Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về cán bộ vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ đoàn chuyên trách tỉnh bình phước hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (811.9 KB, 119 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

VŨ THANH NGỮ

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ
VÀO VIỆC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ ĐOÀN
CHUYÊN TRÁCH TỈNH BÌNH PHƯỚC HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

LONG AN - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

VŨ THANH NGỮ

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ
VÀO VIỆC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ ĐOÀN
CHUYÊN TRÁCH TỈNH BÌNH PHƯỚC HIỆN NAY

Chun ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học:

PGS. TS. BÙI VĂN DŨNG



LONG AN - 2016


2
LỜI CẢM ƠN
Với sự nỗ lực của bản thân, cùng với sự quan tâm giúp đỡ của quý Thầy,
Cô giáo và bạn bè, tơi đã hồn thành luận văn Thạc sĩ Khoa học Chính trị học.
Xin trân trọng cám ơn q Thầy giáo, Cơ giáo Khoa Giáo dục Chính trị,
Phịng Đào tạo sau Đại học - Trường Đại học Vinh, và Trường Đại học Kinh tế
Công nghiệp Long An đã giúp đỡ tơi trong q trình học tập và nghiên cứu đề
tài. Xin bày tỏ lòng biết ơn đến thầy PGS.TS. Bùi Văn Dũng - Giảng viên
Trường Đại học Vinh đã tận tình hướng dẫn và đóng góp ý kiến q báu để tơi
hồn thành luận văn này. Xin chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp đã
quan tâm, động viên tơi trong suốt thời gian học tập và hồn thành luận văn
tốt nghiệp.
Mặc dù đã rất cố gắng để hồn thành tốt nhất luận văn nhưng chắc chắn
sẽ khơng tránh khỏi những thiếu sót, tác giả rất mong nhận được sự góp ý của
q Thầy, Cơ giáo, bạn bè, đồng nghiệp.
Trân trọng cám ơn!
Tác giả

Vũ Thanh Ngữ


3
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ .................................................................................................... 1
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... 2

MỤC LỤC ......................................................................................................... 3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................... 5
A. MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 6
B. NỘI DUNG................................................................................................. 13
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VIỆC VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ CÁN BỘ.................................................................................................... 13
1.1. Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ ............................ 13
1.2. Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ Đồn ................... 28
1.3. Tính tất yếu của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác
cán bộ vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn chuyên trách............ 34
Kết luận chương 1 ....................................................................................... 40
Chương 2. THỰC TRẠNG VIỆC VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ CƠNG TÁC CÁN BỘ VÀO VIỆC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
ĐOÀN CHUYÊN TRÁCH CỦA TỈNH BÌNH PHƯỚC HIỆN NAY ........... 42
2.1. Khái quát về vị trí địa lý, điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của
tỉnh Bình Phước .................................................................................. 42
2.2. Tình hình đội ngũ cán bộ Đồn chun trách ở tỉnh Bình Phước
hiện nay ............................................................................................... 46
2.3. Kết quả và những hạn chế trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về cán bộ vào xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn chuyên trách
tỉnh Bình Phước hiện nay .................................................................... 62
Kết luận chương 2 ....................................................................................... 81


4
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ VIỆC VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ
ĐỂ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ ĐOÀN CHUYÊN TRÁCH TẠI
TỈNH BÌNH PHƯỚC HIỆN NAY ................................................................. 82
3.1. Tiếp tục học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh;

quán triệt quan điểm và nguyên tắc đúng đắn trong việc xây dựng
đội ngũ cán bộ Đoàn chuyên trách tại tỉnh Bình Phước ..................... 82
3.2. Cụ thể hóa tiêu chuẩn cán bộ Đồn chun trách tại tỉnh Bình Phước .. 85
3.3. Đổi mới công tác đánh giá, tuyển chọn, xây dựng cơ cấu cán bộ
Đoàn chuyên trách tại tỉnh Bình Phước .............................................. 89
3.4. Đổi mới cơng tác quy hoạch, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ Đoàn
chuyên trách tại tỉnh Bình Phước ........................................................ 92
3.5. Đổi mới cơng tác điều động, luân chuyển cán bộ Đoàn chuyên
trách tại tỉnh Bình Phước .................................................................... 98
3.6. Thực hiện tốt chính sách đối với cán bộ Đồn chun trách tại
tỉnh Bình Phước ................................................................................ 102
3.7. Đổi mới khâu quản lý, bố trí, sử dụng cán bộ Đồn chun trách
tại tỉnh Bình Phước ........................................................................... 104
Kết luận chương 3 ..................................................................................... 109
C. KẾT LUẬN .............................................................................................. 111
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 115


5
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BCH

:

Ban chấp hành

BTV

:


Ban thường vụ



:

Cao đẳng

ĐH

:

Đại học

TC

:

Trung cấp

THCS

:

Trung học cơ sở

THPT

:


Trung học phổ thông

ThS

:

Thạc sĩ

TNCS

:

Thanh niên cộng sản


6
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt quá trình xây dựng Đảng, V.I.Lênin đã coi trọng cán bộ và
cơng tác cán bộ. Người khẳng định đây chính là những nhân tố quyết định đi
đến thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Lịch sử đã chứng
minh, mỗi thời đại xã hội đều cần có con người vĩ đại và khơng có con người
như thế thì thời đại sẽ sáng tạo ra họ. Người khẳng định: “Trong lịch sử chưa
hề có một giai cấp nào giành được chính quyền thống trị nếu khơng đào tạo ra
được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền
phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” [36, tr.473]. Như vậy,
những người cách mạng có tính chất quyết định đến thắng lợi của sự nghiệp
cách mạng và khơng có những người cách mạng thì khơng thể có phong trào
cách mạng vững chắc được. Cán bộ có vai trị rất quan trọng với tổ chức, tổ

chức mạnh sẽ duy trì được phong trào cách mạng, thu hút được đông đảo quần
chúng tham gia; cán bộ là người lãnh đạo tổ chức, đưa phong trào đấu tranh
của quần chúng từ tự phát thành đấu tranh tự giác có tổ chức. Cán bộ phải thực
hiện tốt cơng việc của mình cũng như làm tốt cơng tác tổ chức của Đảng.
Từ thự tiễn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga vào
năm 1920, V.I.Lênin viết đã khẳng định vai trị, vị trí của thanh niên.
V.I.Lênin đã khẳng định rằng: “Nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội là một
cơng việc khó khăn, lâu dài, phức tạp, tương lai của chủ nghĩa cộng sản là
thuộc về thanh niên, thanh niên là lực lượng xung kích, đi đầu trong cơng
cuộc kiến thiết nước Nga trở thành nước xã hội chủ nghĩa mạnh nhất trên thế
giới. Chính vì vậy, mà thanh niên đã trở thành lực lượng chủ yếu không thể
thiếu được của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, nếu không lôi kéo được
thanh niên về phía mình thì cơng cuộc kiến thiết đất nước coi như đã thất bại”
[37, tr.189].


7
Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, những tư tưởng của V.I.Lênin đã
và đang trở thành kim chỉ nam cho các Đảng Cộng sản, trong đó có Đảng
Cộng sản Việt Nam kế thừa và vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo vào
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin,
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln nhấn mạnh về tầm quan trọng của cán bộ và công
tác cán bộ. Người khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” và
thanh niên là một bộ phận nòng cốt của xã hội, rường cột của dân tộc, là lực
lượng xung kích của cách mạng và là chủ nhân tương lai của đất nước. Chính
vì thế, Người đặc biệt quan tâm tới việc giáo dục, rèn luyện thế hệ trẻ nhằm
bồi dưỡng họ trở thành những con người phát triển toàn diện, là lực lượng
xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhân tố quyết định sự thành bại
của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

Xuất phát từ luận điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là rất
quan trọng và rất cần thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà trong q trình lãnh
đạo đất nước, Đảng ta ln đề cao vị trí, vai trị của thanh niên, xác định
thanh niên là lực lượng xung kích cách mạng, đấu tranh giành độc lập và
trong công cuộc đổi mới hiện nay. Trong những năm qua, Đảng ta đã ra nhiều
nghị quyết, chủ trương, chính sách về cán bộ và công tác cán bộ, về công tác
thanh niên và gần đây nhất vào ngày 25/7/2008, tại Hội nghị Trung ương bảy
khóa X, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết 25NQ/TW về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Trải qua 85 năm, cùng với sự phát triển của đất nước, tổ chức Đồn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã khơng ngừng trưởng thành, lớn mạnh,
xứng đáng là hạt nhân tích cực trong các phong trào hành động cách mạng
của tuổi trẻ Việt Nam. Việc xây dựng đội ngũ cán bộ làm cơng tác Đồn


8
chuyên trách trong hệ thống Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là một
vấn đề rất quan trọng và cấp bách trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Trung ương Đồn TNCS Hồ Chí Minh đã
xây dựng nhiều giải pháp về cơng tác cán bộ Đoàn, đặc biệt là cán bộ Đoàn
cơ sở. Tuy nhiên, trong lĩnh vực công tác cán bộ Đồn vẫn cịn nhiều lúng
túng, chưa có biện pháp tạo nguồn bổ sung cán bộ; việc tiếp nhận sử dụng cán
bộ Đoàn chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng, thiếu một chiến lược về
cán bộ Đoàn trong giai đoạn hiện nay, đồng thời chưa có nhiều chủ trương,
chính sách phù hợp và đột phá nhằm tạo ra những động lực mới về xây dựng
đội ngũ cán bộ Đoàn.
Từ thực tiễn chung đó, cơng tác Đồn và phong trào thanh thiếu nhi
tỉnh Bình Phước đang đứng trước những thách thức mới cần giải quyết, đó là:
mối quan hệ giữa chất lượng và số lượng của đội ngũ cán bộ Đoàn, nhất là đội

ngũ cán bộ chuyên trách chưa đồng đều; lề lối làm việc của cán bộ Đoàn, sự
chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh Đoàn đối với các cơ sở Đồn trực thuộc
chưa đáp ứng được với địi hỏi ngày càng cao về nhiệm vụ chính trị và nhu
cầu phong phú của đoàn viên, thanh niên; sự mâu thuẫn giữa tốc độ phát triển
ngày càng cao của công tác Đồn và sự trì trệ trong cơng tác quy hoạch cán
bộ Đoàn các cấp. Cán bộ Đoàn chuyên trách ít được đào tạo cơ bản, phần lớn
làm việc chủ yếu dựa vào sự nhiệt tình. Cơng tác đánh giá, tuyển chọn và sử
dụng cán bộ chưa nhất quán, thiếu quy định cụ thể. Bên cạnh đó chế độ chính
sách đối với cán bộ Đoàn chưa thu hút và tập hợp được những tài năng trẻ vào
hoạt động trong hệ thống chính trị xã hội nhất là đối với cơng tác Đồn.
Để giải quyết tốt những mâu thuẫn đó, cần tìm ra những giải pháp khả
thi, thống nhất và đồng bộ nhằm phát huy sức mạnh của tổ chức Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh; mặt khác, cần tăng cường sự chỉ đạo, lãnh đạo
của Đoàn cấp trên, của cấp ủy Đảng nhằm tiếp tục đổi mới nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ Đoàn cho phù hợp với tình hình nhiệm vụ trong giai


9
đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh, tạo nguồn cán bộ trẻ phục vụ cho
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Xuất phát từ tình hình thực tế nêu trên, tôi chọn đề tài:“Vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ Đồn chun
trách tỉnh Bình Phước hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Khoa học
Chính trị.
Hiện nay, nước ta đang bước vào quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng
với thế và lực mới song cũng đang gặp phải những khó khăn thách thức về
cán bộ và công tác cán bộ để thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới toàn diện
do Đảng khởi xướng. Trước tình hình đó tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về cán bộ đang được Đảng và Nhà nước ta áp dụng sâu sắc. Cho đến nay, đã
có nhiều cơng trình được cơng bố với những mức độ thể hiện khác nhau,

trong đó có những cơng trình liên quan trực tiếp đến đề tài như: Tư tưởng Hồ
Chí Minh về cán bộ, của tác giả Đặng Xuân Kỳ (1995), Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội; Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ của Bùi
Đình Phong, Nxb Lao động, Hà Nội, 2002. Trong các cơng trình trên, tác giả
Đặng Xn Kỳ và tác giả Bùi Đình Phong đã đề cập các vấn đề cơ bản và có
tính hệ thống theo chủ đề của tác phẩm. Các tác giả đã kiến giải khá toàn diện
những vấn đề cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và cơng tác cán
bộ. Các cơng trình cũng đề cập nhiều vấn đề có tính phương pháp luận để
xem xét và xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay dưới ánh sáng tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Bên cạnh đó có nhiều tác giả đã nghiên cứu để làm luận văn tốt
nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Tư tưởng Hồ Chí Minh như: “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về công tác cán bộ với việc nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Thanh Hóa hiện nay” của Bùi Khắc Hằng,
2004, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội; Luận văn thạc sĩ
chuyên ngành Tư tưởng Hồ Chí Minh: “Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về


10
cán bộ vào việc đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hưng Yên” của Lê Thị Hương Lan,
2006, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Các luận văn có
mức độ rộng hẹp khác nhau nhưng đã thể hiện cách tiếp cận các nội dung cơ
bản tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ; đã thể hiện hướng
vận dụng những tư tưởng trên của Người vào nâng cao năng lực và phương
pháp lãnh đạo, cũng như phong cách công tác cho đội ngũ cán bộ một cấp
nhất định và vào xây dựng đội ngũ cán bộ cho một ngành, một giới nhất
định ở một địa phương.
Ngoài ra, cịn có nhiều bài báo, tạp chí, sách tham khảo đề cập đến vấn
đề này. Tiêu biểu như: Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên của

Đồn Nam Đàn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Hồ Chí Minh về công tác
cán bộ của tập thể tác giả Nguyễn Vũ - Nguyễn Thái Anh, Nxb Thanh Niên,
Hà Nội; Về đánh giá, quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện
nay của tác giả Nguyễn Trọng Điều cơng bố trên Tạp chí Cộng sản… Các tác
giả đã bàn đến những quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về thanh niên,
giáo dục thanh niên; quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ, bồi
dưỡng cán bộ quản lý, đánh giá cán bộ; việc đào tạo và luân chuyển cán bộ
hiện nay…
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một cơng trình nào nghiên cứu
“Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ vào việc xây dựng đội ngũ cán
bộ Đoàn chuyên trách tỉnh Bình Phước hiện nay”. Những cơng trình đi trước
là những nguồn tư liệu và gợi mở quý giúp tác giả tiếp thu có chọn lọc để
phục vụ cho luận văn của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận việc vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và phân tích thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về cán bộ vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn chuyên trách tỉnh


11
Bình Phước trong thời gian qua, mục đích nghiên cứu của luận văn là đề xuất
các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về cán bộ để xây dựng đội ngũ cán bộ Đồn chun trách tại tỉnh Bình
Phước trong giai đoạn hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận văn tập trung làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và cơng
tác cán bộ Đồn;
- Phân tích thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ vào
việc xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn chuyên trách tỉnh Bình Phước trong thời
gian qua;

- Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ để xây dựng đội ngũ cán bộ Đồn chun trách
tại tỉnh Bình Phước trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và việc
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ trong cơng tác cán xây dựng đội
ngũ cán bộ Đồn chun trách tại tỉnh Bình Phước.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung nghiên cứu sự vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ làm
công tác Đoàn chuyên trách từ cấp xã, phường, thị trấn đến cấp huyện, thị xã
và cấp tỉnh tại Bình Phước trong thời gian từ năm 2010 đến năm 2015.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống quan điểm của Đảng và Nhà nước về cán
bộ và công tác cán bộ.


12
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp lịch sử - lôgic.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp quan sát, thu thập thơng tin…
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề cơ bản trong
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ nói chung và cán bộ Đồn
chun trách nói riêng.

- Làm rõ thực trạng cơng tác xây dựng đội ngũ cán bộ Đồn chun
trách theo tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ tại tỉnh Bình Phước hiện nay.
- Cung cấp những luận cứ khoa học để Ban Thường vụ Tỉnh Đoàn và
cấp ủy các cấp đề ra các giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn
chuyên trách đáp ứng yêu cầu cơng tác trong tình hình hiện nay.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho đội ngũ cán bộ Đồn
trong cơng tác của mình; cho học viên và sinh viên đang theo học ngành
Chính trị học.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu gồm 3 chương, 13 tiết.


13
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VIỆC VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ CÁN BỘ
1.1. Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
1.1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về cán bộ
Nói đến cán bộ là nói đến một lớp người mới, gắn bó mật thiết với nhân
dân, gần gũi với quần chúng. Khái niệm cán bộ có nhiều cách hiểu với phạm
vi rộng hẹp và ở từng nước khác nhau. Trong đời sống xã hội, theo cách hiểu
thông thường, cán bộ được coi là tất cả những người thoát ly, làm việc trong
các cơ quan Đảng, Nhà nước, Đoàn thể, quân đội được hưởng lương. Trong
Từ điển tiếng Việt, khái niệm cán bộ được định nghĩa là: “Người làm cơng tác
có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan Nhà nước (như cán bộ nhà nước, cán
bộ khoa học, cán bộ chính trị), người làm cơng tác có chức vụ trong cơ quan,
một tổ chức, phân biệt với người thường khơng có chức vụ” [43; tr.15].
Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh ln ln chú

trọng đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ để có đủ sức mạnh hồn thành sự
nghiệp vẻ vang của Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và cơng tác cán
bộ có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Theo Người, đầu
tư cho công tác cán bộ là sự đầu tư có lãi nhất. Người cho rằng cán bộ là tiền
vốn của đồn thể. Có vốn mới làm ra lãi, khơng có cán bộ tốt thì hỏng việc
tức là lỗ vốn. Bất cứ chính sách, cơng tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành cơng.
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh coi vấn đề cán bộ là một trong những
vấn đề then chốt quyết định đến sự thành bại của cách mạng, là gốc của công
việc và là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, khơng chạy
thì động cơ dù tốt, dù chạy tồn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người
đem chính sách của Chính phủ, của Đồn thể thi hành trong nhân dân, nếu


14
cán bộ dở thì chính sách hay cũng khơng thể thực hiện được. Trong tác phẩm
Sửa đổi lối làm việc (1948) Hồ Chí Minh viết: “Cán bộ là những người đem
chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi
hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính
phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng” [28, tr.269]. Từ quan điểm đó cho
thấy người cán bộ cách mạng phải là người ln giữ chủ nghĩa cho vững, ít
ham muốn về vật chất, suốt đời hy sinh cho sự nghiệp cách mạng, sẵn sàng hy
sinh tất cả cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và nhân loại. Đó chính là những
người biết phân biệt giữa thiện và ác, giữa chính và tà và phải thực hiện
nghiêm túc đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư, một
lịng vì nước, vì dân.
Như vậy, Hồ Chí Minh cho ta thấy một khái niệm cán bộ mà với nghĩa
đó người cán bộ thể hiện trong bốn mối quan hệ. Một là, đối với đường lối
chính sách; hai là, đối với tổ chức (cơ quan lãnh đạo, cơ quan quản lý); ba là,
đối với công việc; bốn là, đối với dân chúng. Người cán bộ nào cũng bị ràng
buộc bởi bốn mối quan hệ đó và phải hồn thành được nhiệm vụ do các mối

quan hệ đó địi hỏi. Bốn mối quan hệ này cho tới nay vẫn đòi hỏi mọi cán bộ,
công chức phải thực hiện tốt. Với quan điểm đó, trong suốt q trình làm cách
mạng của mình, Hồ Chí Minh ln ln chú trọng đến cơng tác cán bộ, từ
đánh giá, lựa chọn, huấn luyện, sử dụng, đãi ngộ. Từ khi thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam từ năm 1930 trở đi, Hồ Chí Minh ln ln chú ý huấn
luyện và xây dựng lực lượng cán bộ, cho nên Đảng đã lãnh đạo thành công
Cách mạng tháng Tám năm 1945, lãnh đạo thắng lợi hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
1.1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trị của cán bộ
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, bất cứ giai cấp và chính đảng nào muốn
giành và giữ được chính quyền nhà nước thì trước hết phải có được một đội
ngũ những con người làm đầu tàu, nòng cốt. Giai cấp vơ sản và chính đảng


15
của mình cũng vậy, phải đào tạo được đội ngũ cán bộ trung thành, đáp ứng
được nhiệm vụ cách mạng; đó là đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp. C.Mác đã
khẳng định “muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng
lực lượng thực tiễn” [24, tr.181], và V.I.Lênin chỉ ra: “Trong lịch sử chưa hề
có một giai cấp nào giành được quyền thống trị nếu không đào tạo ra được
trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong
có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” [37, tr.473]; vì thế, theo
Lênin với bất kỳ đảng cầm quyền nào đều có hai vấn đề hệ trọng là đường
lối chính trị và vấn đề cán bộ, trong đó mấu chốt là vấn đề con người, vấn đề
lựa chọn con người.
Kế thừa những quan điểm đó của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhận thức rõ
một cách sâu sắc vị trí, vai trị của người cán bộ, Hồ Chí Minh đã giành sự
quan tâm đặc biệt đến vấn đề này, tìm cách giải quyết một cách linh hoạt và
tồn diện vấn đề đó phù hợp với điều kiện thực tế của cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh cho rằng: “Mn việc thành cơng hoặc thất bại, đều do cán bộ

tốt hoặc kém” [28, tr.240].
Hồ Chí Minh hiểu rõ muốn tổ chức cơng việc được tốt thì rất cần có
người cán bộ có tài, có đức. Cán bộ khơng chỉ là yếu tố quyết định chất lượng
của chính sách, đường lối, mà cịn đóng vai trị hết sức quan trọng trong việc
thực thi chính sách đường lối đó, đặc biệt là vai trị gương mẫu, đầu tàu trong
thực hiện. Qua đó thấy được rằng Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề cán bộ ở một vị
trí có tính chất quyết định. Cũng cần phải thấy rằng khi bàn về vai trị, vị trí
và tầm quan trọng của vấn đề cán bộ, Hồ Chí Minh đặt cán bộ trong sự tổng
hòa các mối quan hệ đa chiều. Khi coi cán bộ là cái gốc của mọi cơng việc,
Hồ Chí Minh cho thấy khơng có cán bộ thì mọi cơng việc khơng thể hồn
thành. Nhưng Hồ Chí Minh khơng chỉ dừng lại ở đó, ở chỗ có hay khơng có
cán bộ để cho cơng việc mà Người ln tìm đến điểm gốc của vấn đề là chất
lượng cán bộ để từ đó mới khẳng định được một điều mọi việc thành công


16
hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém. Như vậy, cán bộ chính là cái dây
chuyền trong cỗ máy liên hồn, có nhiệm vụ vừa tạo đà, vừa kết nối sự vận
hành của cỗ máy ấy; để từ đó Hồ Chí Minh địi hỏi người cán bộ phải là cán
bộ tốt, để từ nguồn “tiền vốn” ấy mới làm ra được lãi; bởi thế nếu có cán bộ
tốt thì thành cơng, tức “có lãi”, cịn nếu khơng có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức
là “lỗ vốn”. Trong q trình xây dựng Đảng, cơng tác cán bộ là một trong
những cơng tác chiếm vị trí quan trọng hàng đầu, có vai trị quyết định thành
cơng tới tồn bộ công tác xây dựng lực lượng cách mạng của Đảng cộng sản
Việt Nam. Khi nào, nơi nào làm tốt công tác cán bộ thì khi đó, nơi đó cách
mạng sẽ có nhiều thuận lợi và giành được thắng lợi và ngược lại. Với quan
điểm đó, cả cuộc đời mình, Hồ Chí Minh ln ln chú trọng đến cơng tác
cán bộ từ việc lựa chọn, huấn luyện, rèn luyện, sử dụng, đánh giá và thực hiện
các chính sách đãi ngộ.
Hồ Chí Minh coi công tác cán bộ cũng như việc đào tạo nhân tài là

trọng yếu và rất cần thiết. Người xác định đội ngũ cán bộ và tổ chức có mối
liên hệ chặt chẽ với nhau. Cán bộ và đội ngũ cán bộ là tế bào tạo nên tổ chức.
Cán bộ tốt sẽ làm cho tổ chức trong sạch, vững mạnh. Muốn có đội ngũ cán
bộ tốt, cán bộ giỏi, thì phải có tổ chức vững mạnh. Muốn tạo ra trong hàng
ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên tiến đủ khả năng tổ
chức và lãnh đạo phong trào thì phải chăm lo tiến hành cơng tác cán bộ.
Có tổ chức vững mạnh, làm tốt cơng tác cán bộ sẽ hạn chế và sửa chữa
những khuyết điểm, giúp đỡ phát huy những ưu điểm của cán bộ, nhân sức
mạnh của cán bộ lên. Như vậy, nếu xây dựng đội ngũ cán bộ tốt, cán bộ giỏi
thì chính họ sẽ là hạt nhân xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ mới, những
người thật sự có đức, có tài, tạo niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của
Đảng, Nhà nước và chế độ. Ngược lại, nếu cơng tác cán bộ trì trệ, tổ chức
lỏng lẻo thì cán bộ cũng khơng có điều kiện phát triển, dễ làm cho cán bộ
hoang mang, không phát huy hết tác dụng.


17
Theo Hồ Chí Minh, trong cơng tác cán bộ có các vấn đề lớn có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, đó là “hiểu biết cán bộ, khéo dùng cán bộ, cất nhắc
cán bộ, thương yêu cán bộ, phê bình cán bộ” [28, tr.277]. Để có cán bộ tốt,
đáp ứng được nhiệm vụ cách mạng mỗi giai đoạn, công tác cán bộ có vị trí
quyết định. Hồ Chí Minh là người nêu gương trong việc hoạch định đường
lối, chính sách vừa nguyên tắc, vừa linh hoạt trong xây dựng đội ngũ cán bộ.
Chất lượng cán bộ phản ánh toàn bộ chất lượng cao hay thấp, tốt hay kém của
công tác cán bộ. Nếu như tất cả các khâu: phát hiện, lựa chọn, đào tạo, bồi
dưỡng, cất nhắc, đề bạt, bố trí, kiểm tra, theo dõi, giúp đỡ… đều làm tốt thì
nhất định sẽ có đội ngũ cán bộ chất lượng tốt. Chỉ cần một trong những khâu
đó bị xem nhẹ, làm không đến nơi đến chốn sẽ khiến cho chất lượng đội ngũ
cán bộ kém đi.
Tóm lại, cơng tác cán bộ giữ vai trị trọng yếu. Thực hiện tốt cơng tác

cán bộ là sự chủ động tạo ra một đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
của Đảng trong từng thời kỳ cách mạng. Đội ngũ cán bộ chỉ có thể xứng đáng,
đảm đương được vai trị của mình khi thật trong sạch, vững mạnh, tồn diện
và đồng bộ. Điều này phụ thuộc rất lớn ở chất lượng cơng tác cán bộ. Cơng
tác cán bộ có đúng đắn và hiệu quả thì mới hình thành được đội ngũ cán bộ
giỏi, cán bộ tốt, nhiệm vụ cách mạng mới được hồn thành. Vì vậy, chăm lo
cơng tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch, vững mạnh, toàn diện
và đồng bộ là vấn đề mấu chốt trong tồn bộ sự nghiệp cách mạng, là cơng
việc gốc của Đảng.
1.1.3. Quan niệm của Hồ Chí Minh về tiêu chuẩn cán bộ
Tiêu chuẩn cán bộ là vấn đề rất quan trọng trong cơng tác cán bộ. Đó là
cơ sở để tiến hành tổ chức, xem xét, đánh giá, lựa chọn, bố trí sắp xếp và sử
dụng cán bộ; đó cũng là cơ sở để bản thân mỗi người cán bộ phấn đấu, tự rèn
luyện, hồn thiện mình. Chủ nghĩa Mác - Lênin địi hỏi cán bộ phải là người
“Có nhiều trí tuệ hơn một chút, nhiều sự phân minh trong tư tưởng hơn một


18
chút… và kiến thức rộng” [25, tr.389], từ đó yêu cầu người cán bộ “không
nấp sau một chế độ quan liêu giấy tờ, không ngại thừa nhận những sai lầm
của mình bằng cách sửa chữa những sai lầm ấy” [23, tr.35]. Trên cơ sở quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vị trí, vai trò
của người cán bộ, đồng thời cũng đòi hỏi ở người cán bộ phải có những tiêu
chuẩn nhất định, phải tự giác rèn luyện mình về mọi mặt, khơng ngừng nâng
cao phẩm chất, năng lực để xứng đáng với vị trí, vai trị của mình. Đưa ra
những tiêu chuẩn đó đối với cán bộ là Hồ Chí Minh xuất phát từ những yêu
cầu khách quan của cách mạng chứ khơng phải xuất phát từ ý chí chủ quan
của mình. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tiêu chuẩn của cán bộ mang tính tồn
diện và đầy đủ, gồm:
Thứ nhất, người cán bộ phải có đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh quan

tâm trước hết ở người cán bộ cách mạng là vấn đề đạo đức và cho rằng, đạo
đức chính là cái gốc quan trọng hàng đầu của người cách mạng “Người cách
mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng khơng lãnh
đạo được nhân dân” [28, tr.253]. Điều này cho thấy đạo đức là hết sức cần
thiết cho tất cả mọi người, và đặc biệt cần thiết cho người cán bộ. Hồ Chí
Minh đòi hỏi cán bộ phải giữ được đạo đức cách mạng, đó mới là người cán
bộ chân chính. Chỉ khi có đầy đủ đạo đức cách mạng thì cán bộ mới có đủ
điều kiện làm cách mạng. Nội dung đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ
Chí Minh được thể hiện một cách dễ hiểu, thiết thực nhưng cũng đầy đủ và
tồn diện. Tiêu chí đạo đức người cán bộ cách mạng được Hồ Chí Minh chỉ ra
hết sức cụ thể, đó là mỗi người cán bộ phải hội tụ đủ các phẩm chất cần,
kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư. Mỗi người cán bộ phải giữ bốn đức tính đó
để khơng trở nên hủ bại, khơng biến thành sâu mọt của nhân dân. Hồ Chí
Minh cịn chỉ ra rằng đạo đức cách mạng đòi hỏi người cán bộ phải trung
thành với Đảng, trung thành với Tổ quốc, đồng thời đặt mình trong mối quan
hệ với chính mình, với đồng đội, với cơng việc, với nhân dân, với đồn thể
một cách hài hòa.


19
Điểm mấu chốt trong nâng cao đạo đức cách mạng theo Người là phải
chống và quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Người chỉ rõ những người mắc bệnh
chủ nghĩa cá nhân việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết, họ
khơng vì mọi người mà “chỉ muốn mọi người vì mình”. Chính chủ nghĩa cá
nhân đã sinh ra các biểu hiện xấu xa lỗi thời như công thần, kiêu ngạo, kèn
cựa, địa vị, quyền hành, tham ô, tự cao, tự đại, coi thường tập thể... Người yêu
cầu cán bộ phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân bồi dưỡng tinh thần
đồn kết, tính tổ chức và kỷ luật nâng cao đạo đức cách mạng.
Như vậy, vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh coi là nền tảng, là cái gốc
của người cán bộ cách mạng. Tư tưởng ấy của Hồ Chí Minh trước sau là nhất

quán, thể hiện những phẩm chất cơ bản: Trung với nước, hiếu với dân, người
cán bộ phải là đầy tớ của nhân dân, dũng cảm hy sinh, khơng sợ khó khăn, gian
khổ, gạt bỏ lợi ích cá nhân để phục tùng lợi ích tập thể, khiêm tốn học hỏi,
khơng tự cao, tự đại..., cần kiệm liêm chính và tinh thần đồn kết hữu nghị.
Thứ hai, người cán bộ phải có năng lực toàn diện. Chú trọng và đáng
giá rất cao vai trò của đạo đức đối với người cán bộ, Hồ Chí Minh cũng địi
hỏi người cán bộ phải thường xun nâng cao trình độ, năng lực tổ chức thực
hành để hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Năng lực đầu tiên mà Hồ Chí
Minh địi hỏi ở người cán bộ cách mạng là năng lực lãnh đạo, quản lý, là khả
năng tổ chức động viên quần chúng thực hiện tốt đường lối, chủ chương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Vì cán bộ chính là cầu nối, là
người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ đến với nhân dân, vì vậy,
người cán bộ phải có năng lực này. Để tuyên truyền thực hiện tốt đường lối
của Đảng và Nhà nước đến với quần chúng, đòi hỏi cán bộ phải có năng lực
thực hành dân chủ, phải có mối liên hệ mật thiết với quần chúng, tin ở quần
chúng và học hỏi ở chính quần chúng. Cùng với đó người cán bộ phải có năng
lực tổ chức thực hành. Năng lực đó được thể hiện ở những điểm là: quyết
định vấn đề một cách cho đúng, tổ chức thi hành cho đúng và tổ chức kiểm


20
soát cho đúng. Để quyết định vấn đề một cách cho đúng cần phải có năng lực,
trí tuệ, nắm được thông tin và xử lý thông tin, đưa ra phương án để lựa chọn,
quyết định.
Thứ ba, người cán bộ phải có trình độ lý luận. Với Hồ Chí Minh: “Lý
luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri
thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong q trình lịch sử” [31, tr.497]. Vì
vậy, lý luận là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn; kém lý luận thì gặp cơng
việc khơng biết xem xét cho rõ, cân nhắc cho đúng, xử trí cho khéo, khơng
thấy rõ điều kiện khách quan, chỉ làm theo suy nghĩ chủ quan, nên thường thất

bại; vì thế người cán bộ phải học tập, rèn luyện để khơng ngừng nâng cao
trình độ lý luận. Nhưng cũng phải tránh tình trạng lý luận sng, khơng áp
dụng được vào thực tiễn. Để nâng cao lý luận, phải thường xuyên tổng kết
thực tiễn, mổ xẻ xem xét kỹ càng thực tiễn, “để làm phong phú thêm lý luận
bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn” [31, tr.497]. Người cán bộ
nâng cao lý luận khơng có nghĩa là thuộc lịng lý luận mà phải khái qt, tìm
ra quy luật của vấn đề, làm phong phú lý luận bằng những kết luận mới rút ra
từ trong thực tiễn. Đồng thời cũng đòi hỏi cán bộ tự giác xem học tập lý luận
là một nhiệm vụ phải hoàn thành.
Cán bộ đảng viên nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý phải học hỏi nắm chắc
am hiểu lý luận Mác - Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi lý luận, coi chủ nghĩa
Mác - Lênin là “mặt trời soi sáng”, là “cẩm nang thần kỳ”, là kim chỉ nam cho
cách mạng và nhân dân ta đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Người
cán bộ mà không hiểu, không nắm được lý luận thì chẳng khác nào “người mù
đi trong đêm”. Do vậy, yêu cầu đặt ra nhất thiết cán bộ, đảng viên phải học và
nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin, dùng lập trường quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin mà vận dụng vào thực tiễn, tổng kết kinh nghiệm.
Thứ tư, về phong cách của người cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn
dặn người cán bộ cách mạng “lý luận và thực hành phải luôn luôn đi đôi với


21
nhau” [28, tr.267]. Người cán bộ làm việc theo phong cách gắn tính Đảng với
tính khoa học, có phong cách làm việc dân chủ, tập thể. Đây là đặc trưng phản
ánh nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, mà người cán bộ cần ln gắn với tổ chức
Đảng và có trọng trách trong tập thể lãnh đạo. Sức mạnh và trí tuệ của người
cán bộ gắn với tập thể, người cán bộ phải có phong cách làm việc dân chủ, tập
thể mới quy tụ và phát huy được sức mạnh, trí tuệ của tập thể đồng thời phải
có tính quyết đốn và tinh thần trách nhiệm cao. Khi người cán bộ có ý thức
và phong cách làm việc tập thể, biết tạo ra bầu khơng khí dân chủ, biết lắng

nghe ý kiến tập thể thì sẽ huy động được sức mạnh tập thể. Mặt khác, người
cán bộ phải có phong cách làm việc sâu sát, tổ chức sự thi hành cho đúng,
phải tổ chức kiểm soát đúng đồng thời người cán bộ phải có phong cách làm
việc nhất quán giữa lời nói đi đơi với việc làm, lý luận gắn với thực tiễn; lý
luận mà không gắn thực tiễn là lý luận sng, thực tiễn khơng có lý luận là
thực tiễn mù qng, nói phải đi đơi với làm, nói với làm là một.
1.1.4. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đánh giá cán bộ
Vấn đề đánh giá cán bộ nhất là cán bộ lãnh đạo quản lý trong tư tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh có một vị trí vơ cùng quan trọng. Việc đành giá
cán bộ chính là điểm khởi đầu làm cơ sở cho việc bố trí, sử dụng đúng cán bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng đánh giá cán bộ là xác định đúng ai tốt, ai
xấu, mặt nào mạnh, mặt nào yếu; khả năng công tác của họ thế nào để từ đó
mà bố trí, sử dụng cho đúng người, đúng việc. Hồ Chí Minh đã nêu một số
nguyên tắc phương pháp luận rất khoa học, giúp cho việc nhận xét cán bộ
được đúng đắn và khách quan đó là khi đánh giá cán bộ phải có quan điểm
khách quan, tồn diện, biện chứng và làm thường xuyên để gắn với quá trình
hoạt động của người cán bộ. Nếu đánh giá theo cảm tính, mặc cảm thì sẽ
khơng khuyến khích được cán bộ làm việc tốt. Theo đó khi nhận xét cán bộ
khơng nên chỉ xét ngoài mặt, chỉ xét một lúc, một việc mà phải xét kỹ cả tồn
bộ. “Xem xét cán bộ, khơng chỉ xem ngồi mặt mà cịn phải xem tính chất của


22
họ. Không chỉ xem một việc, một lúc mà phải xem tồn cả lịch sử, tồn cả
cơng việc của họ” [28, tr.278]. Khi đánh giá cán bộ phải liêm chính, vô tư,
công bằng, thẳng thắn, tỉnh táo, tránh định kiến, hẹp hịi, chỉ thấy khuyết điểm
mà khơng thấy ưu điểm, phải lấy hiệu quả cơng tác về sự đóng góp thực tế
làm thước đo phẩm chất và năng lực công tác của cán bộ, phải đặt cán bộ
trong môi trường và điều kiện cụ thể, trong mối quan hệ biện chứng với
đường lối, chính sách, tổ chức và cơ chế quản lý để xem xét tồn diện trong

cả q trình phát triển của cán bộ. Phải đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ
và tiến hành thường xuyên, liên tục. Việc đánh giá cán bộ phải trên quan điểm
động, quan điểm phát triển, phải thấy rõ được mối quan hệ khách quan về
biến hóa phát triển của mọi vấn đề một cách lơgic. Có như vậy mới tìm thấy,
nhận diện đúng được cán bộ, mới chọn được những cán bộ đủ đức và tài để
xây dựng đất nước, có nắm được điều đó mới đưa ra được nhận xét, đánh giá
cán bộ một cách chính xác, khách quan. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng khi
đánh giá cán bộ là dựa vào tinh thần tự phê bình và phê bình. Đó là tinh thần
tự kiểm điểm phê bình của cá nhân người cán bộ lãnh đạo; sau đó được tập
thể cấp uỷ và đơn vị góp ý kiến xây dựng theo tiêu chuẩn của người cán bộ
cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn dạy rằng: Trong việc đánh giá, nhận xét cán
bộ chẳng những xem xét họ đối với ta thế nào, mà còn phải xem xét họ đối
với người khác như thế nào. Ta nhận họ tốt, còn phải xét số nhiều đồng chí có
nhận họ tốt hay khơng. Như vậy, đánh giá cán bộ còn phải do yêu cầu cơng
việc, lợi ích của Đảng, nhân dân để đánh giá, luân chuyển cán bộ, đưa cán bộ
vào vị trí công việc mới đồng thời cất nhắc cán bộ phải vì cơng tác, tài năng,
vì cổ động cho đồng chí khác thêm hăng hái như thế nhất định công việc
chạy. Nếu vì lịng u ghét, vì thân thích nể nang, nhất định không ai phục,
mà gây nên mối lôi thôi trong Đảng. Như thế là có tội với đồng bào. Từ cơ sở
lý luận đến thực tiễn cho thấy việc đánh giá cán bộ có ý nghĩa và vai trị rất


23
quan trọng nhưng để đánh giá được đúng cán bộ cũng là một việc vơ cùng
khó khăn.
1.1.5. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Cơng tác đào tạo, huấn luyện cán bộ theo Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý
nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt, quyết định đến thắng lợi của sự nghiệp cách
mạng. Theo Hồ Chí Minh, cơng tác đào tạo, huấn luyện cán bộ có hai nhiệm

vụ là nâng cao kiến thức và rèn luyện tư tưởng. Hai nhiệm vụ nêu trên phải
gắn chặt với nhau, không xem nhẹ mặt nào. Nếu tư tưởng tốt nhưng trình độ
kiến thức thấp thì cũng dễ làm hỏng việc, ngược lại nếu trình độ cao nhưng tư
tưởng khơng tốt thì học biết nhiều chỉ thêm hại. Vấn đề cơ bản được Hồ Chí
Minh nhấn mạnh là: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng
sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại” [28, tr.684].
Theo Hồ Chí Minh, huấn luyện cán bộ là một khái niệm rộng, có nội
dung vừa giảng dạy, vừa hướng dẫn luyện tập. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
huấn luyện cán bộ là hết sức phong phú: từ mục đích đến yêu cầu huấn luyện,
từ nội dung đến phương pháp huấn luyện, từ chủ thể đến đối tượng huấn
luyện. Về chủ thể huấn luyện: Hồ Chí Minh cho rằng khơng phải ai cũng tiến
hành huấn luyện được. Trước hết cần xác định đó là một nghề, nên cần phải
có sự thơng thạo nghề, địi hỏi người huấn luyện phải nắm rõ phương pháp,
đối tượng, nội dung và tài liệu huấn luyện. Mục đích của huấn luyện cán bộ là
làm cho mỗi cán bộ tiếp thu, bổ sung thêm những hiểu biết mới, nâng cao tầm
nhận thức và đường lối, chủ trương của Đảng, tu dưỡng đạo đức trong sạch
hơn, tăng thêm lòng tin vào con đường đi lên của cách mạng, của dân tộc, rèn
luyện phong cách tác phong công tác tốt hơn. Điều cốt lõi nhất là sau khi
được huấn luyện tốt những nội dung ấy học viên có thể ứng dụng, thực hành
vào thực tiễn công tác, kết hợp được học với hành, lý luận đi đơi với thực
tiễn. Người cịn cho rằng, học khơng phải để trang sức, để có ít lý luận mà
mặc cả với Đảng. Hồ Chí Minh nhấn mạnh yêu cầu của công tác đào tạo là:


24
việc đào tạo cán bộ là nhằm có được một đội ngũ những người có tài, có đức,
có đủ phẩm chất và năng lực lãnh đạo, những người có đủ khả năng, bản lĩnh
và phương pháp để hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ được giao.
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh khi huấn luyện cán bộ phải tập trung
vào những nội dung trọng tâm đó là: Huấn luyện cán bộ về nghề nghiệp

chuyên môn. Đây là khâu quan trọng đầu tiên. Hồ Chí Minh u cầu “Cán bộ
ở mơn nào phải học cho thạo công việc ở trong môn ấy” [28, tr.270], đồng
thời phải huấn luyện cán bộ về chính trị để làm cho cán bộ nắm được tình
hình thời sự bằng đọc báo, thảo luận, hội họp, báo cáo thời sự. Cán bộ nào
cũng phải được huấn luyện chính trị, gồm những nghị quyết, chương trình,
tun ngơn của Đảng, của Chính phủ nhưng tùy theo mơn học mà nội dung
huấn luyện chính trị nhiều ít khác nhau. Huấn luyện lý luận chính trị là nhiệm
vụ cơ bản, lâu dài và phải được tiến hành thường xuyên. Huấn luyện lý luận
phải liên hệ với thực tế, tránh huấn luyện lý luận sng. Huấn luyện cán bộ về
mặt văn hóa để nâng cao trình độ học vấn. Điều này rất quan trọng, vì cán bộ
có được trang bị những kiến thức căn bản thì mới có khả năng học tập chun
mơn, chính trị, lý luận.
Về phương pháp huấn luyện: Theo Hồ Chí Minh phải kết hợp giữa
chính quy với khơng chính quy, giữa học tập trung với tự học ở nhiều nơi:
“Học trong sách báo, học trong công tác, học với anh em, học hỏi quần
chúng” [30, tr.83]. Tùy theo điều kiện mà dùng phương pháp huấn luyện bao
quát hay tỉ mỉ. Dù ở mức độ nào thì người học cũng phải đạt yêu cầu cơ bản
là phải hiểu và nắm chắc vấn đề. Không yêu cầu học viên phải học thuộc lịng
câu chữ một cách máy móc gị bó mà phải nắm được cái tinh thần, nội dung
cơ bản, cối lõi của vấn đề. Trên cơ sở đó mà liên hệ đến thực tiễn, suy ngẫm
mà đề ra cách giải quyết, tổng kết khái quát những vấn đề của thực tiễn.
Trong công tác cán bộ việc đào tạo không chỉ biểu hiện ở chỗ tập trung
tại trường lớp, mà trải qua xuyên suốt cả quá trình hoạt động thực tiễn của cán


×