Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Hình phạt trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.11 KB, 30 trang )

0

MỤC LỤC
Trang
A- Phần mở đầu ......................................................................................................
1
1. Tính cấp thiết của đề tài ......................................................................................
1
2. Tình hình nghiên cứu ..........................................................................................
1
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài ............................................................................
2
4. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài .........................................................................
2
5. Cơ sở khoa học và phương pháp nghiên cứu .....................................................
2
6. Đóng góp về mặt khoa học và ý nghĩa của đề tài ...............................................
3
B - Phần nội dung....................................................................................................
4
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn nâng cao hiệu quả hình phạt trong luật
hình sự việt nam......................................................................................................
4
1.1. Khái niệm chung về hình phạt .........................................................................
4
1.1.1. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất ...................................
4
1.1.2. Hình phạt được luật hình sự quy định và do tồ án áp dụng ........................
5
1.1.3. Hình phạt chỉ có thể áp dụng đối với người có hành vi phạm tội ...............
5


1.2. Một số căn cứ lý luận và thực tiễn nâng cao hiệu quả hình phạt. ....................
6
1. 2.1. Mục đích hình phạt ....................................................................................
10


1
1.2.2. Mục đích phịng ngừa riêng .........................................................................
10
1.2.3. Mục đích phịng ngừa chung .......................................................................
11
1.3. Khái niệm, tiêu chí và các yếu tố đảm bảo hiệu quả của hình phạt .................
12
1.3.1 Khái niệm hiệu quả của Hình phạt ...............................................................
12
1.3.2. Tiêu chí hiệu quả hình phạt .........................................................................
13
1.3.3. Những yếu tố đảm bảo hiệu quả của Hình phạt. ..........................................
13
Chương 2: Một số hình phạt và kiến nghị cụ thể ...................................................
15
2.1. Một số hình phạt cụ thể ...................................................................................
15
2.1.1 Đối với hình phạt tù có thời hạn .................................................................
15
2.1.2 Đối với các loại hình phạt chính khơng phải hình phạt tù .............................
16
2.1.3. Đối với hình phạt tù chung thân và tử hình ..................................................
18
2.1.4. Hình phạt bổ sung .........................................................................................

20
2.2. Một số kiến nghị cụ thể ...................................................................................
23
Kết luận ..................................................................................................................
26
Danh mục tài liệu tham khảo ..................................................................................
27
A- PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI


2
Hiện nay xã hội ngày càng phát triển, bộ mặt đất nước ngày càng khởi sắc
thay da đổi thịt từng ngày, hồ chung trong khơng khí sục sơi của sự nghiệp đổi
mới cơng nghiệp hố hiện đại hố đất nước. Đất nước tiến sâu vào hội nhập
quốc tế ngày càng sâu sắc. Nền kinh tế nước nhà ngày càng phát triển và đang
trên đà tiến sâu vào nền kinh tế thị trường tồn cầu, khoa học cơng nghệ ngày
càng hiện đại, tinh vi. Cùng đó thì xã hội cũng có những diễn biến phức tạp, tội
phạm ngày càng nhiều và càng có nhiều thủ đoạn, mánh khoé ranh ma, tinh vi,
tàn bạo hoạt động lộng hành khắp mọi nơi hơn để vượt qua hàng rào luật pháp.
Trong cuộc đấu tranh phịng chống các vi phạm nói chung và tội phạm nói
riêng, hình phạt có vai trị rất quan trọng. Hình phạt là một bộ phận cấu thành
không thể thiếu được trong hệ thống các biện pháp tác động của Nhà nước và xã
hội đến tội phạm, hiệu quả của hình phạt ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình tội
phạm. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả của hình phạt là việc làm cần thiết khơng
chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà cịn có giá trị chỉ đạo thực tiễn rất lớn, luôn là
mối quan tâm hàng đầu của các nhà lập pháp, của cán bộ các cơ quan bảo vệ
pháp luật, của các nhà nghiên cứu khoa học.
Để góp thêm một phần ý kiến cho việc tìm hiểu và việc hồn thiện chế
định hình phạt nói riêng và pháp luật hình sự nói chung, đưa ra một số kiến nghị

cụ thể nhằm tăng cường hiệu quả hình phạt trong đấu tranh phòng chống tội
phạm giữ vững trật tự an toàn xã hội. Do yêu cầu cấp thiết của thực tiễn đất
nước, sự nóng bỏng trước cơng cuộc đổi mới của nước nhà của Đảng và Nhà
nước ta. Chúng tơi đã mạnh dạn đi vào tìm hiểu “Hình phạt trong luật hình sự
Việt Nam”.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Với đề tài này, không phải là đề tài đầu tiên mà đây là một đề tài cũng đã
có rất nhiều cơng trình nghiên cứu. Trong đó, tiêu biểu nhất là cơng trình nghiên
cứu của "Bộ tư pháp - Viện nghiên cứu khoa học pháp lý". Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia, Hà Nội năm 1995.


3
Vì vậy, với đề tài này của chúng tơi nó mang tính chất kế thừa có chọn lọc
và phát triển thêm một số ý mới.
Trên cơ sở lý luận chung về hình phạt chúng tơi đi sâu nghiên cứu hình
phạt trong luật hìng sự Việt Nam để từ đó thấy được tầm quan trọng của nó
trong vấn đề bảo vệ pháp luật, giáo dục và nâng cao ý thức pháp luạt cho họ,
động viên khuyến khích đơng đảo quần chúng nhân dân tích cực tham gia vào
cuộc đấu tranh ngăn ngừa và chống tội phạm, đồng thời để qua đó thấy được sự
nghiêm khắc cũng như tính nhân đạo của pháp luật Việt Nam.
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Đây là một đề tài có phạm vi nghiên cứu rộng, với đề tài này khơng có ý
định đi sâu nghiên cứu các vấn đề chi tiết mà chúng tôi chỉ đi vào tìm hiểu một
số vấn đề lý luận chung và cụ thể. Chủ yếu tập trung vào các vấn đề sau đây:
- Một số căn cứ lý luận và thực tiễn nâng cao hiệu quả hính phạt trong
luật hình sự Việt Nam
- Một số hình phạt và kiến nghị cụ thể
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Là một đề tài nghiên cứu mang tính khoa học pháp lý, khoa học luật hình

sự có nhiệm vụ nghiên cứu lý luận, thực tiễn và đưa ra một số vấn đề luận cứ
khoa học nhằm góp phần tìm hiểu rõ hơn, sâu hơn về luật hình sự nói chung
cũng như các quy định, chế định các quy phạm của luật hình sự nói chung.
5. CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài, bên cạnh việc dựa trên cơ sở lý luận chung thì trong
quá trình nghiên cứ đã sử dụng nhiều phương pháp.
Phương pháp phân tích tổng hợp
Phương pháp kết hợp lơgic và lịch sử
Phương pháp duy vật biện chứng
Phương pháp so sách
Phương pháp thống kê
Phương pháp trừu tượng hóa khóa khoa học


4

6. ĐÓNG GÓP VỀ MẶT KHOA HỌC VÀ Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
Để góp phần cung cấp một số luận cứ khoa học tiện cho việc tìm hiểu một
số chế định hình phạt nói riêng và pháp luật hình sự nói chung, đề xuất một số
kiến nghị cụ thể nhằm tăng cường hiệu quả hình phạt trong đấu tranh phịng
chống tội phạm, chúng tôi đã mạnh dạn đi vào nghiên cứu đề tài: “Hình phạt
trong luật hình sự Việt Nam”. Và với đề tài này nó khơng chỉ có ý nghĩa về mặt
lý luận mà cịn có ý nghĩa về mặt thực tiễn.


5
B-PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NÂNG CAO HIỆU QUẢ HÌNH
PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM.

1.1. Khái niệm chung về hình phạt
Trong lịch sử lập pháp hình sự của nước ta từ trước tới nay, khái niệm
hình phạt lần đầu tiên được quy định tại Điều 26 BLHS năm 1999 : “Hình phạt
là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc
hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong
BLHS và do tồ án quyết định”.
Từ khái niệm trên, có thể rút ra nhừng đặc điểm của hình phạt như sau:
1.1.1. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất. Hình phạt được Nhà
nước sử dụng như là công cụ hữu hiệu trong cuộc đấu tranh phịng chống tội
phạm để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội và các lợi ích hợp pháp của
cơng dân.
Tính nghiêm khắc của hình phạt thể hiện ở chỗ người bị kết án bị tước đi
những quyền tự do, tài sản, chính trị, tinh thần, thậm chí cả quyền sống. Ngồi
ra, hình phạt bao giờ cũng để lại hậu quả pháp lý là án tích cho người bị kết án.
Do đó, trừng trị là nội dung, bản chất và thuộc tính của hình phạt, khơng thừa
nhận điều này là phủ nhận một thực tế khách quan. Khi áp dụng hình phạt đối
với người phạm tội, Nhà nước một mặt đã trừng trị họ, tỏ thái độ phản ứng lên
án hành vi phạm tội và người đã thực hiện hành vi đó.
Ở mỗi chế độ khác nhau, nội dung giai cấp, tính chất và mức độ trừng trị
của hình phạt áp dụng đối với người đã xâm hại đến các điều kiện tồn tại của
Nhà nước được các Nhà nước quy định rất khác nhau. Điều này cịn phụ thuộc
vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức, tâm lý và truyền thống của mỗi
nước.


6
Ví dụ: Theo Quốc triều hình luật (Bộ luật chính thống và quan trọng nhất
của triều đại nhà Lê nước ta) thì tính chất trừng trị của hình phạt được quy định
trong Bộ luật này rất dã man hà khắc, mang tính nhục hình gây đau đớn và hạ

thấp phẩm giá danh dự, nhân phẩm của con người.
1.1.2. Hình phạt được luật hình sự quy định và do tồ án áp dụng
Hình phạt trong BLHS Việt Nam được quy định ở các phần chung và cả
phần tội phạm. Phần chung của BLHS quy định những vấn đề có tính ngun
tắc liên quan đến hình phạt như mục đích của hình phạt (Điều 27 BLHS), hệ
thống hình phạt (Điều 28 BLHS), căn cứ quyết định hình phạt (Điều 45
BLHS)....Phần các tội phạm của bộ luật hình sự quy định các loại hình phạt và
mức hình phạt cho từng loại tội phạm cụ thể.
Các dấu hiệu tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, tính trái pháp luật
của hình sự và tính có lỗi của người phạm tội ln gắn liền với tính chịu hình
phạt. Do vậy, cùng với việc xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm
thì cũng địi hỏi phải quy định loại và mức hình phạt áp dụng cho người có hành
vi phạm tội đó trong luật.
“ Trong mọi trường hợp khơng được áp dụng hình phạt đối với những
hành vi khơng được BLHS quy định là tội phạm và tất nhiên cũng không được
áp dụng một loại hình phạt nào đó nếu hình phạt ấy khơng được quy định hệ
thống hình phạt hoặc không được quy định trong chế tài của điều luật mà hành
vi bị xét xử phạt thoả mãn. Đây là đòi hỏi của nguyên tắc pháp chế XHCN”.[7173]
Điều 127 Hiến pháp năm 1992 quy định : “Toà án nhân dân tối cao, các
toà án nhân dân địa phương, các toà án quân sự và các toà án khác là những cơ
quan xét xử của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam” [8-248]. Đây là những cơ
quan có quyền nhân danh Nhà nước tuyên một người là có tội và áp dụng hình
phạt đối với họ. Ngồi tồ án khơng có cơ quan nào khác có quyền quyết định
hình phạt.
1.1.3. Hình phạt chỉ có thể áp dụng đối với người có hành vi phạm tội


7
“Một trong những nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam là trách
nhiệm hình sự chỉ đặt ra đối với cá nhân người phạm tội. Do đó hình phạt chỉ

có thể áp dụng đối với người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và bị
coi là tội phạm. Dựa trên nguyên tắc này có thể khẳng định hình phạt khơng thể
được áp dụng đối với các thành viên trong gia đình cũng như những người thân
khác của người phạm tội, thậm chí cả trong những trường hợp người phạm tội
trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật. Cũng theo nguyên tắc này, luật hình sự
Việt Nam khơng cho phép việc chấp hành hình phạt thay cho người phạm tội
cho sự chấp hành thay này hoàn tồn tự nguyện”[7- 174].
Hình phạt tịch thu tài sản cũng chỉ áp dụng đối với tài sản thuộc quyền sở
hữu của người thực hiện hành vi phạm tội mà không được phép tịch thu tài sản
thuộc quyền sở hữu của các thành viên khác trong gia đình hay những người
thân thích của người phạm tội.
Ngồi ra, hình phạt cịn có nội dung giai cấp. Nội dung này được quy định
bởi bản chất giai cấp của Nhà nước. Nhà nước sử dụng hình phạt như là cơng cụ
sắc bén để bảo vệ lợi ích của mình của tồn xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen đã
khẳng định : “ Hình phạt khơng phải là cái gì khác ngồi phương tiện để bảo vệ
mình của xã hội để chống lại sự vi phạm các điều kiện tồn tại của nó”. Như dưới
chế độ xã hội ta, nội dung giai cấp của hình phạt trong luật hình sự Việt Nam
được thể hiện như là cơng cụ để bảo vệ chế độ XHCN, quyền làm chủ tập thể
của nhân dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của cơng
dân, bảo vệ trật tự pháp luật XHCN, chống mọi hành vi phạm tội ( Điều 1 BLHS
năm 1999). Với nội dung giai cấp này, hình phạt trong luật hình sự Việt Nam đã
thể hiện bản chất dân chủ của XHCN - dân chủ với nhân dân lao động, cải tạo
giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, xây dựng Nhà nước
của dân do dân vì dân - tất cả vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng
dân chủ văn minh.
1.2. Một số căn cứ lý luận và thực tiễn nâng cao hiệu quả hình phạt.


8
Để quản lý Nhà nước và xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường

pháp chế XHCN, đáp ứng yêu cầu của cơng cuộc đổi mới địi hỏi phải có một hệ
thống pháp luật hồn chỉnh, cũng như việc tơn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành
pháp luật.
Bộ luật hình sự đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thơng qua ngày 27-6-1985 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-1986 đánh
dấu một bước tiến bộ trong lịch sử xây dựng hệ thống pháp luật đầu tiên của
Nhà nước ta. Bộ luật hình sự là một công cụ sắcss bén của Nhà nước để bảo vệ
an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp của cơng dân, đấu tranh phịng chống và phòng ngừa tội
phạm.
Qua việc nghiên cứu hiệu quả của luật hình sự nói chung và của hình phạt
nói riêng phải dựa trên một số quan điểm mang tính chất là phương pháp luận
sau đây:
Một là, xác định tính chất và các đặc điểm các quan hệ xã hội đang và sẽ
tồn tại, phát triển trong xã hội ta, để từ đó thấy được nhu cầu của xã hội đối với
việc điều chỉnh và bảo vệ pháp luật hình sự. Cần phải có quan điểm lịch sử và
biện chứng, có phương pháp tiếp cận khoa học trên cơ sở hiểu rõ tính chất và
đặc điểm của các quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của pháp luật hình sự để
xác định cho đúng mức độ cần thiết phải bảo vệ bằng hình phạt. Bởi vì, xét từ
góc độ lập pháp, vấn đề hình phạt được đặt ra trong mối liên hệ với vấn đề tội
phạm. Trên cơ sở đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi tội phạm, nhà làm luật mới xác định trách nhịêm hình sự và hình phạt đối với
hành vi đó.
Chúng ta thấy trong thời kỳ đổi mới các quan hệ xã hội rất phong phú, đa
dạng và phức tạp, thường xun biến động và địi hỏi phải có sự điều chỉnh và
bảo vệ bằng pháp luật hình sự thích hợp. Cùng với sự đổi mới về kinh tế – xã
hội thì sự cũng được Quốc hội sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với nguyên tắc của
luật hình sự như là : “Bình đẳng trước pháp luật, cá thể hố hình phạt, trách



9
nhiệm cá nhân của người có lỗi .....”. Quốc hội thông qua ngày 12- 8- 1991 và
tiếp tục sửa đổi bổ sung một số điều và được Quốc hội nước Cộng hồ XHCN
Việt Nam thơng qua ngày 21- 12- 1999.
Ví dụ: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công dân (Điều 139 BLHS
1999) trước đây quy định mức hình phạt cao nhất là 17 năm tù, sau này được
nâng lên thành mức án tử hình. Hoặc là tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản của cơng dân (Điều 140 BLHS 1999) trước đây mức cao nhất của khung 2 là
12 năm tù nay thêm khung 3 với mức hình phạt cao nhất là 20 năm tù giam.
Do sự biến đổi của tình hình kinh tế - xã hội, có một số hành vi vi phạm
pháp luật đã khơng cịn có nhu cầu phải bảo vệ bằng các biện pháp hình sự mà
phải thay thế bằng các biện pháp dân sự, hành chính hoặc các biện pháp tác
động xã hội. Thực tế cho thấy thì việc áp dụng các biện pháp khác có hiệu quả
nhanh và kịp thời hơn.
Hai là, nghiên cứu hiệu quả của hình phạt phải căn cứ vào chính sách
hình sự của nhà nước để xác định phạm vi, mức độ của các biện pháp hình sự và
hình phạt cần áp dụng đối với các hành vi phạm tội và người phạm tội. Chính
sách hình sự của Nhà nước ta được xác định tập trung tại Điều 3 BLHS năm
1999 như sau: "Mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời xử lý nhanh
chóng, công minh theo đúng luật" [3-15]. Nghiêm trị kẻ chủ mưu, cầm đầu, chỉ
huy ngoan cố chống đối, lưu manh côn đồ, tái phạm, kẻ biến chất soa đoạ, lợi
dụng chức vụ, quyền hạn của để phạm tội, kẻ phạm tội có tổ chức, cố ý gây hậu
quả nghiêm trọng. Khoan hồng đối với người tự thú thú thật thà khai báo, tố giác
đồng bọn lập công chuộc tội, ăn năn hối cải tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường
thiệt hại gây ra. Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng và đã hối cải thì
có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan Nhà nước, tổ
chức xã hội hoặc gia đình giám sát giáo dục.
Để thực hiện được chính sách hình sự đó địi hỏi phải khơng ngừng nâng
cao uy tín của hình phạt, tăng cường khả năng trừng trị, giáo dục và cải tạo của
hình phạt đối với từng loại tội cụ thể cũng như việc quyết định hình phạt đối với



10
từng loại tội cụ thể cũng như việc quyết định hình phạt đối với từng bị cáo địi
hỏi phải có qn triệt sâu sắc chính sách hình sự của Nhà nước.
Ba là, thực tiễn xét xử là hình thức sống của quy phạm pháp luật hình sự
(trong đó có hình phạt) được kiểm nghiệm và đánh giá qua thực tiễn xét xử.
Thực tiễn xét xử trong những năm qua nhìn chung là đúng người đúng tội,
đúng pháp luật, đảm bảo được tính cơng bằng và hợp lý của hình phạt. Tuy
nhiên, bên cạnh đó cũng cịn khơng ít trường hợp toà án phải lúng túng khi vận
dụng một số loại hình phạt như: cải tạo khơng giam giữ, phạt tiền, tịch thu tài
sản.... và một điều đặt ra việc áp dụng án treo tràn lan làm cho án treo mất uy tín
thực của nó.
Ví dụ: Trong 9 tháng năm 1991, các toà án đã thụ lý để xét xử sơ thẩm 82
vụ án buôn lậu, 260 bị cáo (tăng 3,5 lần so với năm 1990) trong số bị cáo bị xử
phạt tù có 117 bị cáo được hưởng án treo (chiếm tỷ lệ 65,56%) (theo số liệu Báo
cáo tổng kết của toà án nhân dân tối cao năm 1991).
Trong nhiều năm qua thực tiễn xét xử còn cho thấy trong một số khơng ít
trường hợp luật quy định hình phạt đối với một số tội cịn chưa tương xứng với
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, chưa đáp ứng được yêu
cầu đấu tranh chống và phịng ngừa tội phạm.
Ví dụ: Đối với một số tội xâm phạm sở hữu như tội cưỡng đoạt tài sản
(Điều 135), tội trộm cắp tài sản (Điều 138) trước đây nếu phạm tội trong trường
hợp nghiêm trọng cũng chỉ bị phạt tù từ 7 năm đến 20 năm tù, hiện nay được
quy định thêm mức tù chung thân.
Bốn là, nghiên cứu các vấn đề nâng cao hiệu quả hình phạt cần tìm hiểu
nghiên cứu, chọn lọc kinh nghiệm của một số nước về quy định và thực tiễn áp
dụng các loại hình phạt để trên cơ sở đó, theo phương pháp nghiên cứu so sánh
về pháp luật mà hoàn thiện chế định hình phạt trong bộ luật hình sự, nâng cao
hơn nữa hiệu quả của nó trong cơng tác đấu tranh phòng chống và phòng ngừa

tội phạm.


11
Qua nghiên cứu những quy định trong luật pháp hình sự của các nước cho
thấy trong lĩnh vực hình phạt đang nổi lên một số xu hướng sau đây:
- Đa dạng hố các biện pháp hình phạt
- Tăng cường các biện pháp tác động xã hội sau khi chấp hành xong hình
phạt để củng cố hiệu quả hình phạt.
- Thu hẹp phạm vi áp dụng hình phạt tù đi liền với việc tăng cường áp
dụng các biện pháp không phải là hình phạt tù.
Tất cả các xu hướng trên đây có ảnh hưởng tới pháp luật hình sự của nước
ta, thông qua việc chọn lọc kinh nghiệm của các nước
1. 2.1. Mục đích hình phạt
Để nghiên cứu hiệu quả của một ngành luật hay một chế định pháp luật
điều đầu tiên phải xác định rõ đó là mục đích của ngành luật, hay chế định pháp
luật đó.
Điều 27 BLHS năm 1999 của nước ta quy định: “ Hình phạt khơng chỉ
nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho
xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống XHCN, ngăn
ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt cịn nhằm giáo dục người khác tơn trọng pháp
luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm” [3-28]. Từ quy định này có thể
rút ra hình phạt có những mục đích sau đây:
1.2.2. Mục đích phịng ngừa riêng
Trước hết thể hiện ở chỗ hình phạt áp dụng đối với người phạm tội không
chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà cịn giáo dục họ trở thành người có ích
cho xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội mới.
Nội dung cơ bản của mục này chính là sự tước bỏ hạn chế những quyền
lợi và lợi ích hợp pháp theo quy định của pháp luật hịnh sự đơí với người bị áp
dụng hình phạt, “ Hình phạt trước hết thể hiện sự lên án, sự phạt của Nhà nước,

của xã hội đối với người phạm tội. Nhưng đó khơng phải là sự lên án, sự phạt
đơn thuần mà là biện pháp đặc biệt để răn đe (bằng tác động cưỡng chế nhà
nước) để giáo dục, cải tạo (giáo dục, cải tạo bằng tác động cưỡc chế Nhà nước)


12
người bị kết án ngăn ngừa họ phạm tội lại. Hình phạt cũng cịn là biện pháp đặc
biệt để hạn chế (có thể đến loại trừ ) điều kiện phạm tội lại của người bị kết án”.
Mức độ của việc tước bỏ quyền và lợi ích hợp pháp của họ phụ vào tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, vào nhân thân người phạm tội
và những tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự (Điều 45 BLHS).
Trong mục đích phịng ngừa riêng, trừng trị và cải tạo, giáo dục người phạm tội,
ngăn ngừa họ phạm tội mới là hai mục đích song song tồn tại và có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau, chỉ có thể đạt được mục đích cuối cùng và chủ yếu là cải tạo
giáo dục người phạm tội nếu hình phạt áp dùng đối với họ tương xứng với hành
vi phạm tội mà họ đã gây ra. Như vậy, có thể nói rằng trong mỗi quan hệ giữa
trừng trị và cải tạo của hình phạt thì trừng trị là mục đích nhưng đồng thời cũng
là phương tiện để đạt mục đích cuối cùng và chủ yếu của hình phạt đối với
người phạm tội là giáo dục, cải tạo họ.
1.2.3. Mục đích phịng ngừa chung
Theo luật hình sự Việt Nam thì hình phạt cịn có mục đích “Giáo dục
người khác tơn trọng pháp luật, đấu tranh phịng ngừa và chống tội phạm” [3 27, 28] (Điều 27 BLHS).
Nội dung cơ bản của mục đích phịng ngừa chung thể hiện ở việc ngăn
ngừa người khác phạm tội. Nhà nước quy định hình phạt trong BLHS và đặc
biệt khi áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, trong trường hợp cụ thể
khơng chỉ tác động trực tiếp đến chính bản thân người phạm tội mà còn tác động
đến tâm lý của các thành viên khác trong xã hội.
Đối với các thành viên khác trong xã hội hình phạt có mục đích giáo dục
và nâng cao ý thức pháp luật cho họ, động viên, khuyến khích đơng đảo quần
chúng nhân dân tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh ngăn ngừa và chống tội

phạm.
Để đạt được mục đích phịng ngừa chung của hình phạt, vấn đề đặt ra là
phải thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp như biện pháp kinh tế, biện pháp chính
trị - tư tưởng, biện pháp pháp lý ... Trong đó biện pháp tuyên truyền, giáo dục


13
pháp luật và nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân là biện pháp hết sức quan
trọng và có ý nghĩa to lớn. Mục đích phịng ngừa chung của hình phạt chỉ đạt
được kết quả tốt khi quần chúng nhân dân hiểu biết pháp luật, thấy được sự cần
thiết của việc tuân thủ pháp luật cũng như ý nghĩa xã hội của hình phạt.
Mục đích phịng ngừa riêng và phịng ngừa chung là hai mặt của thể thống
nhất (hình phạt). Chỉ coi trọng mặt này hay mặt kia đều có thể dẫn đến vi phạm
nguyên tắc XHCN khi quyết định hình phạt và làm cho mục đích của hình phạt
bị triệt tiêu.

1.3. Khái niệm, tiêu chí và các yếu tố đảm bảo hiệu quả của hình phạt
1.3.1 Khái niệm hiệu quả của Hình phạt
Hiệu quả là kết quả đạt được trong việc thực hiện mục đích đặt ra. Hiệu
quả càng cao thì kết quả đạt được càng gần với mục đích hiệu quả của một chế
định pháp luật nói chung (hay một quy phạm pháp luật nói riêng) là mức độ đạt
được mục đích của chế định (hay quy phạm) đó trong thực tiễn áp dụng. Khi nói
đến hiệu quả hình phạt tức là nói đến mức độ đạt được mục đích của hình phạt.
Chỉ trên cơ sở xác định rõ mục đích của hình phạt mói có thể đưa ra được các
tiên chí và tìm ra được các giải pháp để nâng cao hiệu quả của nó. Hiệu quả của
hình phạt là một đối tượng nghiên cứu, bao gồm tất cả các yếu tố mà trên cơ sở
đó có thể đánh giá mức độ đạt được các mục đích đặt ra cho hình phạt. Việc thực
hiện mục đích của hình phạt địi hỏi phải tiến hành đồng bộ các biện pháp tác
động lên tình hình tội phạm. Vậy thì từ góc độ hình sự tội phạm học có thể phân
chia mục đích hình phạt thành các loại khác nhau:

- Cải tạo, giáo dục phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung (mục đích trực tiếp);
- Loại trừ nguyên nhân và điều kiện phạm tội (mục đích trung gian);
- Loại trừ tội phạm (mục đích cuối cùng).


14
Theo cách phân loại này có thể nghiên cứu khái niệm hiệu quả của hình
phạt theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp tuỳ theo việc lấy mục đích nào làm cơ sở để
đánh giá. Nếu theo nghĩa hẹp thì việc nghiên cứu hiệu quả của hình phạt phải
gắn liền với mục đích cải tạo, giáo dục người phạm tội để họ trở thành những
người cơng dân có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc
của cuộc sống chung; không phạm tội mới cũng như việc giáo dục những người
khác không phạm tội và tham gia đấu tranh phòng và chống tội phạm. Nghiên
cứu hiệu quả của hình phạt theo nghĩa rộng tức là nghiên cứu vai trị của hình
phạt trong cơng tác đấu tranh hạn chế, tiến tới loại trừ tội phạm.
Tóm lại, có thể coi khái niệm hiệu quả hình phạt như là mức độ đạt được
mục đích của hình phạt, trên cơ sở sử dụng tối thiểu các yếu tố cưỡng chế, hạn
chế và loại trừ các hậu quả tiêu cực. Mức độ đạt được mục đích hình phạt càng
cao thì hiệu quả của hình phạt càng lớn.
1.3.2. Tiêu chí hiệu quả hình phạt
Tiêu chí hiệu quả hình phạt là những tiêu chuẩn để đánh giá mức độ đạt
được mục đích của hình phạt. Việc xác định tiêu chí để đánh giá hiệu quả của
hình phạt là cân thiết. Thiếu những đánh giá kết quả cụ thể không thể đưa ra
những kết luận xác thực về hệ thống hình phạt nói chung và các loại hình phạt
nói riêng. Tiêu chí dù được xác định như thế nào thì nó cũng chỉ mang tính độc
lập tương đối. Vậy có ba tiêu chí hiệu quả hình phạt sau đây:
Mục đích trực tiếp nhất của hình phạt được áp dụng là cải tạo giáo dục
người phạm tội để họ không phạm tội mới và trở thành người có ích cho xã hội.
Cho nên, việc người đã chấp hành xong hình phạt khơng phạm tội mới, khơng
tái phạm là một tiêu chí quan trọng để đánh giá hiệu quả hình phạt.

Chỉ số tái phạm là tiêu chí đánh giá tương đối chính xác hiệu quả của hình
phạt. Nhưng sự đánh giá đó chỉ có thể thực hiện được mức độ đạt được mục
đích cải tạo giáo dục người phạm tội để họ không phạm tội mới. Để xác định
được kết quả hình phạt trong việc thực hiện mục đích giáo dục phịng ngừa riêng
cùng như phịng ngừa chung có thể cắn cứ vào diễn biến của tội phạm trong


15
từng thời kỳ nhất định trên phạm vi cả nước hay ở từng địa phương. Trong
những điều kiện nhất định nếu tội phạm tăng hoặc khơng thay đổi có nghĩa là
hình phạt ít có hiệu quả. Tội phạm diễn biến theo chiều hướng giảm có nghĩa
hình phạt được áp dụng đạt được hiệu quả. Tội phạm giảm nhiều hay ít thể hiện
hình phạt đạt hiệu quả cao hay thấp.
Mức độ áp dụng hình phạt cũng được coi là một tiêu chí để đánh giá hiệu
quả của hình phạt. Hình phạt có hiệu quả cao thường được áp dụng phổ biến
hơn. Vì vậy, tính hiệu quả của hình phạt đã được xác định ngay tại thời điểm
quyết định hình phạt.
1.3.3. Những yếu tố đảm bảo hiệu quả của Hình phạt.
Hiệu quả hình phạt phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Tuỳ theo cách
phân tích hiệu quả, có thể có nhiều cách phân loại. Sau đây là một số yếu tố đảm
bảo hiệu quả hình phạt:
- Những yếu tố thuộc về phương diện luật pháp: Tức là những điều kiện
tác động ở giai đoạn xây dưng hệ thống hình phạt và từng loại hình
phạt, cũng như việc quy định cho chế tài.
- Những yếu tố tác động trong khi quyết định hình phạt (áp dụng hình phạt)
- Những yếu tố trong quá trình chấp hành hình phạt
- Những điều kiện xã hội thực tiễn liên quan đến hình phạt.
Nghiên cứu tất cả các yếu tố nói trên trong mối tương quan biện chứng
với nhau mới có thể đánh giá hiệu quả của hình phạt một cách đúng đắn.
Như vậy, qua một số căn cứ lý luận và thực tiễn nâng cao hiệu quả hình

phạt trong Luật hình sự Việt Nam có ảnh hưởng trực tiếp tới tình hình tội phạm
và việc nâng cao đó có ý nghĩa lớn về mặt lý luận và thực tiễn là mối quan tâm
hàng đầu của các nhà làm Luật.


16

CHƯƠNG 2
MỘT SỐ HÌNH PHẠT VÀ KIẾN NGHỊ CỤ THỂ
2.1. Một số hình phạt cụ thể
Hiệu quả của mỗi hình phạt nói riêng hay của cả hệ thống hình phạt nói
chung phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó yếu tố quan trọng hàng đầu là: Hình
phạt được luật hình sự quy định như thế nào. Điều 28 BLHS nước ta quy định
hệ thống hình phạt và từ Điều 29 đến Điều 40 của BLHS lần lượt quy định về
từng loại hình phạt chính.
2.1.1 Đối với hình phạt tù có thời hạn
"Trong hệ thống hình phạt của nước ta, phạt tù là loại hình phạt phổ biến
nhất nó được quy định trong tất cả các chế tài hình sự ở phần các tội phạm. Nói
một cách khác là 100% các điều luật, 100% các khung hình phạt đều có quy
định hình phạt tù. Phạt tù được quy định là chế tài lựa chọn với hình phạt khơng


17
phải tù. (Ví dụ: Với phạt tiền hoặc phạt cải tạo không giam giữ) chiếm 34%
tổng số các chế tài có trong Bộ luật hình sự hiện hành" [9 - 45].
Sự quá nghiêng về hình phạt tù trong luật hình sự nước ta dẫn đến sự
mất cân đối trong hệ thống hình phạt giữa hình phạt tù và các hình phạt khơng
phải tù, khó bảo đảm tính thống nhất nội tại giữa tội phạm và hình phạt, dẫn đến
tình trạng áp dụng phạt tù phổ biến trong thực tiễn áp dụng xét xử, làm trầm
trọng thêm tình trạng “quá tải” của hệ thống các trại cải tạo và nhà tù, và cuối

cùng là ảnh hưởng tới hiệu quả của hình phạt. Sự chật chội trong các trại cải tạo
và nhà tù hiện nay đã làm giảm khả năng giáo dục, cải tạo phạm nhân. Do đó,
cần phải cải thiện tận gốc hệ thống trại cải tạo và nhà tù ở nước ta dựa trên các
nguyên tắc cải tạo, giáo dục và nhân đạo. Khoảng cách giữa mức tối thiểu và
mức tối đa của hình phạt tù có thời hạn trong từng khung được quy định trong
BLHS còn quá rộng. Điều này cho thấy khả năng mở rộng, khả năng lựa chọn
một hình phạt tương xứng với tính chất, với mức độ nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm, phù hợp với đặc điểm nhân thân của người phạm tội cũng như yêu cầu
đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Nhưng mặt khác, khoảng cách quá xa giữa mức
tối thiểu và mức tối đa trong từng khung hình phạt tù cũng tạo ra những cơ sở về
mặt luật định cho sự tuỳ tiện, khơng thống nhất trong việc áp dụng hình phạt tù.
Trong khi trình độ cán bộ xét xử cịn rất không đồng đều, việc hướng dẫn nghiệp
vụ và tập huấn chun mơn cịn gặp nhiều khó khăn, tình hình tội phạm diễn
biến phức tạp... thì những căn cứ pháp luật bảo đảm cho phân hố trách nhiệm
hình sự và cá thể hố hình phạt càng trở nên quan trọng đối với việc xây dựng
và cũng cố một nền pháp chế dân chủ, nhân đạo và công bằng.
Xuất phát từ quan điểm đó chúng ta thấy được sự cần thiết phải xây dựng
một khung hình phạt tù có giới hạn tối thiểu và tối đa thích hợp. Nhưng đó cũng
là một vấn đề không phải đễ dàng mà cần phải nghiên cứu một cách kỹ lưỡng,
thích hợp.
2.1.2 Đối với các loại hình phạt chính khơng phải hình phạt tù
Bộ hình sự quy định ba hình phạt thuộc loại khơng phải tù, đó là cảnh cáo,
phạt tiền, cải tạo khơng giam giữ, cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội. Nhìn


18
vào quy định các hình phạt khơng phải tù (là hình phạt chính) cho thấy các hình
phạt này chưa có được vị trí xứng đáng trong hệ thống các chế tài hình sự. Và
bên cạnh đó các hình phạt khơng phải tù không được quy định dộc lập ở các chế
tài đối với các tội phạm cụ thể mà chỉ ở dạng chế tài lựa chọn với hình phạt tù.

Với các quy định như trên, về thực chất chưa mở ra khả năng áp dụng
rộng rãi các hình phạt khơng phải tù. Thực tiễn xét xử vẫn phải áp dụng phổ biến
loại biện pháp hình phạt truyền thống là phạt tù đối với cả những trường hợp
hồn tồn có thể áp dụng hình phạt khơng cần phải cách ly bị cáo khỏi xã hội.
Thực tiễn áp dụng quá nhiều án treo - biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có
điều kiện trong những năm vừa qua về phương diện nào đó đã phản ánh một xu
thế của thực tiễn là phải kiếm những biện pháp tác động hình sự đối với người
phạm tội, không cần cách ly họ với xã hội mà vẫn đạt được mục đích mong
muốn.
Cũng cần phải nhấn mạnh một điểm rằng luật hình sự của nước ta chưa
phân định một cách cụ thể những hạn chế (tước bỏ) pháp lý của hình phạt cải tạo
khơng giam giữ và của án treo (khơng phải là hình phạt) trừ quy định có thể
khấu trừ từ 5 đến 20% thu nhập của người bị phạt cải tạo không giam giữ để
sung quỹ Nhà nước. Những nội dung về giám sát, giáo dục người bị kết án cải
tạo không giam giữ và bị phạt tù nhưng cho hưởng án treo chưa được phân biệt
rõ ràng. Đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến sự suy giảm hiệu quả của cải tạo
khơng giam giữ thì thực chất là khơng cải tạo, khơng giam giữ, người được
hưởng án treo thì coi như khơng bị phạt. Những thiếu sót và hạn chế cả về
phương diện luật và áp dụng thực tiễn của cải tạo khơng giam giữ địi hỏi phải
tăng cường nội dung cưỡng chế và cụ thể hóa nội dung trong văn bản Luật.
Khi nghiên cứu vấn đề này, theo chúng tơi có hai phương án có thể giải
quyết sự bất hợp lý nêu trên trong hệ thống hình phạt của nước ta:
Một là, có thể quy định một số biện pháp hình phạt mới có tính cưỡng
chế cao hơn so với hình phạt cảnh cáo nhưng nhẹ hơn so với hình phạt cải tạo
khơng giam giữ.


19
Hai là, tăng cường và mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt tiền với tính
chất là hình phạt chính.

Trong hai giải pháp trên, giải pháp thứ nhất - tìm kiếm một loại hình phạt
mới giữ vị trí nằm giữa cảnh cáo và cải tạo không giam giữ - đang là một vấn đề
khó khăn, trong khi đó giải pháp thứ hai, theo chúng tơi hồn tồn có thể áp
dụng được.
Xung quanh hình phạt tiền được quy định trong Bộ luật hình sự và thực
tiễn áp dụng nó trong thực tiễn xét xử những năm gần đây, chúng tơi có nhận xét
là mức phạt tiền còn thấp, chưa đủ sức để răn đe và phòng ngừa tội phạm, cải
tạo giáo dục người bị án. Thực trạng này có nguyên nhân cả từ phương diện luật,
cả từ phương diện thực tiễn áp dụng. Về mặt luật định, phạt tiền chủ yếu được
quy định là hình phạt bổ sung, do vậy sức nặng chủ yếu của chế tài hình sự
thuộc về các loại hình phạt khác (phạt tù hoặc cải tạo khơng giam giữ, tù chung
thân hoặc tử hình). Vì thế phạt tiền chỉ cịn vị trí hỗ trợ cho hình phạt khác ngay
cả trong các trường hợp mà bản thân phạt tiền cần và có thể đủ sức tác động đến
người bị kết án để đạt được mục đích của hình phạt. Bên cạnh đó, phạt tiền được
quy định với giới hạn tối thiểu và tối đa rất rộng (trong nhiều trường hợp luật
không quuy định mức tối thiểu mà chỉ có mức tối đa). Do đó, mức phạt tiền
được tịa án áp dụng dù rất thấp vẫn nằm trong khuôn khổ Luật định. Hạn chế
này, theo chúng tôi cần sớm được khắc phục về mặt luật định.
2.1.3. Đối với hình phạt tù chung thân và tử hình
Tù chung thân và tử hình là những biện pháp hình phạt rất nghiêm khắc,
được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm đến an
ninh quốc gia, xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa và sở hữu của cơng dân, xâm
phạm tính mạng của cơng dân, một số tội phạm về kinh tế, tội phạm về chức vụ
và một số tội phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân.
Tù chung thân là hình phạt tù khơng có thời hạn được áp dụng đối với
người phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng nhưng chưa đến mức bị
xử phạt tử hình.


20

Trong hệ thống hình phạt Việt Nam, tù chung thân là hình phạt rất
nghiêm khắc, chỉ nhẹ hơn hình phạt tử hình. Tù chung thân tước tự do của ngưới
bị kết án, cách ly họ khỏi xã hội để giáo dục, cải tạo và phòng ngừa tội phạm.
Đặc điểm trên của tù chung thân có nội dung giống như tù có thời hạn. Tuy
nhiên, sự khác nhau cơ bản của tù chung thân và tù có thời hạn là sự tước tự do
của tù chung thân là khơng có thời hạn, nghĩa là nó có khả năng tước tự do của
người phạm tội đến hết đời. Đây là điểm thể hiện tính rất nghiêm khắc của loại
hình phạt này.
Về điều kiện áp dụng tù chung thân, Điều 34 BLHS năm 1999 quy định
người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng chưa đến mức xử phạt tử hình thì
xử phạt chung thân. Đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tịa án phải dựa
vào các căn cứ quyết định hình phạt (Điều 45 BLHS) để lựa chọn một trong ba
hình phạt: Tử hình, chung thân, tù có thời hạn (ở mức cao) để áp dụng đối với
người phạm tội với tính chất là hình phạt nặng hơn tù có thời hạn và nhẹ hơn
hình phạt tử hình, tù chung thân tạo khả năng pháp lý cho việc thực hiện đường
lối xử lý tội phạm được sát với thực tế phức tạp và đa dạng của tình hình tội
phạm. Thơng thường trong thực tiễn, hình phạt tù chung thân được áp dụng đối
với trường hợp đặc biệt nghiêm trọng mà nếu áp dụng hình phạt tù có thời hạn ở
mức tối đa vẫn cịn nhẹ nhưng nếu phạt tử hình thì chưa thật cần thiết.
Do tính chất nghiêm khắc của hình phạt tù chung thân và xuất phát từ
nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội, luật hình sự Việt Nam không
cho phép áp dụng tù chung thân đối với người chưa thành niên phạm tội.
Tử hình là hình phạt đặc biệt, có nội dung cưỡng chế nghiêm khắc nhất
tước bỏ quyền sống của người bị kết án, chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc
biệt nghiêm trọng.
Quyền sống là quyền tự nhiên của con người. Tử hình là tước bỏ quyền
sống của người bị kết án. Do vây, tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ
thống hình phạt. Khi áp dụng hình phạt tử hình đối với người phạm tội, Nhà
nước đã loại bỏ hoàn tồn sự tồn tại của họ trong xã hội vì lợi ích chung của cả



21
xã hội. Tử hình chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, gây
nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội. Nhưng tử hình khơng phải là sự trả thù của
Nhà nước mặc dù nó đã thể hiện tới mức tối đa khả năng trừng trị người phạm
tội.
Xung quanh hình phạt tử hình khơng có những ý kiến trái ngược nhau.
Trong thực tiễn và lý luận đều khẳng định sự cần thiết của tử hình trong hệ
thống hình phạt của Nhà nước ta. Điều này bắt nguồn từ yêu cầu đấu tranh
phòng chống tội phạm, từ thực tế tội phạm ở nước ta. Thực tiễn áp dụng BLHS
từ năm 1986 đến nay cũng cho thấy các trường hợp Tịa án áp dụng hình phạt tử
hình, bị cáo đều là những phần tử phạm các tội đặc biệt nguy hiểm (đa số là xâm
phạm an ninh quốc gia), có nhân thân rất xấu với những tình tiết đặc biệt tăng
nặng như: lưu manh chuyên nghiệp, tái phạm nguy hiểm, phạm tội có tổ chức,
lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội…Các bản án tử hình đều được dư luận
xã hội đồng tình do đó đã có tác dụng phòng ngừa lớn trong xã hội. Tuy nhiên,
do tác động của nhiều nguyên nhân khác nhau, tình hình tội phạm nói chung và
tình hình các tội phạm nghiêm trọng nói riêng vẫn diễn ra một cách phức tạp và
có xu hướng không giảm trong những năm gần đây ở nước ta. Số lượng các
trường hợp Tòa án tuyên phạt tử hình hàng năm vẫn cịn nhiều. Nói một cách
khác là: cường độ áp dụng hình phạt tử hình trong những năm gần đây, về cơ
bản ít thay đổi.
Cũng cần phải nói thêm rằng chính sách hình sự của Nhà nước ta thời
gian gần đây có xu hướng nghiêm khắc hơn. Điều đó được phản ánh trong Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS đã được Quốc hội thông qua ngày 12- 81991. Chỉ xét riêng hai loại hình phạt tù chung thân và tử hình thì theo Luật sửa
đổi, bổ sung (12- 8-1991) đã có ba tội được nâng hình phạt lên mức tử hình: tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 139 BLHS), tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản của công dân, tội nhận hối lộ (Điều 279 BLHS năm 1999), hai tội
được nâng mức hình phạt lên mức tù chung thân: tội tổ chức, cưỡng ép người



22
khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nuớc ngoài trái phép và tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa.
2.1.4. Hình phạt bổ sung
Hình phạt bổ sung bao gồm: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc
làm công việc nhất định; cấm cư trú; quản chế; tước một số quyền công dân; tịch
thu tài sản; phạt tiền và trục xuất (khi không áp dụng hình phạt hình phạt chính).
Hình phạt bổ sung là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước, được quy định
trong Bộ Luật hình sự do Tịa án áp dụng đối với người phạm tội nhằm mục đích
cải tạo, giáo dục và ngăn ngừa người bị kết án phạm tội mới. Ưu điểm nổi bật
của hình phạt bổ sung thể hiện ở vai trò phòng ngừa tội phạm, cũng cố kết quả
của hình phạt chính nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của hình phạt áp dụng đối
với người phạm tội. Cho nên, kết hợp đúng đắn việc áp dụng hình phạt chính và
hình phạt bổ sung đối với người phạm tội là một trong những điều kiện để đạt
được mục đích của hình phạt. Bên cạnh tác dụng phịng ngừa, hình phạt bổ sung
cịn có tác dụng trừng trị, cải tạo giáo dục người bị án. Trong một số trường hợp,
nếu so sánh một số hình phạt bổ sung với một số hình phạt chính ta thấy mức độ
nghiêm khắc của hình phạt bổ sung có khi cịn cao hơn hình phạt chính.
Ví dụ: Hình phạt tịch thu tài sản với hình phạt tiền, cấm đảm nhiệm những
chức vụ làm những nghề hoặc cơng việc nhất định với hình phạt cảnh cáo: Tuy
nhiên, xét về tổng thể thì hình phạt bổ sung ít nghiêm khắc hơn hình phạt chính.
Chính vì vậy, Luật quy định hình phạt bổ sung chỉ được áp dụng kèm theo hình
phạt chính. Hình phạt bổ sung thể hiện sự phong phú, cân đối của hệ thống hình
phạt giúp cho việc cá thể hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt được tốt hơn.
Để nâng cao hiệu quả hình phạt bổ sung trong cơng tác phịng ngừa và
phịng chống tội phạm cần làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn của một số
loại hình phạt bổ sung.
Thứ nhất, cấm cư trú. Đây là hình phạt bổ sung buộc người bị kết án
không được tạm trú hoặc thường trú ở một số địa phương nhất định. Hình phạt



23
này chỉ được áp dụng đối với những bị cáo bị xử phạt tù với thời hạn cấm cư trú
từ 1 năm đến 5 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.
Hình phạt cấm cư trú có một số điểm hạn chế sau: Khi chấp hành xong
hình phạt tù, nhà nước rất khó bố trí nơi ở mới cho người bị kết án, người bị án
gặp khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm ổn định cuộc sống. Do vậy, hình phạt
này thường được áp dụng hiệu quả thấp, để nâng cao hiệu quả hình phạt cấm cư
trú, đề nghị Nhà nước ban hành quy chế về thi hành hình phạt này, cần phân biệt
rõ nội dung, phạm vi và điều kiện áp dụng giữa hình phạt cấm cư trú và hình
phạt quản chế, khơng nên quy định là chế tài bắt buộc trong các điều khoản của
phần các tội phạm để thuận tiện cho việc vận dụng.
Thứ hai, quản chế là hình phạt bắt buộc người bị kết án phải cư trú, làm
ăn sinh sống và cải tạo ở một địa phương nhất định, dưới sự kiểm sốt, giáo dục
của chính quyền và địa phương. Hình phạt này thường được áp dụng đối với
người thực hiện các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các phần tử tái phạm, tái
phạm nguy hiểm, lưu manh chuyên nghiệp… mà việc áp dụng hình phạt tù chưa
đủ để cải tạo giáo dục họ.
Hiện nay, cịn có sự trùng lặp về nội dung giữa hình phạt quản chế và hình
phạt tước một số quyền công dân, cấm đảm nhận chức vụ, làm những nghề hoặc
những công việc nhất định.
Tước một số quyền cơng dân là hình phạt có tính chất chính trị, thường
được áp dụng đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia và một số loại tội
phạm khác với thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Bản chất và nội dung của hình phạt
này nghiêm khắc như tước quyền bầu cử, quyền ứng cử, quyền làm việc trong
các cơ quan Nhà nước, phục vụ trong các đơn vị lực lượng vũ trang, quyền đảm
đương cương vị phụ trách trong các tổ chức xã hội; nhưng lại cho phép được áp
dụng đối với người phạm các tội mà tồ án áp dụng các hình phạt chính như
cảnh cáo, cải tạo không giam dữ hoặc trong trường hợp người bị kết án được

hưởng án treo. Quy định như vậy là mâu thuẫn về nội dung không phù hợp với
bản chất của hình phạt này. Bởi lẽ cảnh cáo là hình phạt nhẹ được áp dụng đối


24
với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Cải tạo khơng
giam giữ được áp dung đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, cịn đối với
những người bị phạt tù không quá 5 năm, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhân thân
tương đối tốt, xét khơng cần cách ly khỏi xã hội thì Tồ án có thể cho hưởng án
treo mà lại bị tước một số quyền cơng dân khi hồn tồn khơng hợp lý, mâu
thuẫn.
Thứ ba, tịch thu tài sản là hình phạt bổ sung mang tính chất kinh tế và
cũng là hình phạt bổ sung có nội dung nghiêm khắc nhất. Tính nghiêm khắc của
hình phạt này thể hiện rõ ở chỗ người bị kết án có thể bị tịch thu tồn bộ hay
một phần tài sản sung quỹ Nhà nước. Hình phạt này nhằm mục đích triệt tiêu cơ
sở kinh tế hay tồn bộ các món lợi bất chính của người phạm tội. Do vậy, tịch
thu tài sản chỉ "áp dụng đối với người bị kết án về tội nghiêm trọng". Hình phạt
này có tác dụng trừng trị, giáo dục và phòng ngừa rất cao. Tuy nhiên, trong thực
tiễn do chưa nhận thức hết ý nghĩa, vai trò và tác dụng của nó nên việc áp dụng
cũng chưa đạt hiệu quả cao.
Hình phạt bổ sung có vai trị tích cực trong việc hỗ trợ cho việc đạt mục
đích của hình phạt, có tác dụng phịng ngừa việc tái phạm và loại trừ các điều
kiện phạm tội mới. Thực tế ở nước ta hiện nay hình phạt bổ sung nhìn chung
chưa đáp ứng được yêu cầu đó. Một mặt do luật quy định chưa hợp lý, chưa cụ
thể và thuận tiện cho việc áp dụng, chưa có văn bản hướng dẫn áp dụng đồng
bộ. Một số tội phạm trong Bộ luật hình sự chưa quy định hình phạt bổ sung
thích hợp, tương ứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm. Như đối
với một số tội phạm về kinh tế, một số tội phạm sở hữu, một số tội xâm phạm
trật tự quản lý hành chính, trật tự an tồn cơng cộng. Chúng tơi nghĩ rằng ngồi
hình phạt tù hoặc cải tạo khơng giam giữ là hình phạt chính, cần quy địng thêm

hình phạt tiền, cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc công việc
nhất định mà hình phạt bổ sung bắt buộc.
2.2. Một số kiến nghị cụ thể


×