Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

THU HOẠCH TCCT sự độc lập tự CHỦ SÁNG tạo của ĐCSVN TRONG QUÁ TRÌNH HOẠCH ĐỊNH bổ SUNG PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG lối CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG dân tộc (1954 1975) vận DỤNG vào THỰC TIỄN xây DỰNG bảo vệ tổ QUỐC h

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.66 KB, 14 trang )

1
TỈNH ỦY
TRƯỜNG CHÍNH TRỊ
*

BÀI THU HOẠCH HẾT HỌC PHẦN
Chương trình Trung cấp lý luận chính trị - hành chính

SỰ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ
SÁNG TẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH
HOẠCH ĐỊNH BỔ SUNG PHÁT
TRIỂN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG
GIẢI PHÓNG DÂN TỘC (19541975) VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN
XÂY DỰNG BẢO VỆ TỔ QUỐC
HIỆN NAY
CHỦ ĐỀ:

Họ tên học viên:
Lớp:…………….,…………………….
Phần:……………………………………

Bình Phước, năm 2021


2
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG


Phần 1.

Phần 2.

Phần 3.

3.1.

3.2.

Cơ sở lý luận sự độc lập tự chủ sáng tạo của Đảng cộng
sản Việt Nam trong quá trình hoạch định bổ sung phát
triển đường lối cách mạng giải phóng dân tộc (1954 1975)
Thực trạng sự sáng tạo của Đảng cộng sản Việt Nam
trong quá trình hoạch định bổ sung phát triển đường
lối cách mạng giải phóng dân tộc (1954 - 1975)
Bài học rút ra từ sự độc lập tự chủ sáng tạo của Đảng
cộng sản Việt Nam trong quá trình hoạch định bổ sung
phát triển đường lối cách mạng giải phóng dân tộc
(1954 - 1975) vận dụng vào thực tiễn xây dựng bảo vệ
Tổ quốc hiện nay gắn với cương vị công tác (UBND thị
trấn Chơn Thành)
Bài học rút ra từ sự độc lập tự chủ sáng tạo của Đảng
cộng sản Việt Nam trong quá trình hoạch định bổ sung
phát triển đường lối cách mạng giải phóng dân tộc
(1954 - 1975) vận dụng vào thực tiễn xây dựng bảo vệ
Tổ quốc hiện nay
Bài học rút ra gắn với cương vị công tác (cán bộ Ủy
ban nhân dân xã Minh Hưng)


KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
2

2

4

8

8

9
11
12


3
MỞ ĐẦU
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước năm 1975 đã đánh
dấu việc hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước,
đất nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Nguyên nhân cơ bản, quyết định
nhất đưa đến thắng lợi của cuộc kháng chiến là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, với đường lối tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Tính độc lập tự chủ, sáng tạo trong đường lối lãnh đạo cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam là nguyên nhân trực tiếp quyết định thắng lợi của
cách mạng miền Nam.

Sự phát triển mới về xác định nhiệm vụ đánh đế quốc và đánh phong kiến
trong đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam (1954- 1975)
thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, năng lực sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam trước cuộc đụng đầu lịch sử với đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai. Việc
xác định đúng đắn mối quan hệ giữa đánh đế quốc và đánh phong kiến đã chứng
tỏ sự sáng suốt, tính cách mạng, khoa học ln nắm vững quy luật khách quan và
vận dụng quy luật khách quan một cách sáng tạo của Đảng. Với sự đúng đắn,
sáng tạo đó, Đảng ta đã tạo ra và phát huy được sức mạnh tổng hợp to lớn, dưa
cách mạng miền Nam vượt qua khó khăn, trở ngại để từng bước giành thắng lợi.
Tìm hiểu, nghiên cứu sự độc lập tự chủ sáng tạo của Đảng cộng sản Việt
Nam trong quá trình hoạch định bổ sung phát triển đường lối cách mạng giải
phóng dân tộc (1954 - 1975) có ý nghĩa lịch sử và hiện tại rất to lớn. Những
thành quả và bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo cách mạng của Đảng sẽ giúp
cho Đảng ta có một cái nhìn tổng qt để từ đó đề ra đường lối lãnh đạo đúng
đắn, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ và mục tiêu cách mạng đặt ra. Do đó,
nghiên cứu vấn đề “Sự độc lập tự chủ sáng tạo của Đảng cộng sản Việt Nam
trong quá trình hoạch định bổ sung phát triển đường lối cách mạng giải
phóng dân tộc (1954 - 1975) vận dụng vào thực tiễn xây dựng bảo vệ Tổ quốc
hiện nay” làm đề tài tiểu luận có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.


4
NỘI DUNG
Phần 1. Cơ sở lý luận sự độc lập tự chủ sáng tạo của Đảng cộng sản
Việt Nam trong quá trình hoạch định bổ sung phát triển đường lối cách
mạng giải phóng dân tộc (1954 - 1975)
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ở miền Nam (19541975) là sự tiếp tục cuộc cách mang dân tộc dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng.
Từ khi ra đời (3-2-1930), Đảng ta đã chỉ rõ: đất nước ta vốn là một Tổ quốc
thống nhất và nhân dân ta có truyền thống đồn kết chống ngoại xâm bảo vệ bờ

cõi và cùng nhau xây dựng đất nước. Nhưng từ khi thực dân Pháp xâm lược,
chúng đã cùng bọn vua quan phong kiến đầu hàng, thống trị nhân dân ta, xã hội
Việt Nam thành một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, với hai mâu thuẫn cơ bản:
mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với đế quốc xâm lược và mâu thuẫn giữa
nhân dân ta, mà chủ yếu là nông dân, với giai cấp địa chủ phong kiến. Đảng ta
gánh vác sứ mệnh lãnh đạo dân tộc giải quyết hai mâu thuẫn trên là thực hiện
hai nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân: chống đế quốc xâm
lược, giành độc lập thống nhất Tổ quốc và chống phong kiến, giành lại ruộng đất
cho nông dân.
Tháng 7-1954, miền Bắc được giải phóng, nhưng miền Nam còn dưới ách
thống trị của đế quốc và bọn tay sai. Đế quốc Mỹ hất cẳng thực dân Pháp, cùng
bọn tay sai Ngơ Đình Diệm tiếp tục thống trị nhân dân ta ở miền Nam, hai mâu
thuẫn cơ bản trên vẫn tồn tại và đất nước tạm thời bị chia cắt. Nhân dân ta tiến
hành kháng chiến chống đế quốc Mỹ và bọn tay sai là tiếp tục cuộc cách mạng
đã được tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng từ đâu nǎm 1930, nhằm hoàn
thành sự nghiệp giành độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc để tiến lên xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là sự tiếp nối lịch sử tất yếu. Đúng như Đảng ta đã
khẳng định tại Đại hội tân thứ III (tháng 9-1960): “Cuộc đấu tranh cách mạng
của nhân dân miền Nam là sự tiếp tục các cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, khởi nghĩa
Ba tơ, tổng khởi nghĩa tháng Tám và cuộc kháng chiến trường kỳ của nhân dân
ta trong điều kiện mới của lịch sử”. Từ bối cảnh lịch sử chiến đấu và chiến thắng
ấy, nhân dân ta ở miền Nam bước vào cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm
lược với tư thế của người chiến thắng và đã kế thừa được nhiều kinh nghiệm quý
báu của Cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp. Đó cũng là
nhân tố bảo đảm thắng lợi của cách mạng miền Nam. Đồng chí Lê Duẩn nói:
Chúng ta thắng Mỹ là nhờ có những kinh nghiệm quý báu của Cách mạng tháng
Tám và 9 nǎm kháng chiến chống Pháp. Khơng có Cách mạng tháng Tám,
khơng có 9 nǎm kháng chiến chống Pháp thì khơng thể có thắng lợi của kháng
chiến chống Mỹ.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước diễn ra trong điều kiện đất nước bị

chia làm hai miền, phải tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau
dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng. Đây là đặc điểm lớn nhất và cũng là nét
độc đáo của cách mạng nước ta từ tháng 7 nǎm 1954 đến tháng 5 nǎm 1975.


5
Trong suốt thời gian đó việc hoạch định đường lối chiến lược và sách lược
cách mạng của Đảng phải phản ánh rõ đặc điểm lớn này. Từ mục tiêu chung của
cách mạng cả nước và mục tiêu cụ thể của từng miền đến những vấn đề chủ
trương, sách lược và phương pháp tiến hành phải phù hợp với đặc điểm trên và
sát đúng với điều kiện lịch sử cụ thể của từng miền. Đồng thời, phải xác định rõ
vị trí cách mạng từng miền và mối quan hệ khǎng khít giữa cách mạng hai miền
trong thế chiến lược chung của cả nước.
Về vị trí chiến lược cách mạng của từng miền, Đảng ta xác định: miền Bắc
là cǎn cứ địa chung của cách mạng cả nước và sự nghiệp cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc có vai trị quyết định nhất đối với sự phát triển cách mạng cả
nước. Cách mạng miền Nam có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp
giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai. Thông qua
thực hiện nhiệm vụ cách mạng ở mỗi miền mà góp phần thực hiện nhiệm vụ
chung của cả nước là hoàn thành độc lập, thống nhất đất nước.
Việc xác định đường lối cách mạng tiến hành đồng thời hai chiến lược cách
mạng khác nhau ở hai miền là nét độc đáo, chưa có tiền lệ trong lịch sử, là thành
cơng lớn của Đảng ta.
Đó là đường lối duy nhất đúng, biểu hiện tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo
của Đảng ta.
Bên cạnh đó, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới lúc này đang ở thời kỳ phát
triển mạnh mẽ, có tác động to lớn tới q trình phát triển của thế giới. Hệ thống
xã hội chủ nghĩa thế giới nối liền từ châu á sang châu Âu, không ngừng phát
triển và củng cố về mọi mặt. Nếu miền Bắc là hậu phương trực tiếp cho cách
mạng miền Nam, thì hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới lúc này nối liền với miền

Bắc xã hội chủ nghĩa của Việt Nam là hậu phương rộng lớn đáng tin cậy, một
thuận lợi chưa bao giờ có đối với cách mạng nước ta.
Cùng với sự lớn mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, phong tràon
giải phóng dân tộc cuồn cuộn dâng cao ở châu á châu Phi và châu Mỹ latinh, hệ
thống thuộc đia của chủ nghĩa đế quốc bị thu hẹp và đi vào quá trình tan rã.
Cuộc đấu tranh cho dân sinh, dân chủ và hồ bình ở các nước tư bản chủ nghĩa
phát triển rộng khắp và liên tục. So sánh lực lượng trên thế giới lúc đó ngày
càng thay đổi có lợi cho chủ nghĩa xã hội, cho lực lượng cách mạng. Chủ nghĩa
đế quốc tiếp tục suy yếu và khó khǎn. Cách mạng thế giới lúc này đang ở thế
tiến công. Cách mạng Việt Nam đã hoà được vào trào lưu chung của cách mạng
thế giới.
Thời kỳ này cũng cần lưu ý rằng, tuy chủ nghĩa đế quốc đã suy yếu nhưng
chừng nào cịn chủ nghĩa đế quốc thì vẫn cịn miếng đất để xảy ra chiến tranh.
Lực lượng xâm lược gây chiến chủ yếu trên thế giới là đế quốc Mỹ. Chúng đang
dẫn đầu các thế lực đế quốc hiếu chiến chạy đua vũ trang, củng cố các khối liên
minh quân sự xâm lược, xây dựng các cǎn cứ quân sự, phục hồi chủ nghĩa
phátxít ở Tây Đức và quân phiệt ở Nhật Bản, nhóm lên những lị lửa chiến tranh
ở châu Âu và châu á, ra sức chuẩn bị chiến tranh mới. Nguy cơ chiến tranh thế
giới vẫn tồn tại. Nhân dân các nước đang đứng trước sự đe doạ hết sức nghiêm
trọng của một cuộc chiến tranh hạt nhân. Mặt khác, sự tàn sát và huỷ diệt ghê


6
gớm trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai và hậu quả của nó cịn làm cho
nhiều người lo ngại và lẫn lộn giữa chiến tranh chính nghĩa và chiến tranh phi
nghĩa. Trong điều kiện đó đã nảy sinh nhiều tư tưởng và khuynh hướng của chủ
nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa dân tộc làm cho tình hình thế giới
phức tạp.
Khi nhân dân ta tiến hành kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trên thế giới
tồn tại bốn mâu thuẫn chủ yếu: mâu thuẫn giữa hệ thống xã hội chủ nghĩa thế

giới với các lực lượng tư bản chủ nghĩa thế giới; mâu thuẫn giữa các nước đế
quốc với nhau; mâu thuẫn giữa các dân tộc đòi độc lập với các lực lượng đế
quốc thực dân; mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản.
Đế quốc Mỹ xâm chiếmvà thiết lập sự thống trị của chúng ở miền Nam
nước ta đã làm nảy sinh và sâu sắc thêm cả bốn mâu thuẫn trên ở miền Nam. Đế
quốc Mỹ thực hiện âm mưu xâm lược lâu dài miền Nam, biến nơi đây thành cǎn
cứ quân sự của chúng nhằm ngǎn chặn “làn sóng” cộng sản tràn xuống Đông Nam á, và chuẩn bị tiến công các nước xã hội chủ nghĩa. Mỹ tuyên bố chiến
tranh ở Việt Nam là chiến tranh hệ tư tưởng, giữa hệ tư tưởng cộng sản với hệ tư
tưởng “tự do” kiểu Mỹ. Đế quốc Mỹ hất cẳng thực dân Pháp, độc chiếm miền
Nam, đẩy dần các đế quốc châu Âu ra khỏi Đông Nam á, chèn ép quyền lợi của
tư bản thực dân nhiều nước ở vùng này, càng làm cho mâu thuẫn giữa Mỹ với
các đế quốc khác thêm sâu sắc. Đế quốc Mỹ áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở
miền nam, chia cắt đất nước ta làm cho cả dân tộc ta mâu thuẫn gay gắt với
chúng, nhân dân ta đã đồng tâm đứng dậy chống Mỹ xâm lược, kiên quyết giành
độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Đế quốc Mỹ cố xây dựng ở miền Nam một
giai cấp tư sản mại bản làm tay sai cho chúng, làm mâu thuẫn giữa giai cấp công
nhân và tư bản ở miền Nam càng trở nên sâu sắc. Để phục vụ chiến tranh của
chúng ở miền Nam, đế quốc Mỹ bóc lột giai cấp cơng nhân và nhân dân lao
động Mỹ, bắt họ sang miền Nam làm bia đỡ đạn để bọn tư bản Mỹ thu những
món lợi kếch xù tử cuộc chiến tranh này.
Mỹ cịn lơi kéo các nước tay sai đổ của đổ người vào cuộc chiến tranh của
chúng ở miền Nam. Do vậy, giai cấp công nhân, nhân dân lao động Mỹ và các
nước chư hầu của Mỹ bị lôi cuốn vào cuộc chiến tranh, ngày càng mâu thuẫn
quyết liệt với tư bản Mỹ, với các nhà cầm quyền Mỹ và giai cấp tư bản các nước
chư hầu Mỹ, làm rung chuyển hậu phương của chúng.
Điều đó nói lên rằng, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân
ta là cuộc đụng đầu lịch sử mang tính thời đại sâu sắc.
Phần 2. Thực trạng sự sáng tạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong
quá trình hoạch định bổ sung phát triển đường lối cách mạng giải phóng
dân tộc (1954 - 1975)

Sau khi Hiệp định Giơnevơ được kí kết, đế quốc Mỹ nhảy vào thay chân
thực dân Pháp ở miền Nam Việt Nam, Với âm mưu thâm độc hòng “kéo dài biên
giới Hoa Kỳ đến vĩ tuyến 17” và tiến tới vượt sông Bến Hải tiến quân ra miền
Bắc, ngăn chặn phong trào giải phóng dân tộc và chủ nghĩa cộng sản đang lan


7
tràn xuống khu vực Đông Nam Á. Việc Mỹ chủ trương khẩn trương gạt Pháp là
chủ trương đầy toan tính, xảo quyệt.
Để thực hiện âm mưu xâm lược, Mỹ đã thực hiện “kế hoặch CơLin”.
Theo đó Mỹ sẽ bảo trợ cho chính quyền Diệm, xây dựng lại quân đội quốc gia
của Diệm do Mỹ trực tiếp trang bị huấn luyện và chỉ huy. Đồng thời, tổ chức
bầu cử “Quốc hội “ để miền Nam Việt Nam thực hiện “độc lập” hợp pháp hố
chính quyền Diệm.
Đây là kế hoạch đầu tiên của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam được thực
hiện thơng qua chính quyền tay sai, một hình thức thực dân giấu mặt, trá hình
nguy hiểm của đế quốc Mỹ. Vì vậy Việt Nam trở thành nơi đụng đầu lịch sử giữa
phong trào độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa đế quốc.
Đối với miền Bắc, chúng tến hành chiến dịch dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào di cư vào
Nam. Đây là âm mưu khá thâm độc, nham hiểm của địch để tạo ra ảnh hưởng xấu
về chế độ chính trị xã hội ở miền Bắc, ngăn chặn sự ảnh hưởng của cách mạng
Việt Nam đối với vùng Đông Nam Á. Đồng thời chúng mưu toan phá hoại lực
lượng sản xuất, làm cho đời sống xã hội của miền Bắc không ổn định.
Đối với miền Nam, đế quốc Mỹ thấy rằng mối đe doạ trực tiếp lớn nhất đối
với sự tồn tại của chúng ở đây là lực lượng cách mạng và lòng dân đi theo cách
mạng ở khắp các thôn, xã từ vùng tự do Liên khu V đến các căn cứ kháng chiến
U Minh, Dương Minh Châu, chiến khu Đ…
Chính vì vậy, một mặt chúng thanh lọc nội bộ, mặt khác chúng tiến hành
chiến dịch tố cộng, diệt cộng. Chúng chĩa mũi nhọn vào những nguời kháng
chiến cũ và những người yêu nước, những gia đình có con đi tập kết, những

người tán thành hồ bình, thống nhất. Đặc biệt là đội ngũ đảng viên cộng sản,
ngồi ra chúng cịn tiến hành hàng trăm nghìn cuộc tuy quét vây bắt, tàn sát đẫm
máu những người yêu nước, những người kháng chiến cũ.
Đỉnh cao của chính sách khủng bố với những người yêu nước của bè lũ
Mỹ - Diệm là ban hành đạo luật 10/59. Với đạo luật này chúng thẳng tay giết hại
bất cứ ngưòi yêu nước nào hoặc bất cứ ai đối lập với chúng. Chúng lê máy chém
khắp miền Nam, không những tiêu diệt những người cộng sản mà cịn gây
khơng khí lo sợ, nghi kỵ, chia rẽ trong dân chúng, làm tê liệt ý chí đấu tranh
chống lại chế độ của Ngơ Đình Diệm.
Chính sách phát xít của Mỹ - Diệm đã đặt cách mạng miền Nam vào tình thế
hiểm nghèo. Khơng những mục tiêu hồ bình thống nhất chưa thể thực hiện được,
mà ngay bản thân các lực lượng cách mạng có nguy cơ bị tiêu diệt hồn tồn.
Trước âm mưu và thủ đoạn của đế quốc Mỹ, tại Hội nghị lần thứ VI của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khố II), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản
Báo cáo chính trị. Báo cáo đã chỉ ra những khó khăn trước mắt của nhân dân ta,
chủ yếu là khó khăn do âm mưu xâm lược của đế quốc Mỹ gây ra. Báo cáo
khẳng định kẻ thù chính của nhân dân ta là đế quốc Mỹ, “hiện nay đế quốc Mỹ
là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực
tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống Mỹ”
[1, tr.310], Người chỉ rõ “tranh lấy hồ bình khơng phải là một việc dễ, nó là
một cuộc đấu tranh trường kỳ, gian khổ, phức tạp” [4, tr.130].


8
Người nêu lên một số nhiệm vụ và công tác trước mắt mà trong đó cơng
tác then chốt là làm cho tồn Đảng, tồn qn, tồn dân nhận rõ tình hình và
nhiệm vụ mới, nhận rõ tính chất và nhiệm vụ của giai đoạn mới.
Cũng trong Hội nghị lần thứ VI, đồng chí Tổng bí thư Trường Chinh đã
tiếp tục cụ thể hoá quan điểm và phương hướng cơ bản trong báo cáo của Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Đồng thời nhấn mạnh, nhiệm vụ trước mắt là đấu tranh cho

hoà bình, vì vậy phải tăng cường lực lượng, củng cố quốc phòng đặc biệt chú ý
vấn đề chỉ đạo giải phóng miền Nam. Phải làm cho cán bộ, chiến sĩ, đồng bào
hiểu rõ yêu cầu, nhiệm vụ những khó khăn sẽ phải nhiều hơn và không được chủ
quan khinh địch.
Báo cáo cũng đặt ra phương châm công tác ở vùng tạm địch chiếm, triệt
để lợi dụng thế hợp pháp và nửa hợp pháp để vận động quần chúng đấu tranh.
Tổ chức Đảng phải bí mật, chuyển cán bộ vào hoạt động bí mật, khéo che dấu
lực lượng, kiên quyết đấu tranh chống chính sách kêu gọi đầu thú của địch để
bảo tồn lực lượng.
Hội nghị cịn chỉ thị cho Đảng bộ Nam Bộ, Liên khu uỷ V là phải lãnh
đạo nhân dân đấu tranh đòi địch phải thi hành Hiệp định Giơnevơ, củng cố hồ
bình, đấu tranh vì dân sinh, giữ vững những quyền lợi đã giành được trong đấu
tranh chống địch khủng bố.
Bộ chính trị cịn chỉ thị rõ, Mỹ và tay sai có thể sẽ phá hoại Tổng tuyển
cử, việc chia rẽ có thể trường Kỳ cho nên các cấp cần quán triệt và thực hiện tốt
ba nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam.
Một là, tập trung đấu tranh đòi Mỹ thi hành Hiệp định Giơnevơ.
Hai là, chuyển hướng cơng tác cho phù hợp với tình hình mới, tập hợp
rộng rãi các lực lượng nhằm đánh đổ chính quyền Ngơ Đình Diệm, thành lập
Mặt trận dân tộc thay mặt trận Liên Việt, vận động quân đội, đưa ngưịi của ta bí
mật vào hoạt động trong bộ máy của địch.
Tháng 10.1954 tại U Minh Hạ hội nghị thành lập Xứ uỷ Nam Bộ được
triệu tập. Hội nghị đã tiếp thu, thực hiện nghị quyết của Trung ương Đảng và đề
ra nhiệm vụ cho toàn miền Nam là tăng cường công tác tư tưởng cho cán bộ,
đảng viên và quần chúng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng hi sinh
cho sự nghiệp cách mạng, khắc phục tư tưỏng cầu an, dao động… tổ chức thêm
các chi bộ mới ở đơ thị.
Ngày 18.8.1956 Bộ chính trị gửi thư cho Xứ uỷ Nam Bộ nói rõ thêm cơng
tác cụ thể ở miền Nam trong tình hình hiện nay, cần tổ chức ra những đội tự vệ
nhằm bảo vệ xã, thôn, trường học, bệnh viện, bảo vệ các cuộc đấu tranh của

quần chúng, giải thoát cán bộ khi cần thiết.
Đây là những chủ trương đúng đắn, kịp thời có tác dụng quan trọng trong
việc duy trì và phát triển lực lượng vũ trang tự vệ ở miền Nam.
Căn cứ vào sự phát triển của tình hình miền Nam, tháng 8.1956 đồng chí
Lê Duẩn uỷ viên Bộ chính trị, Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ đã viết “Đề cương cách
mạng miền Nam”. Đề cương đã xác định nhân dân miền Nam khơng có con
đường nào khác là đứng lên làm cách mạng để cứu nước, cứu mình.


9
Theo tinh thần nghị quyết của Bộ chính trị và nghị quyết Xứ uỷ Nam Bộ.
Đảng ta một lần nữa khẳng định để giành thắng lợi cho cách mạng miền Nam
phải bằng con đường cách mạng bạo lực.
Xuất phát từ chủ trương đó, các đơn vị vũ trang tuyên tuyền, vũ trang bí mật
đã nối tiếp nhau ra đời. Liên tỉnh miền Trung Nam Bộ xây dựng được 3 đại đội vũ
trang hoạt động ở Đồng Tháp Mười, Liên tỉnh miền Tây xây dựng được 3 đại đội
vũ trang. Đến cuối 1957, ở Nam Bộ đã có tới 37 đơn vị vũ trang cách mạng.
Sau khi các đơn vị vũ trang được thành lập đã lập nên những chiến công
xuất sắc. Nổi bật nhất là trận đánh tiến công vào quận lị Dầu Tiếng, cách Sài
Gịn 70 km về phía bắc, đánh thiệt hại 2 tiểu đoàn, diệt 200 tên và thu 200 súng.
Chiều ngày 25.10.1958, bộ đội biệt động Đơng Nam Bộ đã tập kích vào trụ
sở phái đồn cố vấn Mỹ (MAAG) ở Biên Hoà diệt nhiều tên.
Trước tình hình đó Diệm tun bố đặt miền Nam trong tình trạng chiến
tranh. Trước khơng khí sơi sục, căm thù của đồng bào miền Nam và khí thế vùng
dậy đấu tranh của quần chúng. Trung uơng Đảng đã có cuộc họp quan trọng xác
định đường lối và phương pháp cách mạng miền Nam đó là Hội nghị lần thứ 15
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Hội nghị đã phân tích và đề ra nhiệm vụ cách mạng miền Nam, là giải phóng
miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc, thực hiện độc lập dân tộc và người cày
có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Xây dựng

một nước Việt Nam hồ bình, thống nhất, độc lập dân tộc. Hội nghị đã chỉ rõ quá
trình thực hiện nhiệm vụ ấy là một quá trình lâu dài, phải từng bước.
Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là đoàn kết toàn dân đánh
đổ tập đồn thống trị Ngơ Đình Diệm, thành lập chính quyền Liên hiệp dân tộc,
dân chủ ở miền Nam.
Để thực hiện nhiệm vụ đó, nhân dân miền Nam phải đấu tranh bằng con
đường khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, tuỳ theo tình hình cụ thể
và yêu cầu cách mạng thì con đường đó là xây dựng sức mạnh của quần chúng
là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ chính quyền Mỹ- Diệm.
Trung ương Đảng còn dự kiến “đế quốc Mỹ là tên đế quốc hiếu chiến nhất, cho
nên trong những điều kiện nào đó cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam
cũng có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ giữa ta và
địch. Đảng phải thấy trước khả năng ấy để chuẩn bị chu đáo và chủ động đối
phó với mọi tình thế” [2, tr.108].
Nhiệm vụ miền Nam là hết sức nặng nề, để tăng cường lực lượng, phát
huy sức mạnh tổng hợp của miền Nam. Nghị quyết chủ trương thành lập Mặt
trận Dân tộc thống nhất riêng cho phù hợp với tính chất và nhiệm vụ ở miền
Nam, điều quan trọng và là nhân tố quyết định cho thắng lợi của cách mạng
miền Nam là sự tồn tại và trưởng thành của Đảng bộ miền Nam.
Kế thừa tinh thần Nghị quyết lần thứ 15, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
III khẳng định “Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền
Nam khỏi ách thống trị của Mỹ - Diệm...đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh
chống đế quốc Mỹ, tập đoàn thống trị Ngơ Đình Diệm”.


10
Có thế nói, nghị quyết của Hội nghị lần thứ 15 là một trong những khởi
điểm quan trọng dẫn đến thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ
và tay sai. Đã mở ra một bước ngoặt mới thúc đẩy cách mạng miền Nam tiến
lên, Nghị quyết đã đáp ứng nhu cầu bức thiết của cách mạng miền Nam lúc đó.

Chính Nghị quyết đã dẫn đến cuộc Đồng Khởi oanh liệt trên toàn miền Nam
giữa năm 1959 đến cuối 1960.
Phong trào Đồng Khởi trên toàn miền Nam, chứng tỏ lực lượng vũ trang
cùng phong trào đấu trang chính trị của nhân dân miền Nam đã phát triển lên
một tầm cao mới, đây là sức mạnh để nhân dân miền Nam đủ sức đương đầu
chiến đấu chống Mỹ và tay sai giành chính quyền.
Thắng lợi của Đồng Khởi là một mốc rất quan trọng của cách mạng miền
Nam, tạo cơ sở vững chắc để nhân ta đánh thắng chiến lược chiến tranh tiếp theo
của Mỹ, tạo đà cho cách mạng miền Nam vững bước tiến lên.
Chiến công oanh liệt của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, kết
thúc bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đã chứng minh đường lối quân sự và
phương pháp cách mạng của Đảng ta là hồn tồn đúng đắn. Chính q trình
hình thành đường lối chiến lược quân sự cách mạng từ 1954 đến 1960 dưới sự
lãnh đạo của Đảng đã giúp cho nhân dân miền Nam nói riêng cả nước nói chung
có đủ thế và lực đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, giải phóng
hồn tồn miền Nam.
Phần 3. Bài học rút ra từ sự độc lập tự chủ sáng tạo
của Đảng cộng sản Việt Nam trong quá trình hoạch định
bổ sung phát triển đường lối cách mạng giải phóng dân
tộc (1954 - 1975) vận dụng vào thực tiễn xây dựng bảo vệ
Tổ quốc hiện nay gắn với cương vị công tác (UBND thị
trấn Chơn Thành)
3.1. Bài học rút ra từ sự độc lập tự chủ sáng tạo của Đảng cộng sản
Việt Nam trong quá trình hoạch định bổ sung phát triển đường lối cách
mạng giải phóng dân tộc (1954 - 1975) vận dụng vào thực tiễn xây dựng bảo
vệ Tổ quốc hiện nay
Bước vào giai đoạn phát triển mới, Đảng ta nhận định, tình hình thế giới
và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra
nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải đoàn kết

một lòng; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy; có quyết tâm chính trị cao; dự báo
chính xác, kịp thời diễn biến của tình hình, chủ động ứng phó kịp thời với mọi
tình huống.


11
Nỗ lực hơn nữa để tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi
mới; không ngừng gia tăng tiềm lực mọi mặt của quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc và những thành quả phát triển đã đạt được; đưa đất nước vững bước tiến
lên, phát triển nhanh và bền vững.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nêu rõ quan điểm chỉ đạo: “Kiên định
và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi
mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam chủ nghĩa xã hội” [3, tr.190].
Sự sáng tạo, linh hoạt của Đảng còn thể hiện, Đảng ta nêu rõ nguyên tắc
bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của
Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có
lợi. Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai
đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng
Đảng là then chốt; phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng,
an ninh là trọng yếu, thường xuyên.
Trong giai đoạn mới, sáng tạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong quá
trình hoạch định bổ sung phát triển đường lối cách mạng là nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc được hiểu theo nghĩa rộng. Đó là khơng chỉ chống chiến tranh xâm lược,
bảo vệ độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chủ quyền quốc gia, vùng trời, vùng
biển Tổ quốc mà còn gắn liền với việc bảo vệ Đảng và Nhà nước; bảo vệ công
cuộc lao động hịa bình của nhân dân, bảo vệ sự nghiệp đổi mới theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Vì thế, bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của tồn

Đảng, tồn dân và của cả hệ thống chính trị, Điều 64, Hiến pháp 2013 quy định,
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân. Nhà nước
củng cố và tăng cường nền quốc phịng tồn dân và an ninh nhân dân mà nòng
cốt là lực lượng vũ trang nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để
bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hịa bình ở khu vực và trên thế giới.
3.2. Bài học rút ra gắn với cương vị công tác (cán bộ Ủy ban nhân dân
xã Minh Hưng)
Từ bài học rút ra từ sự độc lập tự chủ sáng tạo của Đảng cộng sản Việt
Nam trong quá trình hoạch định bổ sung phát triển đường lối cách mạng giải
phóng dân tộc (1954 - 1975) đặt ra cho mỗi cán bộ, cơng chức nói chung, cán bộ
ủy ban nhân xã nói riêng cần hăm chỉ, sáng tạo, học tập, lao động; có mục đích,
động cơ học tập đúng đắn, không ngừng học tập để mai sau xây dựng đất nước,
hiểu học tập tốt là yêu nước.


12
Trên cương vị công tác, quan tâm đến đời sống chính trị - xã hội của địa
phương, đồng thời thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước; vận động mọi người xung quanh cùng thực hiện theo đúng
quy định của pháp luật.
Tích cực rèn luyện đạo đức, tác phong; lối sống trong sáng, lành mạnh,
tránh xa các tệ nạn xã hội; biết đấu tranh chống các biểu hiện của lối sống lai
căng, thực dụng, xa rời các giá trị văn hoá - đạo đức truyền thống của dân tộc.
Tích cực tham gia góp phần xây dựng xã Minh Hưng bằng những việc làm thiết
thực, phù hợp khả năng như: tham gia bảo vệ mơi trường, phịng chống tệ nạn xã
hội, xố đói giảm nghèo, chống tiêu cực, tham nhũng, tham gia những hoạt động
mang tính xã hội… Biết phê phán, đấu tranh với những hành vi đi ngược lại lợi
ích quốc gia, dân tộc. Có tình cảm gắn bó với q hương, đất nước, điều này thể
hiện qua việc bản thân mỗi chúng ta luôn hướng về cội nguồn, ông bà, cha mẹ,
tổ tiên, q hương của mình và khi đi xa ln hướng về quê hương, Tổ quốc.

Ben cạnh đó, trước yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong
thời kỳ mới, trên cương vị là cán bộ xã cần nhận thức đúng đắn vị trí, vai trị
cơng tác giáo dục quốc phịng tồn dân. Đây là nhiệm vụ trọng yếu, thường
xuyên, nhằm nâng cao nhận thức về đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước đối với các tổ chức chính trị - xã hội và toàn dân với
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Trong công tác cần kết hợp làm tốt công tác thông tin
tuyên truyền hướng vào tôn vinh những giá trị tiêu biểu về cơng lao cống hiến,
hy sinh, đóng góp của các tập thể, cá nhân tiêu biểu trong sự nghiệp giải phóng
dân tộc trước đây cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
Trên cương vị cơng tác góp phần xây dựng các tổ chức trong hệ thống
chính trị xã thực sự trong sạch, vững mạnh, làm lành mạnh các quan hệ xã hội.


13
KẾT LUẬN
Sự phát triển mới về xác định nhiệm vụ đánh đế quốc và đánh phong kiến
trong đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam thời kỳ từ 1954
đến 1975 có ý nghĩa lịch sử to lớn, đường lối đó và kết quả chỉ đạo thắng lợi của
cách mạng giai đoạn này là nền tảng ban đầu, là cơ sở cho việc Đảng ta xác định
quyết tâm kiềm chế, đánh Mỹ và thắng Mỹ. Tính độc lập, tự chủ, sáng tạo của
Đảng ta trong xây dựng đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nói chung
và và sự phát triển đường lối đó trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống
Mỹ nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng với sự phát triển đường lối đổi mới của
Đảng ta trong công cuộc đổi mới xây dựng đất nước hiện nay.
Sau khi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân được hoàn thành trong cả nước
(1975), cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhân dân tiến hành thực hiện
hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hai nhiệm vụ đó được Đảng ta xác định phải được tiến hành đồng thời, khăng khít
khơng tách rời nhau. Đảng ta đã xác định đúng đắn vị trí của mỗi nhiệm vụ trong
mối quan hệ biện của nó.



14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Viêt Nam, Văn kiện Đảng tồn tập, Tập 3, Nxb Nxb
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 1998.
2. Đảng Cộng sản Viêt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 6, Nxb Nxb
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 1998.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
4. Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.



×