quả về danh dự, nhân phẩm cũng như
vật chất đối với những người bị xét xủ oan, sai hơn nữa còn làm ảnh hưởng
khơng nhỏ đến uy tín của ngành kiểm sát nói riêng và các cơ quan bảo vệ
pháp luật nói chung trước quần chúng nhân dân và dư luận xã hội.
Tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An, công tác kiểm sát xét xử vụ
án hình sự đạt được nhiều thành tích, phát hiện nhiều vi phạm của Tịa án để
kiến nghị, kháng nghị kịp thời, góp phần có hiệu quả trong việc giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân trên địa bàn tỉnh, phục vụ tích cực nhiệm vụ chính trị địa phương,
được cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân tin tưởng, đánh giá cao. Tuy
nhiên, so với yêu cầu của cải cách tư pháp, cơng tác kiểm sát việc xét xử vụ
án hình sự vẫn cịn có những tồn tại, thiếu sót nhất định, vẫn cịn có tình trạng
án bị sửa, hủy do lỗi của Kiểm sát viên.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những tồn tại nêu trên như tính chất thủ
đoạn tội phạm ngày một tinh vi, nhiều bị can tham gia; năng lực, trình độ của
Kiểm sát viên cịn hạn chế chưa đáp ứng đòi hỏi đấu tranh phòng, chống tội
phạm; ý thức trách nhiệm của một số Cán bộ, Kiểm sát viên chưa cao, chưa
chịu khó nghiên cứu, cịn chủ quan...; đặc biệt quy định pháp luật về hình sự

và tố tụng hình sự có những vấn đề cịn bất cập so với yêu cầu đấu tranh
phòng, chống tội phạm chưa được sửa đổi bổ sung kịp thời, công tác hướng
dẫn, giải thích luật thực hiện chưa thường xuyên và đồng bộ dẫn đến việc áp
dụng pháp luật thiếu thống nhất. Những hạn chế về pháp lý và thực tiễn về vai


3
trò kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự đã làm
ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của Viện kiểm sát, là một trong những
nguyên nhân dẫn đến sai phạm trong quá trình tố tụng.
Thực tiễn nêu trên cho thấy việc nghiên cứu về những vấn đề lý luận và
thực tiễn trong công tác kiểm sát xét xử vụ án hình sự từ thực tiễn hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An là hết sức cần thiết để tìm ra
nguyên nhân của những yếu kém, tồn tại. Từ đó có những giải pháp nâng cao
vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát xét xử vụ án hình sự. Chính
vì vậy, người viết đã chọn đề tài: “Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong
kiểm sát xét xử vụ án hình sự từ thực tiễn hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Nghệ An” để làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến chức năng kiểm sát xét xử vụ
án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân đã được một số nhà khoa học, cán bộ
thực tiễn thực hiện và được công bố trong các cơng trình khoa học với các
quy mơ và hình thức ấn phẩm khác nhau. Trong thời gian qua, Viện khoa học
kiểm sát thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao phối hợp với các đơn vị nghiệp
vụ và các cơ quan hữu quan tổ chức triển khai nghiên cứu các đề tài cấp Bộ
như: “Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp”, “Vai trò của Viện kiểm sát trong thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08NQ/TW của Bộ Chính trị”.
Sách chuyên khảo “Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của
việc đổi mới thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” do tác

giả Lê Hữu Thể chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Các luận văn thạc sỹ như:


4
- Nguyễn Thu Huệ (2004), Kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố
tụng hình sự. Những vấn đề lý luận và thực tiễn - Luận văn thạc sĩ Luật học.
- Nguyễn Hữu Khoa (2010), Chức năng của Viện kiểm sát trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Luận văn thạc sĩ Luật học.
- Tôn Thiện Phương (2002), Vai trò của Viện kiểm sát trong xét xử vụ
án hình sự - Luận văn thạc sĩ Luật học.
- Trần Xuân Quang (2009), Chức năng của Viện kiểm sát trong giai
đoạn xét xử phúc thẩm hình sự. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn - Luận văn
thạc sĩ Luật học.
- Nguyễn Thùy Linh (2012), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kiểm
sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân - Luận văn thạc sĩ Luật
học.
- Nguyễn Văn Oanh (1998), Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự - Luận văn thạc sĩ Luật học.
Các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành như:
- Phạm Văn An, Công tác thực hành quyền cơng tố và kiểm sát xét xử
hình sự tại phiên tòa theo yêu cầu cải cách tư pháp - Tạp chí Kiểm sát, số 7
(tháng 4/2011).
- Phạm Văn An, Một số kinh nghiệm trong công tác thực hành quyền
công tố, kiểm sát xét xử hình sự tại phiên tịa theo yêu cầu cải cách tư pháp Tạp chí Kiểm sát, số 10 (tháng 5/2011).
- Trịnh Duy Tám (2006), Bàn về vai trò của Kiểm sát viên tại phiên tòa
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Tạp chí Nghề luật, số 4/2006.
- Nguyễn Huy Tiến, Một số vấn đề liên quan đến trách nhiệm, quyền
hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự - Tạp chí
Kiểm sát, số 17 (tháng 9/2009).



5
Các cơng trình nêu trên đã phân tích làm sáng tỏ một số khía cạnh lý luận và
thực tiễn về chức năng của Viện kiểm sát nói chung hoặc chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân
trong một giai đoạn nhất định thuộc hoạt động xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm án
hình sự. Kết quả nghiên cứu đã tạo ra tiền đề nhận thức quan trọng và tư liệu vật
chất cần thiết cho việc nghiên cứu chủ đề luận văn này.
Nhằm khắc phục khoảng trống trong hoạt động nghiên cứu, luận văn
này tập trung nghiên cứu vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát
xét xử vụ án hình sự. Đặc biệt, luận văn lựa chọn không gian nghiên cứu là từ
thực tiễn hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An, nơi có tình
hình tội phạm phức tạp và hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát được đánh
giá cao trong cả nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nhằm mục đích tổng quát là nghiên cứu xây dựng luận cứ
khoa học cho các giải pháp nâng cao vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong
kiểm sát xét xử các vụ án hình sự tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An
nói riêng, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trên địa bàn cả nước nói chung.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nói trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và pháp luật về vai trò của Viện
kiểm sát nhân dân trong kiểm sát xét xử vụ án hình sự.
- Đánh giá thực trạng vai trò của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ
An trong kiểm sát xét xử vụ án hình sự từ năm 2012 đến năm 2016, từ đó
nhận diện các kết quả và hạn chế.



6
- Tìm ra nguyên nhân của những kết quả và hạn chế để từ đó đề xuất
các giải pháp nâng cao vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát xét
xử các vụ án hình sự tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An nói riêng, Viện
kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trên địa bàn cả nước nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các quan điểm khoa học về chức năng, vai trị, vị trí của Viện kiểm
sát nhân dân trong kiểm sát xét xử vụ án hình sự ở Việt Nam.
- Hệ thống quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân cấp tỉnh.
- Thực trạng vai trò của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An trong
kiểm sát xét xử vụ án hình sự.
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
- Phạm vi nội dung: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản
về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trong giai đoạn xét xử vụ án
hình sự và các phương diện thể hiện vai trò của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh
Nghệ An trong thực tiễn kiểm sát xét xử vụ án hình sự.
- Phạm vi khơng gian: Luận văn giới hạn không gian nghiên cứu là
hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An trong quá trình xét xử
vụ án hình sự.
- Phạm vi thời gian: Luận văn giới hạn việc khảo sát thực tiễn từ năm
2012 đến năm 2016 tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An.


7
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở nhận thức luận của chủ nghĩa Mác Lênin với phương pháp luận là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp phân
tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống kết hợp với phương pháp khảo sát thực tiễn
để kế thừa và chọn lọc những ưu, khuyết điểm trong công tác kiểm sát xét xử
vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Các kết quả của luận văn có ý nghĩa nhất định về mặt khoa học: góp
phần xây dựng một cách nhìn tồn diện về hoạt động kiểm sát của Viện kiểm
sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự từ thực tiễn hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Nghệ An; nhận diện được vai trò quan trọng của Viện kiểm
sát nhân dân trong công tác đấu tranh phịng, chống tội phạm; góp phần nhận
thức đầy đủ hơn về vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tư pháp
ở Việt Nam hiện nay.
Luận văn đề xuất một số giải pháp có giá trị ứng dụng đối với mục
tiêu nâng cao vai trò cuả Viện kiểm sát nhân dân trong xét xử vụ án hình sự.
Các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo phục vụ nghiên cứu, học tập cũng như làm tài liệu cho các cán bộ kiểm
sát trong hoạt động nghiệp vụ của mình.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:


8
Chương 1: Những vấn đề lý luận về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
trong kiểm sát xét xử vụ án hình sự
Chương 2. Thực trạng vai trị của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm
sát xét xử vụ án hình sự tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao vai trò của Viện kiểm sát
nhân dân trong kiểm sát xét xử vụ án hình sự từ thực tiễn hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An.



9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ

1.1. Khái niệm, đặc điểm hoạt động kiểm sát xét xử vụ án hình sự
của Viện kiểm sát nhân dân
1.1.1. Khái niệm kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện Kiểm sát
nhân dân
Quá trình giải quyết vụ án hình sự thường được bắt đầu từ khi cơ quan
có thẩm quyền nhận được tin báo về tội phạm đến khi bản án kết tội hoặc
quyết định của Tịa án có hiệu lực được mang ra thi hành. Quá trình này được
chia thành các giai đoạn khác nhau phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của
từng cơ quan tiến hành tố tụng và được diễn ra liên tục, kế tiếp nhau, các giai
đoạn đó gồm: Khởi tố vụ án hình sự; truy tố và xét xử vụ án hình sự.
Mỗi giai đoạn của hoạt động tố tụng hình sự có nhiệm vụ và định
hướng khác nhau nhưng hướng đến mục đích giải quyết vụ án khách quan,
tồn diện, đúng quy định pháp luật và do các cơ quan tiến hành tố tụng thực
hiện. Giải quyết nhiệm vụ của các giai đoạn tố tụng thuộc trách nhiệm của các
cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) và người
tiến hành tố tụng (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân
dân, Thư ký). Người tham gia tố tụng, cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã
hội là chủ thể góp phần vào giải quyết vụ án hình sự.
Trong hoạt động tố tụng hình sự thì xét xử là chức năng quan trọng
nhất của Tịa án nói riêng và của tồn bộ q trình tố tụng hình sự nói chung
nhằm áp dụng các biện pháp cần thiết do luật định để kiểm tra lại tính hợp
pháp và có căn cứ của toàn bộ các quyết định mà cơ quan Điều tra và Viện
kiểm sát đã thông qua trước khi chuyển vụ án hình sự sang Tịa án, nhằm loại



10
trừ các những hậu quả tiêu cực của các sơ suất, sai lầm hoặc sự lạm dụng đã
bị bỏ lọt trong ba giai đoạn tố tụng hình sự trước đó (khởi tố, điều tra và truy
tố), chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử, hoặc trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc
đình chỉ (hay tạm đình chỉ) vụ án;
Bằng việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm (nếu bản án hay quyết định chưa
có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị) thơng qua q trình điều tra
trực tiếp tại phiên tòa, trên cơ sở kết quả tranh tụng cơng khai và dân chủ của
các bên, Tịa án với tính chất là cơ quan trọng tài kiểm tra lại và đánh giá một
cách toàn diện, khách quan và đầy đủ các chứng cứ, các tình tiết của vụ án
hình sự để giải quyết về vấn đề tính chất tội phạm (hay khơng) của hành vi, có
tội (hay khơng) của bị cáo hoặc bằng việc kiểm tra tính hợp pháp và của bản
án theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm (nếu bản án hay quyết định đã
có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị), nhằm đạt mục đích trong tồn bộ các
giai đoạn tố tụng hình sự là tuyên một bản án (quyết định) có hiệu lực pháp
luật một cách công minh và đúng pháp luật, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết
phục tránh bỏ lọt tội phạm và kết án oan người vô tội.
Như vậy xét xử vụ án hình sự có thể hiểu là hoạt động nhân danh quyền
lực Nhà nước do Tòa án thực hiện, nhằm xem xét, đánh giá và ra phán quyết
về tính hợp pháp và tính đúng đắn của hành vi tội phạm bị luật hình sự cấm,
khơng có ai có thể bị buộc tội mà khơng qua xét xử của các Tòa án và kết quả
xét xử phải được công bố bằng bản án hoặc quyết định.
Xét xử thơng qua Tịa án vừa là cơng cụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa, vừa là công cụ bảo vệ quyền con người.
Hiện nay, theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 2014, hệ thống cơ quan Viện kiểm sát được tổ chức
theo đơn vị hành chính, gồm có Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát



11
nhân dân cấp cao, các Viện kiểm sát nhân dân địa phương (bao gồm: Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi tắt là Viện kiểm
sát nhân dân cấp tỉnh), Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh (gọi tắt là Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện) và các Viện kiểm sát
quân sự (bao gồm: Viện kiểm sát quân sự Trung ương, Viện kiểm sát quân sự
quân khu và tương đương (gọi tắt là Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu) và
Viện kiểm sát quân sự khu vực).
Viện kiểm sát được giao thực hiện chức năng thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp (kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
việc điều tra các vụ án hình sự của Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự; kiểm sát việc giải quyết các vụ
án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc
khác theo quy định của pháp luật; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc
thi hành bản án, quyết định của Toà án nhân dân; kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án
phạt tù; kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về các hoạt động tư pháp
của các cơ quan tư pháp). Trong phạm vi chức năng của mình, Viện kiểm sát
có nhiệm vụ góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của
tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của
công dân, bảo đảm để mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tập
thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đều phải được xử lý theo pháp
luật.
Trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện
và áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo tính
thống nhất của pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm những bản án, quyết định



12
của Tịa án nhân dân có đủ căn cứ và hợp pháp, loại trừ mọi vi phạm pháp
luật trong hoạt động xét xử vụ án hình sự. Hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân không chỉ là thực hành quyền công tố, bảo vệ quyết định truy tố, bảo vệ
quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân, bảo vệ kháng cáo hợp
pháp của những người có quyền kháng cáo, buộc tội bị cáo, kết luận về tính
có căn cứ, tính hợp pháp của bản án, quyết định của Tòa án nhân dân, mà còn
đồng thời thực hiện hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá
trình xét xử vụ án hình sự.
Cụm từ “kiểm sát việc tuân theo pháp luật” lần đầu tiên được ghi nhận
trong lịch sử lập hiến nước ta tại Hiến pháp năm 1959, sau đó là Hiến pháp
năm 1980, được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật: Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 1960, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981,
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992, Bộ luật Tố tụng hình sự năm
1988. Đến thời điểm năm 2001 đã xuất hiện cụm từ “kiểm sát các hoạt động
tư pháp”. Điều 137 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) quy định: “Viện
kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất”. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 tiếp tục sử dụng cụm từ “kiểm
sát việc tuân theo pháp luật” và cụm từ này tiếp tục được dùng trong Hiến
pháp 2013 và Luật tổ chức Viện kiểm sát năm 2014.
Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành thì chỉ có một chủ thể
duy nhất là Viện kiểm sát có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng hình sự. Viện kiểm sát với quyền năng kiểm sát và phương thức
kiểm sát riêng biệt. Quyền của Viện kiểm sát khi kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tố tụng hình sự được thể hiện cụ thể qua các quyền của Viện
trưởng, phó viện trưởng Viện kiểm sát và kiểm sát viên căn cứ vào các quy
định tại các Điều 23, 36, 37, 113, 339 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 [27].



13
Viện kiểm sát có quyền và nghĩa vụ áp dụng các biện pháp cần thiết để
tác động trực tiếp đến các đối tượng bị kiểm sát nhằm đảm bảo cho việc giải
quyết vụ án được theo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo cho pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình giải quyết vụ án
và tương ứng với các quyền năng pháp lý của Viện kiểm sát khi kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự là nghĩa vụ, trách nhiệm của các chủ
thể bị kiểm sát trong việc thực hiện các yêu cầu và quyết định của Viện kiểm sát.
Theo Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 và Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003 thì hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng hình sự được chia thành các bộ phận khác nhau gắn liền với từng giai
đoạn tố tụng hình sự: kiểm sát khởi tố, điều tra, kiểm sát xét xử, kiểm sát thi
hành án. Mỗi bộ phận này có đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn riêng
nhưng liên hệ mật thiết với nhau và đều là hoạt động thực hiện chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát đối với hoạt động của các
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng
nhằm phát hiện kịp thời các vi phạm pháp luật trong q trình giải quyết vụ
án. Ngồi ra khi phát hiện các vi phạm của các đối tượng kể trên, Viện kiểm
sát có trách nhiệm kịp thời áp dụng những biện pháp thích hợp do pháp luật
quy định để loại trừ các vi phạm đó.
Trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, kiểm sát việc tuân theo pháp luật
được thực hiện từ giai đoạn chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử cho tới khi vụ án
được xét xử xong, Tòa án nhân dân đưa ra một bản án, quyết định có căn cứ,
hợp pháp bảo đảm được đưa ra thi hành. Hoạt động kiểm sát xét xử vụ án
hình sự cịn được thực hiện trong tất cả các thủ tục xét xử vụ án hình sự, từ
thủ tục xét xử sơ thẩm đến thủ tục xét xử phúc thẩm vụ án hình sự hoặc cá
biệt các vụ án hình sự được xét xử lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm hình sự. Từ khi có quyết định truy tố bị can của Viện kiểm sát nhân dân,



14
quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án nhân dân, vụ án được đưa ra xét xử
công khai cho đến khi xét xử xong là quá trình Tịa án nhận dân thực hiện
cơng tác xét xử sơ thẩm, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện công tác kiểm sát
xét xử sơ thẩm hình sự.
Theo quy định tại Điều 20 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Tòa án
thực hiện chế độ hai cấp xét xử: xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm [27]. Do
vậy, quá trình kiểm sát xét xử của Viện kiểm sát cũng được thực hiện theo hai
cấp này đó là kiểm sát xét xử sơ thẩm và kiểm sát xét xử phúc thẩm.
Hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân được
thực hiện trong tất cả các giai đoạn xét xử vụ án hình sự (giai đoạn chuẩn bị
xét xử, giai đoạn xét xử công khai và giai đoạn sau khi xét xử công khai) đối
với tất cả các cấp Tịa án nhân dân có thẩm quyền xét xử sơ thẩm nhằm bảo
đảm pháp chế trong hoạt động xét xử.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm
chưa có hiệu lực pháp luật ngay trong thời hạn luật định. Nếu hết thời hạn mà
khơng có kháng cáo, kháng nghị thì bản án của Tịa án cấp sơ thẩm có hiệu
lực pháp luật và được thi hành. Ngược lại, nếu có kháng cáo, kháng nghị
trong thời hạn luật định hoặc ngồi thời hạn luật định nhưng có lý do chính
đáng và được Tịa án chấp nhận thì sẽ phát sinh thủ tục xét xử phúc thẩm.
Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát giai đoạn xét
xử phúc thẩm hình sự có nội dung là kiểm tra, giám sát hoạt động thực hiện
pháp luật của Tòa án và những người tham gia tố tụng nhằm bảo đảm cho
việc xét xử được tiến hành đúng các quy định của pháp luật.
Như vậy, kiểm sát xét xử vụ án hình sự là hoạt động thực hiện quyền
lực Nhà nước do Viện kiểm sát nhân dân tiến hành trên cơ sở pháp luật với
nội dung kiểm tra, giám sát việc tuân theo pháp luật của tất cả các chủ thể



15
tham gia hoạt động tố tụng hình sự trong giai đoạn xét xử theo các thủ tục sơ
thẩm, phúc thẩm nhằm bảo đảm cho việc xét xử của Tòa án đúng pháp luật,
nghiêm minh và kịp thời.
1.1.2. Đặc điểm kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện Kiểm sát
nhân dân
Trong các giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án hình sự đều có các
đặc điểm về nhiệm vụ, trình tự, thủ tục, phạm vi áp dụng, đối tượng tác động
là khác nhau. Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự có
những đặc trưng riêng với kiểm sát hoạt động khởi tố, điều tra. Những đặc
trưng này là căn cứ để phân biệt với hoạt động kiểm sát ở những lĩnh vực
khác của Viện kiểm sát. Xuất phát từ khái niệm kiểm sát xét xử vụ án hình sự
nêu trên có thể rút ra một số đặc điểm của hoạt động kiểm sát xét xử hình sự
như sau:
Thứ nhất, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan duy nhất có chức năng
kiểm sát xét xử vụ án hình sự.
Kiểm sát là một dạng giám sát đặc thù chỉ gắn với duy nhất một loại
chủ thể kiểm sát –Viện kiểm sát với quyền năng kiểm sát và phương thức
kiểm sát riêng biệt. Chỉ có Viện kiểm sát mới có thể tiến hành các hoạt động
kiểm tra, giám sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự một cách trực
tiếp, cụ thể, liên tục do có đủ cơ sở, điều kiện cần thiết. Quyền của Viện kiểm
sát khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự nói chung và
trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự nói riêng được thể hiện cụ thể qua các
quyền của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên căn
cứ vào các quy định tại Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 và
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Viện kiểm sát có quyền và nghĩa vụ áp
dụng các biện pháp cần thiết để tác động trực tiếp tới các chủ thể tham gia


16

hoạt động tố tụng hình sự trong giai đoạn xét xử nhằm đảm bảo cho hoạt động
giải quyết vụ án được theo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo cho pháp
luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Thứ hai, phạm vi kiểm sát xét xử vụ án hình sự được thực hiện bắt đầu
từ thời điểm Tòa án có thẩm quyền nhận hồ sơ và bản cáo trạng do Viện kiểm
sát chuyển đến, kết thúc khi bản án hoặc quyết định của Tịa án có hiệu lực
pháp luật.
Sau khi kết thúc hoạt động điều tra, nếu Viện kiểm sát ra quyết định
truy tố thì theo quy định tại khoản 3, Điều 166 Bộ luật Tố tụng hình sự thì
“Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày ra quyết định truy tố bằng bản Cáo
trạng, Viện kiểm sát nhân dân phải gửi hồ sơ vụ án và bản cáo trạng đến Tòa
án” [27]. Khi hồ sơ vụ án, quyết định truy tố của Viện kiểm sát được Tòa án
nhân dân nhận vào sổ thụ lý là thời điểm bắt đầu của hoạt động xét xử sơ
thẩm vụ án, đồng thời cũng là thời điểm mở đầu phạm vi kiểm sát xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự.
Thời điểm kết thúc phạm vi kiểm sát xét xử sơ thẩm hình sự khi bản án,
quyết định của Tòa án sơ thẩm đã tun có hiệu lực pháp luật, khơng có
kháng cáo, kháng nghị. Khi có kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm, Tòa án cấp
trên trực tiếp của Tòa án đã xét xử sơ thẩm sẽ tiến hành các hoạt động tố tụng
để mở phiên tòa phúc thẩm xét xử lại vụ án về nội dung cũng như xét lại tính
hợp pháp, tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm. Những người có liên
quan đến việc kháng cáo, kháng nghị có quyền tham gia phiên tịa phúc thẩm
để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Như vậy, khi có kháng
cáo, kháng nghị hợp lệ thì mặc nhiên phát sinh thủ tục xét xử phúc thẩm của
Tòa án và hoạt động của các chủ thể tham gia tụng khác. Vì vậy, để đảm bảo
các hành vi tố tụng của các chủ thể nói trên tuân thủ pháp luật thì hoạt động


17
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử

phúc thẩm được bắt đầu ngay từ thời điểm sau khi tuyên án sơ thẩm.
Theo quy định tại Điều 248 và Điều 253 Bộ luật Tố tụng hình sự, bản
án hoặc quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án hoặc
kể từ ngày ra quyết định. Phạm vi kết thúc của hoạt động kiểm sát xét xử
phúc thẩm là sau khi Viện kiểm sát thực hiện xong quyền kiểm tra, giám sát
tính có căn cứ, hợp pháp của bản án phúc thẩm.
Thứ ba, nội dung kiểm sát xét xử vụ án hình sự chính là việc kiểm tra,
giám sát hoạt động tuân theo pháp luật của tất cả các chủ thể tham gia hoạt
động tố tụng hình sự theo các thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm.
Trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, Tịa án nhân dân, Hội đồng xét
xử là các chủ thể tiến hành tố tụng, ngoài ra cịn có những người tham gia tố
tụng như bị cáo, người bị hại, người làm chứng, người giám định, nguyên
đơn, dân sự, bị đơn dân sự và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án. Tất cả những chủ thể này đều được pháp luật tố tụng hình sự quy
định quyền và nghĩa vụ cụ thể. Mọi hoạt động của các chủ thể này đều căn cứ
vào các quy định của pháp luật để thực hiện.
Đối tượng của kiểm sát xét xử vụ án hình sự là việc tuân theo pháp luật
trong hoạt động xét xử của Tòa án theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm và việc
tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng. Việc tuân theo pháp
luật trong hoạt động xét xử được thể hiện trên những khía cạnh sau: Tư cách
pháp lý của những người tiến hành tố tụng trong Hội đồng xét xử, việc tuân
theo các quy định về thủ tục tố tụng trong quá trình xét xử; việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động điều tra xét hỏi tại phiên tòa; việc tuân theo pháp
luật của những người tham gia tố tụng, tư cách pháp lý của những người tham


18
gia tố tụng, việc tuân theo quy định trật tự phiên tòa, việc tuân theo pháp luật
trong các bản án, quyết định của Tòa án.
Khi tiến hành các hoạt động kiểm sát, Viện kiểm sát không chỉ dựa trên

các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự mà cịn trên các căn cứ pháp lý khác
là Hiến pháp, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Bộ luật Hình sự và các
văn bản pháp luật khác có liên quan để kiểm tra, giám sát sự tuân thủ pháp
luật của các chủ thể là đối tượng của hoạt động kiểm sát cũng như để đảm bảo
tính hợp pháp, tính có căn cứ của chính hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát.
Tất cả những chủ thể này, khi tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự
đều phải tuân thủ và thựa hiện những quyền và nghĩa vụ của mình theo quy
định của pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật hình sự và sự tuân thủ pháp luật
của họ là đối tượng của hoạt động kiểm sát xét xử hình sự sơ thẩm, phúc thẩm.
Thứ tư, kiểm sát xét xử vụ án hình sự có mục đích bảo đảm cho việc
xét xử của Tòa án đúng pháp luật, nghiêm minh và kịp thời.
Vai trò kiểm sát các hoạt động tư pháp, đặc biệt là kiểm sát hoạt động
xét xử của Tòa án là một hoạt động đặc thù được Nhà nước giao cho Viện
kiểm sát nhằm bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa [16]. Việc thực hiện kiểm
sát xét xử vụ án hình sự khơng những không cản trở hoạt động xét xử của Hội
đồng xét xử mà còn giúp cho Hội đồng xét xử ra một bản án khách quan,
đúng người, đúng tội, đúng các quy định của pháp luật. Trên thực tế, khơng ít
Hội đồng xét xử đã áp dụng sai pháp luật, vi phạm nghiêm trọng các thủ tục
tố tụng. Do vậy, nếu khơng có sự giám sát của Viện kiểm sát rất dễ dẫn đến
tình trạng lạm quyền và khơng đảm bảo được pháp chế xã hội chủ nghĩa.


19

1.2. Nội dung và phương thức thực hiện vai trò của Viện kiểm sát
nhân dân trong kiểm sát xét xử vụ án hình sự
1.2.1. Nội dung vai trị của Viện Kiểm sát nhân dân trong kiểm sát
xét xử vụ án hình sự
Tại điểm đ khoản 2 Điều 6 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2014 quy định kiểm sát xét xử vụ án hình sự là một phần trong công tác kiểm

sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát.
2. Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát hoạt
động tư pháp bằng các công tác sau đây:

d) Kiểm sát việc xét xử vụ án hình sự . [26]
Theo Điều 19 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, khi kiểm
sát việc xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát có những nhiệm vụ quyền
hạn sau:
Điều 19. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi
kiểm sát xét xử vụ án hình sự
1. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án
hình sự của Tịa án.
2. Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án.
3. Kiểm sát hoạt động tố tụng hình sự của người tham gia tố
tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh
người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật.
4. Yêu cầu Tòa án cùng cấp, cấp dưới chuyển hồ sơ vụ án hình sự
để xem xét, quyết định việc kháng nghị.


×