1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
số liệu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo sự tin cậy, chính xác và trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Tác giả
Trần Văn Hiển
1
2
NHỮNG CỤM TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
2
Viết tắt
BLHS
BLTTHS
CQĐT
KSĐT
KSXX
KSV
TTHS
THQCT
VKS
VKSND
Viết đầy đủ
Bộ luật hình sự
Bộ luật Tố tụng hình sự
Cơ quan điều tra
Kiểm sát điều tra
Kiểm sát xét xử
Kiểm sát viên
Tố tụng hình sự
Thực hành quyền công tố
Viện kiểm sát
Viện kiểm sát nhân dân
3
DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN VĂN
3
4
MỤC LỤC
Trang
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cũng
như Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã xác định chức năng, nhiệm vụ cơ bản
VKSND: “VKSND THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp;VKSND có nhiệm vụ
bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN,
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân góp
phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.[37]
Trong điều kiện hiện nay, khi tình hình kinh tế - xã hội đã có nhiều thay đổi,
nền kinh tế nước ta đang tiến hành công cuộc đổi mới đẩy mạnh công nghiệp hóa và
hiện đại hóa đất nước thì yêu cầu của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trở nên
rất quan trọng. Do đó, trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã ban hành
nhiều Chỉ thị, Nghị quyết nhằm nhấn mạnh đến công cuộc cải cách hệ thống các cơ
quan tư pháp trong đó có VKS, nhằm đáp ứng đòi hỏi của yêu cầu cải cách tư pháp.
Công cuộc này được mở đầu bằng Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02.01.2002 của
Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp. Nghị quyết đã chỉ rõ:
“Nâng cao chất lượng hoạt động của VKS theo chức năng quy định trong Hiến
pháp, tập trung làm tốt chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Việc
điều chỉnh lại chức năng, nhiệm vụ của VKS nhân dân là một nhiệm vụ trọng tâm
trong cải cách tư pháp”[4]. Tiếp đến là Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24.5.2005
của Bộ Chính trị về hoàn thiện pháp luật và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02.6.2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, lịch sử
phát triển nền tư pháp của nước ta đã có bước chuyển biến quan trọng. Có thể
khẳng định rằng, những nhiệm vụ do Nghị quyết số 08 đề ra có ý nghĩa rất quan
trọng cho việc nghiên cứu, tiếp tục triển khai Nghị quyết số 49. Nghị quyết số 49
chỉ rõ: “Trước mắt VKSND vẫn giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. VKSND tổ chức cho phù hợp với
hệ thống tổ chức của Tòa án. Nghiên cứu việc chuyển VKS thành Viện công tố;
tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra”[5]. Tại Văn kiện
5
Đại hội XI của Đảng chỉ rõ VKSND phải “tăng cường trách nhiệm công tố trong
hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra”; Tại Kết luận số 79 KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị đã kết luận về định hướng đổi mới tổ
chức hệ thống VKSND; theo đó, VKSND sẽ được tổ chức thành 4 cấp, phù hợp với
hệ thống tổ chức Toà án nhân dân...
Hải Dương là tỉnh đang trên đà phát triển các mặt về kinh tế - chính trị, văn
hóa xã hội, nằm trong hành lang kinh tế phát triển Bắc Bộ, Hải Dương là nơi giao
thương kinh tế tấp nập ở khu vực phía bắc. Kéo theo với điều đó là tình hình tội
phạm trên địa bàn trong những năm vừa qua đã diễn biến tương đối phức tạp, nhiều
vụ án nghiêm trọng đã xảy ra gây bức xúc trong dư luận. Qua việc áp dụng pháp
luật TTHS từ thực tiễn tỉnh Hải Dương thời gian gần đây cho thấy: Mặc dù
BLTTHS năm 2003 đã quy định thủ tục giải quyết vụ án hình sự và các quyền hạn,
trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể TTHS, trong đó có VKS. Trên cơ sở
chức năng THQCT và kiểm sát tuân theo pháp luật TTHS, BLTTHS đã quy định
thẩm quyền của VKS trong các giai đoạn từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ
án hình sự, đồng thời cũng quy định trình tự tiến hành hoạt động của VKS và các
chủ thể có liên quan. Những quy định này của BLTTHS năm 2003 đã tạo ra cơ sở
pháp lý để VKS thực hiện chức năng của mình trong quá trình giải quyết vụ án hình
sự góp phần xử lý tội phạm có hiệu quả đồng thời góp phần bảo đảm quyền con
người trong TTHS.
Tuy nhiên, thực tiễn thi hành pháp luật TTHS của VKS đã bộc lộ những bất
cập của các quy định trong BLTTHS cũng như hạn chế trong việc áp dụng pháp luật
giải quyết vụ án hình sự, vẫn còn để xảy ra tình trạng oan, sai, bỏ lọt tội phạm, vi
phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân. Việc oan, sai này xảy ra ở những giai
đoạn khác nhau của quá trình tố tụng, có thể từ khi bắt đầu các thủ tục tố tụng như
khởi tố vụ án, khởi tố bị can, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, đến giai đoạn
điều tra, truy tố, xét xử... Về nguyên tắc, mọi tội phạm và người thực hiện hành vi
bị coi là tội phạm đều phải bị xử lí về hình sự. Nhưng việc xử lí thế nào để đảm bảo
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh việc oan, sai là điều hết sức cần thiết.
6
Trước thực trạng đó, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu một cách toàn diện, đầy
đủ về chức năng, thẩm quyền, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giải quyết các
vụ án hình sự không chỉ dựa trên cơ sở những quy định của pháp luật TTHS mà
phải kết hợp với đánh giá thực tiễn hoạt động của VKS trong những năm gần đây.
Từ đó tìm ra những tồn tại, nguyên nhân và đề xuất các giải pháp khắc phục, góp
phần nâng cao hơn nữa địa vị pháp lý của VKS trong việc giải quyết các vụ án hình
sự đáp ứng đòi hỏi của yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.
Từ những phân tích trên, tác giả chọn đề tài “Địa vị pháp lý của Viện kiểm
sát trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Hải Dương” làm đề tài nghiên cứu của
Luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Là một trong những chủ thể của TTHS có vai trò quan trọng đối với việc truy
cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội và bảo đảm việc thực hiện nghiêm chỉnh
pháp luật TTHS của quá trình giải quyết vụ án hình sự nên nghiên cứu về địa vị
pháp lý của VKS và các vấn đề có liên quan được nhiều nhà khoa học, người làm
công tác thực tiễn trong ngành Kiểm sát quan tâm nghiên cứu. Việc nghiên cứu
trong phạm vi gần hoặc trực tiếp về địa vị pháp lý của VKS trong TTHS đã được
một số sách, báo, công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đề cập như: Tội phạm
học, luật hình sự và TTHS Việt nam, do GS.TSKH Đào Trí Úc chủ biên năm 1994;
''Nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt động tư pháp và THQCT với vấn đề thông
khâu và chuyên khâu trong công tác kiểm sát hình sự'', đề tài nghiên cứu cấp bộ, do
Ngô Văn Đọn chủ biên, năm 2004; ''Quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp'', của Lê Hữu Thể (chủ biên), năm 2008; Đề tài khoa học cấp bộ của ThS.
Nguyễn Xuân Hà - Phạm Hoàng Diệu Linh: Hoàn thiện các quy định của BLTTHS
năm 2003 để đảm bảo phù hợp với việc tổ chức hệ thống các cơ quan tư pháp theo
tinh thần nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020…
Luận án tiến sĩ luật học “Quyền công tố ở Việt Nam” của Lê Thị Tuyết Hoa,
năm 2002; Luận văn thạc sĩ “Địa vị pháp vị pháp lý của VKS trong tố tụng điều tra
7
vụ án hình sự” của tác giả Nguyễn Hợp Phố, năm 1996; Luận văn Thạc sĩ luật học
“Địa vị pháp lý của VKS trong tố tụng hành chính ở Việt Nam hiện nay”, của
Nguyễn Thị Băng Tâm, năm 2013;...
Bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí có: “Địa vị pháp lý của chủ thể tiến
hành tố tụng theo quy định của BLTTHS” của tác giả Nguyễn Minh Đức, Tạp chí
Kiểm sát số 20 năm 2010; "Cơ quan THQCT trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện
nay" của Đỗ Văn Đương, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 7/2006...
Những công trình khoa học, bài báo nghiên cứu ở những góc độ, phạm vi
khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau và đi vào một số khía cạnh khác nhau về
địa vị pháp lý của VKS trong TTHS như giai đoạn điều tra, truy tố.... Nhưng chưa
có công trình nào nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống về địa vị pháp lý của VKS
trong TTHS. Bởi vậy, đi sâu nghiên cứu các nội dung mà pháp luật quy định địa vị
pháp lý của VKS trong TTHS có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề về lý luận liên quan đến địa vị pháp lý
của VKS trong TTHS. Trên cơ sở phân tích cụ thể các quy định của BLTTHS về vị
trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong các giai đoạn của vụ án hình sự
cùng với thực tiễn thi hành các quy định về địa vị pháp lý của VKS trong TTHS ở
địa bàn tỉnh Hải Dương từ năm 2010 đến năm 2014. Qua đó kiến nghị đề xuất giải
pháp để hoàn thiện về địa vị pháp lý của VKS trong TTHS ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Nghiên cứu lý luận để khái quát và làm sáng tỏ: Khái niệm, đặc điểm, bản
chất, nội dung cơ bản về địa vị pháp lý của VKS trong TTHS;
- Phân tích thực trạng địa vị pháp lý của VKS trong hoạt động khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự tại VKSND tỉnh Hải Dương (từ năm 2010 2014), rút ra những ưu điểm, hạn chế, chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế đó;
- Đề xuất kiến nghị và giải pháp để hoàn thiện pháp luật và một số giải pháp
8
khác về địa vị pháp lý của VKS trong TTHS nhằm nâng cao địa vị pháp lý của VKS
trong TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Một số vấn đề về lý luận, các quy định
của pháp luật về địa vị pháp lý của VKS trong TTHS ở nước ta hiện nay và thực
tiễn thực hiện hoạt động này trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Địa vị pháp lý của VKS trong THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự từ năm 2010 đến
năm 2014 trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở sử dụng những phương pháp nghiên cứu
khoa học như: Thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp, dựa trên các quy phạm pháp
luật hiện hành, các tài liệu, sách báo liên quan, kết hợp với đánh giá thực tiễn,….
6. Điểm mới và ý nghĩa của luận văn
- Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về địa vị pháp lý của
VKS trong TTHS góp phần xây dựng một cách nhìn toàn diện về vị trí, chức năng
nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giải quyết các vụ án hình sự, qua đó thấy được
vai trò của VKS trong công tác phòng chống tội phạm.
- Luận văn đã nghiên cứu, phân tích thực trạng, rút ra những ưu điểm, hạn
chế, chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại của THQCT và kiểm sát việc khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự của VKS tỉnh Hải Dương;
- Đề xuất kiến nghị và giải pháp để hoàn thiện về địa vị pháp lý của VKS
trong TTHS để VKS thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ theo quy định của
pháp luật trong giai đoạn hiện nay.
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác giảng
dạy, học tập, nghiên cứu trong các trường đào tạo về pháp luật và là tài liệu để những
người tiến hành tố tụng trong hoạt động TTHS vận dụng vào thực tiễn công tác.
9
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của VKS trong TTHS.
Chương 2. Thực trạng địa vị pháp lý của VKS trong TTHS từ thực tiễn tỉnh
Hải Dương.
Chương 3. Một số kiến nghị, đề xuất giải pháp để hoàn thiện và thực hiện
pháp luật về địa vị pháp lý của VKS trong TTHS ở Việt Nam hiện nay.
10
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, bản chất về địa vị pháp lý của Viện Kiểm sát
1.1.1. Khái niệm về địa vị pháp lý của Viện Kiểm sát
1.1.1.1. Địa vị pháp lý của Viện Kiểm sát trong phạm vi quy định của pháp
luật thực định.
Trong tiếng Việt, địa vị được hiểu là: vị trí trong quan hệ xã hội [18], vị trí
này được xem xét dưới sự tác động của các mối quan hệ xã hội và nó được quyết
định bởi khá nhiều yếu tố như: kinh tế, chính trị, vai trò của nó trong đời sống xã
hội… Riêng đối với các chủ thể là các cơ quan nhà nước yếu tố quan trọng nhất quy
định nên địa vị của nó chính là các quy định của pháp luật. Vì pháp luật phải quy
định một cách cụ thể chức năng, phạm vi thẩm quyền..., tránh sự chồng chéo, trùng
lặp giữa chủ thể này với chủ thể khác trong quan hệ quản lý.
Còn khái niệm pháp lý được hiểu, không chỉ là các quy định của pháp luật
thực định mà nó còn bao gồm các tư tưởng, học thuyết, trường phái pháp lý, các yếu
tố khách quan như: kinh tế, chính trị, xã hội…
Chính vì vậy, người ta không gọi là địa vị pháp luật mà là địa vị pháp lý. Vậy
nó có những điểm khác biệt gì? Có thể thấy, trong các điều kiện thông thường, địa
vị pháp lý của các cơ quan, tổ chức phụ thuộc chủ yếu vào các quy định của pháp
luật thực định. Nhưng thực tế cho thấy, trong phạm vi hoạt động của mình, các cơ
quan nhà nước vốn được sinh ra là để phục vụ những nhu cầu của cuộc sống người
dân. Và đối với đời sống thực tế, nhiều vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn là không
phụ thuộc vào các quy định của pháp luật và chính bản thân pháp luật cũng không
thể lường hết được các phạm vi hoạt động của mỗi cơ quan, tổ chức nên vẫn phải
quy định các phạm vi “ mở” nhất định cho mỗi cơ quan, tổ chức. Do đó, về lý
thuyết, chúng ta phải thừa nhận những phạm vi mà luật không thể quy định hết
được nên nó phải có tính mở đối với các quy định của mình. Tuy nhiên, việc quy
định phạm vi mở này phải dựa trên những nguyên tắc hay cơ sở của luật thực định
11
và những lý thuyết, lý lẽ pháp luật thuyết phục. Chính vì vậy, ở đây phải hiểu các
quy định pháp luật ở nghĩa rộng hơn. Hiểu một cách khác, các cơ quan nhà nước,
các chủ thể pháp luật đều là một thực thể xã hội và trước tiên phải chịu sự tác động
của các quy phạm xã hội. Tiếp đến, luận văn mới xem xét chủ thể này dưới góc độ
là một chủ thể pháp luật cho nên nó không chỉ chịu tác động của các quy phạm pháp
luật mà nó còn phải chịu tác động của các quy phạm xã hội khác nữa. Điều này thể
hiện ở một số nội dung sau:
- Địa vị pháp lý và các quy định của pháp luật, như đã trình bày địa vị pháp
lý của chủ thể ở đây không hoàn toàn đồng nhất với các quy định của pháp luật.
Nghĩa là, địa vị pháp lý rộng hơn và vượt qua cả các khuôn khổ của pháp luật thực
định. Chứng minh cho nhận định này, khi nghiên cứu về phạm vi thẩm quyền của
Tòa án và các cơ quan tiến hành tố tụng ở các nước có hệ thống pháp luật thừa nhận
án lệ. Có thể dễ dàng thấy rằng pháp luật không chỉ là các văn bản quy phạm đã
được ban hành mà nó còn được hình thành bởi các quyết định của các Thẩm phán
mà chưa có các căn cứ pháp luật cụ thể. Hậu quả của các quyết định mới phát sinh
mà chưa có các quy định pháp luật cụ thể này là các bản án lệ. Trong trường hợp
này, họ có thể viện dẫn những lý thuyết, học thuyết pháp lý hoặc các giá trị xã hội
để áp dụng vào quyết định đó. Trường hợp ở các nước không thừa nhận án lệ, cũng
có những ngoại lệ khá đặc biệt được dành cho Thẩm phán đó là họ có thể ra các
quyết định, bản án của mình trên cơ sở niềm tin nội tâm. Những cơ sở đó chứng
minh rằng những quy định của pháp luật trong bất cứ trường hợp nào đều là chưa
đủ để xác định thẩm quyền, vị trí của một cơ quan quyền lực cụ thể mà nó cần
những sự bổ khuyết từ thực tế... Tương tự, vai trò của các cơ quan tiến hành tố tụng
cũng có những đặc thù nhất là khi các vụ án đứng giữa các ranh giới mà những quy
phạm luật hiện hành không thể chỉ rõ được. Thẩm quyền của cơ quan tố tụng trong
các trường hợp như vậy đôi khi vượt ngoài phạm vi quy định của luật thực định.
Chẳng hạn, từ những yêu cầu hiện tại của xã hội, sức ép dư luận, niềm tin nội tâm…
những cơ quan tiến hành tố tụng có thể ra các quyết định trong việc thực hiện thẩm
quyền của cơ quan nhưng chưa có sự điều chỉnh cụ thể của pháp luật mà vẫn được
coi là chính đáng.
12
- Mối quan hệ của các quy phạm pháp luật và quy phạm xã hội trong việc
xác định địa vị của chủ thể. Từ góc độ của khoa học pháp lý có thể thấy rằng địa vị
pháp lý được quyết định chủ yếu bởi các quy định của pháp luật thực định. Điều
này có nghĩa là, không thể xác định được vị trí của bất cứ một cơ quan nhà nước
nào mà không xem xét nó dưới các quy định của luật thực định. Bởi pháp luật chính
là cơ sở quan trọng bậc nhất cho việc hình thành các chức năng, nhiệm vụ của các
cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, việc chúng ta chỉ dựa vào những đặc điểm mô tả từ
khía cạnh xã hội nó sẽ dẫn đến tình trạng thầy bói xem voi, vì khi tiếp cận chúng từ
mỗi phương diện khác nhau thì đều có những đặc trưng khác nhau. Chẳng hạn, khi
tiếp cận VKS dưới góc độ cơ quan quyền lực nhà nước thì chúng ta sẽ thấy hiện
hữu các chức năng thực hiện quyền lực như: Khởi tố vụ án, truy tố người phạm tội,
kiểm sát hoạt động xét xử… Nhưng khi tiếp cận VKS dưới góc độ là một thiết chế
tổ chức quyền lực công thì chúng ta lại thấy các đặc điểm về: tổ chức bộ máy, nhân
sự, vấn đề ngạch, bậc công chức, các vấn đề về sử dụng ngân sách nhà nước… Do
đó, các quy phạm pháp luật chính là các khuôn mẫu chính xác nhất để xác định địa
vị của bất cứ một chủ thể quyền lực Nhà nước nào thông qua hệ thống các quy
phạm của pháp luật thực định.
- Phạm vi của địa vị pháp lý rộng hơn các quy định của pháp luật thực định.
Khi đánh giá về địa vị pháp lý nhiều người đã đồng nhất địa vị pháp lý của chủ thể
với các quy định về chức năng, thẩm quyền.., của chủ thể đó. Điều này thực sự là
không chính xác, thực tế khi nghiên cứu về lý luận nhà nước và pháp luật chúng ta
thấy, không thể liệt kê một cách rành mạch các thẩm quyền của quyền lập pháp,
quyền tư pháp và đặc biệt là quyền hành pháp trong một hệ thống quyền lực. Từ
cách tiếp cận như vậy, có thể thấy thực trạng VKS nước ta là một bộ phận cấu thành
quan trọng của phạm vi quyền tư pháp chính vì cũng không thể nói rằng chỉ những
quy định của các quy phạm pháp luật quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của VKS mới là căn cứ xác định địa vị pháp lý của VKS. Mà địa vị pháp lý của
VKS còn phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố như đã trình bày ở trên.
13
Từ những cách nhận thức về địa vị pháp lý đã trình bày trên có thể thấy trong
khoa học pháp lý vẫn có nhiều cách hiểu không thống nhất về địa vị pháp lý của
VKS nói riêng và địa vị pháp lý của các cơ quan, tổ chức nói chung. Chẳng hạn, có
quan niệm cho rằng: “Địa vị pháp lý của VKS trong một quan hệ pháp luật tố tụng
là tổng hợp các quy định pháp luật xác định vị trí, vai trò và nhiệm vụ, quyền hạn
của VKS trong quan hệ tố tụng đó”[30]. Rõ ràng ở đây đã có sự đồng nhất địa vị
pháp lý với địa vị pháp luật như đã trình bày trên. Và nếu như vậy, rõ ràng địa vị
pháp lý của VKS chỉ chịu sự tác động duy nhất là các quy định của các quy phạm
pháp luật thực định. Đồng nhất địa vị pháp lý và địa vị pháp luật của một cơ quan
thực hiện quyền lực nhà nước với tư cách là một bộ phận cấu thành quan trọng của
một trong 3 bộ phận quyền lực cơ bản của hệ thống các cơ quan quyền lực nhà
nước. Do đó, địa vị pháp lý theo nghĩa này chỉ nên coi đó là phạm vi nghĩa hẹp chứ
không nên coi nó là khái niệm cơ bản, vì trong trật tự nhà nước có những lúc đã
thừa nhận cả các phạm vi sáng kiến lập pháp của chính các cơ quan thực hiện quyền
lực nhà nước và nó được coi là nguồn quan trọng trong việc xác định vị trí, vai trò
của mỗi cơ quan Nhà nước. Điều này có nghĩa là, trong phạm vi các quy định pháp
luật như đã trình bày thì một trong những nội dung quan trọng nữa vượt ra ngoài
phạm vi quy định của pháp luật đó là, ở những góc độ hợp lý các cơ quan Nhà nước
có thể tự quy định một số thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ vượt ra ngoài phạm vi
mà pháp luật thực định đã quy định. Đây cũng là căn cứ quan trọng chứng minh
rằng phạm vi của các quy định pháp luật thực định nhỏ hơn phạm vi địa vị pháp lý
của cơ quan, tổ chức đó.
Từ những phân tích trên, địa vị pháp lý của cơ quan, tổ chức theo nghĩa hẹp
chỉ nằm trọn trong các quy định của pháp luật thực định. Nhưng như đã trình bày,
nếu chỉ hiểu như vậy thì đã đồng nhất địa vị pháp lý với các quy định của pháp luật
về thẩm quyền. Mà thực tiễn cho thấy, thẩm quyền của VKS hay các cơ quan quyền
lực nhà nước không chỉ nằm trong phạm vi quy định của pháp luật thực định mà nó
còn chịu sự tác động của các quy phạm xã hội khác. Bởi các cơ quan này vốn được
sinh ra là để bảo đảm trật tự xã hội, phục vụ cuộc sống của nhân dân. Do đó, địa vị
14
pháp lý của VKS hay bất kỳ cơ quan, tổ chức quyền lực nào đều không thể đồng
nhất với phạm vi mà những nhà làm luật nghĩ ra (pháp luật) để quy định nên chúng.
Mà phạm vi đó phải rộng hơn các quy định của pháp luật nhằm bảo đảm yêu cầu xã
hội, thực hiện nghĩa vụ phục vụ nhân dân, những chủ thể đã gửi gắm quyền lực của
mình vào các cơ quan đó.
1.1.1.2. Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát từ trong mối quan hệ giữa quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp
Tiếp cận về địa vị pháp lý của VKS dưới góc độ của các lý thuyết về phân
chia quyền lực. Chúng ta thấy, dưới những cách nhìn nhận khác nhau thì vị trí của
VKS sẽ thuộc về mỗi nhánh quyền lực khác nhau. Cụ thể:
- Một số nước cho rằng hoạt động điều tra, truy tố người phạm tội là hoạt
động thi hành pháp luật. Cho nên, thẩm quyền công tố đương nhiên thuộc về cơ
quan hành pháp và VKS phải được tổ chức nằm trong nhánh cơ quan hành pháp.
Những nước theo quan điểm này gồm: Pháp, Mỹ, Đức,…
- Ngược lại, một số quan điểm khác lại cho rằng khởi tố, điều tra, truy tố tội
phạm, kiểm sát các hoạt động tư pháp là các thẩm quyền đặc biệt thuộc phạm vi của
quyền tư pháp. Do đó, VKS phải được bố trí thuộc về hệ thống các cơ quan tư pháp
mới hợp lý. Những nước theo quan điểm này gồm: Liên bang Nga, Bê-la-rút,
Hungary, Việt Nam…
Do đó, theo mỗi cách hiểu khác nhau dưới góc độ phân quyền, VKS có thể là
cơ quan tư pháp nhưng cũng có thể là cơ quan hành pháp. Từ quan niệm này có thể
thấy khi đánh giá về vị trí của cơ quan kiểm sát có thể thuộc về quyền hành pháp và
cũng có thể thuộc về cơ quan tư pháp nó phụ thuộc vào những lý thuyết pháp lý
khác nhau.
1.1.1.3. Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát tiếp cận dưới góc độ thẩm quyền
Với vị trí là một cơ quan quyền lực nhà nước, có những nước thừa nhận thẩm
quyền rộng của VKS, cũng có những nước chỉ thừa nhận thẩm quyền hẹp
của cơ quan này. Do đó, nếu xét theo tiêu chí này, cũng có những cách hiểu khác
nhau về địa vị pháp lý của VKS:
15
- Quan điểm thứ nhất (những nước có quan điểm về thẩm quyền hẹp của
VKS) cho rằng: chức năng chủ yếu của VKS là truy tố người phạm tội hình sự và
giữ quyền công tố tại Tòa án. Ngoài ra, còn có thêm chức năng giám sát chế độ
giam giữ tại các trại giam;
- Quan điểm thứ hai (những nước theo quan điểm về thẩm quyền rộng của
VKS) cho rằng: Chức năng của VKS đa dạng hơn, bao gồm chức năng giám sát
việc tuân theo pháp luật và chức năng công tố, chỉ đạo hoạt động điều tra, giữ
quyền công tố trước Tòa án. Nghĩa là, VKS thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động
tư pháp là việc kiểm tra, giám sát các hoạt động của cơ quan, tổ chức, tư pháp của
những người có chức vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức đó, nhằm đảm bảo các
hoạt động đó nằm trong khuôn khổ của pháp luật, theo tinh thần của pháp luật và
đúng pháp luật, đảm bảo mọi vi phạm pháp luật trong các hoạt động này được phát
hiện và khắc phục kịp thời. Đây là chức năng cơ bản của VKS đối với các nước
thừa nhận thẩm quyền rộng của VKS.
Từ tiếp cận trên, có thể thấy rằng phạm vi thẩm quyền của VKS ở mỗi quốc
gia khác nhau là khác nhau và điều đó sẽ quy định nên địa vị pháp lý của VKS trong
mỗi quốc gia cụ thể. Như đã trình bày, địa vị pháp lý của VKS chủ yếu phụ thuộc
vào các quy định của hệ thống các quy phạm của pháp luật thực định trong việc
phân định thẩm quyền đối với cơ quan đó. Từ những cách đánh giá trên có thể thấy
rằng, địa vị pháp lý của VKS trong hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước không
được hiểu thống nhất trong tất cả các nhà nước trên thế giới.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra kết luận Địa vị pháp lý của VKS trong
quan hệ pháp luật tố tụng hình sự là tổng hợp các quy định pháp luật xác định vị
trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong quan hệ tố tụng hình sự đó. Tuy
nhiên, Địa vị pháp lý của VKS phụ thuộc vào cách thức tổ chức Bộ máy nhà nước
của mỗi quốc gia cụ thể và được quyết định bởi các điều kiện kinh tế, chính trị, xã
hội nhất định của mỗi quốc gia.
1.1.2. Bản chất về địa vị pháp lý của Viện kiểm sát
Thực tế cho thấy rằng, địa vị pháp lý của VKS bắt nguồn từ khả năng của
mỗi cá nhân trong xã hội, mọi người thấy rằng mỗi cá nhân khó có cơ hội tự bảo vệ
16
mình trước những sự xâm hại trong mối quan hệ của pháp luật hình sự. Bởi sự hạn
chế về năng lực, các điều kiện sức khỏe, trình độ, nhận thức, nghiệp vụ và phương
tiện kỹ thuật…, đã không cho phép mỗi cá nhân có thể tự mình thu thập chứng cứ
để khởi kiện một người khác khi họ bị xâm hại trong mọi quan hệ pháp luật. Đặc
biệt là trong quan hệ pháp luật hình sự và trường hợp bị coi là bất khả thi nếu người
bị hại mà đã bị người phạm tội giết thì chắc chắn rằng họ hoàn toàn không có cơ hội
tự bảo vệ mình bằng con đường pháp luật. Do đó, việc bảo vệ các cá nhân và xã hội
trong quan hệ pháp luật hình sự cần phải được Nhà nước đứng ra đảm nhận. Tuy
nhiên, Nhà nước với rất nhiều công việc nên cũng phải cần có một cơ quan chuyên
trách thay mặt họ làm công việc này và với bộ máy được biên chế và có nghiệp vụ VKS ở mỗi quốc gia được thay mặt Nhà nước làm nhiệm vụ khởi tố vụ án và truy tố
người phạm tội, đồng thời thay mặt Nhà nước giữ quyền công tố tại Tòa án. Đó là
những chức năng chủ yếu và nguyên thủy của các VKS trên thế giới.
Tuy nhiên, với hoàn cảnh thực tế của mỗi quốc gia khác nhau thì việc quy
định chức năng, địa vị pháp lý của VKS ở mỗi quốc gia cũng có sự khác nhau,
nghĩa là không phải mọi quốc gia đều áp dụng chung những thẩm quyền của VKS
giống nhau. Có những nước thì VKS có thêm thẩm quyền kiểm sát các hoạt động tư
pháp (như nước ta hiện nay và một số nước Đông Âu) hay ở các nước thừa nhận
phạm vi thẩm quyền hẹp thì VKS có những phạm vi thẩm quyền hẹp hơn và địa vị
pháp lý của VKS cũng có sự khác biệt.
Theo quan niệm này, rõ ràng đã mở rộng thẩm quyền của VKS hơn và đó
cũng là cơ sở để VKS có được địa vị pháp lý trong các hoạt động tố tụng. Cụ thể,
theo quan điểm của các nước thừa nhận thẩm quyền rộng của VKS cho rằng: “ VKS
có khả năng thực hiện chức năng giám sát tuân thủ pháp luật, bảo đảm pháp chế
thống nhất một cách hiệu quả, không phụ thuộc vào bất kỳ cơ quan nhà nước nào
trừ Quốc hội. VKS là cơ quan nhà nước có chức năng Hiến định rộng rãi không chỉ
giới hạn trong TTHS mà còn hoạt động trong các lĩnh vực khác như lĩnh vực kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong thi hành án, trong giam giữ cải tạo, trong tố tụng
dân sự, tố tụng phá sản, tố tụng hành chính. Ngay cả trong TTHS, thẩm quyền và
17
phạm vi hoạt động của VKS cũng rộng hơn so với phạm vi quyền công tố. VKS
không chỉ thực hiện chức năng buộc tội mà còn thực hiện chức năng KSĐT, KSXX.
Chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật trong phạm vi rộng lớn - đối với cơ quan
Tòa án, với cơ quan hành pháp từ cấp bộ trở xuống, với cơ quan chính quyền địa
phương trên toàn lãnh thổ quốc gia quyết định vị trí và vai trò của VKS trong Bộ
máy Nhà nước và trong lĩnh vực hoạt động cụ thể” [21].Chính vì nhận thức như trên
mà trong Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đã coi: “
Các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý,
quyền con người… ”[5].
Đối với nước ta hiện nay, việc nghiên cứu địa vị pháp lý của VKS trong
TTHS đòi hỏi phải làm sáng tỏ được những cơ sở lý thuyết và thực tiễn nhằm đưa
ra những kiến giải về mặt khoa học đáp ứng yêu cầu của một Nhà nước pháp quyền
dân chủ.
Xét từ phương diện chính trị - pháp lý, theo tinh thần của Nghị quyết số 49NQ/TW, ngày 2 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020” khi đề cập đến thẩm quyền của VKS đã xác định rõ: Trước
mắt, VKS vẫn giữa nguyên chức năng như hiện nay là THQCT và kiểm sát hoạt
động tư pháp (...).[5] Nghiên cứu việc chuyển VKS thành Viện Công tố, tăng cường
trách nhiệm của Công tố trong hoạt động điều tra. Tuy nhiên, trước những đòi hỏi
của thực tế hiện nay, khi chúng ta đã tiến hành sửa đổi Hiến pháp 1992, việc chuyển
đổi VKS thành Viện Công tố đã không thể thực hiện được. Điều 107 quy định về
chức năng, nhiệm vụ của VKS trong Hiến pháp (2013) đã được mở rộng hơn so với
lần sửa đổi năm 2001 trước đó. Do đó, thẩm quyền của VKS hiện nay không hề
giảm đi mà còn được tăng lên. Cụ thể, trong Hiến pháp hiện hành đã ghi nhận:
“1. VKSND thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.
2. VKSND gồm VKSNDTC và các VKS khác do luật định.
3. VKSND có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, quyền con người, quyền công dân;
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; góp
phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.”[36]
18
Từ những vấn đề cấp thiết trên, yêu cầu đặt ra là: Cần đánh giá xem địa vị
pháp lý của VKS trong hoạt động TTHS ở nước ta hiện nay được xác định trên cơ
sở có phù hợp với các yêu cầu của nhà nước pháp quyền XHCN. Chính vì vậy, việc
đánh giá địa vị pháp lý của VKS như hiện nay là phù hợp và đáp ứng các yêu cầu
của khoa học và thực tiễn cũng là những yêu cầu không kém phần quan trọng.
Xét về mặt khoa học việc xác định địa vị pháp lý của VKS trong hoạt động
TTHS ở nước ta hiện cũng đang gặp nhiều tranh cãi. Cụ thể, từ thực tiễn theo các
quy định của pháp luật nước ta thời gian qua. Thẩm quyền thực hiện chức năng
kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong TTHS của VKS nước ta trong nhiều thời
điểm, theo mỗi văn bản khác nhau là khác nhau và thiếu thống nhất. Điều này
chứng tỏ rằng nó chưa có những cơ sở khoa học vững chắc để luận giải một cách
thống nhất về địa vị pháp lý của VKS trong hoạt động này. Có nhiều quan điểm cho
rằng nên mạnh dạn chuyển đổi mô hình VKS nước ta hiện nay thành mô hình Viện
Công tố. Nghĩa là, thu hẹp phạm vi các chức năng kiểm sát và tập trung chủ yếu vào
chức năng công tố. Trong trường hợp này, VKS được hiểu là cơ quan có thẩm
quyền hẹp (như đã trình bày ở trên)…
Đi ngược về các quá trình phát triển của lịch sử nhân loại cho thấy, với việc
xuất hiện của phương thức sản xuất tư bản đã đem lại sự chuyên biệt hóa của mỗi
công đoạn sản xuất, hình thành nền kinh tế hàng hóa. Cùng với nó là sự phát triển
của các tư tưởng về chuyên biệt hóa và phân chia quyền lực trong Nhà nước. Các
điều kiện đó, đã dẫn đến sự thay thế hình thái Nhà nước phong kiến bằng các Nhà
nước tư sản. Đồng thời đòi hỏi phân định rõ hơn chức năng của các cơ quan quản lý
Nhà nước. Nó dẫn đến nhu cầu tách cơ quan Tòa án và các cơ quan khác nếu xét
thấy nó thuộc hệ thống các cơ quan tư pháp ra khỏi hệ thống các cơ quan hành
chính nhà nước trước đây như: cơ quan điều tra, VKS… Và lấy cơ quan Tòa án là
một cơ quan độc lập và đứng ở trung tâm của quyền tư pháp nhằm xét xử các vụ án.
Đối với các VKS mặc dù chưa có sự may mắn này nhưng tùy theo các điều kiện
kinh tế, xã hội và sự ảnh hưởng của các trường phái lý thuyết pháp lý đã đẩy VKS
thuộc những nhánh quyền lực khác nhau, có những địa vị pháp lý khác nhau.
19
Tuy nhiên, cho dù thuộc nhánh quyền lực nào. Dù hành pháp nhằm THQCT
hay tư pháp có thêm chức năng giám sát hoạt động tư pháp và chỉ đạo hoạt động
điều tra thì chức năng chủ yếu của VKS cũng được nhìn nhận là cơ quan thực hiện
quyền lực Nhà nước và thay mặt Nhà nước bảo vệ pháp luật và duy trì trật tự xã hội.
Trong xã hội ngày càng phát triển yêu cầu này đối với VKS ngày càng cao.
Cụ thể ở nước ta, riêng đối với phạm vi quyền công tố vẫn có rất nhiều vụ án xảy ra
trên phạm vi toàn quốc chưa bị khởi tố. Với việc phát triển của nền kinh tế, việc gia
tăng tội phạm trong nhiều lĩnh vực trong đó có những lĩnh vực mới là thách thức rất
lớn đối với VKS. Bên cạnh đó, với việc thừa nhận phạm vi thẩm quyền rộng của
VKS nước ta đòi hỏi sự hiểu biết đa dạng hơn trong nhiều lĩnh vực đối với VKS.
Và như đã trình bày, bản chất về địa vị pháp lý của VKS nó phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố. Như thể chế chính trị, chế độ pháp lý, các điều kiện kinh tế, xã hội…Ở
những điều kiện khác nhau, mỗi quốc gia sẽ quy định về vị trí, địa vị của VKS là
khác nhau. Chẳng hạn, như ở nước ta, CHLB Nga và các nước XHCN ở Đông âu
trước đây thì thừa nhận thẩm quyền rộng của VKS, nghĩa là ngoài chức năng: “truy
tố người phạm tội hình sự, giữ quyền công tố tại Tòa án, giám sát chế độ giam giữ
tại các trại giam” thì còn có thêm: chức năng giám sát việc tuân theo pháp luật và
chỉ đạo hoạt động điều tra. Lý giải việc hình thành nên sự khác biệt này, có quan
điểm cho rằng đó là: Do nước ta cũng như nước Nga và các nước Đông Âu trước
đây “Văn hóa pháp lý không phát triển, ý thức tôn trọng và tuân thủ pháp luật thấp,
tình trạng coi thường pháp luật vẫn phổ biến, xã hội dân sự không phát triển... Vì
vậy, nhà nước vẫn cần có một cơ chế giám sát việc tuân theo pháp luật, bảo đảm
pháp chế được tôn trọng“[57].
Từ những phân tích trên có thể đưa đến một số kết luận cơ bản về bản chất địa
vị pháp lý của VKS là: “VKS là cơ quan thực hiện quyền lực Nhà nước, thay mặt
Nhà nước, thực hiện hoạt động truy tố người phạm tội hình sự, giữ quyền công tố tại
Tòa án, giám sát chế độ giam giữ tại các trại giam”, ngoài ra tùy theo quy định của
pháp luật của từng quốc gia mà VKS có thể có thêm thẩm quyền: “giám sát việc tuân
theo pháp luật và chỉ đạo hoạt động điều tra” hay một số ngoại lệ khác.
20
1.2. Những nội dung cơ bản về tố tụng hình sự ở nước ta hiện nay
1.2.1. Khái niệm tố tụng hình sự
Trong Hán Việt từ điển, học giả Đào Duy Anh có giải thích: "tố tụng" là việc
thưa kiện (procès) ra tòa. Thời Pháp thuộc, người ta bắt đầu dùng hai chữ "tố tụng"
để dịch chữ "procédure" (chữ Pháp procédure hay chữ Anh procedure đều bắt
nguồn từ chữ La tinh processus nghĩa là quá trình, trình tự, thủ tục) [29].
Trong tiếng Việt, thuật ngữ “tố tụng” được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.
Nghĩa thứ nhất: tố tụng là việc thưa kiện hoặc luật về thủ tục; nghĩa thứ hai: thuật
ngữ “tố tụng” được dùng để chỉ ngành luật về thủ tục hay bản thân thủ tục giải
quyết tranh chấp và xử lý vi phạm pháp luật thường là ở Tòa án [28].
Trong lĩnh vực pháp luật, thuật ngữ tố tụng được ghép với tên một ngành luật
cụ thể, tạo thành các thuật ngữ pháp lý như TTHS, tố tụng dân sự, tố tụng hành
chính. Các thuật ngữ trên có những nội dung tương đồng đó là đều chỉ cơ cấu chủ
thể và trình tự thực hiện các hoạt động tham gia giải quyết một vụ án cụ thể tại Tòa
án. Tuy nhiên, ngoài những điểm chung đó, mỗi một thuật ngữ có những nghĩa khác
biệt, điều đó phụ thuộc vào phạm vi những vấn đề mà thuật ngữ đó định nghĩa.
Thông qua những vấn đề mà thuật ngữ giải thích đã tạo thành nội dung của khái
niệm pháp lý.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, TTHS được hiểu là: toàn bộ hoạt
động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia
tố tụng các cá nhân, cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội, góp phần vào giải quyết
vụ án hình sự theo quy định của BLHS [29].
Bộ luật TTHS là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã
hội phát sinh trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Đối tượng chính của BLTTHS là các quan hệ xã hội phát sinh từ việc khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự:
1.2.2. Các giai đoạn giải quyết vụ án hình sự
Quá trình giải quyết vụ án hình sự được chia thành các giai đoạn, mỗi giai
đoạn TTHS có nhiệm vụ giải quyết những yêu cầu khác nhau và tương ứng với mỗi
21
giai đoạn đó là chức năng cụ thể của mỗi cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền
nhằm thực hiện nhiệm vụ do pháp luật quy định. Như vậy, giai đoạn TTHS được
hiểu: Là bước của quá trình TTHS tương ứng với chức năng nhất định trong hoạt
động tư pháp hình sự của từng loại chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm
thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định, có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết
thúc để giải quyết vụ án hình sự một cách công minh, khách quan, có căn cứ và
đúng pháp luật, góp phần củng cố pháp chế và trật tự pháp luật, bảo vệ vững chắc
các quyền và tự do của công dân.
BLTTHS Việt Nam chia quá trình giải quyết vụ án hình sự thành các giai
đoạn: Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố, giai
đoạn xét xử và thi hành bản án hình sự.
Luận văn chỉ tập trung vào nghiên cứu giai đoạn khởi tố; giai đoạn điều tra,
giai đoạn truy tố và giai đoạn xét xử vụ án hình sự
1.2.2.1. Khởi tố vụ án hình sự
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn TTHS đầu tiên mà trong đó cơ quan tư
pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật TTHS tiến hành
việc xác định có (hay không) các dấu hiệu của tội phạm trong hành vi nguy hiểm
cho xã hội đã được thực hiện, đồng thời ban hành quyết định về việc khởi tố (hoặc
không khởi tố) vụ án hình sự liên quan đến hành vi đó.
Vai trò và ý nghĩa của giai đoạn này được thể hiện trên các bình diện chủ yếu
như sau: Một mặt, khởi tố vụ án hình sự là sự phản ứng nhanh chóng từ phía Nhà
nước đối với mỗi hành vi phạm tội nhằm góp phần phát hiện, điều tra và xử lý một
cách có căn cứ và đúng pháp luật hành vi phạm tội và người phạm tội, đồng thời
không chỉ là chức năng quan trọng trong hoạt động tư pháp hình sự mà còn là
phương tiện cơ bản để thực hiện tốt nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm trong
thực tiễn áp dụng pháp luật TTHS, tránh bỏ lọt tội phạm; Mặt khác, khởi tố vụ án
hình sự cũng góp phần loại trừ một thái cực khác trong hoạt động tư pháp hình sự,
ngăn chặn kịp thời việc thông qua quyết định khởi tố vụ án hình sự một cách thiếu
cân nhắc kỹ, vội vàng và do vậy, có thể sẽ kéo một loạt hậu quả tiêu cực tiếp theo
22
trong việc truy cứu TTHS ở các giai đoạn TTHS tiếp theo sau (như: Điều tra không
có căn cứ đối với những hành vi không chứa đựng dấu hiệu của tội phạm hoặc nói
chung là không diễn ra trong thực tế khách quan, khám xét, bắt, giam giữ, buộc tội,
xét xử một cách vô căn cứ và trái pháp luật, làm oan những người vô tội);
Khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn TTHS cơ bản và quan trọng để tăng
cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân trước khi khởi tố bị can và
áp dụng các biện pháp nghiệp vụ của giai đoạn điều tra, cùng với các giai đoạn
TTHS khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm
trong toàn xã hội.
1.2.2.2. Điều tra vụ án hình sự
Điều tra vụ án hình sự là giai đoạn TTHS thứ hai mà trong đó CQĐT căn cứ
vào các quy định của pháp luật TTHS và dưới sự kiểm sát của VKS tiến hành các
biện pháp cần thiết nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết
của vụ án hình sự, phát hiện nhanh chóng và đầy đủ tội phạm, cũng như người có
lỗi trong việc thực hiện tội phạm tội để truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời bảo
đảm cho việc bồi thường thiệt hại về vật chất do tội phạm gây ra.
Với tính chất là một giai đoạn độc lập của TTHS, giai đoạn điều tra vụ án
hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể nhằm áp dụng các biện pháp
cần thiết do luật định để chứng minh việc thực hiện tội phạm và người phạm tội,
xác định rõ những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, đồng thời kiến nghị các cơ
quan và tổ chức hữu quan áp dụng đầy đủ các biện pháp khắc phục và phòng ngừa
tội phạm; Thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi cơ quan (người) tiến
hành TTHS có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc bằng bản
kết luận điều tra và quyết định của CQĐT về việc đề nghị VKS truy tố bị can trước
Tòa án hoặc đình chỉ vụ án hình sự tương ứng.
Vai trò và ý nghĩa của giai đoạn này được thể hiện trên các bình diện chủ yếu
như sau: Điều tra vụ án hình sự là chức năng quan trọng trong hoạt động tư pháp hình
sự của cơ quan (người) tiến hành có thẩm quyền đối với mỗi hành vi phạm tội nhằm
trực tiếp chứng minh hành vi phạm tội và người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm
23
thông qua các chứng cứ đã thu thập được. Đồng thời, điều tra vụ án hình sự để tăng
cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân trong các giai đoạn trước
khi khởi tố của VKS và xét xử của Tòa án, cùng với các giai đoạn TTHS khác góp
phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội.
1.2.2.3. Truy tố tội phạm
Truy tố là giai đoạn thứ ba của hoạt động TTHS. Với tính chất là một giai
đoạn độc lập, giai đoạn truy tố có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật
định kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các hành vi tố tụng mà
CQĐT có thẩm quyền đã áp dụng để bảo đảm cho các quyết định của VKS được
chính xác và khách quan góp phần truy cứu trách nhiệm hình sự đúng tội, đúng
người và đúng pháp luật.
Thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi VKS nhận được các tài liệu
của vụ án hình sự (kèm theo bản kết luận điều tra đề nghị truy tố) do CQĐT chuyển
đến và kết thúc bằng việc VKS ra một trong ba loại quyết định sau: Truy tố bị can
trước Tòa án bằng bản cáo trạng (kết luận về tội trạng); Trả lại hồ sơ để điều tra bổ
sung hoặc là đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án hình sự tương ứng.
1.2.2.4. Giai đoạn xét xử vụ án hình sự
Xét xử vụ án hình sự là giai đoạn thứ tư, là giai đoạn trung tâm và quan trọng
nhất của hoạt động TTHS, mà trong đó cấp Tòa án có thẩm quyền căn cứ vào các
quy định của pháp luật TTHS tiến hành:
1) Áp dụng các biện pháp chuẩn bị cho việc xét xử;
2) Đưa vụ án hình sự ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm để xem xét về thực chất
vụ án, đồng thời trên cơ sở kết quả tranh tụng công khai và dân chủ của hai bên
(buộc tội và bào chữa) phán xét về tính chất của hành vi tội phạm, bị cáo có tội hay
không có tội; hoặc xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm - nếu bản án hay quyết định
sơ thẩm đã được tuyên và chưa có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng cáo, kháng
nghị hoặc kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của bản án hay quyết định đã có hiệu
lực pháp luật theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm - nếu bản án hay quyết định
đó bị kháng nghị; và cuối cùng, tuyên bản án (quyết định) của Tòa án có hiệu lực
24
pháp luật nhằm giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự một cách công minh và đúng
pháp luật, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục.
Xét xử là một giai đoạn TTHS để tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và
tự do của công dân của Tòa án nói riêng và toàn bộ hoạt động tư pháp hình sự của
Nhà nước nói chung, cùng với các giai đoạn TTHS khác góp phần có hiệu quả vào
cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội.
1.2.3. Bản chất của tố tụng hình sự ở nước ta hiện nay và sự khác biệt
giữa tố tụng hình sự với các loại hình tố tụng khác
Bản chất của TTHS ở nước ta hiện nay là toàn bộ hoạt động của các cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, các cá nhân,
cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội, góp phần vào giải quyết vụ án hình sự được
chính xác, công minh, kịp thời, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Như vậy, TTHS cũng giống như các loại hình tố tụng khác như tố tụng hành
chính, tố tụng dân sự, TTHS có những điểm chung đó là trình tự thủ tục do pháp
luật quy định để việc giải quyết một vụ án (hình sự, dân sự, hành chính). Hoạt động
của các chủ thể tiến hành trong quá trình giải quyết một vụ án được gọi là hoạt động
tố tụng. Trong quan hệ tố tụng, chủ thể tiến hành tố tụng là Tòa án có quyền nhân
danh Nhà nước, sử dụng quyền lực Nhà nước áp dụng pháp luật để giải quyết một
tranh chấp trên một lĩnh vực nhất định theo thẩm quyền. Trọng tâm của tố tụng là
hoạt động xét xử do Tòa án thực hiện.
Tuy nhiên, mỗi một loại hình tố tụng có những đặc trưng riêng. TTHS khác
biệt với các loại hình tố tụng khác ở những nội dung sau: TTHS là trình tự (quá
trình) tiến hành giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật. TTHS bao
gồm toàn bộ hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng (CQĐT, VKS, Tòa án), người
tiến hành tố tụng (Điều tra viên, KSV, Thẩm phán, hội thẩm nhân dân và Thư ký
phiên tòa), người tham gia tố tụng (bị can, bị cáo, người bào chữa...), của cá nhân,
cơ quan nhà nước khác và tổ chức xã hội góp phần vào việc giải quyết vụ án theo
quy định của BLTTHS”.
25