Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc thái ở huyện quỳ châu tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 103 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

QUANG THỊ HỊA

GIỮ GÌN CÁC GIÁ TRỊ VĂN HĨA TRUYỀN THỐNG
CỦA DÂN TỘC THÁI Ở HUYỆN QUỲ CHÂU,
TỈNH NGHỆ AN

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Nghệ An, 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

QUANG THỊ HỊA

GIỮ GÌN CÁC GIÁ TRỊ VĂN HĨA TRUYỀN THỐNG
CỦA DÂN TỘC THÁI Ở HUYỆN QUỲ CHÂU,
TỈNH NGHỆ AN

Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Cán bộ hướng dẫn: PGS. TS. Đoàn Minh Duệ

Nghệ An, 2016




i
LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành luận văn này, tơi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu
nhà trường, các thầy giáo, cơ giáo ở các phịng ban của trường và các thầy giáo,
cô giáo bộ môn đã giảng dạy tôi trong hai năm học qua, cũng xin gửi lời cảm ơn
tới các thầy cơ giáo trong Khoa Giáo dục Chính trị - Trường Đại học Vinh, đã
nhiệt tình giúp đỡ để tơi hồn thành khóa học của mình.
Đặc biệt xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo PGS.TS.GVCC.
Đoàn Minh Duệ, người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo, đóng góp ý kiến cho tơi
trong q trình thực hiện luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn Huyện ủy Quỳ Châu, cán bộ Trung tâm Văn hóa
huyện Quỳ Châu, Bào tàng văn hóa huyện Quỳ Châu, Phịng Thống kê huyện
Quỳ Châu, UBND xã Diên Lãm, UBND xã Châu Tiến.
Cảm ơn sự cộng tác giúp đỡ của ông Vi Văn Dũng, bà Sầm Thị Hằng, ông
Vi Ngọc Chân, ông Lữ Trọng Bằng, ông Quang Văn Châu...
Xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, anh chị, bạn bè đồng nghiệp đã
khích lệ, động viên tơi trong q trình thực hiện luận văn này.
Mặc dù đã cố gắng nhưng do năng lực nghiên cứu, nguồn tài liệu hạn chế
nên chắc chắn luận văn khơng tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được
sự đóng góp ý kiến chân thành của quý thầy cô và bạn bè.
Nghệ An, tháng 8 năm 2016
Tác giả

Quang Thị Hòa


ii
MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
B. NỘI DUNG........................................................................................................ 6
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIỮ GÌN CÁC GIÁ TRỊ VĂN
HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC THÁI ....................................... 6
1.1. Một số khái niệm ............................................................................................. 6
1.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc giữ gìn các giá trị văn hóa truyền
thống ............................................................................................................ 12
1.3. Tầm quan trọng của việc giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống của
dân tộc Thái ................................................................................................. 21
Chương 2. THỰC TRẠNG GIỮ GÌN CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN
THỐNG CỦA DÂN TỘC THÁI Ở HUYỆN QUỲ CHÂU, TỈNH
NGHỆ AN ................................................................................................... 26
2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc giữ gìn các giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc Thái ở huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An ......................... 26
2.2. Thực trạng giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Thái ở
huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An .................................................................. 33
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIỮ GÌN CÁC
GIÁ TRỊ VĂN HĨA TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC THÁI Ở
HUYỆN QUỲ CHÂU, TỈNH NGHỆ AN GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ........ 67
3.1. Phương hướng giữ gìn các giá trị văn hóa của của dân tộc Thái .................. 67
3.2. Một số giải pháp nhằm giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống của dân
tộc Thái ở Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.................... 73
C. KẾT LUẬN ..................................................................................................... 86
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 88
E. PHỤ LỤC ........................................................................................................ 91


1
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Trong xu thế hội nhập và phát triển như hiện nay, việc giữ gìn các giá trị
văn hóa nói chung, các giá trị văn hóa truyền thống nói riêng đang ngày càng
được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Bởi lẽ việc giữ gìn các giá trị văn hóa
truyền thống là một nhiệm vụ tất yếu của việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Để xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân
tộc, một vấn đề rất quan trọng đặt ra là giữ bản sắc văn hoá dân tộc trong hội
nhập quốc tế. Một bài học đắt giá của một số quốc gia trên thế giới trong quá
trình hội nhập là không giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vấn đề bảo vệ các
giá trị văn hóa truyền thống và tiếp thu các giá trị văn hóa mới. Là quốc gia đi
sau nhằm hịa chung trong khơng khí hịa nhập đó chúng ta phải nhìn nhận đúng
đắn để có bước đi phù hợp, vừa hợp với xu thế vừa hợp với các điều kiện của
quốc gia, dân tộc. Hội nhập trên cơ sở kế thừa và phát huy những truyền thống
văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa
văn hóa nhân loại, biểu dương các gía trị chân, thiện, mỹ, phê phán những cái lỗi
thời, thấp kém, đấu tranh chống những cái phản văn hóa.
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em cùng chung sống.
Các dân tộc vừa có sự tương đồng trong các giá trị văn hóa, đồng thời do điều
kiện địa lý cũng như sự đa dạng về sự phát triển kinh tế, xã hội nên mỗi dân tộc
có những giá trị văn hóa đặc sắc của riêng mình, góp phần tạo nên sự phong
phú, đa dạng cho nền văn hóa dân tộc.
Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở thì đến năm 2009 dân tộc Thái
có dân số 1.550.423 người, là dân tộc có số dân đứng thứ 3 sau dân tộc Kinh và
dân tộc Tày ở Việt Nam. Trong đó, ở Nghệ An có 295.132 người, chiếm 10,1%


2
dân số toàn tỉnh và 19,0% tổng số người Thái tại VIệt Nam, chỉ đứng sau Sơn
La là 572.441 người, chiếm 36,9% tổng số người Thái tại Việt Nam.
Quỳ Châu là huyện vùng cao nằm trong vùng kinh tế Phủ Quỳ. Từ xa xưa

vùng đất này đã được coi là cái nôi của đồng bào Thái ở miền Tây Bắc Nghệ An
nói riêng và đất nước nói chung, với dân số 56.704 người (2015), là nơi sinh
sống chủ yếu của 2 dân tộc Kinh và Thái, trong đó dân tộc Thái có 43.813 người
chiếm 78,02% dân số, tổng số người Kinh là 12.337 người chiếm 21,97% dân
số. Trong dòng chảy phát triển chung của đất nước, đặc biệt là xu thế hội nhập
và phát triển như hiện nay, đồng bào Thái huyện Quỳ Châu, Nghệ An có những
bước thay đối đáng kể trên mọi mặt của đời sống xã hội. Bên cạnh đó, họ ln ý
thức được việc giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của mình, loại bỏ
những hủ tục lạc hậu và khơng ngừng giao lưu, tiếp thu, học hỏi văn hóa của các
dân tộc khác để làm phong phú thêm bản sắc của dân tộc mình.
Tuy nhiên, quá trình hội nhập đã tạo ra khơng ít thách thức, đặc biệt là sự
lai căng văn hóa của một bộ phận thế hệ trẻ làm phai nhạt dần những giá trị văn
hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, thậm chí bị lãng quên. Trước tình hình đó
cần nghiên cứu và tìm ra một số giải pháp nhằm giữ gìn tốt hơn các giá trị văn
hóa truyền thống đang có xu hướng mai một dần. Đây cũng chính là lý do tác
giả chọn vấn đề “Giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Thái ở
huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An” làm đề tài luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ
chuyên ngành Chính trị học.
Hiện nay, vấn đề dân tộc Thái nói chung và văn hóa Thái nói riêng đã
thu hút khơng nhỏ các nhà khoa học nghiên cứu. Có nhiều cơng trình nghiên
cứu, nhiều cuốn sách, báo, tạp chí đã viết về người Thái trên đất nước Việt Nam
nói chung như: Các dân tộc ít người ở Việt Nam (1978), Viện dân tộc học Việt
Nam; Đặng Nghiêm Vạn (1997), Tư liệu về lịch sử và xã hội dân tộc Thái; Lê
Ngọc Thắng (1990), Nghệ thuật trang phục người Thái, Nxb Văn hóa dân tộc;
Cầm Trọng và Phan Hữu Dật (1995), Văn hóa Thái Việt Nam, Nxb Văn hóa dân


3
tộc; Cầm Trọng (1998), Văn hóa và lịch sử người Thái ở Việt Nam, Nxb Văn
hóa dân tộc; Ngơ Đức Thịnh, Cầm Trọng (2003), Luật tục Thái ở Việt Nam, Nxb

Văn hóa dân tộc,... Các cơng trình nghiên cứu trên ở nhiều góc độ khác nhau,
giúp chúng ta hiểu về phong tục tập quán, nguồn gốc, lịch sử, hình thái kinh tế...
của người Thái.
Ở Nghệ An cũng đã có nhiều cơng trình, bài viết nghiên cứu về dân tộc
Thái: Nguyễn Đình Lộc (1993), Các dân tộc thiểu số ở Nghệ An, Nxb Nghệ An;
Vi Văn An, Góp phần tìm hiểu hai nhóm Thái Đen và Thái Trắng ở miền Tây
Nghệ An, Tạp chí Dân tộc học, số 4/2001; Trần Trí Dõi- M.Ferlus (2004), Giới
thiệu về chữ Lai Pao của người Thái Tương Dương, Nghệ An, Nxb Nghệ An;
Nguyễn Xuân Dung và Hồ Ngọc Thuyết (2001), Vài nét về đặc điểm đời sống
văn hóa dân tộc Thái ở Nghệ An, Nxb Nghệ An; PGS.TS Đoàn Minh Duệ,
Nguyễn Thị Minh (2009), Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của
dân tộc Thái ở xã Cà Tạ, Kỳ Sơn, Nghệ An, Nxb Nghệ An; Uỷ ban nhân dân tỉnh
Nghệ An (2002), Phát triển bền vững miền núi Nghệ An, Nxb Nơng nghiệp;
Qn Vi Miên (2011), Văn hóa Thái Nghệ An, Nxb Lao Động.
Đặc biệt ở huyện Qùy Châu cũng có nhiều cơng trình nghiên cứu liên
quan đến dân tộc Thái nói chung và văn hóa người Thái như: Lịch sử Đảng bộ
huyện Qùy Châu, Nxb Nghệ An, 2009; Đậu Tuấn Nam, Hệ thống các phi của
người Thái ở Quỳ Châu, Nghệ An, Tạp chí Dân tộc học, số 16/2003; Nguyễn Thị
Ni (2009), Đời sống văn hố vật chất của người Thái ở huyện Quỳ Châu
(Nghệ An), Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Việt Nam, Đại học Vinh;
Nguyễn Văn Mạnh (1990), Vài nét về tơn giáo tín ngưỡng của người Thái ở Quỳ
Châu, Nghệ Tĩnh; Trần Văn Thức (2011), Địa chí huyện Qùy Châu tỉnh Nghệ
An, Nxb Khoa học xã hội.
Những nghiên cứu khoa học trên giúp cho tôi hiểu sâu hơn về thực trạng
các giá trị truyền thống văn hóa dân tộc Thái nói chung và ở địa bàn huyện Qùy
Châu nói riêng. Đồng thời, đó là những nguồn tài liệu có giá trị cả về lý luận và


4
thực tiễn, giúp cho tác giả kế thừa và tìm ra một hướng nghiên cứu mới mà chưa

có một cơng trình nào đề cập tới một cách tồn diện.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Thái ở
huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm giữ gìn
các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc này.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận của việc giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống
của dân tộc Thái
- Làm rõ thực trạng giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc
Thái ở huyện Quỳ Châu, Nghệ An trong thời gian qua
- Đề ra một số giải pháp nhằm giữ gìn tốt hơn các giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc Thái ở huyện Quỳ Châu, Nghệ An giai đoạn hiện nay
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Luận văn nghiên cứu các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Thái ở
huyện Quỳ Châu, Nghệ An về quá trình hình thành, phát triển và cơng tác giữ
gìn các giá trị văn hóa truyền thống trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi
Đề tài điều tra khảo sát văn hóa truyền thống dân tộc Thái huyện Quỳ
Châu, tỉnh Nghệ An giai đoạn 2010- 2014
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngồi ra cịn sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp tổng hợp, so sánh;
- Phương pháp lịch sử - Lôgic;
- Phương pháp thống kê;


5
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu và xử lý thơng tin.

- Phương pháp mơ tả, giải thích
- Phương pháp điều tra, phỏng vấn
6. Đóng góp của đề tài
- Góp phần làm rõ các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Thái ở huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An.
- Đưa ra các giải pháp nhằm giữ gìn tốt hơn các giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc Thái
- Làm cơ sở dữ liệu cho đông đảo quần chúng tham khảo, đặc biệt là lớp
trẻ
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3
chương.


6
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIỮ GÌN CÁC
GIÁ TRỊ VĂN HĨA TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC THÁI
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Văn hóa
Văn hóa là một khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu
khác nhau, nó là sản phẩm sáng tạo của con người và phản ánh mối quan hệ
tương tác giữa con người với thiên nhiên và xã hội. Mối quan hệ tương tác đó
mang tính biện chứng, thể hiện rất rõ qua hàng loạt các định nghĩa về văn hóa do
các nhà khoa học đề xuất trong các cơng trình nghiên cứu.
Tại kỳ họp năm 1982 tại Mexico, UNESCO đã đưa ra định nghĩa tổng quát
coi “ Văn hóa là tổng hịa các đặc tính nổi bật về tinh thần, vật chất, trí tuệ và
tình cảm mà chúng đặc trưng cho một xã hội hay một nhóm xã hội. Nó bao gồm
không chỉ nghệ thuật và văn học mà cả lối sống, những quyền cơ bản của nhân

loại, các hệ thống giá trị, truyền thống và tín ngưỡng ”.
Trong cuốn “ Cơ sở văn hóa Việt Nam ”, GS.TS Trần Ngọc Thêm cho
rằng: Văn hóa là một hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo ra và tích lũy trong q trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con
người với môi trường tự nhiên và xã hội.
Hiện nay, theo tổ chức UNESCO thì có hơn 100 định nghĩa về văn hóa,
mỗi định nghĩa phản ánh một cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Tuy nhiên,
về cơ bản đều khẳng định văn hóa là những giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra.
Trong cuộc sống hàng ngày, văn hóa thường được hiểu là văn học, nghệ
thuật như thơ ca, mỹ thuật, sân khấu, điện ảnh. Một cách hiểu thơng thường
khác: văn hóa là cách sống bao gồm phong cách ẩm thực, trang phục, cư xử và
cả đức tin, tri thức được tiếp nhận...


7
Trong Tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thơng dụng để chỉ học
thức,lối sống. Theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai
đoạn. Trong khi theo nghĩa rộng, thì văn hóa bao gồm tất cả, từ những sản phẩm
tinh vi, hiện đại, cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống...
Theo Đại từ điển Tiếng Việt của Trung tâm Ngơn ngữ và Văn hóa Việt
Nam - Bộ Giáo dục và Đào tạo, do Nguyễn Như Ý chủ biên, Nhà xuất bản Văn
hóa – Thơng tin, xuất bản năm 1998, thì: Văn hóa là những giá trị vật chất, tinh
thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử.
Trong cuốn “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam”, PGS.TSKH Trần Ngọc
Thêm cho rằng: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong
sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội ” 33, tr.25 .
Theo Giáo sư Trần Đình Hượu, văn hóa theo nghĩa rộng nhất từ thời xã
hội nguyên thủy. Nhưng trải qua một thời gian lâu dài để bản lĩnh sáng tạo của

con người được nâng cao khi con người thốt khỏi cuộc sống mơng muội, ý thức
được ngoại cảnh, tích lũy được tri thức về nó, những kinh nghiệm chế ngự, tổ
chức đấu tranh làm chủ của nó, tạo ra sự khác biệt về thiên hướng và trình độ
giữa các cộng đồng người, nhất là khi sự phân hóa dẫn tới sự hình thành các dân
tộc, đủ sức định hình một hướng phát triển, khi có hệ tư tưởng, nền văn học
nghệ thuật, những nhân vật văn hóa, tức là khi tạo được một cái vốn văn hóa
riêng cho cộng đồng người đó thì mới bắt đầu nói đến đặc sắc dân tộc của văn
hóa, nói đến dấu ấn văn hóa, gía trị văn hóa. Giáo sư khẳng định: Văn hóa phát
triển như một dịng sơng chảy liên tục. Trên lịch trình phát triển đó có những
thời kỳ sơi động và một thời kỳ trong đó những giá trị tiêu biểu của dân tộc được
định hình, hoặc là tư tưởng, hoặc là văn học, nghệ thuật phát triển đến mức điển
phạm: văn hóa dân tộc tìm ra hướng đi vững chắc cho tương lai. Đặc sắc văn
hóa dân tộc được hình thành, bộc lộ chính ở thời kỳ đó. Càng về sau, sự giao lưu
văn hóa giữa các dân tộc càng thường xuyên, càng nhiều mặt. Cho đến thời cận


8
đại, văn hóa phát triển có quy mơ thế giới, văn hóa các dân tộc thâm nhập vào
nhau. Cho nên tìm dáng vẻ dân tộc trong văn hóa hiện đại khơng những là khó,
và đồng thời ở một số mặt nào đó có nhiều khi sắc thái dân tộc khơng phải là cái
nên đặc biệt hoan nghênh.
Trong Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa VIII) vấn đề văn hóa cũng được
Đảng ta nêu rõ: “ Trong giai đoạn cách mạng dân tộc, dân chủ, lãnh đạo sự
nghiệp văn hóa, Đảng ta đã sớm có Đề cương văn hóa (1943). Chuyển sang cách
mạng xã hội chủ nghĩa, trong các kỳ đại hội, Đảng ta đã đề cập đến đường lối
văn hóa. Đảng ta ln ln khẳng định văn hóa là một mặt trận, cách mạng tư
tưởng và văn hóa là một trong ba cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa”12, tr.12-13 .
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, có nhiều Nghị quyết, Chỉ thị quan
trọng về văn hóa, nhưng chủ yếu liên quan đến lĩnh vực văn hóa - văn nghệ.
Với Hội nghị Trung ương lần thứ 5 này, lần đầu tiên Đảng ta có một Nghị

quyết về văn hóa theo nghĩa rộng, vừa có tính định hướng chiến lược, vừa nhằm
giải quyết những vấn đề cấp bách.
Có nhiều định nghĩa về văn hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “ Vì lẽ
sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát
minh ra ngơn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học,
nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương
thức sử dụng. Tồn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hố”
26, tr.431 . Người cũng đã từng nói: Trong cơng cuộc kiến thiết nước nhà, có
bốn vấn đề cần chú ý đến, cũng phải coi là quan trọng ngang nhau: chính trị,
kinh tế, xã hội, văn hố.
Văn hóa được đề cập trong Dự thảo Nghị quyết theo nghĩa rộng nói
chung, trong đó đề cập tám lĩnh vực lớn, trong tám lĩnh vực này thì tư tưởng,
đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa được coi là những lĩnh vực quan trọng
nhất hiện nay cần đặc biệt quan tâm.


9
Như vậy, khi nói về văn hóa ta thấy có rất nhiều khái niệm. Mặc dù có
nhiều khái niệm khác nhau nhưng đều khẳng định rằng, văn hóa là hoạt động
của con người nói chung trên hai lĩnh vực vật chất và tinh thần, đồng thời tạo ra
các giá trị trên hai lĩnh vực đó. Điều này cho thấy văn hóa khơng chỉ là những
vật chất cụ thể mà cịn có cả những giá trị tinh thần vượt mọi khơng gian và thời
gian. Ở chúng tồn tại đan xen lẫn nhau, hịa quyện nhau, văn hóa vật chất là sự
vật chất hóa các giá trị tinh thần và các giá trị văn hóa tinh thần khơng phải chỉ
tồn tại dưới dạng tinh thần thuần túy mà nó được vật thể hóa dưới dạng vật chất.
1.1.2. Giá trị văn hóa
Giá trị là những sự vật, hiện tượng, quá trình hay tất cả những thứ được
con người xem là có ý nghĩa nhất định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển
của con người và xã hội. Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, mỗi dân tộc đều có
bản sắc văn hóa riêng và mỗi một nền văn hóa cũng có những giá trị riêng biệt.

Giá trị văn hóa: “là cái dùng để căn cứ vào đó mà xem xét, đánh giá, so
sánh nền văn hóa của dân tộc này với nền văn hóa của dân tộc khác, là cái để
xác định bản sắc văn hóa của dân tộc, những nét đặc thù về truyền thống, phong
tục, tập quán, lối sống của một dân tộc trên nền tảng các giá trị chân, thiện, ích,
mỹ” 30, tr.19 .
Theo PGS.TS Đồn Minh Duệ: Giá trị văn hóa là cái mà chúng ta có thể
xem như là “ mật mã di truyền xã hội", là cái cốt lõi, là những giá trị tiêu biểu
của tất cả các thành viên sống trong cộng đồng đó được tích lũy qua q trình
hoạt động của họ. Quá trình hoạt động ấy đã tạo nên những bản sắc riêng của
cộng đồng đó.
Khơng phải tất cả mọi yếu tố, sản phẩm của hoạt động cộng đồng, dân tộc
đều trở thành giá trị văn hóa, mà giá trị đó chỉ được định hình trong một giai
đoạn đỉnh điểm của sự phát triển và đồng thời vì giá trị văn hóa ngồi tính dân
tộc thì nó cịn bị tác động bởi tính lịch sử, tính nhân loại chi phối: “ Văn hóa
phát triển như một dịng sơng chảy liên tục. Trên lịch trình phát triển đó có


10
những thời kỳ sôi động và một thời kỳ trong đó những giá trị tiêu biểu của dân
tộc được định hình, hoặc là tư tưởng, hoặc là văn học, nghệ thuật phát triển đến
mức điển phạm: văn hóa dân tộc tìm ra hướng đi vững chắc cho tương lai. Đặc
sắc văn hóa dân tộc được hình thành, bộc lộ chính ở thời kỳ đó. Càng về sau, sự
giao lưu văn hóa giữa các dân tộc càng thường xuyên, càng nhiều mặt. Cho đến
thời cận đại, văn hóa phát triển có quy mơ thế giới, văn hóa các dân tộc thâm
nhập vào nhau. Cho nên tìm dáng vẻ dân tộc trong văn hóa hiện đại khơng
những là khó, và đồng thời ở một số mặt nào đó có nhiều khi sắc thái dân tộc
không phải là cái nên đặc biệt hoan nghênh” 17, tr.150 .
Nói cách khác giá trị văn hố là một hình thái của đời sống tinh thần, nó
phản ánh và kết tinh đời sống văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần của con
người.

1.1.3. Truyền thống
Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta thường hay nhắc đến cụm từ
“Truyền thống”, và trên thực tế có nhiều quan niệm khác nhau. Cách hiểu thơng
thường thì truyền thống là cái tồn tại lâu đời, xuyên suốt quá trình tồn tại và phát
triển của con người. Nó được biểu hiện trên tất cả các lĩnh vực: đạo đức, văn
hóa, giáo dục...
Theo Từ điển Tiếng Việt: “ Truyền thống là thói quen hình thành đã lâu
đời trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác”
35, tr. 1017 .
Theo Giáo sư Trần Văn Giàu: “ Truyền thống là những đức tính hay
những thói tục kéo dài nhiều thế hệ, nhiều thời kỳ lịch sử và hiện có nhiều tác
dụng, tác dụng đó có thể tích cực, cũng có thể tiêu cực” 14, tr.50 .
Giáo sư Trần Quốc Vượng cho rằng: Truyền thống như là một hệ thống
tính cách, các thế ứng xử của một tập thể (một cộng đồng), được hình thành
trong lịch sử, trong một môi trường tự nhiên và nhân văn nhất định, trở nên ổn


11
định, có thể chế hóa bằng luật hay bằng lệ và được trao truyền từ thế hệ này
sang sang thế hệ khác, để đảm bảo tính đồng nhất của một cộng đồng.
Trong mỗi thời điểm nhất định, truyền thống luôn tồn tại cả mặt tích cực
và mặt hạn chế. Hai mặt này tồn tại đan xen lẫn nhau, mâu thuẫn và xung khắc
nhau. Mặt tích cực, tiến bộ sẽ góp phần tạo nên sức mạnh thúc đẩy xã hội phát
triển hơn và tạo tiền đề cho các thế hệ mai sau noi theo, ngược lại mặt lỗi thời,
hạn chế sẽ là mảnh đất cho sự dung dưỡng, duy trì mặt bảo thủ, lạc hậu và sẽ
kìm hãm sự phát triển của xã hội. Vì vậy, khi đánh giá các giá trị chúng ta cần
nhìn nhận ở góc độ biện chứng để có cái nhìn khoa học và khách quan.
Trên cơ sở những quan điểm nêu trên, chúng ta có thể khái quát: Truyền
thống là những yếu tố của di tồn văn hóa, xã hội thể hiện trong chuẩn mực hành
vi, tư tưởng, phong tục tập quán, thói quen lối sống và cách ứng xử của cộng

đồng người được hình thành trong lịch sử và đã trở nên ổn định, được truyền từ
đời này sang đời khác và được lưu giữ lâu dài.
1.1.4. Giá trị Văn hóa truyền thống
Trong mỗi dân tộc, dù ở trình độ văn minh cao hay thấp, dù đã phát triển
hay đang phát triển thì cũng đều có những truyền thống đặc trưng của riêng
mình và do đó có hệ thống giá trị văn hóa truyền thống của riêng mình. Hệ
thống giá trị đó chính là sự kết tinh những gì tốt đẹp nhất qua các thời đại lịch sử
khác nhau của dân tộc. Nó được truyền lại cho thế hệ sau và với sự chuyển biến
thăng trầm của lịch sử sẽ được bổ sung bằng các giá trị mới.
Lịch sử phát triển văn hóa của nhân loại cho thấy, sự vận động của giá trị
và hệ giá trị có tính liên tục, chúng phát triển và biến đổi tùy thuộc vào điều kiện
tự nhiên và lịch sử - xã hội của từng quốc gia. Sự vận động và biến đổi của giá
trị được vận hành chủ yếu qua con đường sáng tạo, giao lưu và tiếp biến văn
hóa. Do đó ta phải xem xét chúng trong mối quan hệ tương tác giữa các giá trị
văn hóa truyền thống mang tính đặc thù của dân tộc với các giá trị văn hóa mang
tính phổ qt tồn nhân loại.


12
Theo Giáo sư Trần Văn Giàu: “ Giá trị truyền thống được biểu hiện là
những cái tốt, bởi vì những cái tốt mới được gọi là giá trị; mà phải là cái tốt cơ
bản, phổ biến có nhiều tác dụng cho đạo đức, cho sự hướng dẫn nhận định, đánh
giá và dẫn dắt hành động của một dân tộc thì mới mang đầy đủ ý nghĩa của khái
niệm” giá trị truyền thống” 14, tr.132 .
GS.TS. Trần Ngọc Thêm nhấn mạnh: “ Văn hóa truyền thống là những
giá trị tương đối ổn định (những kinh nghiệm tập thể) thể hiện dưới những
khn mẫu xã hội được tích lũy và tái tạo trong cộng đồng người qua không
gian và được cố định hóa dưới những phong tục tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư
luận...” 33, tr.133 .
Khi nói đến giá trị truyền thống là nói đến những truyền thống đã có sự

đánh giá, đã được thẩm định nghiêm ngặt của thời gian, đã có sự chọn lọc, sự
phân định và khẳng định ý nghĩa tích cực của chúng đối với cộng đồng trong
lịch sử nhất định. Truyền thống văn hóa có tính hai mặt nên khơng được lý
tưởng hóa mặt nào. Nếu xem các giá trị truyền thống là cái cố định, khơng biến
đổi thì sẽ dẫn đến việc bảo thủ, lạc hậu và là tác nhân ngăn cản sự tiến bộ của xã
hội. Ngược lại, nếu phủ nhận một cách sạch trơn tất cả các giá trị truyền thống
và hiện đại hóa bằng con đường hội nhập thì sẽ tự mình đánh mất đi bản sắc văn
hóa truyền thống của dân tộc, tạo tiền đề cho sự lai căng văn hóa bên ngoài một
cách thụ động.
1.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc giữ gìn các giá trị văn hóa
truyền thống
1.2.1. Sự phát triển của cách mạng khoa học công nghệ
Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trong thời kỳ tồn cầu
hố đã và đang diễn ra mạnh mẽ, tác động đến mọi quốc gia, dân tộc. Tốc độ
phát minh khoa học ngày càng gia tăng. Khoảng cách từ phát minh đến ứng
dụng rút ngắn. Sự cạnh tranh về công nghệ cao diễn ra quyết liệt. Truyền thông
về khoa học - công nghệ diễn ra sôi động. Nhiều tri thức và công nghệ mới ra


13
đời, đòi hỏi con người phải học tập thường xuyên, học tập suốt đời. Quá trình
giáo dục phải được tiến hành liên tục để người lao động có thể thích nghi được
với những đổi mới của tiến bộ khoa học - cơng nghệ.
Phát triển khoa học và cơng nghệ có tác dụng thực hiện tốt hơn nhiệm vụ
bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái, bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội
nhanh và bền vững. “Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển 2011)” nhấn mạnh: “ Khoa học và cơng nghệ
giữ vai trị then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, bảo vệ tài
nguyên và môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát
triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Phát triển khoa học và công nghệ nhằm

mục tiêu đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế tri
thức, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Phát triển đồng bộ các lĩnh vực
khoa học và công nghệ gắn với phát triển văn hố và nâng cao dân trí. Tăng
nhanh và sử dụng có hiệu quả tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước,
nghiên cứu và ứng dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học và cơng nghệ hiện
đại trên thế giới. Hình thành đồng bộ cơ chế, chính sách khuyến khích sáng tạo,
trọng dụng nhân tài và đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ”.
Khoa học và cơng nghệ khơng chỉ có ý nghĩa lớn lao trong lĩnh vực sản xuất
vật chất, mà còn là cơ sở để xây dựng nền văn hóa tinh thần của chế độ xã hội
chủ nghĩa. Sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước khơng phải chỉ là
q trình đổi mới về khoa học cơng nghệ, hiện đại hóa, thị trường hóa nền sản
xuất xã hội mà cịn là quá trình chuyển đổi về tâm lý, phong tục tập quán, lối
sống thích ứng với nhịp độ và tốc độ của xã hội công nghiệp và hội nhập kinh tế
quốc tế.
Hiện nay, khoa học và cơng nghệ đang có vai trị to lớn trong việc hình thành
nền “kinh tế tri thức” và “xã hội thông tin” , phát triển hàm lượng trí tuệ cao
trong sản xuất, dịch vụ và quản lý ở tất cả các quốc gia. Vì vậy, đầu tư cho khoa
học và công nghệ là đầu tư cơ bản để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, đầu tư


14
ngắn nhất và tiết kiệm nhất để hiện đại hóa nền sản xuất xã hội và hiện đại hóa
dân tộc. Cuộc chạy đua phát triển kinh tế - xã hội trên thế giới hiện nay thực
chất là cuộc chạy đua về khoa học và công nghệ, chạy đua nâng cao chất lượng
và hiệu quả lao động trên cơ sở hiện đại hóa nguồn nhân lực. Hiện nay khoa học
và cơng nghệ giữ vai trò then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện
đại, bảo vệ tài nguyên và môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu qủa,
tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Khoa học và công nghệ tác động đến mọi mặt đời sống của con người và nó
tác động đến văn hóa theo các hướng sau:

Thứ nhất: Khoa học và cơng nghệ là một lĩnh vực trọng yếu của một nền văn
hóa.
Các phát minh sáng chế khoa học là kết quả hoạt động sáng tạo của con
người trong các mối quan hệ tương tác giữa con người với tự nhiên, giữa con
người với xã hội. Đây là hoạt động “nhân hoá tự nhiên” bằng nhiều mức độ khác
nhau của con người. Hiện nay, cuộc cách mạng về khoa học và công nghệ đang
diễn ra mạnh mẽ với tốc độ chạy đua khủng khiếp trên phạm vi tồn cầu hố, tạo
ra những bước nhảy vọt cho con người trong những can thiệp vào các quy trình
sinh hố của tự nhiên, giúp con người có thể đạt được khát vọng hạnh phúc tốt
hơn.
Thứ hai: Khoa học và công nghệ đã và đang tăng cường khả năng truyền
dẫn, lan toả và khuyếch tán văn hố trong q trình phát triển.
Cuộc cách mạng về khoa học công nghệ đang hàng ngày hàng giờ thay
đổi tư duy nhân loại. Các thành quả khoa học công nghệ đã làm cho lồi người
xích lại gần nhau hơn để tiếp nhận những gì mới lạ đến từ ngồi lãnh thổ. Với
những thành tựu về công nghệ thông tin, phát thanh, truyền hình, internet, văn
hố nhân loại được lan toả khắp hành tinh hết sức nhanh chóng, ngồi sức tưởng
tượng của con người.


15
Thứ ba: Khoa học và công nghệ đang làm thay đổi căn bản đời sống văn
hoá của thế hệ trẻ hiện nay so với văn hoá truyền thống của dân tộc.
Khi công nghệ tự động phát triển, Internet cùng với điện thoại di động và
truyền hình vơ cùng phổ biến đã tạo ra đời sống văn hoá mới. Khái niệm không
gian và thời gian thay đổi. Quan hệ xã hội chằng chéo phức tạp hơn thế kỷ
trước. Các yếu tố văn hoá và các yếu tố phản văn hoá đan xen dữ dội. Văn hoá
cá nhân được đề cao trên các trang web riêng tư. Dường như có một kiểu văn
hố nhiều tầng bậc đang hình thành. Nghiên cứu tiếp cận các trạng thái văn hoá
của con người hiện nay có thể thuận lợi nhiều hơn so với thế kỷ trước.

Hoạt động sản xuất dây chuyền hàng loạt đã tạo ra quá nhiều sản phẩm
và tác động đến tâm lý xã hội. Đó là tâm lý tiêu dùng, tâm lý được phục vụ và
“dịch vụ” tất cả những nhu cầu cuộc sống. Người ta thay đổi lối sống, lẽ sống,
nhịp sống theo hướng nhanh dần, gấp gáp hơn. Khoa học công nghệ phát triển
với tất cả các công cụ tiện ích như: mua bán các sản phẩm trên mạng, đi lại bằng
xe máy, ô tô định vị vệ tinh, tàu hoả cao tốc, tàu thuỷ cánh ngầm, chống nóng
bằng máy lạnh, lên nhà cao tầng bằng thang máy, lên núi bằng cáp treo...
Thứ tư: Khoa học và công nghệ tác động đến sự biến đổi văn hoá.
Bước sang thế kỷ XXI, người ta đã chứng kiến cuộc cách mạng khoa học
và cơng nghệ tồn cầu đang diễn ra như vũ bão. Khoa học và công nghệ đã rút
ngắn thời gian cho các quá trình sáng tạo, sản xuất, giúp con người làm việc
nhanh chóng hơn.
Khoa học và cơng nghệ với tính hai mặt của nó tác động một cách phức
tạp đến văn hoá: vừa thúc đẩy sáng tạo phát triển, lại vừa can thiệp thô bạo và cơ
cấu bên trong của văn hoá.
Nếu con người chủ yếu dựa vào khoa học công nghệ, xa rời lao động cơ
bắp, không tập luyện (trong chờ vào thuốc và y tế hiện đại), thích lối sống
hưởng thụ, tiêu dùng thì cũng có nghĩa là văn hoá đang thay đổi từ quy luật sinh
thành của nó. Văn hố là hoạt động thực tiễn của nhân loại. Văn hoá được sinh


16
ra trong quá trình hoạt động xã hội gắn với lao động của con người. Nếu hình
thức lao động thay đổi, con người sẽ thay đổi. Vấn đề là thay đổi như thế nào.
Rõ ràng, ở một phương diện nào đó, xã hội hiện đại với sự phát triển khoa học
công nghệ đang làm thay đổi dữ dội về văn hố và con người.
Thứ năm: Khoa học và cơng nghệ tác động đến sự hình thành và phát
triển của thị trường văn hoá phẩm
Với những đột biến của khoa học và cơng nghệ, thị trường văn hố phẩm
được hình thành với sự đa dạng của các sản phẩm văn hoá đem đến cho con

người sự thay đổi rất nhiều so với quá khứ, tạo ra sự hưởng thụ văn hoá phong
phú trong cộng đồng.
Thứ sáu: Khoa học và công nghệ tạo ra bước nhảy vọt của ngành cơng
nghiệp văn hố
Khoa học công nghệ phát triển đã đem sức mạnh đến cho ngành cơng
nghiệp điện ảnh những hình ảnh và âm thanh khác xa so với thế kỷ XX. Các
lĩnh vực văn hố vui chơi giải trí, văn hố thơng tin, phát thanh, truyền hình,
thơng tin mạng tồn cầu... đang tác động mạnh mẽ đến con người và cộng đồng
xã hội, làm đổi thay văn hố một cách tồn diện và đầy bất ngờ. Nhờ khoa học
và công nghệ mà thế giới tinh thần của con người trở nên phong phú hơn bao
giờ hết, làm nên sự đa dạng văn hoá vơ cùng vơ tận.
Tóm lại, khoa học và cơng nghệ hiện nay đã tác động nhiều chiều đến sự
phát triển văn hố. Để phát huy những tác động tích cực, hạn chế những tác
động trái chiều của khoa học công nghệ, địi hỏi chúng ta phải có những nghiên
cứu sâu sắc và cập nhật về từng lĩnh vực khoa học công nghệ và vận dụng phù
hợp trong phát triển văn hoá.
1.2.2. Tác động của nền kinh tế thị trường
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta, văn hóa và kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại lẫn
nhau, trong đó kinh tế khơng thể phát triển nếu thiếu nền tảng văn hóa và văn


17
hóa khơng phải là sản phẩm thụ động của nền kinh tế. Do đó phát triển văn hóa
phải trên cơ sở kết hợp hài hòa với phát triển kinh tế.
Sự tác động của kinh tế đến văn hóa chủ yếu theo ba hướng: Tác động
cùng chiều với sự phát triển của văn hóa; tác động ngược chiều với sự phát triển
của văn hóa; Tác động cùng chiều ở khía cạnh này, lĩnh vực này song lại tác
động ngược chiều ở khía cạnh khác, lĩnh vực khác.
Văn hóa cũng tác động đến kinh tế theo ba hướng trên và sự tác động của

văn hóa đến kinh tế, dù theo hướng nào thì cũng đều cho kết quả tích cực, cho
trước mắt, đặc biệt cho lâu dài. Vì văn hóa, xét ở hàm nghĩa cơ bản nhất của nó,
là kết tinh của các hoạt động kinh tế và các hoạt động xã hội nói chung.
Trong q trình xây dựng mục tiêu, giải pháp phát triển văn hóa phải căn
cứ và hướng tới mục tiêu, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, để phát triển văn
hóa trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Còn khi xác định mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội phải đồng thời xác định mục tiêu văn hóa, hướng tới
xã hội dân chủ, cơng bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con
người. Muốn vậy, phải có chính sách đồng bộ trong phát triển kinh tế gắn với
phát triển văn hóa. Đồng thời, xây dựng chính sách văn hóa trong kinh tế để chủ
động đưa các yếu tố văn hóa thâm nhập vào các hoạt động kinh tế - xã hội.
1.2.3. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, Việt Nam đã và đang hội
nhập sâu rộng vào cộng đồng quốc tế. Xu thế quốc tế hóa khơng chỉ diễn ra
trong lĩnh vực kinh tế mà nó cịn diễn ra trong tất cả các lĩnh vực như chính trị,
pháp luật, văn hóa... Trên lĩnh vực văn hóa, văn hóa Việt Nam cũng chịu sự tác
động của quá trình ấy.
Giao lưu hội nhập văn hóa là một hiện tượng phổ biến của xã hội loài
người, là một quy luật vận động và phát triển của văn hóa. Thơng qua q trình
hội nhập văn hóa mà các dân tộc có điều kiện để học hỏi và tiếp nhận những giá
trị của nhau. Điều này rất phù hợp với quy luật vận động và phát triển của văn


18
hóa. Chính nhờ có hội nhập văn hóa mà các nước, các khu vực chậm phát triển
có cơ hội trở thành một nước phát triển trong thời gian ngắn vì kế thừa được các
giá trị của các dân tộc, các khu vực phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế là một
xu thế, đòi hỏi chúng ta phải chủ động và tích cực hội nhập. Đây là cơ hội để
chúng ta phát triển nhanh có hiệu quả, nhưng cũng là thách thức rất lớn với nước
ta trên nhiều mặt, trong đó có cả văn hóa.

Tồn cầu hóa có những mặt tích cực cơ bản là tạo điều kiện thuận lợi để
giao lưu, hội nhập văn hóa, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa thế giới,
thúc đẩy và hình thành nền kinh tế tri thức, góp phần hình thành lối sống văn
minh, hiện đại. Nhưng bên cạnh đó, tồn cầu hóa cũng có những tác động tiêu
cực là tạo nguy cơ lệ thuộc về kinh tế, văn hóa, chính trị dẫn đến các cuộc xung
đột sắc tộc, tơn giáo; các giá trị văn hóa truyền thống bị phơi phai, biến dạng;
đạo dức truyền thống bị xói mịn, lối sống thực dụng, vị kỷ, lai căng.
Hội nhập kinh tế quốc tế tác động đến văn hóa theo hai xu hướng: Một
mặt, nó “ góp phần nâng cao trình độ tư duy khoa học của xã hội công nghiệp,
thể hiện ở việc phổ biến các giá trị văn hóa cơng nghệ, văn hóa thơng tin cùng
các hoạt động và loại hình văn hóa mới phục vụ cho việc nâng cao đời sống tinh
thần của nhân dân và qua đó, góp phần làm giàu thêm, phong phú thêm các giá
trị văn hóa Việt Nam truyền thống. Mặt khác, nó cũng đặt ra trước dân tộc ta
những thách thức lớn trong việc giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống. Về phương diện này, có thể nói, thách thức lớn nhất đối với Việt
Nam là làm thế nào để các giá trị văn hóa dân tộc vừa có thể tiếp thu được các
giá trị thời đại, tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa có thể giữ được bản sắc vốn có;
tiếp tục phát triển trong sự giao lưu với cộng đồng thế giới mà khơng bị hịa tan,
khơng bị nhấn chìm vào các nền văn hóa khác hoặc trở thành “ cái bóng mờ”
của dân tộc khác, nền văn hóa khác” 28, tr.514 .
Việc kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong bối cảnh
tồn cầu hóa ở nước ta vừa có tính cấp bách, trước mắt, vừa mang tính chiến


19
lược, lâu dài nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, góp phần xây dựng nhân cách con người Việt Nam phù hợp
với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, để văn hóa thực sự là nền tảng, là động lực
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Quốc tế hóa là điều kiện, là tiền đề cho hội nhập văn hóa, chuyển giao

cơng nghệ hiện đại, liên kết trí tuệ, phát triển của các quốc gia dân tộc. Nhưng
đồng thời, quốc tế hóa cũng có thể đánh mất bản sắc dân tộc, đánh mất chủ
quyền quốc gia. Hiện nay, các thế lực thù địch đã và đang sử dụng hệ thống
truyền thơng và giao lưu, hội nhập văn hóa để thực hiện âm mưu “diễn biến hịa
bình” với mục đích nhằm xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân
ta đã lựa chọn và đang xây dựng.
Q trình hội nhập khơng phải là q trình bắt chước nước ngồi, mà
nhằm giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, cũng khơng phải chỉ
vì giữ gìn bản sắc của mình mà đóng cửa khơng chịu hội nhập. Q trình hội
nhập văn hóa đồng thời phải tiếp thu những tinh hoa của tri thức nhân loại để
làm phong phú thêm giá trị văn hóa cho mình. Vì vậy, giữ gìn và phát huy các
giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc trong xu thế toàn cầu hiện nay là một
yêu cầu tất yếu và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với chúng ta. Để tiếp tục
phát triển và khẳng định mình trong q trình tồn cầu hóa, ngồi nỗ lực tăng
trưởng kinh tế thì một nhiệm vụ quan trọng là phải kết hợp với việc xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đúng như
Đảng ta đã khẳng định: “Bản Sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững,
những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch
sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lịng u nước nồng
nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đồn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá
nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng tình nghĩa,
đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính


20
giản dị trong lối sống... Bản sắc văn hóa dân tộc cịn đậm nét cả trong hình thức
biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo” 12, tr.56 .
Giao lưu văn hóa là một vấn đề hết sức quan trọng trong q trình tồn tại
và phát triển của văn hóa dân tộc, đặc biệt trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế như hiện nay. Trong quá trình hội nhập và phát triển, chúng ta cần tiếp thu,

học hỏi các tinh hoa văn hóa bên ngồi để làm phong phú cho văn hóa dân tộc,
đồng thời giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của quê
hương, đất nước.
1.2.4. Sự du nhập của các nền văn hóa nước ngồi
Hiện nay, q trình hội nhập kinh tế và tồn cầu hóa khơng chỉ đem lại
mặt tích cực cho nền văn hóa dân tộc, bên cạnh đó cịn là nơi dung dưỡng những
mầm mống làm nhòa đi các giá trị văn hóa truyền thống. Sự du nhập của văn
hóa nước ngồi được biểu hiện trên nhiều phương diện.
Trên mặt trận tư tưởng, điều tai hại nhất là những thế lực thù địch sử dụng
các tác nhân văn hóa, văn nghệ có nội dung xấu bơi nhỏ chế độ.
Trong lối sống của nhiều bạn trẻ ngày nay thể hiện rất rõ những vấn đề
tiêu cực trong quá trình tiếp thu văn hóa nước ngồi. Đối với hơn nhân, truyền
thống tốt đẹp của dân tộc là đề cao trinh tiết của người phụ nữ, cái tình đi đơi
với cái nghĩa, tình có thể hết nhưng nghĩa thì bền chặt... Cịn bây giờ, giới trẻ
đang dậy lên những trào lưu như “sống thử”, “sống gấp”... Bên cạnh đó, thói
quen tiêu xài hoang phí và theo đuổi những lợi ích vật chất, lối sống thực dụng
là nét không đặc trưng cho con người Việt Nam cần, kiệm. Nhiều bạn trẻ lười
học tập, lười lao động lại muốn mau chóng nổi tiếng nên tự tạo “xì-căng-đan”
cho mình. Tiêu chuẩn về vẻ đẹp của người phụ nữ phương Đông truyền thống là
“công, dung, ngôn, hạnh” bị biến dạng, nhường chỗ cho sự táo bạo, phơ trương,
thậm chí thác loạn...
Trong lĩnh vực giải trí, giới trẻ đang bị cuốn hút và mải mê chạy theo
những trào lưu du nhập từ nước ngồi, thậm chí vấn đề đã lên đến mức báo


21
động. Sức trẻ cộng với tâm lý thích khám phá những điều mới lạ, bắt kịp các
trào lưu đang thịnh hành như kiểu tóc Hàn Quốc, trang phục Hàn...
Trong lĩnh vực thương mại, hàng hóa nước ngồi tràn ngập thị trường
Việt Nam, từ bánh kẹo, sữa, rượu, thuốc lá, thuốc tây cho đến hàng gia dụng,

điện tử, ô tô, xe máy,... lấn át thị trường hàng nội và lại được người dân ưa
chuộng với tâm lý sùng ngoại.
Văn hóa trang phục hiện nay ở nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số cũng
bị mai một, nhất là trong giới trẻ. Họ chỉ thích mặc âu phục, quần bị, áo phơng
hơn là mặc trang phục truyền thống tự dệt, tự may. Trong âm nhạc cũng vậy
những câu hát then, hát xẩm, ca trù, cải lương, chèo, tuồng,... không được ưa
chuộng bằng nhạc trẻ.
Văn hóa là vốn quý của quốc gia, là tài sản vô giá, là động lực của sự phát
triển. Bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống và học hỏi, tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại, đấu tranh mạnh mẽ với những ảnh hưởng tiêu cực từ
nước ngồi chính là góp phần xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh.
1.3. Tầm quan trọng của việc giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống
của dân tộc Thái
1.3.1. Tạo nên sự đa dạng của đời sống văn hóa các dân tộc trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với nhiều sắc màu văn hóa khác nhau.
Trong đó, dân tộc Thái là dân tộc có bề dày truyền thống, giữ gìn và phát huy tốt
các giá trị văn hóa truyền thống sẽ góp phần tạo nên sắc màu lung linh cho nền
văn hóa quốc gia.
Trải qua q trình di cư, tụ cư nhóm người Thái đã di cư đến các điểm
khác nhau để sinh sống: Lào, Thái Lan, Việt Nam... Trong q trình đó nhóm
người Thái đã giao lưu với nhiều luồng văn hóa khác nhau, họ vừa tiếp thu học
hỏi, vừa giữ gìn bản sắc văn hóa của riêng mình. Tuy nhiên, dưới sự tác động
của nhiều yếu tố như: Kinh tế thị trường, quốc tế hóa... đã làm cho đời sống của


×