Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Một số điểm mới của bộ luật dân sự 2005 về nghĩa vụ dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.71 KB, 28 trang )

Một số điểm mới của Bộ Luật dân sự 2005 về nghĩa vụ dân sự

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm qua, hệ thống pháp luật của nước ta ngày càng phát
triển nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành tạo cơ sở pháp lý
cho cơng cuộc đổi mới đất nước trong đó phải kể đến BLDS năm 1995, có
hiệu lực thi hành ngày 1/7/1996. Thông qua Bộ luật, các quan điểm, chủ
trương của Đảng, Nhà nước đã được thể chế thành các quy phạm pháp luật.
Đồng thời Bộ luật cũng đã cụ thể hoá các quyền cơ bản của con người trong
lĩnh vực dân sự được cụ thể hoá trong Hiến pháp 1992.
Sau gần 10 năm áp dụng BLDS đã cho thấy về cơ bản BLDS đã thật sự
đi vào đời sống xã hội. Bộ luật đã tạo chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của
các bên tham gia giao dịch dân sự góp phần đảm bảo cơng bằng xã hội, an
tồn pháp lý cho các bên bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể.
Qua đó BLDS đã góp phần ổn định và phát triển KT-XH, góp phần đắc lực
cho công cuộc đổi mới đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả trên
BLDS còn bộc lộ những hạn chế so với yêu cầu hiện nay. Nhiều quy định
trong BLDS mâu thuẫn, bất cập với các luật khác. Ví dụ như quy định về
quyền sử dụng đất của cá nhân, tổ chức và quyền sử dụng đất trong luật dất
đai năm 2003…đặc biệt trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà nước ta
đã ký nhiều hiệp định thương mại và chuẩn bị gia nhập tổ chức kinh tế thương
mại thế giới (WTO). Trước tình hình đó BLDS 2005 có một số quy định chưa
thích ứng với điều kiện quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Vì vậy việc ban
hành BLDS mới là cần thiết nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật dân sự, đáp
ứng tốt hơn yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước ta và hội nhập kinh tế
quốc tế. Từ đó xây dựng nhà nước pháp quyền của dân do dân vì dân.
2. Tình hình nghiên cứu
Qua trình nghiên cứu một số điểm mới của BLDS 2005 về nghĩa vụ
dân sự được coi là mơ hình thu nhỏ của luật nghĩa vụ dân sự đÓ thấy được
SV: Nguyễn Thị Thanh A - 47B Chính trị - Luật



1


Một số điểm mới của Bộ Luật dân sự 2005 về nghĩa vụ dân sự

một cách tổng quan những tiến bộ và hạn chế của các quy định pháp luật. Và
sự cần thiết bổ sung để phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước trong
giai đoạn hiện nay mà trước đây chưa có một đề tài nào nghiên cứu về vấn
đề này.
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu tổng quan luật dân sự gồm một số điểm mới của
BLDS 2005 về nghĩa vụ dân sự, nội dung và đề xuất giải pháp để hoàn thiện
BLDS.
Đề tài tập trung nghiên cứu một số điểm mới của BLDS 2005 về nghĩa
vụ dân sự và trên cơ sở đó đề ra những đề xuất, giải pháp nhằm hồn thiện
BLDS cho phù hợp với cơng cuộc đổi mới của đất nước.
4. Nhiêm vụ của đề tài
Đề tài có nhiệm vụ là tìm ra một số điểm mới và những “lỗ hổng” của
ngành luật dân sự và nêu ra tính tất yếu phải khắc phục để hồn thiện hơn
nữa BLDS.
5. Cơ sở khoa học và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở khoa học của đề tài là dựa trên ngành luật dân sự và mơ hình thu
nhỏ của một số điểm mới của BLDS 2005 về nghĩa vụ dân sự.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài là phương pháp duy vật, phếp biện
chứng duy vật, phân tích tổng hợp…Trong đó phương pháp phân tích là
phương pháp chủ đạo nhất.
6. Những đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa của đề tài.
Những nghiên cứu của đề tài có thể trở thành tư liệu giảng dạy để học
tập, nghiên cứu và làm tư liệu nghiên cứu cho các cơ quan.

Đề tài chỉ ra được những thành tựu to lớn và hạn chế của BLDS 2005
về nghĩa vụ dân sự. Từ đó đề xuất giải pháp để hồn thiện tốt BLDS.
SV: Nguyễn Thị Thanh A - 47B Chính trị - Luật

2


Một số điểm mới của Bộ Luật dân sự 2005 về nghĩa vụ dân sự

B. NỘI DUNG
Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÒ BLDS 2005 VÀ MỘT SỐ ĐIỂM MỚI
CỦA BỘ LUẬT VỀ NGHĨA VỤ DÂN SỰ
1.1. Quá trình ban hành và sự quán triệt thực hiện quan điểm của BLDS 2005
1.1.1. Quá trình ban hành BLDS 2005
Xuất phát từ vị trí quan trọng của BLDS trong đời sống xã hội nói
chung và hệ thống pháp luật nói riêng, trong những năm vừa qua ban soạn
thảo BLDS (Sửa đổi) đã tích cực chuẩn bị dự thảo BLDS. Dự thảo đã được
Quốc Hội cho ý kiến tại kỳ họp tháng 10/2004. Uỷ ban thường vụ Quốc Hội
đã tổ chức lấy ý kiến nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo BLDS (Sửa
đổi) nhằm phát huy quyền làm chủ và trí tuệ của tồn dân, bảo đảm tính khả
thi và hiệu lực thực tế của bộ luật sau khi ban hành. Thực hiện chương trình
xây dựng pháp luật, pháp lệnh của Quốc Hội, dự thảo BLDS mới đã được
Quốc Hội thông qua ngày 14/06/2005 tại kỳ họp thứ 7 Bộ luật này đã được
thay thế BLDS 1995 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2006.
Đây là Bộ luật lớn nhất của nước ta hiện nay với 34 chương, 7 phần và
777 điều.
1.1.2. Sự quán triệt các quan điểm của BLDS 2005
Một trong những cơng việc mang tính quyết định khi xây dựng pháp

luật nói chung và xây dựng BLDS nói riêng, đó là xác định các quan điểm cơ
bản cần phải được thể hiện trong nội dung của đạo luật. BLDS 2005 đã quán
triệt các quan điểm cơ bản sau đây:
BLDS đã quán triệt và cụ thể hoá các nghị quyết của Đảng trong việc đẩy
mạnh xây dựng và hoàn thiệ khung pháp luật phù hợp với nền kinh tế thị trường
và đổi mới thể chế, thủ tục hành chính tập trung trước hết vào việc tiếp xúc xoá
bỏ những quy định mang nặng tính hành chính, quan liêu, bao cấp, gây phiền hà,
SV: Nguyễn Thị Thanh A - 47B Chính trị - Luật

3


Một số điểm mới của Bộ Luật dân sự 2005 về nghĩa vụ dân sự

sách nhiễu kìm hãm sự phát triển năng động trong nền kinh tế thị trường, đảm
bảo các văn bản pháp luật có nội dung đúng đắn, nhất quán, khả thi.
BLDS 2005 đã cụ thể hoá một số quy định của hiến pháp 1992 trong đó
có điều 15 về “Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản
xuất, kinh doanh đa dạng, dựa trên chế độ sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân
trong đó sở hữu tồn dân và sở hữu tập thể làm nền tảng”. Điều 16 về “Các
thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế
được sản xuất, kinh doanh trong các ngành nghề mà pháp luật không cấm
cùng phát triển, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật”.
Việc ban hành BLDS mới nhằm xây dựng Bộ luật chung điều chỉnh các
quan hệ xã hội được xác lập theo nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, tự thoả
thuận và tự chịu trách nhiệm của các chủ thể. Theo đó, BLDS quy định địa vị
pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân, chủ thể
khác, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân và tài sản trong các
quan hệ hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động.

BLDS 2005 được ban hành là thực hiện một bước quan trọng phát triển
hoá pháp luật dân sự, khắc phục tình trạng khơng đầy đủ, tản mạn của pháp
luật trong lĩnh vực dân sự, các quan hệ dân sự, tạo cơ sở thuận lợi cho việc áp
dụng thi hành pháp luật.
BLDS 2005 cũng là sự kế thừa và phát triển của pháp luật dân sự của
ông cha ta. BLDS 1995 và những tinh hoa của pháp luật dân sự trên thÕ giới
vận dụng vào điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay.
1.2. Những vấn đề lý luận về nghĩa vụ dân sự
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của nghĩa vụ dân sự
Nghĩa vụ theo cách hiểu thông thường là những gì mà một người
phải làm hoặc khơng được làm đối với người khác. Theo cách hiểu này:
SV: Nguyễn Thị Thanh A - 47B Chính trị - Luật

4


Một số điểm mới của Bộ Luật dân sự 2005 về nghĩa vụ dân sự

Nghĩa vụ là mối liên hệ giữa hai hay nhiều người với nhau, trong đó một bên
phải thực hiện nhừng hành vi nhất định.
Thuật ngữ “nghĩa vụ” được hiểu đầy đủ xét dưới các phương diện sau:
Trong đời sống xã hội, chúng ta thường bắt gặp hai loại nghĩa vụ: loại
thứ nhất là những xử sự bắt buộc không được đảm bảo bằng pháp luật mà do
người thực hiện hành động theo quan niệm về bổn phận, lương tâm, đạo
đức… Ví dụ như thờ cúng tổ tiên, cứu giúp người gặp hoạn nạn, khó khăn.
Loại thứ hai, là những nghĩa vụ bắt buộc được Nhà nước bảo đảm thực hiện
bằng pháp luật. Ví dụ trong quan hệ mua bán hàng hố, bên mua phải có
nghĩa vụ trả tiền cho bên bán cịn bên bán có nghĩa vụ giao hàng, ai gây thiệt
hại về tài sản cho người khác thì phải chịu bồi thường.
Trong BLDS 2005, nghĩa vụ dân sự được định nghĩa tại điều 280:

“Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi
chung là bªn cã nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền
hoặc giấy tờ có giá, thực hiện cơng việc khác hoặc khơng thực hiện cơng việc
nhất định vì lợi ích của một hay nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên
có quyền).
Từ định nghĩa về nghĩa vụ dân sự được pháp luật ghi nhận nổi bật lên
những đặc điểm cơ bản sau:
- Nghĩa vụ dân sự là một quan hệ pháp luật dân sự vì nó có đầy đủ cả
ba yếu tố chủ thể, khách thể và nội dung quan hệ.
- Nghĩa vụ dân sự bao giờ cũng được phát sinh từ một sự kiện mà đã
được luật dự liệu tới một hậu quả pháp lý nhất định. Đó là những sự kiện làm
hình thành một quan hệ và quan hệ này được sự tác động của pháp luật. Trong
đó quyền và nghĩa vụ các bên chủ thể được pháp luật ghi nhận và bảo đảm
thực hiện vì thế mà nghĩa vụ có đầy đủ cả ba yếu tố là chủ thể, khách thể và
nội dung quan hệ.

SV: Nguyễn Thị Thanh A - 47B Chính trị - Luật

5


Một số điểm mới của Bộ Luật dân sự 2005 về nghĩa vụ dân sự

- Các bên chủ thể trong nghĩa vụ luôn luôn được xác định cụ thể. Nghĩa
vụ dân sự tồn tại ở trạng thái là một quan hệ pháp luật nên bao giờ cũng là
mối quan hệ giữa hai bên chủ thể: Đặc điểm cho thấy nghĩa vụ dân sự hoàn
toàn khác với giao dịch dân sự bởi trong nhiều trường hợp giao dịch dân sự
không phải là một quan hệ pháp luật và trong trường hợp đó, giao dịch dân sự
chỉ có một bên chủ thể.
Chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ là những người đã được xác định cụ

thể, có thể họ là người có nghĩa vụ, có thể họ là người có quyền. Đặc trưng
này cho thấy quan hệ nghĩa vụ dân sự khác với quan hệ sở hữu. Trong quan
hệ sở hữu chỉ xác định được một bên chủ thể.
- Trong nghĩa vụ dân sự của hai bên chủ thể đối lập quyền của bên này
sẽ là nghĩa vụ của bên kia và ngược l¹i. Bên này có bao nhiêu quyền thì bên
kia có bấy nhiêu nghĩa vụ tương ứng. Thơng thường các chủ thể phải thực
hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên, có những trường hợp pháp
luật quy định người thứ ba phải thực hiện nghĩa vụ đó, ví dụ cha mẹ phải bồi
thường thay cho con chưa thành niên gây thiệt hại.
Quyền dân sự của các chủ thể là một quyền đối nhân. Nếu trong quan
hệ pháp luật về sở hữu quyền của chủ thể mang quyền (chủ sở hữu) được thực
hiện bằng hành vi của chính mình thì trong quan hệ nghĩa vụ dân sự quyền
của bên này lại được thực hiện thông qua hành vi của bên kia. Mặt khác, nếu
việc thực hiện quyền trong quan hệ sở hữu là việc người có quyền tác động
trực tiếp đến vật (vật quyền), thì trong quan hệ nghĩa vụ người mang quyền
khơng tác động trực tíêp đến tài sản của người mang nghĩa vụ. Khi người
mang nghĩa vụ khơng thực hiện nghĩa vụ đó, người mang quyền được sử dụng
các phương thức mà pháp luật cho phép để tác động và yêu cầu người đó thực
hiện nghĩa vụ đối với mình (trái quyền).
Nghĩa vụ là một quan hệ pháp luật dân sự, trong đó một bên chủ thể là
một hoặc nhiều người phải làm hoặc không được làm một hoặc một số việc
SV: Nguyễn Thị Thanh A - 47B Chính trị - Luật

6


Một số điểm mới của Bộ Luật dân sự 2005 về nghĩa vụ dân sự

nhất định vì lợi ích của chủ thể bên kia.Bên phải làm hoặc không được làm
những cơng việc được gọi là người có nghĩa vụ (thụ trái). Bên được được

hưởng lợi ích có thể u cầu bên kia thực hiện hoặc không thực hiện một
công việc nào đó vì quyền lợi của mình được gọi là người có quyền (trái chủ).
Trong quan hệ nghĩa vụ, hành vi của các chủ thể sẽ tác động vào một tài
sản, một cơng việc cụ thể nào đó. Những tài sản, cơng việc này chính là đối
tượng của việc thực hiện của việc thực hiện nghĩa vụ dân sự. Tuỳ thuộc vào
tính chất, nội dung của từng quan hệ nghĩa vụ cụ thể mà đối tượng của nó có
thể là một tài sản, một công việc phải làm hoặc một công việc không được làm.
Điều 282 đối tượng của nghĩa vụ dân sự:
1. Đối tượng của nghĩa vụ dân sự có thể là tài sản, cơng việc được thực
hiện hoặc không được thực hiện
2. Đối tượng của nghĩa vụ dân sự phải được xác định cụ thể
3. Chỉ những tài sản có thể giao dịch được, những cơng việc có thể thực
hiện được mà pháp luật không cấm, không trái với đạo đức xã hội mới là đối
tượng của nghĩa vụ dân sự
Qua đó chúng ta có thể rút ra được những đặc điểm của đối tượng nghĩa
vụ:
- Phải đáp ứng được một lợi ích nào đó cho cho chủ thể có quyền.
thơng thường, lợi ích mà chủ thể hướng tới là một lợi ích vật chất (vật cụ thể,
một khoản tiền…) nhưng cũng có thể là một lợi ích tinh thần
Để chủ thể có quyền đạt được lợi ích vật chất nếu đối tượng của nghĩa
vụ dân sự là một vật cụ thể, thì vật đó phải mang đầy đủ các thuộc tính của
một hàng hố (giá trị và giá trị sử dụng). Nếu đối tượng của nghĩa vụ dân sự
là cơng việc, thì việc phải làm hoặc khơng được làm phải hướng tới lợi ích
của người có quyền.
- Phải được xác định cụ thể. Khi các bên giao kết hợp đồng để xác định
nghĩa vụ dân sự đối nhau, phải xác định rõ đối tượng của nghĩa vụ là cơng
SV: Nguyễn Thị Thanh A - 47B Chính trị - Luật

7



Một số điểm mới của Bộ Luật dân sự 2005 về nghĩa vụ dân sự

việc hay vật gì. Trong trường hợp nghĩa vụ được thiết lập theo quy định của
pháp luật, thì đối tượng dã được pháp luật quy định rõ trong nội dung của
quan hệ nghĩa vụ đó. Ví dụ: Bồi thường thiệt hại do hành vi gây thiệt hại, thì
đối tượng của nghĩa vụ có thể là một vật được xác định cụ thể như loại vật, số
lượng, chất lượng… Nếu đối tượng là vật chưa có vào thời điểm nghĩa vụ dân
sự được xác lập, thì phải là nhưng vật được xác định trong tương lai.
Trong trường hợp không xác định rõ đối tượng của nghĩa vụ thì pháp
luật quy định: “Nếu khơng có thoả thuận về chất lượng thì phải giao vật đó
với chất lượng trung bình” (Điều 289 BLDS).
- Trong quan hệ nghĩa vụ dân sự, mục đích mà các bên muốn đạt được
là một lợi ích vật chất hoặc lợi ích về tinh thần, do vậy đối tượng của nghĩa vụ
phải thực hiện được. Nếu không thực hiện được sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi
của các bên. Trường hợp đối tượng của nghĩa vụ dân sự là một cơng việc thì
cơng việc đó phải thực hiện được. Những việc mà pháp luật cấm giao dịch
hoặc những việc nếu làm sẽ trái với đạo đức xã hội không bao giờ được coi là
đối tượng của nghĩa vụ dân sự.
Đối tượng của nghĩa vụ dân sự phải là những công việc được xác định
và được thực hiên trong thực tế, hoặc là những vật có thực và được phép giao
dịch mà bên có nghĩa vụ phải tạo ra hoặc phải chuyển giao.

SV: Nguyễn Thị Thanh A - 47B Chính trị - Luật

8


Một số điểm mới của Bộ Luật dân sự 2005 về nghĩa vụ dân sự


Chương 2

MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CỦA BLDS 2005 Về nghĩa vụ dân sự
- đề xuất, giải pháp
2.1. Những điểm mới của BLDS về nghĩa vụ dân sù
Phần thứ ba BLDS 2005 có 5 chương (từ chương XVII - XXI) 33 mục,
351 điều, từ điều 630 quy định chung về nghĩa vụ dân sự; trách nhiệm dân sự;
hợp đồng dân sự; một số hợp đồng dân sự thơng dụng; thực hiện cơng việc
khơng có uỷ quyền; nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu; sử dụng tài sản; được lợi
về tài sản khơng có căn cứ pháp luật; trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng.
Trong đề tài này tôi xin đề cập tới những điểm mới trong nghĩa vụ dân
sự, bao gồm:
- Nghĩa vụ dân sự và trách nhiệm dân sự.
- Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
- Chấm dứt nghĩa vụ dân sự
2.1.1. Nghĩa vụ dân sự và trách nhiệm dân sự (từ điều 280 đến điều 317)
Được quy định từ Điều 280 đến Điều 317 BLDS 2005.
Nhìn chung các quy định về nghĩa vụ dân sự và trách nhiệm dân sự thể
hiện quan điểm cơ bản đó là người có nghĩa vụ phải thực hiện nghiêm túc
nghĩa vụ của mình, nếu vi phạm thì phải chịu trách nhiệm, nếu gây thiệt hại
thì phải bồi thường so với Bộ luật 1995, Bộ luật dân sự 2005 có những điểm
mới sau:
2.1.1.1. Nghĩa vụ dân sự
Chế định nghĩa vụ là chế định xuất hiện sau chế định tài sản. Điều này
xuất phát từ lí do pháp luật về nghĩa vụ đòi hỏi xã hội phải phát triển đến một
mức độ nhất định. Trong giai ®oạn đầu của xã hội lồi người, tồn tại hình

SV: Nguyễn Thị Thanh A - 47B Chính trị - Luật


9


Một số điểm mới của Bộ Luật dân sự 2005 về nghĩa vụ dân sự

thức tự cung tự cấp, trong đó nhu cầu của con người được đáp ứng bằng vật
chất do chính mình tạo ra. Sau đó, bắt đầu quá trình trao đổi tài sản tạo ra
được, trong khi tiền tệ chưa được xác lập làm phương tiện thanh tốn chung.
Tất cả những điều đó tất yếu được thể hiện trong pháp luật. Trải qua quá trình
hình thành và phát triển khái niệm nghĩa vụ dân sự không ngừng được đổi
mới và hoàn thiện. Trong BLDS 2005, khái niệm nghĩa vụ dân sự được quy
định ở Điều 280, khái niệm này được quy đinh cụ thể hơn khái niệm khái
niệm nghĩa vụ dân sự so với Bộ luật 1995. Điều 280 BLDS 2005 quy định:
“nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi
chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền
hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc khác hoặc không thực hiện công việc
nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau dây gọi chung là
bên có quyền)”.
Khái niệm về nghĩa vụ dân sự được quy định trong BLDS cụ thể hơn so
với bộ luật 1995. Theo quy định của BLDS 2005 thì nghĩa vụ dân sự khơng
chỉ là việc phải làm một công việc hoặc không được làm một cơng việc vì lợi
ích của một hoặc nhiều chủ thể khác mà còn bao gồm cả việc phải chuyển
giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá khác. Việc bổ sung thêm các quy định
này dựa trên cơ sở của việc nghiên cứu sâu các vấn đề lí luận về nghĩa vụ các
loại nghĩa vụ thông thường.
Nghĩa vụ chuyển giao vật là nghĩa vụ được thực hiện bởi hành vi
chuyển giao việc chiếm giữ đối với vật, trong đó có thể đồng thời chuyển giao
quyền sở hữu, đây là loại nghĩa vụ thường phát sinh trong quan hệ tặng cho,
mua bán, thuê, bảo quản.
Nghĩa vụ chuyển giao quyền: Trước đây quyền của một chủ thể thường

được hiểu là quan hệ riêng giữa người có quyền và người có nghĩa vụ, dần dần
nghĩa vụ càng trở thành một quyền về tài sản có giá trị nên đặc tính chuyển

SV: Nguyễn Thị Thanh A - 47B Chính trị - Luật

10


Một số điểm mới của Bộ Luật dân sự 2005 về nghĩa vụ dân sự

giao của nó được pháp luật dân sự thừa nhận, tuy nhiên, cũng cần lưu ý việc
chuyển giao quyền thực hiện khi đáp ứng được những yêu câu nhất định.
Nghĩa vụ trả tiền là nghĩa vụ được thực hiện bởi hành vi thanh toán một
khoản tiền nhất định, hay nói cách khác đây là việc chuyển một khoản tiền có
giá trị xác định. Nghĩa vụ trả tiền có đặc điểm là chủ thể có tịch biên tài sản
của chủ thể có nghĩa vụ để thu hồi khoản tiền là đối tượng của nghĩa vụ, việc
thực hiện nghĩa vụ phải tính đến hệ số trượt giá trong trường hợp thị trường
có những biến động về giá cả. Đây là loại nghĩa vụ rất phổ biến trên thực tế và
có vị trí quan trọng trong mọi lĩnh vực.
 Về thực hiện nghĩa vụ trả tiền. Điều 290 quy định: nghĩa vụ trả tiền
phải thực hiện đầy đủ, đúng thời hạn, đúng địa điểm và phương thức đã thoả
thuận. Nghĩa vụ trả tiền bao gồm cả tiền lãi, tiền nợ gốc, trừ trường hợp có
thoả thuận khác.
Việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền phải đảm bảo nguyên tắc chung là
trung thực, hợp tác, đúng cam kết, không trái với pháp luật với dạo đức xã
hội. Nguyên tắc này chi phối tồn bộ ngun tắc có liên quan đến thực hiện
nghĩa vụ dân sự trong các giao dịch dân sự, thương mại, quan hệ hơn nhân gia
đình, lao động. Xuất phát từ nguyên tắc tự do hợp đồng, các bên được thoả
thuận về các nội dung cần thiết trong quá trình thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Điều 290 Bộ luật dân sự 2005 quy định về việc thực hiện nghĩa vụ trả

tiền, theo đó bên có nghĩa vụ trả tiền phải thực hiện đầy đủ, đúng thời hạn,
đúng địa điểm và phương thức đã thoả thuận.
So với Bộ luật dân sự năm 1995, điểm mới của quy định về thực hiện
nghĩa vụ trả tiền tại Điều 290 Bộ luật dân sự 2005 là khoản 2 của điều này đã
không quy định bắt buộc trong luật đồng tiền thanh toán phải là đồng tiền Việt
Nam mà để cho các văn bản chuyên ngành khác quy định nhằm bảo đảm sự
linh hoạt trong giao dịch dân sự. Việc sửa đổi, bổ sung này xuất phát từ hai lí
do: Thứ nhất với vai trò là luật chung điều chỉnh mọi quan hệ xã hội có tính
SV: Nguyễn Thị Thanh A - 47B Chính trị - Luật

11


Một số điểm mới của Bộ Luật dân sự 2005 về nghĩa vụ dân sự

bình đẳng thoả thuận, Bộ luật dân sự không nên quy định và không cần thiết
quy định một cách quá cứng nhắc là việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền phải là
đồng Việt Nam; thứ hai, việc sửa đổi này nhằm bảo đảm tính phù hợp với
thực tế và một số văn bản pháp luật chuyên ngành.
2.1.1.2. Trách nhiệm dân sự (mục 3, chương 17, từ Điều 302 đến
Điều 308)
Trong phần này có sự sửa đổi về cách tính lãi trong trường hợp bên có
nghĩa vụ chậm tiền trả (khoản 2 Điều 305 BLDS năm 2005), theo đó bên
này phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi xuất cơ bản do Ngân hàng
nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tiền tại thời điểm thanh
toán, trừ trường hợp hai bên có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định
khác, vì hiện nay ngân hàng nhà nước khơng cịn quy định về lãi xuúat nợ
quá hạn nữa.
 Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại:
Điều 307 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định rõ hơn về trách nhiệm bồi

thường thiệt hại, bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất và
trách nhiệm bù đắp tổn thất về tinh thần. Trách nhiệm bù đắp về tổn thất vật
chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền bao
gồm tổn thất về tài sản,chi phí hợp lí ngăn chặn, hạn chế thiệt hại, thu nhập
thực tế bị mất, bị giảm sút. BLDS cũng quy định rõ trách nhiệm của người
gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó thì phải bồi thường một khoản
tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại ngoài viẹc phải chấm
dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai. Trên cơ sở quy định tại điều
307. BLDS năm 2005, các điều từ 608 đến điều 612 quy định cụ thể về cách
xác định thiệt hại, mức tối đa cho việc bồi thường thiệt hại về vật chất và bù
đắp tổn thất về tinh thần. Đây là những quan điểm mới quan trọng tạo điều
kiện cho các toà án vận dụng khi giải quyết cấc yêu cầu về bồi thường thiệt
SV: Nguyễn Thị Thanh A - 47B Chính trị - Luật

12


Một số điểm mới của Bộ Luật dân sự 2005 về nghĩa vụ dân sự

hại. Trước đây BLDS năm 1995 quy định về bồi thường thiệt hại cịn mang
tính chất chung chung nên trên thực tế gặp rất nhiều vướng mắc, các cơ quan
giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại lại lúng túng, không biết những thiệt
hại nào chi phí nào có thể được tính để bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần
gồm những gì có thể được tính thành tiền hay khơng.
2.1.1.3. H×nh thøc chun giao nghĩa vụ.
Điều 316 BLDS quy định:
1. Việc chuyển giao nghĩa vụ dân sự có thẻ bằng văn
bản hoặc bằng lời nói.
2.Trong trờng hợp pháp luật có quy định việc chuyển

giao nghĩa vụ phải thực hiện bằng văn bản, phải có công
chứng hoặc chứng thực đăng ký hoặc xin phải phép thì
phải tuân thủ các quy định đó.
Nh vậy BLDS 2005 quy định về hình thức chuyển
giao nghĩa vụ có thể bằng lời nói hoặc bằng văn bản. Đây là
một quy định thông thoáng hơn so với quy định trong bộ
luật năm 1995.
2.2.1. Các quy định về biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự (Điều 318 đến điều 373)
Bảo đảm thực hiện hợp đồng với tính cách là giao dịch
dân sự là hiện tợng xuất hiện cùng với việc thiết lập quan hệ
hợp đồng trong lịch sử. Trong thực tế việc xác lập, thực hiện
các giao dịch dân sự trớc hết là dựa vào sự tự giác của mỗi
bên. Tuy nhiên trong rất nhiều trờng hợp các bên giao kết
không tự giác và thiện chí thực hiện nghĩa vụ hoặc không
có khả năng thực hiện nghĩa vụ đà cam kết nên đặt ra yêu
cầu là phải có các biện pháp để dựa vào đó bên có quyền

SV: Nguyn Th Thanh A - 47B Chính trị - Luật

13


Một số điểm mới của Bộ Luật dân sự 2005 v ngha v dõn s

thực hiện đợc quyền của mình, bên có nghĩa vụ thực hiện
nghĩa vụ đà cam kết. Chiánh vì vậy các Luật gia thời La MÃ
xem cầm cố là một loại quyền đối với tài sản của ngòi khác.
Thông qua cầm cố ngời tuy không phải là chủ sở hữu nhng lại
có những quyền năng nhất định với tài sản cầm cố.

Về mặt xà hội giao dịch bảo đảm là tất cả các giao
dịch, thỏa thuận với mục tiêu bảo đảm đảm cho một công
việc nghĩa vụ đợc thực hiện một cách đúng đắn. Dới khía
cạnh pháp lý, giao dịch bảo đảm là tất cả các thỏa thuận, áp
dụng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Với nghĩa rộng này
giao dịch bảo đảm có thể rất nhiều biện pháp đợc các bên
thỏa thuận, sáng tạo ra trên cơ sở nguyên tắc tự do thỏa
thuận. Các biện pháp bảo đảm có thể là: thế chấp, cầm cố,
bảo lÃnh, đặt cọc, ký cợc, ký gửi,ký quỹ, phạt vi phạm
Đặc điểm của giao dịch bảo đảm:
- Giao dịch bảo đảm mà theo đó bên có nghĩa vụ trao
quyền đối với tái sản của mình cho bên có quyền. Các tài
sản đó có thể là tài sản hiện hữu hoặc tài sản hình thành
trong tơng lai.
- Giao dịch bảo đảm đợc thực hiện dới những hình
thức pháp lý nhất định nh: Thế chấp, cầm cố, bảo lÃnh bằng
tài sản.
- Nghĩa vụ đợc bảo đảm bằng các biện pháp bảo đảm
là nghĩa vụ về tài sản hoặc bằng thực hiện công việc nhất
định.
Vai trò của biện pháp bảo đảm: Biện pháp bảo đảm có
vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm cho viÖc thùc hiÖn
SV: Nguyễn Thị Thanh A - 47B Chính trị - Luật

14


Một số điểm mới của Bộ Luật dân sự 2005 v ngha v dõn s

nghĩa vụ một cách đúng đắn, đầy đủ. Việc thực hiện biện

pháp bảo đảm sẽ tạo nên ràng buộc pháp lý đối với tài sản của
bên có nghĩa vụ, theo đó tài sản bảo đảm sẽ đợc xử lý để
thực hiện nghĩa vụ, thông qua việc thiết lập biện pháp bảo
đảm bên có nghĩa vụ sẽ phải nổ lực hởntong việc thực hiện
nghĩa vụ để tránh cho tài sản của mình bị xử lý để thực
hiện nghĩa vụ, gia tăng tính tự nguyện cho bên có nghĩa vụ
đối mình sẽ đợc thực hiện. Trong trờng hợp bên có nghĩa vụ
không có khả năng thực hiện thì việc xử lý tài sản bảo đảm
nh là biện pháp cuuoí cùng để thực hiện nhgià vụ sẽ là biện
pháp bảo đảm quyền lợi cho các bên. tạo sự an toàn cho các
giao dịch dân sự, kinh tế, qua đó thúc đẩy sự phát triển của
các giao dịch này.
Nh vậy, biện pháp bảo đảm giao dịch dân sự co vai trò
quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển của nền kinh tế
tạo việc làm, tạo ổn định cho phát triển KT- XH.
Pháp luật về giao dịch bảo đảm là hệ thống các quy
định pháp luật điều chỉnh các quan hệ về giao dịch bảo
đảm, theo pháp luật về giao dịch bảo đảm

có thể đợc

phân chia:
- Quy định pháp luật về nội dung
- Quy định pháp luật về thủ tục
Trong 55 điều về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự


10

điều


luật

mới



các

điều

323,

324,325,328,334,337,338,347,369,và 373. Có 35 đièu đợc
sửa đổi bổ sung.

SV: Nguyn Th Thanh A - 47B Chính trị - Luật

15


Một số điểm mới của Bộ Luật dân sự 2005 v ngha v dõn s

Theo quy định tại điều 318 BLDS năm 2005, các biện
pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng có 7 biện pháp là cầm cố
tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cợc,ký quỹ, bảo lÃnh,
tín chấp. So với BLDS năm 1995 có một biện pháp đợc Bộ luật
chính thức quy định là biện pháp tín chấp và một biện
pháp không đợc coi là biện pháp bảo đảm nữa là biện pháp
phạt vi phạm.

BLDS năm 2005 đà có những sửa đổi quan trọng về
biện pháp bảo đảm thục hiện nghĩa vụ dân sự theo quan
điểm tăng cờng hơn nữa quyền tự chủ, quyền tự do cam
kết thỏa thuận của các bên. Kết hợp với việc đề cao nguyên
tắc tự chịu trách nhiệm của các bên. Kết hợp với việc đề cao
nguyên tắc tự chịu trách nhiệm của các bên về cam kết,
thỏa thuận của mình.
Quan điểm này đợc cụ thể hóa trong các quy định về
giao kết, thực hiện hợp đồng cầm cố, thế chấp và bảo lÃnh,
tạo ra khả năng cho phép các bên linh hoạt hơn nũa khi xử lý
các tình huống phát sinh trong thực tế mà thông thờng pháp
luật không thể dự liệu hết đợc
BLDS năm 2005 đà có những sửa đổi, bổ sung về
biện pháp cầm cố đợc quy định từ Điều 326 đến Điều 341.
Điều 326 BLDS quy định Cầm cố tài sản là một bên
(sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở
hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố)
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
BLDS năm 1995 trớc đây quy định khái niệm cầm cố
luôn đi kèm với động sản, còn khái niệm thế chấp luôn đi
SV: Nguyn Th Thanh A - 47B Chớnh trị - Luật

16


Một số điểm mới của Bộ Luật dân sự 2005 v ngha v dõn s

kèm với bất động sản, bởi vậy các bên không thể tự lựa chọn
cho mình hình thức bảo đảm, quy định nh vậy đà gặp
không ít những khó khăn do nhiều trờng hợp không thể

phân biệt đợc động sản và bất động sản. BLDS năm 2005
tuy có hạn chế một số quyền của bên cầm cố, thế chấp đối
tài sản bảo đảm nhng không vì thế mà làm đình trệ hoạt
động sản xuất, kinh doanh thông thờng của họ. Từ đó một số
quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên đà đợc sửa
đổi cơ bản. Ngoài ra BLDS còn tạo ra cơ chế thông thoáng
trong việc xử lý tài sản bảo đảm, phù hợp với yêu cầu thực tế,
đó là cho phép các bên tự thỏa thuận biện pháp xử lý tài sản
bảo đảm, nếu không thỏa thuận đợc thì bán đấu giá.
Đăng ký giao dịch bảo đảm:
Nhằm bảo đảm tính công khai minh bạch của các bên
trong quan hệ giao dịch dân sự bảo đảm, BLDS 2005 quy
định các giao dịch dân sự đợc bảo đảm, đợc đăng ký theo
quy định của pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm và
xác định thứ tự u tiên thanh toán khi xử lý cá tài sản báo
đảm (Điều 323, Điều 325). Bộ luật pháp điển hóa các quy
định đà đợc pháp luật điển hóa ở các quy định đà đợc thực
tế kiểm nghiệm và có hiệu quả tích cực đối với quá trình
đẩy mạnh đầu t vốn trong và ngoài nớc.
Việc đăng ký giao dịch bảo đảm mang lại các u thế nh
công khai hóa cá giao dịch bảo đảm cho mọi cá nhân, tổ
chức có nhu cầu tim hiểu, qua đó giúp họ có các thông tin
chính xác, tin cậy truớc khi xác lập các giao dịch dân sự, kinh
tế, thơng mại đặc biệt có vai trò quan trọng trong đầu t
vốn trong và ngoài nớc để phát triển sản xuât kinh doanh.
SV: Nguyễn Thị Thanh A - 47B Chính trị - Luật

17



Một số điểm mới của Bộ Luật dân sự 2005 v ngha v dõn s

Xác định thứ tự u tiên thanh toán giữa các bên cùng
nhận bảo đảm đồng thời của cá nhân, tổ chức có liên quan
phòng chống các vi phạm pháp luật không chỉ trong lĩnh vực
giao dịch bảo đảm mà còn trong hoạt động tín dụng, ngân
hàng. Góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho thị trờng phát
triển nhanh mà còn phát triển trong thế ổn định, đồng thời
tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xét xử của Tòa án đối
với các tranh chấp.
Thứ tự thanh toán u tiên khi xử lý tài sản bảo đảm đợc
xác định (Điều 325).
Trong trờng hợp giao dịch dân sự bảo đảm đợc đăng ký
thì việc xác định thứ tự u tiên thanh toán khi xử lý tài sản
bảo đảm đợc xác định theo thứ tự.
Trong trờng hợp một tài sản đợc dùng để bảo đảm thực
hiện nhiều nghĩa vụ dân sự mà có giao dịch bảo đảm có
đăng ký thì giao dịch bảo đảm có đăng ký đợc u tiên thanh
toán.
Trong trờng hợp một tài sản dùng để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự mà các giao dịch bảo đảm đều không có
đăng ký thì thứ tự u tiên thanh toán đợc xác định theo thứ
tự xác lập giao dịch bảo đảm. Quy định này tránh đợc tranh
chấp có thể xảy ra khi xử lý tài sản bảo đảm.
Tài sản trong thực hiện nghĩa vụ dân sự.
BLDS năm 2005 đà thể hiện nguyên tắc mọi tài sản
đều có thể dùng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo thỏa
thuận trừ trờng hợp có các quy định khác, đặc biệt trong
lĩnh vực đảm bảo quyền sử dụng đất. Tài sản dùng để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ cũng chính là tài sản quy định tại

SV: Nguyn Th Thanh A - 47B Chính trị - Luật

18


Một số điểm mới của Bộ Luật dân sự 2005 v ngha v dõn s

Điều 163 BLDS năm 2005: bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá
và các quyền tài sản
Đối với việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, bên bảo đảm
có thể dùng nhiều tài sản của mình để bảo đảm cho một
nghĩa vụ dân sự, nếu giá tổng tất cả các tài sản dùng để
bảo đảm lớn hơn hoặc bằng giá trị của nghĩa vụ dân sự.
Quy định mới tại Điều 324 cho phép có thể dùng một tài sản
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, nếu có giá trị xác
lập tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm lớn hơn tổng giá
các giao dịch đợc bảo đảm, trừ trờng hợp có thỏa thuận khác
hoặc pháp luật có quy định khác. Trong trờng hợp bên bảo
đảm sử dụng một tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để
bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ thì bên bảo đảm phải thông
báo cho bên nhận bảo đảm biết là tài sản đợc sử dụng để
bảo đảm việc thực hiện một nghĩa vụ khác bảo đảm đợc
lập thành văn bản, và mỗi lần bảo đảm phải đợc lập thành
một văn bản riêng biệt.
Điểm đặc biệt của việc dùng một tài sản để bảo đảm
cho nhiều nghĩa vụ là khi cần xử lý tài sản để thực hiện
một nghĩa vụ đến hạn thì các nghĩa vụ khác tuy cha đến
hạn đợc coi là đến hạn và tất cả cùng nhận bảo đảm đều
đựơc tham gia xử lý tài sản. Quy định này dẫn đến việc
nếu nh các bên cha muốn thanh toán nghĩa vụ mà vẫn muốn

tiếp tục thực hiện nghĩa vụ cha đến hạn thì xử lý nh thế
nào? biện pháp bảo đảm khi đó có đợc thay thế bằng một
biện pháp bảo đảm khác không? Khoản 3 điều 324 quy
định: Trong trờng hợp các bên muốn tiếp tục thùc hiƯn
SV: Nguyễn Thị Thanh A - 47B Chính trị - Luật

19


Một số điểm mới của Bộ Luật dân sự 2005 v ngha v dõn s

nghĩa vụ cha đến hạn thì cã thĨ tháa thn víi nhau vỊ
viƯc tiÕp tơc thùc hiện nghĩa vụ và việc áp dụng biện pháp
bảo đảm khác để thay thế
Vật dùng để bảo đảm.
Điều 320 BLDS năm 2005 quy định vâth dùng để thực
hiện nghĩa vụ dân sự phải đáp ứng đợc các yêu cầu sau:
- Phải là tài sản đợc phép giao dịch. Đó là tài sản có thể
xác định đợc, có thể chuyển dịch từ ngời này sang ngời
khác và không bị pháp luật cấm.
- Phải là tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm, nếu vật
dùng bảo đảm thuộc sở hữu của ngời khác không phải là ngời
bảo đảm thì là trái với quy định của pháp luật.
- Phải là vật hiện có hoặc hình thành trong tờn lai. Các
bên đợc thỏa thuận về các biện pháp bảo đảm thực hiện các
lọai nghĩa vụ kể cả nghĩa vụ hiện tại, nghĩa vụ có điều
kiện hoặc nghĩa vụ trong tơng lai. Cần phải lu ý rằng tài
sản hiện có trong tơng lai có thể là động sản hoặc bất
động sản nhng tài sản đó phải thuộc sở hữu của các bên bảo
đảm. Sau thời điểm nghĩa vụ đợc xác lạp hoặc bảo đảm

giao kết. Quy định này cho thấy pháp luật rất chú trọng
đến việc bảo quyền và lợi ích chính đáng của ngời nhận
bảo đảm.
Tiền, giấy tờ có giá, quyền tài sản dùng để bảo đảm.
Điều 321 BLDS năm 2005 đà liệt kê các loại tài sản bao
gồm: tiền, trái phiếu, cổ phiếu, kỳ phiếu và giấy tờ có giá
khác.

SV: Nguyễn Thị Thanh A - 47B Chính trị - Luật

20


Một số điểm mới của Bộ Luật dân sự 2005 v ngha v dõn s

Thuật ngữ giấy tờ có giá trị đợc bằng tiền trong BLDS
năm 1995 đà đợc thay thế bằng thuật ngữ giấy tờ có giá.
Trái phiếu, kỳ phiếu, cổ phiếu cũng đợc dùng để đảm bảo
thực hiện nghĩa vụ, nó không đợc coi là tiền mà là giấy tờ
đặc biệt. Bản thân trái phiếu, kỳ phiếu, cổ phiếu có đặc
điểm riêng biệt về hình thức, cách thức chuyển giao quyền
sở hữu.
Trong khi đó các quyền về tài sản đợc liệt kê một cách
rất cụ thể và đày đủ bao gồm: Quyền tài sản phát sinh từ
quyền tác giả,quyền sở hu công nghiệp, quyền đối với giống
cây trồngQuyền sử dụng đất và quyền khai thác tài
nguyên
Phân biệt cầm cố và thế chấp tài sản
BLDS năm 2005 quy định rõ ràng 2 biện pháp bảo đảm
cầm cố và thế chấp dựa trên các tiêu chí sau.

- Trong trờng hợp cầm cố bên cầm cố phải chuyển giao
cho bên nhận cầm cố.Còn trong trờng hợp thế chấp bên thế
chấp đợc giữ tài sản thế chấp mà không cần chuyển giao tài
sản.Việc phân biệt này đợc quy định rõ tại Điều 326 va 342
BLDS năm 2005.Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây
gọi là bên cầm cố)giao tài sản thuộc quyền sở hữu của bên
kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự va thế chấp tài sản là việc một bên
(sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của
mình để thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (sau
đây gọi là nhận thế chấp) và không phải chuyển giao tài
sản cho bên nhận thế chấp. Tiêu chí cũng để nhận biết do
SV: Nguyễn Thị Thanh A - 47B Chính trị - Luật

21


Một số điểm mới của Bộ Luật dân sự 2005 v ngha v dõn s

Bộ luật còn có quy định về hiệu lực của việc cầm cố tại Điều
328.Theo đó, cầm cố tài sản có hiệu lực kể từ thời điểm
chuyển giao tài sản,việc cầm cố đà đợc xác định và có hiệu
lực.Trong khi đó do tính chất không cần phải chuyển giao
vật,biện pháp thế chấp không có quy định riêng về hiệu lực
của thế chấp.
- Để phân biệt cầm cố và thế chấp cần phải căn cứ vào
tài sản dùng để cầm cố hoặc thế chấp.Trong cầm cố tài sản
phải hiện hữu,có thật tại thời điểm cầm cố,trong khi đó tài
sản trong thế chấp có thể hình thành trong tơng lai.Do bản
chất của bên cầm cố đó là hành vi giao tài sản là vật thuộc

sở hữu cho bên nhận cầm cố do đó (hành vi chuyển giao tài
sản, vì vậy tài sản để cầm cố không thể là tài sản hình
thành trong tơng lai.
Trong khi ú th chp không chỉ là tài sản hiện hữu mà cả vô hình, tài
sản chưa có ở hiện tại mà sẽ được hình thành trong tương lai, trong đó có
quyền hợp đồng như: Quyền địi nợ, quyền u cầu thanh tốn, quyền yêu cầu
chuyển giao tài sản…Do đó quyền hợp đồng cũng được dùng thế chấp.
Việc cầm cố và thế cháp có hiệu lực khi và chỉ khi việc cầm cố và thế
chấp đó đảm bảo được các u cầu về hình thức thời điểm chuyển giao vật. Hình
thức của cầm cố và thế chấp phải là văn bản. Đó có thể là văn bản riêng hoặc
được ghi trong hợp đồng chính (Điều 327 và Điều 343 BLDS năm 2005). Trong
trường hợp tài sản được dùng để cầm cố hoặc thế chấp là tài sản phải đăng ký thì
giao dịch bảo đảm đó được đăng ký theo quy định của pháp luật (Đièu 324
BLDS năm 2005). Riêng đối với hình thức thế chấp, nếu pháp luật có yêu cầu
văn bản thế chấp phải được cơng chứng, chứng thực, thì viẹc thế chấp tài sản có
hiệu lực kể từ thời điểm văn bản đó được cơng chứng, chứng thực.

SV: Nguyễn Thị Thanh A - 47B Chính trị - Luật

22


Một số điểm mới của Bộ Luật dân sự 2005 về nghĩa vụ dân sự

BLDS năm 2005 đã tạo ra cơ chế thơng thống trong việc xử lý tài sản
bảo đảm nhằm phù hợp với tình hình thực tế, tránh làm trì trệ hoạt động sản
xuất, kinh doanh của các bên. Trong trường hợp đã đến thời hạn thực hiện
nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ khơng thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ mà phát sinh tranh chấp, thì tài sản được xử lý theo phương thức do
các bên thoả thuận hoặc được bán đáu giá theo quy định của pháp luật. Trong

trường hợp sử dụng nhiều tài sản để thế chấp thì mỗi tài sản được xác định
thực hiện tồn bộ nghĩa vụ, hoặc các bên có thể thoả thuận mỗi một tài sản
được xác định để bảo đảm một phần nghĩa vụ. Khi xử lý tài sản các bên vẫn
xử lý theo phương thức các bên đã thoả thuận hoặc bán đấu giá. Việc xử lý tài
sản cầm cố hoặc thế chấp phải tuân theo thứ tự ưu tiên thanh toán quy định tại
điều 325 BLDS năm 2005.
 Biện pháp bảo lãnh.
Bảo lãnh là việc người thứ ba cam kết với bên có quyền sẽ thực hiện
nghĩa vụ thay thế cho bên có nghĩa vụ. Nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa
vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa
vụ. Quyền và nghĩa vụ của các bên lúc này khơng chỉ diễn ra giữa người có
quyền và người có nghĩa vụ nữa mà còn gắn liền với người thứ ba- người bảo
lãnh. Điều 361 BLDS quy định “Các bên tháa thuận cũng có thể thỏa thuận
về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh khơng
có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình”. Khi bên có nghĩa vụ khơng cịn
khả năng thực hiện nghĩa vụ nữa, thì khi đó bên có quyền mới yêu càu bên
bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ của mình và bên bảo lãnh khơng có quyền từ chối
thực hiện nghĩa vụ đó. Khi cam kết bảo lãnh cho bên có nghĩa vụ, bên bảo
lãnh đã xác lập cho mình nghĩa vụ của người bảo lãnh.
Điều 362 BLDS năm 2005 quy định: “Việc bảo lãnh phải được lập
thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính.

SV: Nguyễn Thị Thanh A - 47B Chính trị - Luật

23


Một số điểm mới của Bộ Luật dân sự 2005 về nghĩa vụ dân sự

Tronh trường hợp pháp luật có quy định thì văn bản bảo lãnh phải được cơng

chứng hoặc chứng thực”.
Nhằm đa dạng hoá các biện pháp bảo đảm và giảm sự khác biệt so với
quá trình hội nhập quốc tế, biện pháp bảo lãnh đã được chuyển thành biện
pháp đối nhân, theo đó, bên bảo lãnh chịu trách nhiệm bằng tồn bộ tài sản
của mình. Điều 369 quy định: “Trong trường hợp đã đến hạn được thực hiện
nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh, thì bên bảo lãnh phải đua tài sản thuộc
sở hữu của mình để thanh toán cho bên nhận bảo lãnh”. Quy định này nhằm
bảo đảm quyền lợi chính đáng cho bên nhận bảo lãnh và bắt buộc bên bảo
lãnh phải thực hiện nghĩa vụ của mình bằng tài sản thuộc sở hữu của mình.
Lúc này có thể nói tư cách người bảo lãnh đã được chuyển thành người có
nghĩa vụ- nghĩa vụ thực hiện việc bảo lãnh của mình.
 Tín chấp
Đây là biện pháp bảo đảm được BLDS năm 2005 quy định trên thực tế
hoạt động của các tổ chức tín dụng đã thừa nhận biện pháp bảo đảm này nhiều
tổ chức chính trị- xã hội như: Hội liên hiệp phụ nữ, hội nơng dân…dùng uy
tín để bảo đảm cho cá nhân, hộ gia đình ngèo vay vốn ngân hàng hoặc các tổ
chức tín dụng khác để sản xuất kinh doanh, làm dịch vụ.
Theo quy định tại Điều 372 BLDS năm 2005: “Tổ chức chính trị - xã
hội tại cơ sở có thể bảo đảm bằng tín chấp cho cá nhân, hộ gia đình nghoè vay
một khoản tiền tại ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác để sản xuất, kinh
doanh, làm dịch vụ theo quy định của Chính phủ”.
2.1.3. Chấm dứt nghĩa vụ dân sự (được quy định từ Điều 374 đến
Điều 384 BLDS năm 2005)
Theo BLDS năm 1995 thì khi thời hiệu khởi kiện đã hết thì nghĩa vụ
dan sự được đương nhiên chấm dứt. Quy định này trên thực tế đã bộc lộ sự
khơng phù hợp, vì thời hiệu khởi kiện là thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Toà án
giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, nếu
SV: Nguyễn Thị Thanh A - 47B Chính trị - Luật

24



Một số điểm mới của Bộ Luật dân sự 2005 về nghĩa vụ dân sự

thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện, điều đó khơng có nghĩa thời
hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự cũng đương nhiên bị chấm dứt mà thực tế
nghĩa vụ này luôn luôn tồn tại chỉ khi nào thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ hết thì
nghĩa vụ đó mới chấm dứt.
Ngược lại, BLDS năm 2005 lại quy định theo hướng là chỉ khi nào thời
hiệu miễn trừ nghĩa vụ hết thì nghĩa vụ dân sự mới chấm dứt mặc dù có thể
thời hiệu khởi kin ó ht.
2.2. Đề xuất - gii phỏp để hoàn thiÖn BLDS 2005
Qua việc nghiên cứu về những điểm mới của BLDS năm 2005 nói
chung, về vấn đề nghĩa vụ dân sự nói riêng mặc dù có nhiều điểm tiến bộ hơn
BLDS cũ và đã đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Tuy nhiên, Bộ luật vẫn còn những bất cập, hạn chế. Trước thực trạng
đó tơi mạnh dạn đưa ra những kiến nghị- giải pháp để hoàn thiện BLDS nhằm
đáp ứng yêu cầu thực tiễn của đời sống kinh tế xã hội.
2.2.1. Khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn kịp thời một số
vấn đề trong chế định nghĩa vụ dân sự
Đây là giải pháp có ý nghĩa chiến lược, định hướng cho việc thực hiện
nghĩa vụ dân sự nói riêng và đưa BLDS nói chung đi vào cuộc sống để phù
hợp với hoàn cảnh thực tiễn của đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Các văn bản phải sát với thực tế. Bên cạnh đó phải thể hiện được quan điểm
định hướng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước.
2.2.2. Đảm bảo tính thống nhất trong việc giải thích và hướng dẫn áp
dụng pháp luật về nghĩa vụ dân sự
Tính thống nhất trước hết được thể hiện trong sự thống nhất giữa Đảng
và Nhà nước về các quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo. Mặt khác đó cịn là sự thống
nhất giữa các ban ngành, các cấp trong việc ban hành các văn bản hướng dẫn

thi hành pháp luât. Ngoµi ra, các cơ quan pháp luật nhân danh nhà nước để
ban hành các văn bản qui phạm pháp luật nói chung và ban hành nghĩa vụ dân
SV: Nguyễn Thị Thanh A - 47B Chính trị - Luật

25


×