Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Luận văn Thạc sĩ Điều tra viên trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (845.14 KB, 93 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN VĂN ANH

ĐIỀU TRA VIÊN TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN VĂN ANH

ĐIỀU TRA VIÊN TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGHIÊM XUÂN MINH

HÀ NỘI - năm 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng bản thân tơi.
Các số liệu trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, độ tin cậy và trung
thực. Những kết quả đưa ra trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác.
TÁC GIẢ

Trần Văn Anh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐIỀU TRA, HOẠT ĐỘNG
CỦA ĐIỀU TRA VIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ................. 7
1.1. Điều tra viên, hoạt động của điều tra viên trong tố tụng hình sự ........................ 7
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về Điều tra viên, hoạt
động của điều tra viên............................................................................................ 16
1.3. Quan hệ của Điều tra viên trong luật tố tụng hình sự....................................... 27
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU TRA VIÊN VÀ
THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA ĐIỀU TRA VIÊN TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ
NẴNG................................................................................................................... 34
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về Điều tra viên, hoạt động điều tra
viên tại Thành phố Đà Nẵng từ năm 2015 - 2020................................................... 34
2.2. Thực tiễn hoạt động của Điều tra viên tại thành phố Đà Nẵng từ năm 2015 2020 ...................................................................................................................... 41
CHƯƠNG 3. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG,
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐIỀU TRA VIÊN TRONG GIẢI QUYẾT
VỤ ÁN HÌNH SỰ ................................................................................................ 59
3.1. Yêu cầu hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động
của Điều tra viên ................................................................................................... 59

3.2. Hoàn thiện quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn
của Điều tra viên và hoạt động điều tra .................................................................. 62
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Điều tra viên ............................... 66
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI TIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Tiếng việt

ANĐT

An ninh điều tra

ANND

An ninh nhân dân

ANQG

An ninh quốc gia

BLHS

Bộ luật Hình sự


BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

CAND

Cơng an nhân dân

CQĐT

Cơ quan điều tra

CSĐT

Cảnh sát điều tra

CSĐTTP

Cảnh sát điều tra tội phạm

CSND

Cảnh sát nhân dân

ĐTV

Điều tra viên

KSV


Kiểm sát viên

TAND

Tòa án nhân dân

CQĐTHS

Cơ quan điều tra hình sự

TCĐTHS

Tổ chức điều tra hình sự

TTATXH

Trật tự an tồn xã hội

TTHS

Tố tụng hình sự

TTXH

Trật tự xã hội

VKS

Viện kiểm sát


VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tố tụng hình sự Việt Nam, Điều tra viên (ĐTV) là người được bổ
nhiệm để làm nhiệm vụ Điều tra hình sự, là lực lượng trực tiếp tham gia trong giai
đoạn tố tụng hình sự (TTHS) đầu tiên, giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự
(VAHS). ĐTV có vai trò, vị trí rất quan trọng trong tố tụng hình sự, nhất là đối với
giai đoạn phát hiện, khởi tố vụ án hình sự và giai đoạn điều tra vụ án hình sự. ĐTV
là người chịu trách nhiệm chính trong việc ra các quyết định, thực hiện hành vi tố
tụng hình sự đầu tiên có tính chất căn cứ, làm cơ sở nền tảng cho các giai đoạn tố
tụng hình sự tiếp theo.
Điều tra viên là chủ thể đóng vai trò quan trọng trong quá trình làm rõ sự thật
khách quan vụ án đã xảy ra, xác định và chứng minh tội phạm và người thực hiện
hành vi phạm tội. Hiện nay mỗi ngành đều có quy định riêng về ĐTV của mình, các
quy định pháp lý về chức danh tư pháp này vẫn chưa được cụ thể hóa trong một văn
bản pháp quy mang tính thống nhất. Tình hình này dẫn đến thực tế là địa vị pháp lý
của ĐTV trong tố tụng hình sự chưa được khẳng định cụ thể, dẫn đến trong thực
tiễn điều tra theo quy định của luật tố tụng hình sự, ĐTV đã gặp phải nhiều khó
khăn, vướng mắc.
Bên cạnh đó, ĐTV điều tra vụ án hình sự vừa phải có những tiêu chuẩn
chung theo quy định của Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự (CQĐTHS), vừa
phải có được tiêu chuẩn đặc thù mà mỗi ngành, mỗi lĩnh vực quy định. Đồng thời,

mỗi ĐTV cần trải qua một quá trình đào tạo, bồi dưỡng và trải nghiệm thực tiễn
mới có thể đáp ứng được tiêu chuẩn của một ĐTV, đủ khả năng để hồn thành
nhiệm vụ điều tra vụ án hình sự và các nhiệm vụ khác mà pháp luật và mỗi ngành
quy định.
Đà Nẵng là thành phố trực thuộc Trung ương, là trung tâm kinh tế chính trị xã
hội của khu vực miền Trung và Tây Nguyên. Nơi phức hợp đa dạng các ngành, các
lĩnh vực như cơng nghiệp, tài chính, dịch vụ, du lịch, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa
học - công nghệ. Thành phố mở ra như là cửa ngõ, đóng vai trò hạt nhân quan trọng
1


trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.
Về mặt giao thương, thành phố Đà Nẵng nằm ở trung độ của trục giao thông
Bắc - Nam về đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường hàng không, là cửa ngõ
quan trọng ra biển để giao lưu với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đà Nẵng
có nhiều danh lam thắng cảnh, khu du lịch nổi tiếng trong và ngoài nước, nằm trong
chuỗi liên kết du lịch Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam. Dân số của thành phố là
1.134.310 người (theo kết quả điều tra dân số vào ngày 01/04/2019) và tăng trưởng
dân số bình quân hàng năm đạt 2,45%. Với tốc độ phát triển kinh tế cao so với các
tỉnh trong khu vực, đây là nơi tập trung mật độ lao động ở các địa phương khác đến
để làm ăn, sinh sống. Đà Nẵng cũng thu hút một lượng du khách trong và ngoài
nước như là một điểm hẹn du lịch trên bản đồ Việt Nam. Trước tốc độ phát triển
nhanh chóng của thành phố trong thời gian qua không chỉ tạo nên cảnh quan khang
trang mà kéo theo đó là một nhịp sống mới đang chuyển mình từng ngày, năng
động hơn và đa dạng hơn, được đánh giá là thành phố đáng sống.
Trong khi đó, cơng tác quản lý nhà nước của thành phố trên các lĩnh vực của
đời sống xã hội lại tồn tại nhiều hạn chế. Từ những bất cập đó đã và đang tạo điều
kiện thuận lợi để các loại tội phạm phát sinh và phát triển khơng chỉ về số lượng mà
tính chất các vụ việc ngày càng tinh vi, nguy hiểm và nghiêm trọng hơn. Trong 05
năm (2015-2019), thành phố đã xảy ra 2.577 vụ phạm pháp hình sự, trong đó nổi

lên là tội trộm cắp tài sản; cố ý gây thương tích và cướp giật tài sản có tính chất
ngày càng manh động; hoạt động của các băng, nhóm sử dụng cơng nghệ cao để lừa
đảo chiếm đoạt tài sản diễn biến phức tạp với nhiều thủ đoạn tinh vi, số tiền chiếm
đoạt lớn; tội phạm và vi phạm pháp luật Việt Nam do người nước ngoài, nhất là
người Trung Quốc thực hiện trên địa bàn thành phố có xu hướng gia tăng, đa dạng
về hành vi phạm tội; tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia cũng diễn biến phức tạp.
Nhìn chung, tình hình tội phạm trên địa bàn thành phố đều gia tăng cả về số lượng
lẫn quy mơ, tính chất.
Những thành tựu, kết quả đạt được trong công tác bảo vệ an ninh chính trị
(ANCT), bảo đảm trật tự, an tồn xã hội (TTATXH) trong thời gian qua có sự đóng
2


góp to lớn của Cơ quan điều tra (CQĐT), cụ thể là lực lượng ĐTV. Thực tế, lực
lượng Công an thành phố Đà Nẵng nói chung, lực lượng ĐTV của CQĐT Công an
thành phố thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống, điều tra xử lý tội phạm vẫn
còn mỏng. Với số lượng 163 ĐTV (gồm cả Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các
cấp) như hiện nay thì việc đáp ứng u cầu của cơng tác đấu tranh phịng chống tội
phạm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian đến là vấn đề không hề đơn
giản. Bên cạnh đó, năng lực đội ngũ ĐTV vẫn cịn nhiều vấn đề chưa đáp ứng được
yêu cầu đòi hỏi của công tác đấu tranh phòng, chống, điều tra, xử lý tội phạm nhất
là trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay.
Để khắc phục những vấn đề bất cập trên, trong giai đoạn vừa qua thành phố
đã đặc biệt đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng ĐTV như là khâu đột phá để xây
dựng một đội ngũ ĐTV đáp ứng cả về số lượng và chất lượng. Đây cũng là khâu
quan trọng trong việc tạo ra một đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp phục vụ yêu
cầu của chiến lược cải cách tư pháp trên địa bàn thành phố. Tuy nhiên, công tác đào
tạo bồi dưỡng ĐTV hiện nay cịn bộc lộ nhiều thiếu sót, hạn chế về nội dung,
phương pháp giảng dạy và điều kiện học tập nên chưa đủ sức để có thể đào tạo được
một đội ngũ ĐTV có đủ tiêu chuẩn về phẩm chất, trình độ năng lực, chưa đủ điều

kiện để Cơng an thành phố có thể tăng cường số lượng và nâng cao chất lượng
nhằm giải quyết nhu cầu về ĐTV của Công an thành phố Đà Nẵng hiện nay.
Từ thực trạng cơng tác tố tụng hình sự và những vấn đề đang đặt ra đối với
việc nâng cao chất lượng đội ngũ ĐTV trên địa bàn Đà Nẵng, cho thấy thực tế chưa
xác định vị trí, vai trị, tầm quan trọng của ĐTV trong tố tụng hình sự. Từ đó chưa
có những giải pháp gắn với điều kiện cụ thể của thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn
hiện nay. Vì vậy, để góp phần làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn cho việc xác định vị
trí, vai trị, quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của ĐTV trong tố tụng hình sự cũng
như việc đảm bảo các điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động của ĐTV trong giải
quyết vụ án hình sự. Xuất phát từ tính cấp thiết đó, tác giả chọn đề tài: “Điều tra
viên trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” làm đề tài
nghiên cứu Luận văn Thạc sĩ của mình.
3


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về ĐTV trong tố tụng hình sự là một yêu cầu khách quan, mang
tính thời sự và cấp bách, trước yêu cầu về vấn đề cải cách tư pháp trong giai đoạn
hiện nay như:
- Sách tham khảo và chuyên khảo đề cập đến ĐTV như: Sách chuyên khảo
“Sổ tay pháp luật của Điều tra viên” của PGS.TS Nguyễn Ngọc Anh, năm 2006;
Sách chuyên khảo “Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan điều tra trong
Công an nhân dân theo tiến trình cải cách tư pháp” của GS.TS Nguyễn Ngọc Anh.
- Luận văn “Địa vị pháp lý của Điều tra viên trong tố tụng hình sự nước ta”
của Th.S Phùng Như Thịnh, năm 2000; luận văn “Điều tra viên và Thủ trưởng Cơ
quan điều tra theo pháp luật TTHS Việt Nam” Th.S Nguyễn Thái Bình, năm 2015.
- Luận án Tiến sĩ Luật học “Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra và
Điều tra viên trong tố tụng hình sự Việt Nam” của TS Bùi Thế Tỉnh, năm 2018.
- Đề tài khoa học cấp cơ sở năm 1997: “Đào tạo điều tra viên trong lực
lượng Cảnh sát nhân dân - Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng” của Mai

Đức Hải; Một số bài báo như: “Bàn về địa vị pháp lý của Điều tra viên trong tố
tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Trần Ngọc Đức đăng trên Tạp chí Cơng an nhân
dân năm 2004; “Nâng cao hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng Điều tra viên” của Th.S
Trần Quốc Hùng đăng trên Tạp chí Công an nhân dân năm 2013; “Nâng cao hiệu
quả hoạt động của Điều tra viên đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” của Th.S
Nguyễn Việt Hà đăng trên Tạp chí khoa học và chiến lược năm 2014;
Các đề tài, luận án, luận văn, cơng trình nghiên cứu khoa học nêu trên là
những tài liệu hữu ích giúp tác giả nghiên cứu về vấn đề ĐTV, tuy nhiên cho đến
nay chưa có cơng trình nghiên cứu nào cụ thể về ĐTV trong tố tụng hình sự tại
thành phố Đà Nẵng, hoặc có nhưng đã lâu. Vì vậy, có thể khẳng định việc nghiên
cứu đề tài “Điều tra viên trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà
Nẵng” là cần thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn và khơng trùng lặp với
các cơng trình nghiên cứu khoa học đã cơng bố trong thời gian qua.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4


3.1. Mục đích nghiên cứu:
- Tổng hợp một cách có hệ thống lý luận về điều tra viên trong luật tố tụng
hình sự Việt Nam.
- Nâng cao chất lượng Điều tra viên, hiệu quả hoạt động của Điều tra viên
trong lực lượng Công an thành phố Đà Nẵng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận về Điều tra viên và hoạt động
điều tra của Điều tra viên trong tố tụng hình sự Việt Nam.
- Đánh giá, phân tích thực trạng của Điều tra viên và hoạt động điều tra của
Điều tra viên theo pháp luật tố tụng hình sự từ thực tiễn Đà Nẵng.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng về đội ngũ Điều tra viên và
hiệu quả hoạt động của Điều tra viên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các quy định về điều tra viên trong luật tố tụng hình sự Việt Nam.
- Mơ hình tổ chức, Điều tra viên và hoạt động của Điều tra viên thuộc Cơ
quan điều tra của Công an thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Các quy định của Luật tố tụng hình sự Việt Nam về vai trị, vị trí, chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Điều tra viên.
- Thực tiễn hoạt động của điều tra viên thuộc Cơ quan điều tra Công an thành
phố Đà Nẵng trong cơng tác điều tra vụ án hình sự tại thành phố Đà Nẵng từ năm
2015 đến năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở nghiên cứu các quan điểm, phương
pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tố tụng hình sự.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5


Quá trình nghiên cứu luận văn tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu
cụ thể như phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, thống kê, so sánh, diễn
dịch, quy nạp, lơ gíc,… để làm rõ nội dung các vấn đề cần nghiên cứu của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn là cơng trình nghiên cứu khoa học pháp lý góp phần làm sáng tỏ
thêm những vấn đề lý luận về Điều tra viên nhằm đảm bảo điều tra viên có tầm
quan trọng với vị trí xứng đáng trong luật tố tụng hình sự Việt Nam. Từ đó, góp
phần hồn thiện lý luận chung về điều tra viên trong tố tụng hình sự nói chung.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu một cách tồn diện và có hệ thống về cơ sở pháp lý về

Điều tra viên, hoạt động điều tra của Điều tra viên, có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo trong công tác, nghiên cứu, học tập, góp phần vào việc xây dựng, hồn thiện lý
luận về đào tạo, bồi dưỡng Điều tra viên, phục vụ công tác cải cách tư pháp. Từ
thực tiễn tại thành phố Đà Nẵng để đưa ra các yêu cầu và giải pháp hoàn thiện pháp
luật, nâng cao chất lượng, đội ngũ điều tra viên đáp ứng yêu cầu công tác. Nâng cao
hiệu quả cơng tác đấu tranh, phịng chống, điều tra, xử lý tội phạm ở Đà Nẵng nói
riêng và nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm 3 chương và 8 tiết, trong
đó:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về điều tra, hoạt động của điều tra viên
trong tố tụng hình sự Việt Nam
Chương 2: Quy định của pháp luật về Điều tra viên và thực tiễn hoạt động
điều tra viên thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
của điều tra viên trong giải quyết vụ án hình sự

6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐIỀU TRA, HOẠT ĐỘNG CỦA ĐIỀU TRA
VIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Điều tra viên, hoạt động của điều tra viên trong tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm về Điều tra viên
Hiện nay, trong Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015, Luật Tổ chức
Cơ quan điều tra hình sự (CQĐTHS) năm 2015 và các văn bản pháp luật tố tụng
hình sự có liên quan nêu ra một số khái niệm nhưng chưa cụ thể, đầy đủ về Điều tra
viên (ĐTV). Theo một số tài liệu có liên quan đã đưa ra nhiều quan điểm khác nhau
về ĐTV như sau:

- Theo tiếng Hán, thì có thể hiểu về “điều tra” là tìm tòi, xét hỏi người, việc
để tìm ra sự thật; còn “viên” là viên chức, người nhận lãnh chức vụ của nhà nước,
[28, tr.572, 2332]. Do đó, ĐTV được hiểu một cách đơn giản là những viên chức
nhà nước được giao nhiệm vụ chun tìm tịi, xét hỏi người, việc để tìm ra sự thật.
Đây là một khái niệm theo cách giải nghĩa đơn giản, thông thường trong cuộc sống
khơng có căn cứ pháp lý.
- Theo Từ điển Bách khoa Cơng an nhân dân (CAND), thì Điều tra viên
được hiểu là một chức danh Nhà nước để chỉ cán bộ làm trong cơ quan điều tra, có
nhiệm vụ tiến hành các biện pháp điều tra do Luật Tố tụng hình sự (TTHS) quy
định và phải chịu trách nhiệm về những hoạt động điều tra của mình, [44, tr.459].
Khái niệm này cũng chưa bao quát đầy đủ, chưa thể hiện rõ vị trí pháp lý của ĐTV
trong hoạt động TTHS.
Một số giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam ở các cơ sở đào tạo của
nước ta cũng đề cập đến khái niệm ĐTV theo nhiều khía cạnh khác nhau, đó là:
- Giáo trình Luật TTHS Việt Nam dành cho hệ đào tạo sau đại học của Học
viện Cảnh sát nhân dân đề cập đến khái niệm ĐTV như sau: “Điều tra viên là người
tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ được phân cơng của Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng CQĐT trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự nhằm thu thập chứng
cứ chứng minh tội phạm có xảy ra hay khơng, ai là người thực hiện tội phạm và
7


những tình tiết khác của vụ án”, [31, tr.43].
- Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, đưa ra
khái niệm về ĐTV khá ngắn gọn: “Điều tra viên là người trực tiếp tiến hành các
hoạt động điều tra trong tố tụng hình sự”, [45, tr.43].
Pháp lệnh về TCĐTHS năm 2004 (Điều 29) đưa ra khái niệm về ĐTV:
“Điều tra viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ
điều tra vụ án hình sự”. Luật Tổ chức CQĐTHS năm 2015 (Điều 45) thì có khái
niệm ngắn gọn hơn là: “Điều tra viên là người được bổ nhiệm để làm nhiệm vụ điều

tra hình sự”. ĐTV gồm có các ngạch sau: ĐTV sơ cấp, ĐTV trung cấp, ĐTV cao
cấp.
Từ các khái niệm về ĐTV đã nêu ở trên, có thể rút ra được những đặc điểm
của Điều tra viên như sau:
Thứ nhất, ĐTV là chức danh tư pháp, là người tiến hành tố tụng trong
CQĐT, được lựa chọn theo tiêu chuẩn luật định về phẩm chất chính trị, trình độ
chun môn, năng lực thực tế và các chứng chỉ nghề nghiệp để phục vụ cho hoạt
động điều tra hình sự và được người có thẩm quyền bổ nhiệm.
Thứ hai, ĐTV được tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp
luật và theo sự phân công của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT.
Thứ ba, trong hoạt động điều tra hình sự ĐTV có các nhiệm vụ, quyền hạn
và trách nhiệm theo quy định của Luật TTHS và Luật Tổ chức CQĐTHS, chịu trách
nhiệm trước pháp luật và Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐ về hành vi, quyết định
của mình.
Từ những phân tích các quan điểm khác nhau về khái niệm ĐTV, đặc điểm
của ĐTV, theo quan điểm của cá nhân có thể đưa ra khái niệm khoa học đầy đủ về
ĐTV như sau: “Điều tra viên là người tiến hành tố tụng trong CQĐT, có đủ các tiêu
chuẩn, điều kiện theo quy định của pháp luật, được cơ quan cấp có thẩm quyền bổ
nhiệm có thời hạn, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ điều tra vụ án hình sự, sử dụng các
biện pháp điều tra để xác định sự thật vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ
theo sự phân cơng của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT và chịu trách nhiệm
8


trước pháp luật, trước Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT về các hoạt động của
mình”
1.1.2. Địa vị pháp lý của Điều tra viên
Địa vị pháp lý của ĐTV hiện nay được xác định thông qua các quy định của
Bộ Luật TTHS năm 2015, Luật Tổ chức CQĐTHS năm 2015, có thể khái quát như
sau:

Theo Điều 34 Bộ luật TTHS năm 2015 (trước đây ở Điều 33 Bộ luật TTHS
năm 2003) đã quy định cụ thể ĐTV là một trong số những người tiến hành tố tụng.
Điều luật này đã xác định địa vị pháp lý của ĐTV là “người tiến hành tố tụng”
thuộc Cơ quan điều tra, tương tự các chức danh tư pháp khác thuộc các cơ quan tiến
hành tố tụng khác như: Viện kiểm sát, Tòa án... Các văn bản quy định khác có liên
quan cũng chưa có điều khoản nào quy định cụ thể hơn, giải thích rõ hơn về quy
định này, hoặc khái niệm về người tiến hành tố tụng. Theo giải thích về mặt khoa
học của PGS.TS. Nguyễn Ngọc Anh thì “người tiến hành tố tụng” là khái niệm
dùng để chỉ những người được bổ nhiệm, được bầu hoặc được phân công để thực
hiện các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, kiểm sát và xét xử theo quy định của
pháp luật, [1, tr.181]. Khi thực hiện nhiệm vụ được phân công, người tiến hành tố
tụng có những nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm theo quy định của pháp luật tố
tụng hình sự. Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng
hoặc bị thay đổi khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 49 Bộ luật
TTHS năm 2015 (trước đây là Điều 42 Bộ luật TTHS năm 2003) nhằm đảm bảo
tính khách quan khi thực hiện nhiệm vụ được phân cơng. Cách giải thích này là phù
hợp với các quy định khác về địa vị pháp lý của ĐTV, [43, tr.47].
Nhiệm vụ, quyền hạn của ĐTV được quy định chi tiết tại Điều 37 Bộ
LTTHS năm 2015 như sau:
- Trực tiếp kiểm tra, xác minh và lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm;
- Lập hồ sơ vụ án hình sự;
- Yêu cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào chữa, yêu cầu cử, thay đổi
người phiên dịch, người dịch thuật;
9


- Triệu tập và hỏi cung bị can, triệu tập và lấy lời khai người tố giác, báo tin
về tội phạm, người bị tố giác, kiến nghị khởi tố, người đại diện theo pháp luật của
pháp nhân, lấy lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người
bị tạm giữ, triệu tập và lấy lời khai của người làm chứng, bị hại, đương sự;

- Quyết định áp giải người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị
tạm giữ, bị can, quyết định dẫn giải người làm chứng, người bị tố giác, người bị
kiến nghị khởi tố, bị hại, quyết định giao người dưới 18 tuổi cho cơ quan, tổ chức,
cá nhân có trách nhiệm giám sát, quyết định thay đổi người giám sát người dưới 18
tuổi phạm tội;
- Thi hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh hoặc quyết định
bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản, phong tỏa tài
khoản, xử lý vật chứng; Tiến hành khám nghiệm hiện trường, khai quật tử thi, khám
nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều
tra;
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Cơ
quan điều tra theo sự phân công của Thủ trưởng Cơ quan điều tra theo quy định của
Bộ luật TTHS. ĐTV phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Thủ trưởng,
Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra về hành vi, quyết định của mình.
Điều luật này đã quy định cụ thể “những nhiệm vụ và quyền hạn” của ĐTV
tương xứng với Điều 34 BLTTHS năm 2015 quy định ĐTV là “người tiến hành tố
tụng” tương tự các chức danh tư pháp thuộc các cơ quan tố tụng khác, như: Kiểm
sát viên của Viện Kiểm sát, Thẩm phán của Toà án,... Các nội dung quy định tại
Khoản 1 về “những nhiệm vụ và quyền hạn” của ĐTV chủ yếu quy định về các biện
pháp điều tra mà ĐTV được phép thực hiện. Khoản 2 của điều luật cũng quy định
rất chung về trách nhiệm của ĐTV là “phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và
trước Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT về hành vi, quyết định của mình”.
Bên cạnh đó tại các điều 45, 46, 47, 48, 49, 50, 51, 54, 56 Luật Tổ chức
CQĐTHS năm 2015 đã quy định: về khái niệm ĐTV; tiêu chuẩn chung của ĐTV;
tiêu chuẩn bổ nhiệm ĐTV sơ cấp, trung cấp, cao cấp; bổ nhiệm ĐTV trong trường
10


hợp đặc biệt; nhiệm kỳ của ĐTV; về những việc ĐTV không được làm; về việc bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức ĐTV.

Như vậy, có thể xác định địa vị pháp lý của ĐTV tương tự các chức danh tư
pháp thuộc các cơ quan tố tụng khác, như: Kiểm sát viên, Thẩm phán... ĐTV là một
trong số những người tiến hành tố tụng, được tiến hành áp dụng một số biện pháp
điều tra theo quy định của luật tố tụng hình sự khi được Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng Cơ quan điều tra phân cơng điều tra vụ án hình sự, phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật về những hành vi và quyết định của mình.
1.1.3. Hoạt động của Điều tra viên
Điều tra là hoạt động thu thập tin, tài liệu, tình hình… phản ánh sự thật về
một tổ chức, con người, sự việc, hiện tượng hoặc mục tiêu, địa bàn, lĩnh vực phục
vụ nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự. Điều tra được tiến hành dưới nhiều hình thức:
Trực tiếp hoặc gián tiếp; cơng khai hoặc bí mật; trên phạm vi rộng (diện) hay hẹp
(điểm), [47, tr.455]. Hoạt động điều tra là hoạt động ban đầu rất quan trọng và hết
sức cần thiết đối với tất cả các vụ án hình sự, để buộc những “dấu vết” của vụ án
phải “lên tiếng”. Theo Pháp luật của nhiều nước và Việt Nam đều quy định những
cơ sở pháp lý đối với hoạt động điều tra như: Hệ thống các CQĐT, thẩm quyền điều
tra, thời hạn điều tra, các biện pháp điều tra, người tiến hành điều tra... Nhưng việc
đưa ra khái niệm chính thức, tổng quát về “hoạt động điều tra” chưa được quy định
trong Bộ luật TTHS. Hiện nay về mặt lý luận, có một số quan điểm khác nhau về
khái niệm “hoạt động điều tra” như sau:
Quan điểm thứ nhất: Điều tra là hoạt động tìm tịi, xét hỏi người, việc để tìm
cho ra sự thật, [28, tr.572].
Quan điểm thứ hai: Về hình sự, điều tra là các cơng cuộc truy tầm thủ phạm,
thâu thập chứng cứ, ghi chép dấu tích, thường được các nhân viên cảnh sát làm
ngay khi việc phạm pháp mới xảy ra, lắm khi chưa có vết tích khả nghi, hãy cịn bị
dư luận bàn tán. Những công việc điều tra gồm: lấy lời khai nhân chứng, lấy khẩu
cung nghi phạm, kiểm soát lý lịch, xét người, khám nhà, bắt giam, [26, tr.422]
Quan điểm thứ ba: Điều tra là giai đoạn tố tụng hình sự, trong đó cơ quan
11



Nhà nước có thẩm quyền áp dụng mọi biện pháp do Bộ luật TTHS quy định để xác
định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội làm cơ sở cho việc xét xử của
Toà án, [46, tr.53]
Quan điểm thứ tư: Điều tra là hoạt động tố tụng của Cơ quan điều tra và
những cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm
xác định tội phạm và người có hành vi phạm tội, lập hồ sơ để đề nghị truy tố, tìm ra
nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng
các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. Hoạt động điều tra phải tơn trọng sự thật,
tiến hành một cách khách quan, tồn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác
định có tội hoặc vơ tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của bị can. Mọi hoạt động điều tra phải tuân theo pháp luật, chấp
hành các nguyên tắc và thủ tục do Bộ luật TTHS quy định, [44, tr.808].
Trong số các quan điểm nêu trên thì quan điểm thứ tư là tương đối đầy đủ,
toàn diện, thể hiện các yếu tố đặc trưng của hoạt động điều tra. Quan điểm này đã
nêu được chủ thể áp dụng các biện pháp điều tra (CQĐT và những cơ quan khác
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra), nêu được các nhiệm vụ
của hoạt động điều tra (xác định tội phạm và người có hành vi phạm tội, lập hồ sơ
đề nghị truy tố, tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội để có những biện pháp
khắc phục, ngăn ngừa), những cơ sở pháp lý cho hoạt động điều tra (BLTTHS, Luật
Tổ chức CQĐTHS), và những nguyên tắc của hoạt động điều tra.
Theo quan điểm của cá nhân thì khái niệm về hoạt động điều tra là hoạt động
của CQĐT và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra nhằm xác định hành vi phạm tội và người đã thực hiện hành vi phạm tội đó,
lập hồ sơ đề nghị truy tố; xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các
cơ quan tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục; tôn trọng sự thật, tiến
hành điều tra một cách khách quan toàn diện, đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác
định có tội và những chứng cứ chứng minh vơ tội, những tình tiết tăng nặng hoặc
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Thực chất hoạt động điều tra là
hoạt động của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng, ĐTV, được áp dụng các biện pháp điều
12



tra do pháp luật TTHS cho phép. Mọi hoạt động điều tra phải tuân theo các nguyên
tắc và thủ tục do pháp luật TTHS quy định, tức là tuân theo các quy định của
BLTTHS và các văn bản hướng dẫn.
Theo quy định của BLTTHS năm 2015, Luật Tổ chức CQĐTHS năm 2015
và các văn bản quy phạm pháp luật khác thì để điều tra vụ án hình sự (VAHS), làm
rõ những vấn đề cần phải chứng minh trong VAHS, CQĐT và ĐTV được tiến hành
các hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật như: “khám nghiệm hiện trường,
khai quật tử thi, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể, khám xét
(người, chổ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện), thu giữ, tạm giữ (thư tín, điện
tín, bưu kiện, bưu phẩm, dữ liệu điện tử), kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, lấy
lời khai người làm chứng, lấy lời khai người bị hại, hỏi cung bị can, đối chất, nhận
dạng, thực nghiệm điều tra, trưng cầu giám định...”
Khi được phân công tiến hành hoạt động khởi tố, điều tra VAHS, ĐTV có
những nhiệm vụ, quyền hạn theo Điều 37 Bộ LTTHS năm 2015 như sau: Trực tiếp
kiểm tra, xác minh và lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm; Lập hồ sơ vụ án
hình sự; Yêu cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào chữa; yêu cầu cử, thay đổi
người phiên dịch, người dịch thuật; Triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lời
khai người tố giác, báo tin về tội phạm, người bị tố giác, kiến nghị khởi tố, người
đại diện theo pháp luật của pháp nhân; lấy lời khai người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ; triệu tập và lấy lời khai của người làm
chứng, bị hại, đương sự; Quyết định áp giải người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp,
người bị bắt, bị tạm giữ, bị can; quyết định dẫn giải người làm chứng, người bị tố
giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại; quyết định giao người dưới 18 tuổi cho cơ
quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm giám sát; quyết định thay đổi người giám sát
người dưới 18 tuổi phạm tội; Thi hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp,
lệnh hoặc quyết định bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài
sản, phong tỏa tài khoản, xử lý vật chứng; Tiến hành khám nghiệm hiện trường,
khai quật tử thi, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể, đối chất, nhận

dạng, thực nghiệm điều tra; Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng khác thuộc
13


thẩm quyền của CQĐT theo sự phân công của Thủ trưởng CQĐT theo quy định của
BLTTHS.
Bên cạnh những nhiệm vụ, quyền hạn nêu trên thì ĐTV còn có trách nhiệm
như sau: Áp dụng các biện pháp theo quy định của BLTTHS và pháp luật khác có
liên quan để điều tra, xác định sự thật vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy
đủ; Tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng CQĐT; Từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong các trường hợp do
BLTTHS quy định; Chấp hành quy định của pháp luật về những việc cán bộ, công
chức hoặc cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân không được làm; Chịu trách
nhiệm trước pháp luật và trước Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT về hành vi,
quyết định của mình; Có mặt tại phiên tịa khi Hội đồng xét xử triệu tập đến phiên
tòa để trình bày các vấn đề liên quan đến vụ án mà mình thụ lý.
Không phải trong bất kỳ vụ án nào CQĐT, ĐTV đều phải sử dụng tất cả các
hoạt động điều tra trong quá trình điều tra VAHS. Trong số các hoạt động điều tra,
chỉ có hoạt động điều tra “khám nghiệm hiện trường” là hoạt động được BLTTHS
quy định rõ là có thể tiến hành trước khi khởi tố VAHS, cịn lại hầu như khơng quy
định thời điểm có thể tiến hành. Tùy thuộc vào yêu cầu điều tra của từng vụ án cụ
thể mà áp dụng các hoạt động điều tra phù hợp, có sự khác nhau về số lượng và thứ
tự tiến hành các hoạt động điều tra.
Trong quá trình điều tra VAHS, CQĐT, ĐTV cùng với việc tiến hành các
hoạt động điều tra, còn được áp dụng các biện pháp ngăn chặn như: bắt người trong
trường hợp khẩn cấp, quả tang, tạm giữ người, bắt bị can để tạm giam và tạm giam
bị can, cấm đi khỏi nơi cư trú, cho người thân, tổ chức của bị can bảo lĩnh, cho đặt
tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm sự có mặt của bị can theo giấy triệu tập. Đối
với các biện pháp ngăn chặn, các hoạt động điều tra quan trọng khác thì ĐTV khơng
có thẩm quyền quyết định mà chỉ có quyền đề xuất, tổ chức thi hành và trực tiếp thi

hành, cụ thể như: Khởi tố vụ án, khởi tố bị can; Bắt khẩn cấp, bắt tạm giam; Tạm
giữ, tạm giam; Kê biên tài sản; Trưng cầu giám định…
Hoạt động điều tra vụ án hình sự của CQĐT, ĐTV là hoạt động tố tụng,
14


đồng thời là hoạt động nghiệp vụ. Để đảm bảo cơng tác điều tra tội phạm đạt hiệu
quả thì CQĐT vừa phải tuân thủ các quy định của pháp luật, vừa áp dụng các biện
pháp nghiệp vụ. Nếu chỉ áp dụng các hoạt động điều tra tố tụng của BLTTHS cho
phép mà không nắm được các biện pháp nghiệp vụ thì hiệu quả điều tra sẽ rất hạn
chế. Ngược lại, nếu chỉ sử dụng biện pháp nghiệp vụ mà bỏ qua các quy định của
BLTTHS thì sẽ dẫn đến vi phạm pháp luật và các thông tin, tài liệu thu thập được sẽ
khơng có giá trị chứng minh tội phạm.
Tóm lại, hoạt động của Điều tra viên trong điều tra vụ án là hoạt động tố
tụng hình sự, nhằm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và
đầy đủ làm cơ sở cho việc truy cứu hay khơng truy cứu trách nhiệm hình sự.
Hoạt động của Cơ quan điều tra, Điều tra viên khi được giao nhiệm vụ tiến
hành điều tra vụ án hình sự, trong giai đoạn điều tra phải đảm bảo tuân thủ các
nguyên tắc cơ bản được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự (từ Điều 7 đến Điều
19 và Điều 21 Bộ luật TTHS năm 2015), cụ thể các nguyên tắc sau: Bảo đảm pháp
chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự; Tơn trọng và bảo vệ quyền con người,
quyền và lợi ích ích hợp pháp của cá nhân; Bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp
luật; Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể; Bảo hộ tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân, danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân;
Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí
mật gia đình, an tồn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của cá nhân; Suy đốn vơ
tội; Khơng ai bị kết án hai lần vì một tội phạm; Xác định sự thật của vụ án; Bảo
đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị
hại, đương sự; Trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
Trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự; Tuân thủ pháp luật trong hoạt động

điều tra.
Hoạt động điều tra trong vụ án hình sự là một hoạt động của Cơ quan điều
tra do Cơ quan có thẩm quyền điều tra vụ án hình sự tiến hành nhằm thu thập đầy
đủ chứng cứ chứng minh về tội phạm. Các hoạt động điều tra chính thức được tiến
hành sau khi có quyết định khởi tố trên cơ sở quyết định khởi tố của cơ quan Nhà
15


nước có thẩm quyền. Hoạt động điều tra phải tơn trọng sự thật, tiến hành một cách
khách quan, toàn diện và đầy đủ; phát hiện chính xác, nhanh chóng mọi hành vi
phạm tội, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vơ tội,
những tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người có
hành vi phạm tội, khơng để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Trong khi
thực hiện nhiệm vụ trong hoạt động điều tra, Cơ quan điều tra có những nhiệm vụ:
áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS quy định để xác định tội phạm và người đã
thực hiện hành vi phạm tội; lập hồ sơ, đề nghị truy tố; tìm ra nguyên nhân, điều kiện
phạm tội; yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục
và ngăn ngừa.
Nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong hoạt động điều tra là nguyên tắc mới
được bổ sung trong BLTTHS năm 2015, theo đó Điều tra viên, Cơ quan điều tra, cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải tuân thủ pháp
luật khi tiến hành hoạt động điều tra theo quy định của BLTTHS năm 2015.
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về Điều tra viên,
hoạt động của điều tra viên
1.2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự trước năm 2015
1.2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1988
Thời kỳ từ 1945 đến 1953, sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra
đời, hoạt động phòng ngừa, điều tra các đối tượng phản cách mạng và tội phạm
khác do các sở Cảnh sát, sở Liêm phóng ở các vùng miền thực hiện. (Sở Liêm
phóng ở miền Bắc, Sở Trinh sát ở miền Trung, Quốc gia tự vệ cuộc ở miền Nam

kiêm cả hoạt động điều tra vụ án hình sự). Để tăng cường đấu tranh chống các đối
tượng phản cách mạng và tội phạm khác, ngày 21/02/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã ban hành Sắc lệnh số 23/SL hợp nhất các sở Cảnh sát và các sở Liêm phóng
thành Việt Nam Cơng an vụ trực thuộc Bộ Nội vụ với nhiệm vụ: (1) Tìm kiếm và
tập trung các tin tức và tài liệu liên can đến sự an toàn của quốc gia hoặc bề trong
hoặc bề ngoài; (2) Đề nghị và thi hành các phương pháp đề phịng những hành động
có thể làm rối việc trị an và mất trật tự trong nước, bất cứ sự hoạt động đó là do
16


người Việt Nam hay ngoại quốc; (3) Điều tra về những hành động trái phép nói trên
và truy tầm người can phạm để giúp Tòa án trong sự trừng trị. Đến ngày 20/7/1946,
Chủ tịch nước ban hành Sắc lệnh số 131/SL quy định về tổ chức Tư pháp Công an
thuộc Bộ Nội vụ, theo đó: “Tư pháp Cơng an có nhiệm vụ truy tầm tất cả các sự
phạm pháp (đại hình, tiểu hình hoặc vi cảnh); sưu tập các tang chứng, bắt người
phạm pháp giao cho các Tòa án xét xử trong phạm vi luật pháp ấn định”, [5, tr.19].
Người chịu trách nhiệm điều tra vụ án hình sự về tội phạm xảy ra thuộc “Ủy viên
Tư pháp Công an”. Cán bộ trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ điều tra, xét hỏi chỉ là
người giúp việc cho Ủy viên Tư pháp Công an, kiêm luôn vai trò chấp pháp, xét
hỏi, [30, tr.165].
Thời kỳ này chưa có văn bản quy định cụ thể về địa vị pháp lý (quyền và
nghĩa vụ tố tụng) của Ủy viên Tư pháp Công an, nhưng thực tế thẩm quyền của tổ
chức Tư pháp Công an là rất lớn. Người thi hành, thay mặt tổ chức Tư pháp Công
an là Ủy viên Tư pháp Công an có thẩm quyền trực tiếp tổ chức thực hiện việc truy
tầm tất cả sự phạm pháp, sưu tầm các tang chứng, bắt giao người phạm pháp cho
các tòa án xét xử…, không cần thông qua Cơ quan kiểm sát hoặc Viện công tố thẩm
định, xem xét trước. Trong hoạt động điều tra hình sự, các Ủy viên Tư pháp Công
an không được độc lập, mà phải tuân thủ sự chỉ đạo của các viên chức có thẩm
quyền của ngành Tòa án, còn cán bộ điều tra là người giúp việc cho Ủy viên Tư
pháp Cơng an, kiêm vai trị chấp pháp, xét hỏi bị can.

Thời kỳ từ 1953 đến 1981, khi bộ máy Công an thành lập Cơ quan Chấp
pháp (theo sắc lệnh số 141/SL ngày 16/02/1953 của Chủ tịch Hồ Chí Minh) là cơ
quan chuyên trách điều tra hình sự, có nhiệm vụ điều tra, lập hồ sơ đề nghị truy tố
các vụ phạm tội phản cách mạng và hình sự khác. Lúc này, trách nhiệm và quyền
hạn điều tra hình sự thực chất thuộc về Cục trưởng, Trưởng ban, Trưởng phòng
chấp pháp (người đại diện cho Cơ quan Chấp pháp), còn cán bộ làm nhiệm vụ trực
tiếp điều tra thực tế thường được gọi là “cán bộ Chấp pháp”, nhưng chức danh “cán
bộ Chấp pháp” gần như chưa được đề cập trong luật.
Thời kỳ này, cán bộ Chấp pháp làm việc với tư cách giúp việc cho Cục
17


trưởng, Phó Cục trưởng Cục Chấp pháp ở Bộ, Trưởng phòng, Phó Trưởng phịng
Chấp pháp ở địa phương. Địa vị pháp lý của người trực tiếp tiến hành các hoạt động
điều tra - cán bộ Chấp pháp, chưa được quy định trong luật, nhưng thực tế là người
trực tiếp thực hiện gần như tất cả các trách nhiệm và quyền hạn điều tra hình sự
thuộc về Cục trưởng, Trưởng phịng chấp pháp.
Thời kỳ từ 1981 đến 1988, lực lượng Công an thành lập Cơ quan An ninh
điều tra xét hỏi và Cơ quan Cảnh sát điều tra xét hỏi theo Nghị định số 250/HĐCP
ngày 12/6/1981 của Hội đồng Chính phủ. Trong đó xác định, nhiệm vụ, quyền hạn
của Cục và Phòng An ninh điều tra xét hỏi là thụ lý điều tra xét hỏi các vụ án xâm
phạm an ninh quốc gia, Cục và Phòng Cảnh sát điều tra xét hỏi thụ lý điều tra xét
hỏi các vụ án hình sự khác. Những cán bộ làm nhiệm vụ điều tra thực tế được gọi là
“cán bộ xét hỏi”, cũng là người gần như thực hiện toàn bộ các hoạt động điều tra,
nhưng các quy định về thẩm quyền và trách nhiệm của “cán bộ xét hỏi” cũng chưa
được đề cập trong các văn bản pháp lý, pháp luật giai đoạn này chưa có quy định về
chức danh tư pháp trong hoạt động điều tra.
Nói chung, trong ba giai đoạn trên, pháp luật chỉ thừa nhận thẩm quyền và
nhiệm vụ điều tra tố tụng hình sự thuộc về CQĐT (Tư pháp Công an, Vụ chấp pháp
ở Thứ Bộ Công an, Ban Chấp pháp ở Ty Cơng an tỉnh...), chưa có tên gọi có tính

pháp lý đối với người làm nhiệm vụ điều tra tội phạm, mà chỉ được gọi chung là cán
bộ Công an, cán bộ Chấp pháp hoặc cán bộ Xét hỏi. Hoạt động điều tra của người
tiến hành hoạt động điều tra có thể do bất kỳ người nào trong cơ quan Công an hoặc
cơ quan Chấp pháp mà khơng cần có danh nghĩa pháp lý, khơng cần được bồ
nhiệm. Khái niệm về nhân viên điều tra hay ĐTV chưa được đề cập trong thực tiễn
và pháp luật tố tụng hình sự, các hành vi điều tra, thậm chí là các văn bản tố tụng
thường do họ lập ra nhưng không được ký xác nhận. Điều này không phản ánh sự
chun mơn hố trong hoạt động điều tra, [22, tr.82,83].
1.2.1.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước năm 2003
Trong Bộ luật TTHS đầu tiên được Quốc hội khoá VIII thông qua ngày
28/6/1988 (BLTTHS năm 1988) và Pháp lệnh TCĐTHS năm 1989 lần đầu tiên đã
18


quy định tên gọi, xác định chức danh “Điều tra viên” để chỉ người trực tiếp tiến
hành các hoạt động điều tra trong Cơ quan điều tra.
Các điều 27, 94, 101, 102, 107, 108, 110, 113, 114, 120, 125, 126, 127, 131...
BLTHS năm 1988 là cơ sở pháp lý đầu tiên xác định quyền hạn và trách nhiệm của
ĐTV trong các hoạt động điều tra. Có thể khái quát địa vị pháp lý của ĐTV theo
luật TTHS giai đoạn này như sau:
- ĐTV là người tiến hành tố tụng chứ khơng phải là Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng Cơ quan điều tra theo quy định tại Khoản 2 Điều 27 BLTTHS năm 1988.
Nhưng căn cứ Điều 94 BLTTHS năm 1988 và các điều 22, 24 Pháp lệnh TCĐTHS
năm 1989 thì cũng có thể cho rằng, luật TTHS giai đoạn này đang cùng một lúc
thừa nhận tư cách tiến hành tố tụng của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều
tra và ĐTV.
- Hoạt động điều tra của ĐTV trong giai đoạn khởi tố, điều tra là để đảm bảo
việc truy tố, xét xử người phạm tội có căn cứ và đúng pháp luật. Quy trình của việc
giải quyết vụ án hình sự là sau khi nhận được các tin tức về tội phạm và người
phạm tội từ các nguồn khác nhau, ĐTV được phân cơng có trách nhiệm xác minh

tin tức đó nhằm xác định có hay khơng có dấu hiệu tội phạm để làm cơ sở cho việc
đề xuất với Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT ra quyết định khởi tố VAHS hoặc
quyết định không khởi tố VAHS, làm căn cứ cho các hoạt động điều tra tiếp theo.
- Khi được phân công điều tra vụ án, ĐTV là người có quyền tiến hành các
biện pháp điều tra do BLTTHS năm 1988 quy định và phải chịu trách nhiệm về các
hoạt động điều tra của mình theo quy định tại các điều 92, 93, 94 BLTTHS năm
1988. ĐTV có thẩm quyền quyết định một số hoạt động điều tra nhằm thu thập
chứng cứ chứng minh có tội phạm xảy ra hay không, ai là người thực hiện tội phạm
và những tình tiết khác của vụ án, như: Tiến hành hỏi cung bị can; lấy lời khai
người làm chứng; đối chất; nhận dạng; tạm giữ đồ vật, tài liệu khi khám xét; khám
nghiệm hiện trường; khám nghiệm tử thi; xem xét dấu vết trên thân thể... Còn các
hoạt động điều tra quan trọng khác, các biện pháp ngăn chặn thì ĐTV chỉ là người
có quyền đề xuất hoặc thi hành, khơng có thẩm quyền quyết định.
19


- ĐTV do Thủ trưởng cơ quan quản lý từ cấp tỉnh hoặc cấp quân khu trở lên
bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Thủ trưởng Cơ quan điều tra cùng cấp (quy
định tại các điều 24, 25 Pháp lệnh TCĐTHS năm 1989). Đã có quy định một số tiêu
chuẩn nhất định về phẩm chất, về trình độ văn hố, về trình độ nghiệp vụ, pháp luật,
kinh nghiệm cơng tác điều tra đối với từng bậc ĐTV cụ thể (quy định tại các điều
23, 25 Pháp lệnh TCĐTHS năm 1989).
Nhìn chung, pháp luật TTHS giai đoạn này đã có những quy định quan trọng
đối với hoạt động điều tra nói chung và Điều tra viên - người tiến hành tố tụng, trực
tiếp thực hiện nhiệm vụ điều tra nói riêng. Nhưng những quy định về ĐTV trong
luật TTHS giai đoạn này khơng đồng bộ, thiếu nhất qn và có nhiều điểm khơng
phù hợp với thực tiễn. Có quy định có thể hiểu thành nhiều cách khác nhau, thậm
chí có những quy định triệt tiêu hiệu lực của nhau.
1.2.1.3. Giai đoạn từ năm 2003 đến trước năm 2015
Theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2003 và Pháp lệnh TCĐTHS năm

2004, căn cứ vào các nhiệm vụ của CQĐT, theo quy định của luật TTHS, chức
năng, nhiệm vụ của ĐTV như sau:
- Khi được phân công tiến hành điều tra vụ án phải đảm bảo việc áp dụng các
biện pháp điều tra theo đúng quy định của BLTTHS để mọi hành vi phạm tội đều
được phát hiện, điều tra, không để lọt người phạm tội, không làm oan người vô tội.
- Khi thực hiện biện pháp điều tra phải tôn trọng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của cơng dân, thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những
biện pháp đã áp dụng, kịp thời đề xuất hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó,
nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc khơng còn cần thiết.
- Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can trong giai đoạn điều
tra.
- Khi thi hành quyết định, lệnh của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT trong
việc bắt người, tạm giữ, tạm giam và áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác trong
hoạt động điều tra phải theo đúng trình tự, thủ tục mà BLTTHS đã quy định.
- Thực hiện nghiêm các yêu cầu, quyết định, mệnh lệnh của Thủ trưởng.
20


×