Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Nhân tố con người trong sự phát triển lực lượng sản xuất và chiến lược đào tạo nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.65 KB, 33 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN MÔN HỌC
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LÊ NIN
(HỌC PHẦN 1)
ĐỀ TÀI : Nhân tố con người trong sự phát triển lực lượng sản xuất và chiến
lược đào tạo nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay
GIÁO VIÊN HƯƠNG DẪN:
SINH VIÊN THƯC HIỆN:

1


MỤC LỤC
I Mở Đầu 3
II.Nội dung bài tiểu luận..........................................................................................5
Chương 1:Khái niệm lực lượng sản xuất và vai trò con người trong lực lượng
sản xuất
5
1.1. Khái niệm lực lượng sản xuất

5

1.2. Vai trò của con người trong lực lực lượng sản xuất 9
1.3.Tác động của thời đại vào sự phát triển lực lượng sản xuất 12
Chương 2 : Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nước ta hiện nay

15

2.1. Tính tất yếu khách quan và nội dung cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt


Nam
15
2.2.Chiến lược phát triển và đào tạo nguồn nhân lực nước ta hiện nay
2.3.Nâng cao nguồn nhân lực và vấn nạn chảy máu chất xám 22
III Kết luận28
TÀI LIỆU THAM KHẢO

2

17


I Mở Đầu
1.1 Lý do chọn đề tài
Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của kinh tế tri thức, đòi hỏi mỗi con
người phải được đào tạo trình độ học vấn, năng lực, tu dưỡng rèn luyện phẩm chất
đạo đức, ý thức lao động tốt hơn để có thể đáp ứng những yêu cầu của sự biến đổi
khoa học công nghệ hết sức nhanh chóng. Là sinh viên kinh tế đứng trước thay đổi
nhanh chóng của thời đại nên việc tìm hiểu về lực lượng sản xuất giúp chúng ta
nắm bắt được xu thế và cải thiện một trong những vấn đề cốt lõi của kinh tế.
Trong sự nghiệp đổi mới CNH, HĐH đất nước với những mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, hiện nay, con người và
nguồn nhân lực được coi là nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững nền kinh tế nước ta. Đó là yếu tố hết sức bức thiết và
cần có tính cập nhật, đáp ứng được u cầu về con người và nguồn nhân lực xét
trong nước ta nói riêng và quốc tế nói chung. Chúng ta khẳng định con người vừa
là mục tiêu vừa là động lực của phát triển kinh tế xã hội đồng thời phải là những
con người có tri thức và đạo đức. Từ đây mỗi con người dần dần về đúng vị trí là
một chủ thể sáng tạo ra các giá trị, bao gồm các giá trị tinh thần và giá trị vật chất,
cho bản thân và cho xã hội. Vì vậy, vấn đề cốt lõi là, ta phải thực hiện chiến lược

đào tạo nguồn nhân lực, phát triển con người một cách toàn diện cả thể lực lẫn trí
lực. Nhiệm vụ của đào tạo là đưa con người đạt đến những giá trị phù hợp với đặc
điểm văn hoá và những yêu cầu mới đặt ra đối với con người Việt Nam để thực
hiện sự nghiệp CNH, HĐH trong thời kỳ quá độ của nước ta cũng như xu hướng
phát triển kinh tế nói chung trên thế giới.
Chính vì vây nhóm em chọn đề tài: Nhân tố con người trong sự phát triển
lực lượng sản xuất và chiến lược đào tạo nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay.
1.2 Tổng quan đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu về nhân tố con người trong sự phát triển lực
lượng sản xuất . Cải thiện về tri thức, kinh nghiệm, kĩ năng , năng lực sáng tạo ,….
3


cho lực lượng sản xuất. Nghiên cứu trực tiếp thực tiễn về nguồn nhân lực và chiến
lược đào tạo nguồn nhân lực ở nước hiện nay.
1.3 Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu về nhân tố con người trong sự phát triển lực lượng sản xuất giúp
chúng ta hiểu rõ điểm yếu điểm mạnh của yếu tố con người ( yếu tố cốt lõi ) để
phát triển lực lượng sản xuất thúc đẩy phát triển kinh tế, cải thiện và giải quyết các
vấn đề của lực lượng sản xuất nước ta hiện nay.
1.4 Phạm vi nghiên cứu:
- Dựa trên kiến thức kinh tế và triết học và lực lượng sản xuất nước ta
1.5 Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp riêng (ngành): là các phương pháp chỉ sử dụng trong các
ngành riêng biệt. Mỗi khoa học đều có các phương pháp đặc thù, chỉ sử dụng riêng
trong ngành mình, khơng thể sử dụng cho ngành khác; ví dụ: ẩn dụ, thậm xưng, …
trong văn học; log, tích phân, … trong tốn học.
- Phương pháp chung: là các phương pháp có thể được áp dụng trong nhiều
ngành khác nhau; ví dụ: quy nạp, diễn dịch, phân tích, tổng hợp, điều tra xã hội
học, xác suất thống kê, …

- Phương pháp chung nhất: là các phương pháp có thể sử dụng cho tất cả các
ngành khoa học, đó là phương pháp của triết học.
1.6 Bố cục tiểu luận:
+ Trang bìa: Ngồi cùng của tiểu luận là bìa tiểu luận. Bìa được làm bằng
giấy cứng, phía trên cùng đề tên trường và khoa, giữa trang đề tên đề tài bằng khổ
chữ to, góc phải cuối trang đề họ tên người hướng dẫn, người thực hiện đề tài, lớp
và năm học. Trang bìa có thể đóng khung cho đẹp. (trình bày theo mẫu của trường
– Tên trường, logo, tên khoa, đề tài, SV thực hiện, GVHD, ngày tháng năm
thực hiện …).
+ Trang phụ bìa (theo mẫu của trường).
4


+ Trang nhận xét của GVHD (nếu có).
+ Trang nhận xét của GVPB (nếu có).
+ Lời cảm ơn (nếu có).
+ Mục lục: bao gồm các phần bài

II. Nội dung bài tiểu luận
Chương 1:Khái niệm lực lượng sản xuất và vai trò con người trong lực
lượng sản xuất
1.1.Khái niệm lực lượng sản xuất
1.1.1. Định nghĩa và tính chất lực lượng sản xuất

5


LLSX là tổng thể các nhân tố vật chất kỹ thuật đựơc sử dụng trong các quá
trình sản xuất của xã hội tức là trong quá trình con người cải tạo, cải biến giới tự
nhiên cho phù hợp với nhu cầu tồn tại và phát triển của mình.

Để tiến hành sản xuất thì con người phải dùng các yếu tố vật chất và kỹ
thuật nhất định. Tổng thể các nhân tố đó là lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất
biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Nghĩa là trong quá trình thực
hiện sản xuất xã hội con người chinh phục tự nhiên bằng các sức mạnh hiện thực
của mình sức mạnh đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử khái quát trong khái niệm
lực lượng sản xuất. Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện trình độ chinh phục tự
nhiên của con người. Lực lượng sản xuất nói lên năng lực thực tế của con người
trong quá trình sản xuất tạo nên của cải cho xã hội đảm bảo sự phát triển của con
người.
Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động và kỹ năng lao động và tư liệu
sản xuất. Trong quá trình sản xuất công cụ lao động tác động vào đối tượng lao
động để tạo ra của cải vật chất thì tư liệu lao động được hoàn thiện nhằm đạt được
năng suất lao động cao. Còn trong tư liệu lao động tức là tất cả các yếu tố vật chất
mà con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động thì cơng cụ lao động là
yếu tố quan trọng nhất linh hoạt nhất. Bởi vậy khi công cụ lao động đã đạt đến
trình độ tin học hố được tự động hố thì vai trị của nó lại càng quan trọng.Trong
mọi thời đại công cụ sản xuất luôn là yếu tố đơng nhất của lực lượng sản xuất.
Chính sự chuyển đổi cải tiến và hồn thiện khơng ngừng của nó đã gây lên những
biến đổi sâu sắc trong toàn bộ tư liệu sản xuất. Trình độ phát triển cơng cụ lao
động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Có thể coi yếu tố
quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất chính là con người. Trong thời đại ngày
nay khoa học đã phát triển tới mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến
đổi to lớn trong sản xuất và đời sống nó đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Nó vừa là ngành sản xuất riêng vừa thâm nhập vào các yếu tố cấu thành lực lượng
sản xuất đem lại thay đổi về chất cho lực lượng sản xuất.
Như vậy, xét về mặt tính chất thì khái niệm LLSX, nó phản ánh một số tính
chất căn bản sau:
Trước hết, nó phản ánh quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình
sản xuất. Là động vật cao cấp nhất, là tinh hoa của mn lồi, con người là sản
phẩm của q trình phát triển hết sức lâu dài của giới tự nhiên. Con ngưịi phải tìm

6


kiếm mọi điều kiện cần thiết cho sự tồn tại trong đời sống tự nhiên như thức ăn,
thức uống, nhà để ở. Theo một số nhà nhân học khẳng định nhánh người bắt đầu
hình thành rõ cách đây khoảng 10 triệu năm bắt đầu từ “vượn người ”. Khi đó
vượn người đã biết sử dụng gậy gộc, đá, xương động vật làm công cụ và bắt đàu
biết chế tạo công cụ lao động thô sơ cũng như dùng lửa. Nhưng cuộc sống của loài
vượn vẫn theo quy luật sinh vật : sống hoà lẫn vào thiên nhiên, sinh sống hoàn
toàn tuỳ theo bản năng vốn có trong cơ thể và những thứ sẵn có trong tự nhiên, có
thể nói là hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên.Theo thời gian vượn người tiến hố
thành người khéo, người đứng thẳng, người khơn và con người hiện đại ngày nay.
Nhưng sự tiến hoá ấy không làm thay đổi mối quan hệ mật thiết giữa con người
với tự nhiên. Ngày nay, con người vẫn đang chinh phục tự nhiên bằng nhiều hình
thức và phương pháp khác nhau. Như vậy, ngay từ thời kỳ sơ khai nhất, con người
đã biết dựa vào những thứ vốn có trong tự nhiên để cải biến nó theo nhu cầu sinh
tồn và phục vụ nhu cầu sống của mình. Do đó ta thấy rõ một sự thật tất yếu khách
quan là con người không thể tồn tại nếu không có mối quan hệ mật thiết, gắn kết
chặt chẽ với tự nhiên.Đồng thời nó cũng thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của
con người cụ thể hơn là biểu hiện mức độ, khả năng chinh phục tự nhiên của con
người.
Trong thời nguyên thuỷ con người chỉ mới sử dụng những công cụ hết sức
thô sơ, hầu hết là những cơng cụ thủ cơng vào q trình lao động sản xuất. Do đó
năng suất lao động thấp kém, con người chưa tạo ra nhiều của cải dư thừa có khả
năng trao đổi với nhau phục vụ nhu cầu sống hết sức sinh động, phong phú của
mình. Điều đó phản ánh trình độ chinh phục tự nhiên vẫn cịn non thấp kém. Cho
đến khi chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, con người đã dần
sáng tạo ra các công cụ lao động tiến bộ hơn song về bản chất nó vẫn mang tính
thủ cơng. Do vậy, mặc dù sản phẩm lao động làm ra ngày một phong phú hơn song
trong quá trình lao động sản xuất vẫn còn dựa vào sức người mặt thể lực là chính,

cần nhiều thời gian và quan trọng hơn vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng
đa dạng của con người. Sang chế độ tư bản chủ nghĩa con người đã tạo ra hàng
loạt những máy móc hết sức hiện đại để phục vụ vào quá trình lao động sản xuất,
khai thác tài nguyên thiên nhiên, biến nó thành những vật dụng và sản phẩm có giá
trị, chất lượng cao, phong phú về hình thức,đa dạng về chủng loại, mẫu mã. Đặc
biệt cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra bắt đầu từ thế kỷ XVII suốt cho đến ngày
nay đã nhanh chóng làm biến đổi bộ mặt kinh tế xã hội của thế giới. Theo đánh giá
7


của C.Mác và Ph.Ăngghen: “chỉ sau hơn hai thế kỷ tồn tại, chủ nghĩa tư bản đã tạo
ra một khối kượng của cải vật chất nhiều hơn tất cả các thời đại trước gộp lại”.
Như thế trình độ chinh phục tự nhiên của con người đã bước lên một mốc son mới,
đánh dấu một bước phát triển cao của tiến bộ lồi người. Cũng chính trong giai
đoạn này con người đã dần dần chiếm thế chủ động trong quá trình lao động sản
xuất
Mặt khác, LLSX có tính khách quan trong q trình sản xuất. Thật vậy
khơng có một q trình sản xuất nào mà lại không cần đến sức lao động của con
người hay những yếu tố sẵn có trong tự nhiên. Nói cách khác trong q trình sản
xuất vật chất không thể không cần đến LLSX.

1.1.2. Cấu trúc LLSX
LLSX bao gồm: người lao động và tư liệu sản xuất
Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người
vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội.
Chính những người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với
sức mạnh và kĩ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động trước hết là công
cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất.
Bước kinh tế tri thức, sự phát triển của LLSX biểu hiện ở hai mặt :
- Trí lực đóng vai trị chủ đạo, tức là sẽ xuất hiện một tầng lớp lao động trí óc

đơng đảo hợp thành chủ thể trong đội ngũ những người lao động.
- Những nhân tố mới thúc đẩy LLSX sẽ được phát triển rộng khắp.
Tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Con người
không thể sản xuất vật chất mà khơng cần đến những yếu tố sẵn có trong tự nhiên
như đất, nước, khống sản, khơng khí, … Đó chính là những đối tượng lao động.
Đặc trưng nổi bật của công cụ sản xuất và đối tượng lao động biểu hiện chủ yếu ở
sự gia tăng hàm lượng khoa học và công nghệ, cuối cùng là hàm lượng tri thức
được kết tinh trong sản phẩm ngày càng nhiều.

8


Cịn tư liệu lao động là những phương tiện, cơng cụ lao động mà con người
sử dụng để tác động vào đối tượng lao động, sản xuất ra của cải vật chất.
Thông qua các công cụ của họ đã chứng tỏ họ có hoạt động lao động và đây
cũng chính là ranh giới tách người ra khỏi giới sinh vật nói chung, thế giới động
vật nói riêng.
1.1.3. Tính chất đặc biệt của LLSX hiện đại
Trong sự phát triển của LLSX, khoa học đóng vai trị ngày càng to lớn. Sự
phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản
xuất phát triển. Ngày nay, khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân
trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, trong đời sống và trở thành
LLSX trực tiếp.
Những phát minh khoa học trở thành thang điểm xuất phát ra đời những
ngành sản xuất mới, những máy móc thiết bị mới, công nghệ mới nguyên vật liệu
mới, năng lượng mới. Sự thâm nhập ngày càng sâu của khoa học vào sản xuất, cụ
thể là vào người lao động và tư liệu sản xuất, trở thành một yếu tố không thể thiếu
được trong sản xuất đã làm cho LLSX có bước phát triển nhảy vọt, tạo thành cách
mạng khoa học cơng nghệ hiện đại.
Yếu tố trí lực trong sức lao động đặc trưng cho lao động hiện đại khơng cịn

là kinh nghiệm và thói quen của họ mà là tri thức khoa học. Như vậy, dù không
phải là yếu tố thứ ba của LLSX nhưng có thể nói khoa học và công nghệ hiện đại
là đặc trưng cho LLSX hiện đại.

9


1.2.Vai trò của con người trong LLSX
1.2.1.Khái niệm con người
Vấn đề con người luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ thời cổ
đại đến hiện đại. Trong đó quan niệm của triết học MacLênin về con người và bản
chất con người, xuất phát từ giác độ khái quát nhất, đứng trên lập trường duy vật
biên chứng, làm cơ sở phương pháp luận cho việc giải quyết những vấn đề khác
của con người, có thể nói là đúng đắn nhất cho tới ngày nay.
Trước hết con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã
hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của con người là sản phẩm của
thế giới tự nhiên. Con người là một bộ phận của tự nhiên.Con người khơng thể tồn
tại mà thốt ly khỏi q trình tất yếu đó là sinh ra, phát triển rồi chết đi. Trải qua
hàng chục vạn năm, con người đã thay đổi từ vượn thành người điều đó được
chứng minh trong các cơng trình nghiên cứu của Đacuyn. Những thuộc tính,
những đặ c điể m sinh học, q trình tâm sinh lý, các giai đoạ n phát triển khác
nhau nói lên bả n chất sinh học của cá nhân con người.
Tuy nhiên, mặt tự nhiên không phả i là yế u tố duy nhất quy đị nh bả n chất
con người . Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật là
mặt xã hội. Thông qua hoạt động lao động sản xuất con người sản xuất ra của cải
vật chất và tinh thần phục vụ đời sống của mình hình thành và phát triển ngôn ngữ
và tư duy, xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình
thành bản chất xã hội của con người đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong
cộng đồng xã hội.Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và

phát triển của con người ln bị quyết định bởi các hệ thống quy luật khác nhau
nhưng thống nhất với nhau.Chúng cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn
chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối quan
hệ sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành các nhu cầu về sinh học và nhu cầu xã
hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở, nhu cầu tái sản xuất xã hội,
nhu cầu tình cảm, nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu hưởng thụ các giá trị tinh thần.

10


Như vậy ta thấy rõ mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người còn
mặt xã hội là đặc trưng bản chất nhất để phân biệt con người với loài vật. Hai mặt
trên thống nhất với nhau để tạo nên con người tự nhiên xã hội hay một thực thể
song trùng.
Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người Mác đã nêu trong luận đề nổi
tiếng Luận cương về Phoiơbăc: “bản chất con người không phải là một cái trừu
tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hoà các quan hệ xã hội”.
Trong đời sống con người, xét trên ba phương diện khác nhau: quan hệ giữa
con người với tự nhiên, với xã hội và chính bản thân con người, suy đến cùng đều
mang tính xã hội. Nhưng có thể nói quan hệ giữa con người với con người là quan
hệ bản chất nhất bao trùm lên các mối quan hệ khác. Thực tế lịch sử đã chứng
minh khơng có một cá nhân nào có thể tự đáp ứng đầy đủ nhu cầu của bản thân
cũng như không thể lao động một cách độc lập tuyệt đối để SXVC mà phải liên kết
lại với nhau, phân công lao động và trao đổi sản phẩm cho nhau.
Từ đó hình thành các quan hệ xã hội, điều chỉnh và chi phối hoạt động, hành
vi của con người. Chỉ trong tồn bộ các mối quan hệ đó, con người mới bộc lộ toàn
bộ bả n chất của mình.Trong điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, bằng hoạt động
thực tiễn của mình, con người sản xuất ra của cải vật chất đồng thời hồn thiện bản
thân mình.Con người sáng tạo ra lịch sử, nhưng không bao giờ sáng tạo ra lịch sử

trong những hoàn cảnh và điều kiện được lựa chọn, mà trong hoàn cảnh và điều
kiện sẵn có do quá khứ để lại. Do đó ta phải luôn chú ý tới mối quan hệ hai chiều
giữa hiện tại và quá khứ, đặc biệt là môi trường sống của con người. Thông qua
môi trường sống con người có sự tác động qua lại lẫn nhau thực hiện các quan hệ
xã hội tạo nên bản chất người, làm cho con người khác với con vật.
1.2.2.Con người là nhân tố trung tâm quyết định LLSX
Trong các yếu tố của LLSX, “LLSX hàng đầu của toàn thể nhân loại là công
nhân là người lao động”. Con người là nhân vật chính của lịch sử, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực để phát triển xã hội. nhân tố con người vừa là phương tiện sáng tạo
ra mọi giá trị của cải vật chất và tinh thần, sáng tạo và hoàn thiện ngay chính bản
11


thân mình đồng thời vừa là chủ nhân sử dụng có hiệu quả mọi tài sản vơ giá ấy.
Trên phương diện đó vai trị nhân tố con người lao động trong
LLSX là yếu tố động nhất sáng tạo nhất của quá trình sản xuất. Nhân tố
trung tâm của con người chính là sức lao động bao gồm thể lực và trí lực. Khơng
có người lao động nào trong q trình sản xuất vật chất lại không cần đến lao đông
thể lực hay lao động cơ bắp. Chính những người lao động là chủ thể của quá trình
lao động sản xuất, với sức mạnh và kĩ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao
động trước hết là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra
của cải vật chất. Cùng với quá trình lao động sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao
động của con người không ngừng được tăng lên, đặc biệt là trí tuệ của con người
ngày càng phát triển. Trong q trình đó khơng những con người sử dụng trí tuệ
nội tại của mình mà cịn được kế thừa những kinh nghiệm qua học hỏi lẫn nhau
giữa những người lao động cho nên có thể nói kinh nghiệm cũng là một LLSX.
Kinh nghiệm được tích luỹ dần trở thành kỹ năng và cao hơn nữa nó có thể trở
thành tri thức khoa học, kỹ thuật, cơng nghệ.Vai trị con người trong thời đại mới
là cần hiểu sâu sắc những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con
người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá, mọi nền

văn minh của các quốc gia….Con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về
thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp
xây dựng xã hội mới, đồng thời là mục tiêu của CNXH.
Hơn nữa, các nhân tố khác đều là sản phẩm của người lao động . Chỉ có
nhân tố con người mới có thể làm thay đổi được cơng cụ sản xuất làm cho sản xuất
ngày càng phát triển với năng suất và chất lượng cao, thay đổi quan hệ sản xuất và
các quan hệ xã hội khác. Công cụ lao động thô sơ hay hiện đại, xấu hay tốt, phụ
thuộc trực tiếp vào nhân tố con người. Giới tự nhiên nói chung và đối tượng lao
động nói riêng, chỉ là những vật vơ tri vơ giác mà thơi. Nó chỉ có ý nghĩa khi trở
thành sản phẩm phục vụ nhu cầu của con người. Muốn vậy tất yếu người lao động
phải tác động vào tư liệu sản xuất để sản sinh ra nó. Như thế q trình sản xuất vật
chất khơng thể thốt ly khỏi lao động của con người. Trong thời đại mới, nhân tố
con người có tri thức ngày càng đóng vai trị quyết định hơn trong LLSX. Có thể

12


khẳng định rằng nhân tố con người đóng vai trị quyết định quá trình lao động sản
xuất ra của cải vật chất.

1.3. Tác động của thời đại vào sự phát triển lực lượng sản xuất
Ngày nay, chúng ta đang sống trong điều kiện có nhiều cái mới, rất khác so
với thời kỳ của C. Mác. Khoa học - công nghệ có những bước tiến nhảy vọt, góp
phần tạo ra một lực lượng sản xuất mà xưa nay nhân loại chưa từng được chứng
kiến. Tri thức xã hội phổ biến đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp,
đúng như C. Mác từng dự báo; năng suất lao động, nhờ vậy, tăng lên nhanh chóng.
Nền kinh tế tri thức đã ra đời và đang được vận hành khá hiệu quả ở nhiều nước
phát triển. Q trình quốc tế hóa mà vào thế kỷ XIX C. Mác và Ph. Ăng-ghen từng
nói đến trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, đã thực sự trở thành q trình
tồn cầu hóa trong thời đại ngày nay. Ở các mức độ khác nhau, tất cả các nước đều

đang bị cuốn hút vào tồn cầu hóa.
Hơn nữa, những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã
tạo ra bước phát triển nhảy vọt của đời sống xã hội nói chung và lực lượng sản
xuất nói riêng. Có thể khái quát những đặc trưng cơ bản của Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư là “cuộc cách mạng số hóa, thơng qua các cơng nghệ như in-tơnét vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), thực tế ảo (VR), tương tác thực tại - ảo
(AR), mạng xã hội, điện tốn đám mây, di động, phân tích dữ liệu lớn (SMAC)...
để chuyển hóa tồn bộ thế giới thực thành thế giới số với tốc độ rất nhanh, quy mơ
rất lớn, tích hợp nhiều lĩnh vực, tương tác đa chiều”. Những thành tựu của khoa
học - công nghệ hiện đại đã tác động trực tiếp đến sự phát triển của lực lượng sản
xuất ở tất cả những yếu tố cấu thành của nó: trình độ của tư liệu sản xuất và trình
độ của người lao động.
Trong bối cảnh đó, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội nói chung và quan
điểm về lực lượng sản xuất nói riêng của C. Mác mặc dù có nhiều giá trị bền vững
cho đến ngày nay nhưng khơng phải khơng có những điểm cần được bổ sung, phát
triển. Chính V.I. Lê-nin - người đã không ngừng bảo vệ và phát triển chủ nghĩa
Mác, từng nhiều lần nhấn mạnh: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là
một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận
đó chỉ đặt nền móng cho mơn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần
phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với
cuộc sống”.
Từ sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại trong giai đoạn hiện nay, có
thể đề xuất bổ sung, phát triển quan điểm của C.  Mác về lực lượng sản xuất trên
một số điểm cơ bản như sau:
13


Thứ nhất, C. Mác sống ở thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản nên ông
cũng bàn nhiều đến xã hội tư bản. Khi bàn đến sự phát triển của lực lượng sản xuất
ở thời kỳ tư bản chủ nghĩa, ông cho rằng, lực lượng lao động chủ yếu của xã hội tư
bản là người công nhân, là giai cấp vơ sản. Đó là “một giai cấp xã hội hoàn toàn

chỉ kiếm sống bằng việc bán lao động của mình”, là “giai cấp những người hồn
tồn khơng có của”, là “họ buộc phải bán lao động của mình cho nhà tư bản để đổi
lấy tư liệu sinh hoạt cần thiết cho cuộc sống của mình”; hầu như ơng ít nói đến
tầng lớp các bác sĩ, kỹ sư, nhà khoa học. Ngày nay, giai cấp cơng nhân khơng chỉ
có những người lao động chân tay thuần túy, mà còn bao gồm cả tầng lớp những
người trí thức. Hơn nữa, trong giai đoạn hiện nay, bản thân người lao động là cơng
nhân cũng có sự thay đổi đáng kể. Ở thời đại của C. Mác, lực lượng lao động chủ
yếu là cơng nhân cơ khí, đa số là lao động thủ công, nhưng ngày nay, những thành
tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã làm cho công cụ lao động ngày
càng được cải tiến; sức lao động của con người được giải phóng; trình độ kiến
thức, tay nghề, kỹ năng, kỹ xảo của người lao động không ngừng được nâng cao.
Do đó, trong rất nhiều nhà máy, xí nghiệp, số lượng nhân lực khoa học  - công
nghệ tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất chiếm tỷ lệ ngày càng cao, vượt trội
hơn hẳn so với số lượng lao động làm việc cơ bắp thông thường. Đội ngũ cơng
nhân trí thức xuất hiện và có xu hướng ngày càng gia tăng cả về số lượng và chất
lượng, điều này đã và đang làm thay đổi dần tỷ trọng của lao động phổ thơng và
lao động có trình độ cao. Do đó, việc bổ sung nội hàm của khái niệm “người lao
động” là rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay, vì “Điều này hết sức quan trọng đối
với chúng ta khi đất nước đang từng bước tiến tới nền kinh tế tri thức, khi nhiệm
vụ trí thức hóa cơng nhân trở thành địi hỏi bắt buộc, nếu chúng ta muốn đưa đất
nước tiến kịp thế giới, tránh tụt hậu xa hơn trong quá trình hội nhập với kinh tế thế
giới”.
Thứ hai, trước đây, khi nói đến lực lượng sản xuất, C. Mác nhấn mạnh nhiều
đến khả năng của con người trong việc chinh phục giới tự nhiên. Vì lẽ đó, để thể
hiện khả năng của mình, con người đã dùng những phương tiện, kỹ thuật hiện đại
để chinh phục ngày càng nhiều giới tự nhiên. Thực tế cho thấy, trong q trình sản
xuất vật chất, con người khơng chỉ chinh phục giới tự nhiên mà cịn phải thích nghi
với giới tự nhiên, nên khi đề cập đến phạm trù “lực lượng sản xuất” mà chỉ nhấn
mạnh đến hoạt động chinh phục giới tự nhiên, xem nhẹ hoạt động thích nghi với
giới tự nhiên là chưa đầy đủ. Theo tác giả Lý Bân, “Quan niệm như vậy không chỉ

hạn chế nội hàm của khái niệm lực lượng sản xuất mà cịn khó dung nạp với sự
phát triển bền vững, phát triển liên tục”. Hệ quả của quan điểm này là “con người
tìm mọi cách chinh phục, khai thác sao cho được nhiều nhất của cải từ thiên nhiên,
bất chấp mọi hậu quả”.
Những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã làm cho
công cụ lao động ngày càng được cải tiến; sức lao động của con người được giải
phóng; trình độ kiến thức, tay nghề, kỹ năng, kỹ xảo của người lao động không
ngừng được nâng cao_Ảnh: Tư liệu
Trong bối cảnh hiện nay, với mục tiêu phát triển bền vững, quan niệm về lực
lượng sản xuất cần được bổ sung khía cạnh “con người sống hài hòa với tự nhiên”.
14


Trong lịch sử loài người đã và đang trải qua ba giai đoạn phát triển của lực lượng
sản xuất. Giai đoạn 1: Lực lượng sản xuất phát triển một cách tự phát. Đây là giai
đoạn mà kinh nghiệm sản xuất trực tiếp của người lao động sản sinh ra kỹ thuật.
Nó xảy ra trước cách mạng cơng nghiệp. Giai đoạn 2: Lực lượng sản xuất phát
triển bằng mọi giá. Đây là giai đoạn sau cách mạng công nghiệp. Ở giai đoạn này,
con người đã tận dụng những thành quả của khoa học, kỹ thuật để khai thác ngày
càng nhiều tự nhiên nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình. Giai đoạn 3: Lực lượng sản
xuất phát triển một cách có chọn lọc. Do mối quan hệ giữa con người và tự nhiên
ngày càng trở nên xung khắc, biểu hiện qua những thiên tai, lũ lụt, biến đổi khí
hậu..., nên con người từng bước điều chỉnh hoạt động sản xuất vật chất của mình,
chuyển hướng sang phát triển lực lượng sản xuất một cách có chọn lọc, tránh làm
tổn hại đến tự nhiên. Vì vậy, thay vì phát triển lực lượng sản xuất như trước kia,
ngày nay cần phải phát triển lực lượng sản xuất một cách chọn lọc, bởi “lực lượng
sản xuất là khái niệm thể hiện không chỉ hoạt động đấu tranh mà còn thể hiện sự
kết hợp hài hòa giữa con người và giới tự nhiên”.
Thứ ba, nhờ sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, nhất là mạng
in-tơ-nét, khoa học nói riêng và tri thức nói chung được phổ biến nhanh chóng, hầu

như tức thời, với nhiều sự kiện khoa học trên tồn thế giới. Dịng tri thức, dịng
cơng nghệ cùng dịng vốn được lưu thơng với tốc độ chưa từng có trên tồn thế
giới. Người ta có thể sản xuất từng bộ phận cấu thành của một sản phẩm ở nhiều
nơi trên thế giới, sau đó lắp ráp và lưu thơng ở các nước khác nhau nhằm đạt hiệu
quả cao nhất. Vì vậy, đầu ra của lực lượng sản xuất hiện đại khơng cịn là sản phẩm
riêng của lao động ở một quốc gia nữa, mà là sản phẩm mang tính tồn cầu. Do đó,
lực lượng sản xuất hiện đại trở thành một yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc
đẩy mạnh q trình tồn cầu hóa. Đây là đặc điểm mới, chỉ riêng có ở lực lượng
sản xuất hiện đại mà lực lượng sản xuất ở các giai đoạn trước kia chưa có hoặc
mới ở trong một phạm vi hẹp. Ở thời của C. Mác, ông đã đề cập đến xu hướng phát
triển tất yếu của nền sản xuất là “thiết lập mối quan hệ ở khắp mọi nơi trên thế
giới”, nhưng chưa thực sự đặt ra vấn đề tồn cầu hóa của lực lượng sản xuất. Do
vậy, để có thể tiếp tục vận dụng quan điểm của C.  Mác về lực lượng sản xuất, cần
mở rộng nội hàm của khái niệm này không chỉ ở trong một nền sản xuất vật chất ở
một quốc gia nhất định, mà còn ở trong một nền sản xuất vật chất trên phạm vi
tồn thế giới. Điều đó góp phần làm cho chủ nghĩa Mác nói chung và quan điểm
của C. Mác về lực lượng sản xuất nói riêng được bồi đắp bằng thực tiễn sinh động
của thời đại ngày nay.
Như vậy, chúng ta không thể phủ nhận được vai trị to lớn của q trình tồn
cầu hóa và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với sự phát triển của xã hội
loài người, đặc biệt là đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phát triển
đó, một mặt, cung cấp những bằng chứng thuyết phục để chúng ta tiếp tục khẳng
định những giá trị đúng đắn, bền vững của chủ nghĩa Mác; mặt khác, cũng đặt ra
yêu cầu cần phải bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác nói chung và quan điểm của C.
Mác về lực lượng sản xuất nói riêng. Việc bổ sung, phát triển đó khơng phải là “xét
lại” chủ nghĩa Mác, cũng không phải là làm lu mờ chân giá trị của chủ nghĩa Mác,
mà là làm cho những nội dung, quan điểm của chủ nghĩa Mác có thêm sức sống
15



mới, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của giai đoạn hiện nay. Đó là việc làm hết
sức khó khăn, địi hỏi những người mác-xít phải kiên trì, có bản lĩnh và có trách
nhiệm với hệ thống lý luận cách mạng và khoa học được coi là nền tảng tư tưởng
của Đảng ta hiện nay

Chương 2 : Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nước ta hiện nay

2.1. Tính tất yếu khách quan và nội dung cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của
Việt Nam
2.1.1. Tính tất yếu khách quan nước ta phải cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
Mỗi phương thức sản xuất đều ra đời và tồn tại trên một cơ sở VCKT tương
ứng với nó. Cơ sở VCKT của CNXH là một nền công nghiệp lớn hiện đại, trước
hết là cơng nghiệp nặng có đủ khả năng trang bị kỹ thuật hiện đại cho công nghiệp
và các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân, nhằm không ngừng phát triển nền
sản xuất lớn xá hội chủ nghĩa và cải thiện đời sống nhân dân.
CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện hoạt động kinh tế,
dịch vụ và quản lý từ trạng thái sử dụng sức lao động là chính sang trạng thái sử
dụng sức lao động kết hợp với kỹ thuật công nghệ hiện đại tạo ra năng suất lao
động ngày càng cao.
CNH, HĐH là một tính quy luật để xây dựng cơ sở VCKT cho CNXH. Cơ
sở VCKT của một phương thức sản xuất là tồn bộ những tư liệu vật chất trong đó
chủ yếu là công cụ sản xuất mà lao động trong xã hội sử dụng. Cơ sở VCKT của
phương thức sản xuất trước tư bản là hết sức lạc hậu, chủ yếu là công cụ lao động
thủ công.Trong chủ nghĩa tư bản nền đại cơng nghiệp cơ khí hố đã tạo cái cốt cho
chủ nghĩa tư bản tồn tại. Nó tự khẳng định mình là một phương thức sản xuất
thống trị trong lịch sử. Việt Nam quá độ lên CHXH bỏ qua giai đoạn tư bản thiếu
một tiền đề VCKT mà chủ nghĩa tư bản để lại. Mặt khác Việt Nam là một nước có
nền kinh tế kém phát triển, chưa có nền sản xuất lớn dựa trên nền tảng cơng nghiệp
lớn. Do đó để xây dựng CNXH tất yếu nước ta phải CNH, HĐH.


16


Gắn CNH với HĐH làm cho kinh tế nước ta dần đạt tới trình độ tiên tiến của
thế giới. Thời đại ngày nay cách mạng khoa học công nghệ là một đặc trưng, khoa
học công nghệ trở thành LLSX trực tiếp, nó vừa là nền tảng vừa là động lực của
quá trình CNH. Đồng thời gắn CNH với HĐH sẽ tránh được nguy cơ tụt hậu xa về
kinh tế giữa nước ta với các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước có nền kinh tế
phát triển.
Hơn nữa CNH là cần thiết và có nhiều tác dụng. Đó là :
- Thúc đẩy LLSX phát triển cao dẫn đến năng suất lao động cũng cao.
- Củng cố quan hệ sản xuất mới đảm bảo cho sự thắng lợi hoàn toàn trong
công cuộc xây dựng CNXH nước ta.
- Tạo ra những điều kiện cho sự phát triển văn hoá giáo dục. Bản thân sự
nghiệp xây dựng cơ sở VCKT đòi hỏi quần chúng phải có trình độ giác nhộ
cách mạng, trình độ văn hố, trình độ khoa học ngày càng cao.
- Tạo ra cơ sở cho việc phát triển kinh tế đối ngoại.
Để xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ phải có một nền cơng nghiệp
hiện đại tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân, đảm bảo an tồn lương thực.Nó là
cơ sở vật chất cho củng cố an ninh quốc phòng, độc lập dân tộc và CNXH được
bảo vệ vững chắc.
2.1.2. Nội dung công nghiệp hóa hiện đại hóa nước ta
Thực chất CNH, HĐH là chuyển nền kinh tế từ lao động thủ công sang lao
động cơ khí hay nói cách khác là tiến hành trang bị kỹ thuật hiện đại cho nền kinh
tế quốc dân. Khơng tiến hành cách mạng kỹ thuật thì khơng thể biến một nước
nông nghiệp lạc hậu thành một nước có nền sản xuất lớn. Nó sẽ làm thay đổi đến
tận gốc rễ LLSX của xã hội . Trước tiên phải làm biến đổi cơng cụ lao động thước
đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người và là cơ sở phân biệt các thời đại
với nhau. Muốn vậy ta phải thực hiện nghiên cứu ứng dụng thành tựu khoa học
công nghệ hiện đại trên thế giới. Một yếu tố khơng thể thiếu nữa, đó là ta phải phát

huy được lợi thế so sánh. Ta đi sau cạnh tranh, thu hút, sử dụng công nghệ hiện đại
của nước bạn thơng qua việc chuyển giao cơng nghệ. Việc đó được tiến hành từ
17


các nước khác chuyển sang nước ta bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, bao
gồm cả phần cứng tức máy móc thiết bị và phần mềm tức phương pháp và cơng
nghệ. Nhờ đó cho phép ta khai thác được các nguồn lực trong nước và khắc phục
được nguy cơ tụt hậu kinh tế cũng như thúc đẩy nền sản xuất hướng về xuất khẩu
ra thị trường quốc tế.
Ngoài ra, ta phải xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý. Cơ cấu kinh tế là tổng
thể các ngành, vùng kinh tế trong đó cơ cấu kinh tế ngành là quan trọng được cân
đối về quy mô, về tỉ trọng, phù hợp điều kiện của tự nhiên và xu hướng phân cơng
hợp tác lao động quốc tế. Trước hết, nó phải phù hợp với các quy luật khách quan
và xu thế phát triển của khoa học công nghệ đồng thời phát huy được lợi thế so
sánh trong nước. Để xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý phải chuyển dịch cơ cấu
gắn liền với phân công lại lao động xã hội theo một tính quy luật. Trong đó tỉ trọng
lao động trong ngành công nghiệp gia tăng, nông nghiệp giảm cịn dịch vụ tăng
lên. Tuy nhiên phải ln ln đảm bảo tỉ trọng hợp lý giữa chúng một cách tương
đối so với nhau. Mặt khác tỉ trọng lao động giản đơn, lao động cơ bắp giảm còn
lao động phức tạp tăng lên.
2.2.Chiến lược phát triển và đào tạo nguồn nhân lực nước ta hiện nay
2.2.1.Khái niệm nguồn nhân lực
Một quốc gia muốn phát triển thì cần phải có các nguồn lực như: tài nguyên
thiên nhiên, vốn, khoa học – cơng nghệ, con người… Trong các nguồn lực đó thì
con người hay nguồn nhân lực là quan trọng nhất và có tính chất quyết định. Thực
tế lịch sử phát triển của mọi quốc gia trên thế giới từ trước đến nay đã chứng tỏ
rằng, một nước cho dù có tài nguyên thiên nhiên phong phú, máy móc kỹ thuật
hiện đại nhưng khơng có những con người có trình độ, có đủ khả năng khai thác
các nguồn lực đó, thì khó có khả năng đạt được sự phát triển như mong muốn.

Vậy nguồn nhân lực là gì? Để trả lời câu hỏi đó, hiện nay có nhiều quan
điểm khác nhau. Theo Liên Hợp Quốc: nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức,
kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự
phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước . Ngân hàng thế giới cho rằng: nguồn
nhân lực là toàn bộ vốn con người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp…
18


của mỗi cá nhân. Như vậy, theo quan niệm này, nguồn lực con người được coi như
một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác: vốn tiền tệ, công nghệ, tài
nguyên thiên nhiên. Theo David Begg, Stanley Fischer và Rudiger Dornbush thì
nguồn nhân lực được hiểu là tồn bộ trình độ chun mơn mà con người tích lũy
được, nó được đánh giá cao vì tiềm năng đem lại thu nhập trong tương lai. Các tác
giả này cho rằng kiến thức mà con người tích lũy được trong quá trình lao động
sản xuất là mấu chốt vì chính kiến thức đó giúp họ tạo ra của cải, tài sản cho cuộc
sống hiện tại và tương lai của chính họ.Từ các quan niệm trên có thể thấy rằng,
nguồn nhân lực được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là
nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực cho sự phát
triển. Do đó, nguồn nhân lực bao gồm tồn bộ dân cư có thể phát triển bình
thường. Theo nghĩa hẹp: nguồn nhân lực là khả năng lao động của XH, là nguồn
lực cho sự phát triển KT – XH, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động,
có khả năng tham gia vào lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực và kỹ
năng nghề nghiệp của họ được huy động vào quá trình lao động.
Như vậy, có thể hiểu: nguồn nhân lực là tổng hồ thể lực và trí lực tồn tại
trong tồn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền
thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử được vận
dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và
tương lai của đất nước. Nguồn nhân lực không chỉ bao hàm những người trong độ
tuổi lao động, cũng không chỉ bao hàm về mặt chất lượng, mà còn chứa đựng các
hàm ý rộng hơn, gồm tồn bộ trình độ chun mơn mà con người tích luỹ được, có

khả năng đem lại thu nhập trong tương lai. Trong lý thuyết về tăng trưởng kinh tế,
con người được coi là phương tiện hữu hiệu cho việc đảm bảo tốc độ tăng trưởng
kinh tế bền vững
Đối với một quốc gia, nguồn nhân lực là một phạm trù dùng để chỉ sức
mạnh tiềm ẩn của dân cư, khả năng huy động tham gia vào quá trình tạo ra của cải
vật chất và tinh thần cho xã hội trong hiện tại cũng như trong tương lai. Sức mạnh
và khả năng đó được thể hiện thơng qua số lượng, chất lượng và cơ cấu dân số,
nhất là số lượng và chất lượng con người cơ sở đủ điều kiện tham gia vào nền sản
19


xuất xã hội. Nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự
thành công hay không thành công trong phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia.
Đối với một tổ chức, nguồn nhân lực vừa là mục tiêu vừa là động lực, là yếu
tố cơ bản cấu thành nên tổ chức, là điều kiện cho tổ chức tồn tại và phát triển. Vì
vậy một tổ chức được đánh giá mạnh hay yếu, phát triển hay tụt hậu phụ thuộc
phần lớn vào chất lượng nguồn nhân lực của tổ chức đó. Đối với một doanh
nghiệp, nguồn nhân lực là toàn bộ khả năng lao động mà doanh nghiệp cần và huy
động được cho việc thực hiện, hoàn thành những nhiệm vụ trước mắt và lâu dài.
Khi xem xét đánh giá nguồn nhân lực của một tổ chức, thì ngồi việc căn cứ vào
quy mơ hay số lượng, cơ cấu, thì một tiêu chí khơng thể bỏ qua đó là chất lượng
nguồn nhân lực.
2.2.2. Ở nước ta, Đảng và Nhà nước luôn khẳng định quan điểm coi con người là
trung tâm của sự phát triển, của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Hiện nay, trong điều kiện đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế, phát triển nguồn nhân lực (NNL) được coi là một trong ba khâu đột
phá của chiến lược chuyển đổi mơ hình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước;
đồng thời, phát triển NNL trở thành nền tảng của phát triển bền vững và tăng lợi
thế cạnh tranh quốc gia.
Việc phát triển nhân lực, một mặt, cần phải có tầm nhìn và chiến lược phát

triển tổng thể và dài hạn, nhưng đồng thời, trong mỗi thời kỳ nhất định, cần xây
dựng những định hướng cụ thể để từ đó đánh giá thời cơ, thách thức, những khó
khăn, hạn chế và nguyên nhân…, trên cơ sở đó đề ra mục tiêu và giải pháp thích
hợp cho từng giai đoạn, phù hợp với bối cảnh kinh tế – xã hội trong nước và quốc
tế
Khi nói về NNL, người ta có thể đề cập đến 3 góc độ: số lượng (hay quy
mô) NNL, chất lượng NNL và cơ cấu NNL. Số lượng NNL thể hiện thông qua chỉ
tiêu quy mô và tốc độ tăng NNL. Về chất lượng, NNL được xem xét trên các mặt:
sức khỏe, trình độ văn hóa, trình độ chun mơn, năng lực, phẩm chất, đạo đức…
(hay cịn gọi là thể lực- trí lực và tâm lực).
Trong đó, chất lượng NNL giữ vai trị quyết định sự tồn tại của một doanh
nghiệp. Theo quan điểm của tổ chức Liên hiệp quốc, chất lượng NNL thể hiện:
trình độ lành nghề, kiến thức và năng lực, sức khỏe con người hiện có trên thực tế
hoặc có tiềm năng để phát triển kinh tế – xã hội trong một cộng đồng.
Việt Nam đã và đang trong thời kỳ phát triển, hội nhập và cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Để thành cơng địi hỏi phải đổi mới một cách căn bản, toàn
diện nền giáo dục và đào tạo để từ đó tạo ra sự đột phá về chất lượng NNL, tạo tiền
20


đề và là chìa khóa để thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Công tác đào tạo phải
được tiến hành một cách đồng bộ, toàn diện, phải thực sự trở thành trách nhiệm
của mọi tổ chức và cá nhân, trong đó có vai trị quan trọng của các doanh nghiệp.

2.2.3. Trong xu thế tồn cầu hóa, hội nhập, cạnh tranh và hướng tới nền kinh tế tri
thức, các quốc gia đều chú trọng đầu tư đào tạo phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao
Lịch sử phát triển kinh tế thế giới cũng đã chứng minh rằng, muốn đạt được
sự tăng trưởng kinh tế cao và ổn định thì nhất thiết phải nâng cao chất lượng NNL
thông qua con đường đào tạo.

Với Việt Nam, để không tụt hậu xa so với trình độ chung của các nước tiên
tiến trong khu vực và trên thế giới cần quan tâm và có các chính sách đổi mới cơng
tác đào tạo phát triển NNL.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng chỉ rõ: xây dựng
chiến lược phát triển NNL cho đất nước, cho từng ngành, từng lĩnh vực, với những
giải pháp đồng bộ, trong đó tập trung cho giải pháp đào tạo, đào tạo lại NNL trong
nhà trường cũng như trong quá trình sản xuất – kinh doanh, chú trọng nâng cao
tính chuyên nghiệp và kỹ năng thực hành.
Phát triển hợp lý, hiệu quả các loại hình trường ngồi cơng lập đối với giáo
dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Đối với đơn vị sử dụng lao động (bộ máy
quản lý nhà nước và doanh nghiệp), cần tập trung tạo động lực để thu hút nhân tài
theo hướng quan tâm đúng mức tới lợi ích kinh tế và danh dự cá nhân gắn với tinh
thần dân tộc; thay đổi tiêu chí, chế độ tuyển dụng, đãi ngộ, sử dụng trên cơ sở tăng
cường quyền lực trên thực tế cho lãnh đạo các cấp; thực hiện dân chủ, công khai,
minh bạch trong tuyển dụng, sử dụng và đãi ngộ nhân lực chất lượng cao, xóa bỏ
các rào cản về tôn giáo, dân tộc trong việc chọn lựa người tài.
Công tác đào tạo NNL hiện nay về cơ bản đáp ứng được những yêu cầu về
hình thức đào tạo, chương trình đào tạo và phương pháp giảng dạy. Tuy nhiên, bên
cạnh ưu điểm vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế.
Việc xác định nhu cầu đào tạo gặp rất nhiều khó khăn do người dân vẫn
chưa nhận thức đúng tầm quan trọng của học nghề. Vấn đề học nghề và hướng
nghiệp vẫn chưa vượt qua định kiến về khoa cử bằng cấp, danh vị xã hội, do đó,
nhu cầu về công nhân kỹ thuật rất lớn, nhưng số lượng tuyển sinh học nghề lại
thấp.
Mặt khác, nhu cầu đào tạo hiện nay không xuất phát từ nhu cầu muốn nâng
cao trình độ mà từ nhu cầu lên lương, lên chức dẫn đến đối tượng được đào tạo
không đúng yêu cầu của công việc, ngược lại, xuất hiện bộ phận được đào tạo
nhưng lại khơng được sử dụng. Tình trạng trên dẫn đến hiện tượng thiếu tuyệt đối
công nhân kỹ thuật nhưng lại thừa tương đối những người đã qua đào tạo nhưng
trình độ chun mơn yếu.

21


Trong quá trình tổ chức các lớp đào tạo, các phương pháp khoa học mang
tính khách quan để đánh giá nhu cầu đào tạo rất ít được sử dụng. Phần lớn nhu cầu
đào tạo được xác định từ những đánh giá chủ quan của bộ phận phụ trách đào tạo.
Hơn nữa, việc thu hút và mời nhà cung cấp các chương trình đào tạo đánh giá nhu
cầu đào tạo thực sự cũng rất ít khi được thực hiện. Đào tạo hiện nay chưa phải là
giải pháp hữu hiệu để giải quyết vấn đề của các cơ quan, doanh nghiệp nhưng
những lớp học vẫn được tổ chức thực hiện.
Một vấn đề nữa hiện nay là việc thực hiện các chương trình đào tạo chưa
được các doanh nghiệp, tổ chức chú ý đầu tư. Trên thực tế, có một nghịch lý là
doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh yếu nhưng lại khơng quan tâm đến đầu tư cho
đào tạo NNL chất lượng cao.
Bên cạnh việc đầu tư cho đào tạo còn hạn chế thì việc đánh giá các chương
trình đào tạo cũng thể hiện sự bất cập. Đánh giá các chương trình đào tạo sử dụng
các chỉ tiêu như: số lượng người được đào tạo, số lượng ngày, giờ đào tạo, số
lượng chương trình đào tạo được thực hiện. Về thực chất, các chỉ tiêu này mới chỉ
dừng ở mức độ thống kê khối lượng công việc được thực hiện mà chưa phản ánh
hiệu quả công việc, cũng như tác động của đào tạo đối với cá nhân và tổ chức.
Các chỉ tiêu phản ánh mức độ thích hợp của các chương trình như về nội
dung, phương pháp, hình thức tổ chức cũng như tác động của các chương trình đào
tạo đối với việc nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ quản
lý hầu như chưa bao giờ được thực hiện.
Có thể nói, những khó khăn, thách thức hiện nay đối với công tác đào tạo
NNL chủ yếu đến từ quá trình hội nhập. Việc thành lập cộng đồng kinh tế ASEAN
cho phép chuyển dịch lao động trong nội khối được cởi mở hơn, khiến Việt Nam
có nguy cơ mất người tài do đãi ngộ kém.
Việc dịch chuyển lao động toàn cầu cũng gây nguy cơ tương tự, mà biểu
hiện đầu tiên là nhiều du học sinh khơng quay về nước phục vụ sau q trình học

tập ở nước ngồi.
Các khó khăn, thách thức cịn đến từ q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
bởi trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, lao động chất lượng cao đóng
vai trị quan trọng. Việt Nam cần tăng cường nhân lực chất lượng cao ở cả 3 nhóm:
lãnh đạo quản lý, khoa học cơng nghệ và lao động kỹ thuật. Với điểm xuất phát
khá thấp, việc bảo đảm cung cấp nhân lực cho q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước hiện đang là thách thức rất lớn.
Tuy nhiên, vấn đề quan trọng nhất vẫn là thách thức trong chuyển biến tư
duy nhận thức của mỗi người. Nền kinh tế đã và đang vận hành theo quy luật thị
trường nhưng một loạt các vấn đề cốt lõi như: giáo dục và đào tạo, thống kê và dự
báo, tuyển dụng và sử dụng… vẫn còn mang hơi hướng quan liêu tập trung, thậm
chí cịn ở mức lạc hậu. Ngay cả quan niệm về “nhân lực chất lượng cao” cũng có
nơi, có lúc cịn bị hiểu sai lệch, đồng nhất với bằng cấp.

22


2.2.3. Một số giải pháp nâng cao công tác đào tạo nguồn nhân lực cần chú ý:
Một là, định nghĩa lại (hoặc hiểu cho đúng) về NNL chất lượng cao. Hiện
nay còn nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này, nhưng NNL chất lượng cao phải
đáp ứng được hai tiêu chí: năng lực và phẩm chất. Năng lực bao gồm các mặt như:
trình độ chun mơn nghiệp vụ, các kỹ năng tiếp thu và truyền đạt, khả năng tự
học hỏi và đào tạo…
Phẩm chất bao gồm: đạo đức, tư cách, lịng say mê nghề nghiệp, ý chí vượt
khó khăn…Đây chính là những tiêu chuẩn cơ bản trong lựa chọn cũng như đào tạo
nhân lực chất lượng cao.
Hai là, xem lại mối liên kết trong chu trình: đào tạo; bố trí (tuyển dụng,
phân cơng, thu hút); sử dụng; đãi ngộ. Chỉ cần trục trặc trong một khâu là các khó
khăn về bảo đảm chất lượng nhân lực sẽ xuất hiện.
Ba là, đưa tư duy của kinh tế thị trường vào hàng loạt các chính sách về đào

tạo, tuyển dụng, bố trí và đãi ngộ với nhân lực chất lượng cao, trong đó đặc biệt
chú trọng cơng tác dự báo các nhu cầu của xã hội để định hướng cho việc đào tạo,
cung ứng nhân lực; phải coi “sức lao động là hàng hóa” trong thu hút, đãi ngộ,
tuyển dụng và phải luôn quan tâm đến quy luật cạnh tranh trong vấn đề cung ứng
nhân lực.
Bốn là, phải phát huy lòng u nước, vì lợi ích chung của cộng đồng, hiếu
học, cần cù, chăm chỉ vào mọi suy nghĩ, mọi hành động để đóng góp vào q trình
xây dựng và phát triển đội ngũ lao động chất lượng cao, phục vụ sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Năm là, đổi mới công tác quản lý theo hướng tăng quyền tự chủ và trách
nhiệm giải trình của các cơ sở đào tạo. Giao cho một số cơ quan nhà nước cùng với
các tổ chức xã hội nghề nghiệp nhanh chóng xây dựng các cơ sở đánh giá và kiểm
định chất lượng lao động qua đào tạo, cấp giấy phép hành nghề, đồng thời bắt buộc
các doanh nghiệp phải tuyển lao động có giấy phép hành nghề. Có biện pháp để cơ
quan quản lý nhà nước thường xuyên thu nhận thông tin phản hồi về mức độ hài
lòng của các doanh nghiệp đối với “sản phẩm” đầu ra của các cơ sở đào tạo.
Sáu là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục nghề nghiệp gắn với tuyên
truyền thực hiện Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày 04/11/2013 của Hội nghị Trung
ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục và đào tạo, làm cho các
cấp, các ngành và người dân, nhất là thanh thiếu niên hiểu được tầm quan trọng
của giáo dục nghề nghiệp. Theo đó, cần đa dạng hóa nội dung, hình thức thơng tin,
tài liệu tun truyền phù hợp với từng đối tượng, phương thức truyền thông.
2.3.Nâng cao nguồn nhân lực và vấn nạn chảy máu chất xám
2.3.1. Một số hạn chế của nguồn nhân lực Việt Nam
Thứ nhất, thể chất của lực lượng lao động còn yếu: Về cơ bản, thể chất của
người lao động Việt Nam đã được cải thiện, nhưng còn thấp so với các nước trong
23


khu vực, thể hiện ở các khía cạnh tầm vóc, sức khoẻ, sức bền, khả năng chịu áp

lực…
Thứ hai, trình độ của người lao động còn nhiều hạn chế, bất cập, do chất
lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng, miền, địa
phương của nguồn nhân lực chưa phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế và nhu
cầu của xã hội, gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội.
Thứ ba, thiếu đội ngũ công nhân, kỹ thuật viên lành nghề để đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của xã hội phát triển các ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam.
Thứ tư, về cơ bản đội ngũ lao động Việt Nam giỏi lý thuyết, nhưng kém về
năng lực thực hành và ứng dụng cơng nghệ cao vào q trình lao động, kém về
ngoại ngữ và hạn chế trong việc thích nghi mơi trường có áp lực cạnh tranh cao.
Thứ năm, khả năng làm việc theo nhóm, tính sáng tạo, chun nghiệp trong
q trình lao động cịn nhiều hạn chế, khả năng giao tiếp, năng lực giải quyết xung
đột trong q trình lao động cịn yếu kém.
Thứ sáu, tinh thần trách nhiệm trong công việc, đạo đức nghề nghiệp, đạo
đức cơng dân, văn hố doanh nghiệp, ý thức tn thủ kỷ luật lao động của một bộ
phận đáng kể người lao động chưa cao.
2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế
Một là, quản lý Nhà nước về phát triển nguồn nhân lực còn nhiều vấn đề bất
cập so với yêu cầu. Chưa có một chiến lược phát triển nguồn nhân lực toàn diện và
dài hạn, mang tầm quốc gia để định hướng các cơ quan, đoàn thể cùng phố hợp
hành động.
Hai là, hệ thống giáo dục từ cấp phổ thông, đến đào tạo nghề, đại học, sau
đại học là lực lượng nịng cốt trong q trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
còn bộc lộ nhiều hạn chế, dù đã trải qua rất nhiều cải cách, đổi mới.
Ba là, quá trình hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực phát triển nguồn
nhân lực chưa theo kịp quá trình hội nhập kinh tế, văn hoá, xã hội ngày càng sâu
rộng của Việt nam. Hệ thống giáo dục chưa bắt kịp với mơ hình hệ thống giáo dục
và đào tạo nhân lực phổ biến của các nước trong khu vực và thế giới. Đào tạo
ngoại ngữ của Việt Nam còn nặng tính hình thức, lý thuyết nhưng lại yếu kém
trong thực hành.

Bốn là, nguồn lực quốc gia và khả năng đầu tư cho phát triển nhân lực của
phần lớn các gia đình cịn hạn chế, chưa đáp ứng điều kiện tối thiểu để bảo đảm
chất lượng các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao.
2.3.3. Yêu cầu đối với nguồn nhân lực Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
Nhằm đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội
nhập quốc tế, từ bối cảnh trong nước, quá trình phát triển nguồn nhân lực Việt nam
đang đứng trước những yêu cầu cấp thiết sau: (i) Bảo đảm nguồn nhân lực là một
trong ba khâu đột phá cho cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện thắng lợi các
mục tiêu đã được đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020: chú
trọng phát triển theo chiều sâu, tăng cường ứng dụng khoa học và công nghệ;
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế; tăng năng suất lao
động, tiết kiệm trong sử dụng mọi nguồn lực; (ii) Nguồn nhân lực phải có năng lực
24


thích ứng với tình trạng nguồn tài ngun thiên nhiên ngày càng khan hiếm và sự
sụt giảm các nguồn đầu tư tài chính; phải được đào tạo đầy đủ và tồn diện để có
khả năng cạnh tranh và tham gia lao động ở nước ngồi trong q trình hội nhập
kinh tế quốc tế; đồng thời có đủ năng lực để tham gia với cộng đồng quốc tế giải
quyết những vấn đề mang tính tồn cầu và khu vực.
2.3.4. Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam trong thời
gian tới
Một là, tiếp tục đổi mới quản lý Nhà nước. Tập trung hoàn thiện bộ máy
quản lý phát triển nguồn nhân lực, đổi mới phương pháp quản lý, nâng cao năng
lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động bộ máy quản lý về phát triển nguồn nhân lực.
Đổi mới các chính sách, cơ chế, cơng cụ phát triển và quản lý nguồn nhân lực bao
gồm các nội dung về mơi trường làm việc, chính sách việc làm, thu nhập, bảo
hiểm, bảo trợ xã hội, điều kiện nhà ở và các điều kiện sinh sống, định cư, chú ý các
chính sách đối với bộ phận nhân lực chất lượng cao, nhân tài.
Hai là, bảo đảm nguồn lực tài chính. Phân bổ và sử dụng hợp lý Ngân sách

Nhà nước dành cho phát triển nhân lực quốc gia đến năm 2020. Cần xây dựng kế
hoạch phân bổ ngân sách nhà nước theo hướng tập trung đẩy mạnh thực hiện các
chương trình, dự án đào tạo theo mục tiêu ưu tiên và thực hiện cơng bằng xã hội.
Đẩy mạnh xã hội hố để tăng cường huy động các nguồn vốn cho phát triển nhân
lực. Nhà nước có cơ chế, chính sách để huy động các nguồn vốn của người dân
đầu tư và đóng góp cho phát triển nhân lực bằng các hình thức: (i) Trực tiếp đầu tư
xây dựng cơ sở giáo dục, đào tạo, cơ sở y tế, văn hoá, thể dục thể thao; (ii) Hình
thành các quỹ hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực, huy động, phát huy vai trò, đóng
góp của doanh nghiệp đối với sự phát triển nhân lực; (iii) Đẩy mạnh và tạo cơ chế
phù hợp để thu hút các nguồn vốn nước ngoài cho phát triển nhân lực Việt Nam.
Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn của nước ngoài hỗ trợ phát triển nhân lực (ODA);
(iv) Thu hút đầu tư trực tiếp (FDI) của nước ngoài cho phát triển nhân lực (đầu tư
trực tiếp xây dựng các cơ sở giáo dục, đào tạo, bệnh viện, trung tâm thể thao..).
Ba là, đẩy mạnh cải cách giáo dục. Đây là nhiệm vụ then chốt, giải pháp
chủ yếu, là quốc sách hàng đầu để phát triển nhân lực Việt Nam trong giai đoạn từ
nay đến 2020 và những thời kỳ tiếp theo. Một số nội dung chính trong quá trình
đổi mới hệ thống giáo dục và đào tạo Việt Nam bao gồm: (i) Hoàn thiện hệ thống
giáo dục theo hướng mở, hội nhập, thúc đẩy phân tầng, phân luồng, khuyến khích
học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập; (ii) Mở rộng giáo dục mầm non, phổ
cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở với chất lượng ngày càng cao. Phát triển
mạnh và nâng cao chất lượng các trường dạy nghề và đào tạo chuyên nghiệp. Quy
hoạch và thực hiện quy hoạch mạng lưới trường đại học, cao đẳng và dạy nghề
trong cả nước; (iii) Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, sách giáo khoa phổ
thơng, khung chương trình đào tạo ở bậc đại học và giáo dục nghề nghiệp, phương
pháp dạy và học ở tất cả các cấp theo hướng phát huy tư duy sáng tạo, năng lực tự
học, tự nghiên cứu, tăng thời gian thực hành, tập trung vào những nội dung, nâng
cao chất lượng đào tạo ngoại ngữ; (iv) Đổi mới phương pháp dạy và học ở tất cả
các cấp học, bậc học. Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả
các bậc học. Cải cách mục tiêu, nội dung, hình thức kiểm tra, thi và đánh giá kết
quả giáo dục và đào tạo, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin; (v) Đổi mới

25


×