Tải bản đầy đủ (.docx) (132 trang)

Dịch vụ giao nhận hàng nhập khẩu bằng đường biển của công ty cổ phần logistics vinalink

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (673.69 KB, 132 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại hiện nay, khi đất nước đang vươn tầm để hội nhập cùng thế giới
thì dịch vụ giao nhận càng ngày càng phát triển và đóng vai trị quan trọng trong hoạt
động kinh tế. Việc gia nhập ASEAN (1995), ASEM (1996), APEC (1997), bình
thương hóa quan hệ với Hoa Kỳ, gia nhập WTO (2006), đã mở ra một thời kỳ mới,
tạo ra nhiều cơ hội phát triển nền kinh tế nước ta, hội nhập kinh tế với các nước trên
thế giới, thương mại quốc tế ngày một đa dạng và phát triển mạnh mẽ, kéo theo đó là
nhu cầu về vận tải, kho bãi. Trong xu thế đó, các dịch vụ giao nhận ngày càng được
quan tâm và phát triển mạnh mẽ.
Dịch vụ giao nhận là ngành chiến lược hỗ trợ cho phát triển kinh tế, khơng chỉ
góp phần vào phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng cơ sở như cảng biển, hệ thống giao
thơng mà cịn làm tăng tính cạnh tranh của một quốc gia trên thị trường quốc tế. Giao
nhận vận tải hàng hóa bằng đường biển là một khâu quan trọng trong dịch vụ logistics.
Trong thương mại quốc tế, trên 3/4 khối lượng hàng hóa được giao nhận và vận
chuyển bằng đường biển. Đặc biệt đối với Việt Nam là một quốc gia có bờ biển dài,
nằm ngay cạnh biển Đông - một “cầu nối” thương mại đặc biệt quan trọng trên bản
đồ hàng hải thế giới, hệ thống sơng ngịi chằng chịt, có biên giới với Trung Quốc,
Lào, Campuchia, nằm ở vị trí như một lan can nhìn ra biển, khu vực. Bên cạnh đó,
trong những năm qua, khối lượng nhập khẩu của Việt Nam với các nước trên thế giới
tương đối lớn, dịch vụ giao nhận hàng nhập khẩu bằng đường biển ngày một được
quan tâm và phát triển. Đối với các doanh nghiệp, giao nhận được coi là công cụ liên
kết các lĩnh vực với nhau đồng thời giải quyết cả đầu vào lẫn đầu ra cho doanh nghiệp,
tối ưu hố q trình vận chuyển, giúp giảm chi phí, và tăng khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp.

1


Công ty Cổ phần Logistics Vinalink (Vinalink) được thành lập theo quyết định
của Bộ trưởng Bộ Thương mại trên cơ sở cổ phần hóa một phần Cơng ty Giao nhận


Kho vận Ngoại thương thành phố Hồ Chí Minh (Vinatrans) và chính thức họat động
theo mơ hình cơng ty cổ phần từ ngày 01/09/1999 với ngành nghề kinh doanh chủ
yếu là các dịch vụ logistics, giao nhận và kho bãi. Trong các năm qua, công ty đã
không ngừng phát triển và mở rộng mơ hình kinh doanh ra các tỉnh thành trên cảnước, hiện
cơng ty có 15 chi nhánh và văn phòng đại diện trên cả nước, mang lại sự
tin tưởng, hài lịng cho khách hàng. Điều này góp phần nâng cao vị thế ngành logistics
của Việt Nam trên trường quốc tế. Trong giai đoạn 2016 - 2018, công ty đã đạt được
những thành tựu đáng kể về doanh thu cũng như áp dụng các công nghệ vào dịch vụ.
Tuy nhiên, bên cạnh đó cơng ty cịn gặp nhiều hạn chế và khó khăn trong cung cấp
dịch vụ giao nhận hàng nhập khẩu bằng đường biển như: hệ thống phần mềm nghiệp
vụ chưa đáp ứng được các yêu cầu dịch vụ mang tính chuyên nghiệp cao, cơ sở vật
chất chưa đủ để tích họp các dịch vụ, nguồn cho chức danh nhân viên kinh doanh và
cán bộ quản lý chủ chốt, chất lượng còn hạn chế, mối quan hệ với các đại lý... dẫn
đến tình trạng bị giảm sức cạnh tranh trên thị trường, hiệu quả hoạt động, mức tăng
trưởng hằng năm của dịch vụ khơng cao, có xu hướng giảm.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài tài “Dịch vụ giao nhận
hàng nhập khẩu bằng đường biển của Công ty cỗ phần Logistics Vinalink” làm
đề tài khố luận tốt nghiệp, dựa trên những phân tích về thực trạng dịch vụ giao nhận
hàng nhập khẩu bằng đường biển của công ty nhằm đưa ra những giải pháp giúp công
ty phát huy được những điểm mạnh và khắc phục nhưng điểm yếu nhằm xây dựng và
phát triển dịch vụ giao nhận hàng nhập khẩu bằng đường biển của công ty trong thời
gian tới, phù họp với sự phát triển của thị trường.
2. Đối tượng và mục đích nghiên cứu
2.1.

Đối tượng nghiên cứu

Dịch vụ giao nhận hàng nhập khẩu bằng đường biển tại Công ty cổ phần
Logistics Vinalink (Vinalink).
2.2.


Mục đích nghiên cứu

Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn về dịch vụ giao nhận bằng đường biển của
doanh nghiệp cũng như thực trạng hoạt động của Công ty cổ phần Logistics Vinalink
đề xuất giải pháp nhằm đẩy mạnh dịch vụ giao nhận hàng nhập khẩu bằng đường biển
2


của của công ty.
Đe thực hiện mục tiêu trên, đề tài thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Tổng quan có chọn lọc cơ sở lý thuyết về dịch vụ giao nhận bằng đường biển
trong doanh nghiệp;

3


-

Phân tích, đánh giá thực trạng dịch vụ giao nhận hàng nhập khẩu bằng đường
biển của Công ty cổ phần Logistics Vinalink;

-

Đe xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh dịch vụ giao nhận hàng nhập khẩu
bằng đường biển của Công ty cổ phần Logistics Vinalink.

3. Phạm vi nghiên cứu
-


Không gian: Công ty cổ phần Logistics Vinalink.

-

Thời gian: Nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về dịch vụ giao nhận
hàng hóa nhập khẩu bằng đường biển tại Cơng ty cổ phần Logistics Vinalink
Vinalink từ năm 2016 đến năm 2018.

4. Phương pháp nghiên cứu
4.1.

Sử dụng phương pháp thống kê mô tả

Phương pháp thống kê mô tả được sử dụng để mơ tả những đặc tính cơ bản của
dữ liệu thu thập được từ nghiên cứu thực nghiệm qua các cách thức khác nhau. Trong
bài nghiên cứu tác giả đã sử dụng phương pháp thống kê mô tả nhằm phân tích tình
hình sản xuất, kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng nhập khẩu bằng đường biển tại
Công ty Cổ phần Logistics Vinalink thông qua các dữ liệu được tổng kết lại trong q
trình hoạt động của cơng ty như: Báo cáo tài chính của cơng ty trong giai đoạn 20162018, báo cáo thường niên của công ty trong giai đoạn 2016-2018, Đại hội đồng cổ
đông thường niên,...
4.2.

Sử dụng phương pháp so sánh

Phương pháp này được sử dụng để phân tích bản chất của vấn đề thông qua việc
so sánh các vấn đề với nhau, trong bài nghiên cứu tác giả đã sử dụng phương pháp
này nhằm đánh giá hiệu quả dich vụ giao nhận hàng nhập khẩu bằng đường biển tại
cơng ty thơng qua việc: so sánh tình hình hoạt động kinh doanh của công ty qua các
năm trong khoảng thời gian từ năm 2016-2018, so sánh kết quả hoạt động của hoạt
động logistics qua các năm từ năm 2016-2018,....

4.3.

Sử dụng phương pháp nghiên cứu lỷ thuyết

4


Phương pháp này dùng trong nghiên cứu khoa học với mục đích tổng họp lý
thuyết về vấn đề nghiên cứu, thơng qua đó làm tiền đề, cơ sở cho những nghiên cứu
của tác giả. Trong bài nghiên cứu tác giả đã sử dụng phương pháp này nhằm mục
đích: tổng họp lý thuyết về giao nhận nói chung và lý thuyết về giao nhận trong
doanhnghiệp,., làm cơ sở lý luận và làm tiền đề cho những nghiên cứu trong bài khoá luận.
5. Ket cấu của khố luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận gồm 3
chuơng:
Chương 1: Cơ sở lý luận về giao nhận hàng nhập khẩu bằng đường biển
Chương 2: Thực trạng dịch vụ giao nhận hàng nhập khẩu bằng đường biển
tại Công ty cỗ phần Logistics Vinalink giai đoạn 2016 - 2018
Chương
bằng
đường
3: Giải
biển
pháp
tại Công
nhằmty
đẩy
cỗ mạnh
phần Logistics
dịch vụ giao

Vinalink
nhận hàng nhập khẩu

5


CHƯƠNG 1: Cơ SỞ LÝ LUẬN VÈ GIAO NHẬN HÀNG NHẬP KHẨU
BẰNG ĐƯỜNG BIỂN
1.1.

Vấn đề chung về logistics

1.1.1.

Khái niệm

Logistics là gì? Đây là một khái niệm vẫn cịn mới mẻ đối với phần lớn người
Việt Nam, tuy nhiên trên thế giới thuật ngữ “logỉstỉcs ” đã xuất hiện từ lâu. Lúc mới
đầu du nhập vào Việt Nam, nhiều người cho rằng logistics là hậu cần hay tiếp nhận
hoặc tổ chức dịch vụ cung ứng,... Hiện có nhiều định nghĩa khác nhau về logistics.
Ngay từ giai đoạn đầu mới xuất hiện thuật ngữ logistics người ta đã đưa ra khái
niệm như sau: “Logỉstỉcs là hoạt động quản lý quá trình vận chuyển và lưu kho của:
Nguyên vật liệu đi vào xỉ nghiệp; Hàng hóa, bán thành phẩm trong q trình sản
xuất; Sản phẩm cuối cùng đi ra khỏi xỉ nghiệp ” (GS,TS Hoàng Văn Châu, 2009, tr.6).
Theo Hội đồng quản lý logistics Hoa Kỳ (Council of logistics Management CLM): “Logỉstỉcs là quá trình lập kế hoạch, tổ chức thực hiện và kiểm sốt q trình
lưu chuyển, dự trữ hàng hóa, dịch vụ và những thông tin liên quan từ điểm xuất phát
đầu tiên đến nơi tiêu thụ cuối cùng sao cho hiệu quả và phù hợp với yêu cầu của
khách hàng” (GS,TS Hoàng Văn Châu, 2009, tr.6).
Theo Hiệp hội các nhà chuyên nghiệp về quản trị chuỗi cung ứng (Council of
Supply Chain Management Professionals - CSCMP): “Logỉstỉcs là một phần của quá

trình cung cấp dây chuyền bao gồm lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm sốt hiệu
quả, lưu thơng hiệu quả và lưu giữ các loại hàng hóa, dịch vụ có liên quan đến thơng
tin và điểm cung cấp cơ bản đến các điểm tiêu thụ để đáp ứng nhu vầu của khách
hàng”.
Luật thương mại Việt Nam năm 2005 không đưa ra khái niệm “logỉstỉcs” mà
đưa ra khái niệm 'r'dịch vụ logỉstỉcs” như sau: “Dịch vụ logỉstỉcs là hoạt động thương
mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công đoạn bao gồm nhận
hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư
vẩn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác
có liên quan đến hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao ” (Điều
233 - Luật Thương mại Việt Nam năm 2005).


Qua các khái niệm trên, ta thấy rằng sự khác nhau về từ ngữ và cách diễn đạt,
nhung các tác giả đều cho rằng: Logistics là hoạt động quản lý dòng lun chuyển của
nguyên vật liệu từ khâu mua sắm qua quá trình lun kho, sản xuất ra sản phẩm và phân
phối đến tay nguời tiêu dùng. Mục đích là giảm tối đa chi phí phát sinh hoặc sẽ phát
sinh với một thời gian ngắn nhất trong quá trình vận động của nguyên vật liệu phục
vụ sản xuất cũng nhu phân phối hàng hóa một cách kịp thời.
1.1.2.

Vai trị của logistics

Logistics nhu định nghĩa ở trên là cầu nối giữa thị truờng và hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Phạm vi của logistics bao trùm lên toàn bộ hoạt động của
doanh nghiệp, từ việc quản lý nguyên vật liệu đến việc giao sản phẩm cho khách
hàng. Tổng chi phí logistics toàn cầu hàng năm chiếm 14% GDP của thế giới. (GS,TS
Hồng Văn Châu, 2009, tr.17).
Logistics có chức năng rất rộng và có ảnh huởng rất lớn đến tồn xã hội. Trong
thời đại ngày nay nguời ta luôn mong muốn những dịch vụ hồn hảo và điều đó sẽ

đạt đuợc khi phát triển logistics. (GS,TS Hoàng Văn Châu, 2009, tr. 17).
Logistics ngày càng đuợc coi trọng vì các nguyên nhân khác nhau nhu công
nghệ thông tin phát triển, các tổ chức ngày càng coi trọng việc phục vụ khách hàng,
các khái niệm tiếp cận hệ thống (system approach) và tổng chi phí (total cost), địn
bẩy lợi nhuận từ logistics (Prlt Leverage from Logistics) ngày càng đuợc nhiều
nguời công nhận, và nhiều nguời ngày càng nhận thấy rằng logistics có thể đuợc sử
dụng nhu một vũ khí chiến luợc trong cạnh tranh trên thị truờng. (GS,TS Hoàng Văn
Châu, 2009, tr.18).
Tác động của địn bẩy lợi nhuận (Prit Leverage) của logistics thể hiện ở chỗ:
1 USD tiết kiệm đuợc trong chi phí logistics có tác động lớn hơn nhiều đến khả năng
thu lợi nhuận của tổ chức so với việc tăng 1 USD trong doanh số bán hàng. Neu tăng
1 USD doanh số bán hàng khơng có nghĩa là tăng 1 USD lợi nhuận. (GS,TS Hoàng
Văn Châu, 2009, tr.18).


Tiếp cận hệ thống (System approach) là khái niệm then chốt trong logistics.
Bản thân logistics là một hệ thống của nhiều hoạt động liên quan nhằm mục đích quản
lý một cách trật tụ dòng luân chuyển vật tu và nhân lục trong kênh logistics. Tiếp cận
hệ thống quy định bằng mọi chức năng hay hoạt động cần đuợc hiểu theo nghĩa chúngtác
động tới và bị tác động như thế nào bởi các yếu tố khác mà chúng có quan hệ
tưong hỗ. (GS,TS Hồng Văn Châu, 2009, tr.18).
Neu chỉ nhìn vào các hoạt động một cách riêng lẻ thì khơng thấy được cái toàn
cục; kết quả của hàng chuỗi hoạt động sẽ lớn hơn nhiều so với kết quả của từng hoạt
động riêng biệt. Đe đáp ứng việc thực hiện các đơn hàng của khách hàng, nếu duy trì
lượng hàng dự trữ lớn sẽ làm tăng chi phí dự trữ hàng trong kho, làm tăng rủi ro hàng
bị lạc hậu, mất giá vơ hình. Đe thấy được phải hồn thiện hoạt động của tổ chức ở
những khâu nào, lĩnh vực nào, tồn bộ hệ thống của đơn vị đó phải được xem xét một
cách toàn diện, tổng thể. (GS,TS Hoàng Văn Châu, 2009, tr.18).
Tiếp cận hệ thống là then chốt để hiểu vai trò của logistics trong nền kinh tế,
vai trò của logistics đối với một tổ chức, đơn vị và hiểu giao diện của logistics trong

marketing, trong khái niệm tổng chi phí và chiến lược logistics. (GS,TS Hồng Văn
Châu, 2009, tr.18).
1.1.2.1.

Vai trò của logỉstỉcs đối với nền kỉnh tế quốc dân

Logỉstỉcs đóng vai trị quan trọng trong nền kỉnh tế, thể hiện ở hai mặt:
Thứ nhẩt, logistics là một trong những khoản chi phí lớn cho kinh doanh, do
vậy nó có tác động tới và chịu tác động bởi các hoạt động kinh tế khác.
Thứ hai, logistics hỗ trợ cho dòng luân chuyển của nhiều giao dịch kinh tế,
một số hoạt động quan trọng tạo thuận lợi cho việc bán hầu hết các loại hàng hóa và
dịch vụ.
Logistics tạo ra giá trị gia tăng bằng cách tạo ra “các tiện ích”. Theo quan điểm
kinh tế, việc sử dụng thể hiện giá trị và sự hữu ích của một mặt hàng hay dịch vụ nào
đó trong việc đáp ứng một yêu cầu nào đó của người sử dụng. Logistics đưa ra 4 tiện
ích:
-

Tiện ích về hình dáng, mẫu mã;

-

Tiện ích về sở hữu;

-

Tiện ích về thời gian;

-


Tiện ích về địa điểm.


Tiện ích về hình dáng, mẫu mã và tiện ích về sở hữu không liên quan cụ thể
tới logistics, nhưng khơng thể đạt được hai loại tiện ích này nếu khơng có được đúng
loại sản phẩm cần thiết cho tiêu dùng hay sản xuất tại đúng thời điểm vào đúng thờigian với
đúng điều kiện và đúng giá cả, đó là “5 chữ đúng” của Logistics, là cốt lõi
của 2 loại tiện ích do logistics trực tiếp mang lại là: tiện ích về thời gian và tiện tích
địa điểm. (GS,TS Hoàng Văn Châu, 2009, tr.20).
Tiện ích thời gian: là giá trị gia tăng khi có đuợc một sản phẩm nào đó vào
đúng lúc cần nó. Tiện ích về thời gian có thể xảy ra trong một đơn vị, cũng có thể xảy
ra trên thị truờng. Một sản phẩm chẳng giúp ích cho nguời nào đó khơng có đuợc sản
phẩm đó vào đúng lúc anh ta cần nó. (GS,TS Hồng Văn Châu, 2009, tr.20).
Neu khơng có tiện ích thời gian và tiện ích địa điểm do logistics mang lại, sẽ
không thỏa mãn đuợc yêu cầu của khách hàng.
Nhu vậy nếu hàng hóa, dịch vụ bị ách tắc ở khâu nào đó trong sản xuất, trong
hru thơng ở một nơi nào đó vào một thời điểm nào đó mà khơng đạt đuợc “5 chữ
đúng” trong logistics đều gây thiệt hại cho hoạt động logistsics nói riêng và cho nền
kinh tế nói chung. (GS,TS Hồng Văn Châu, 2009, tr.20).
Neu xem xét ở góc độ tổng thể, logistics là mối liên kết kinh tế xuyên suốt gần
nhu tồn bộ q trình sản xuất, hru thơng và phân phối hàng hóa.
Logistics hỗ trợ cho luồng chu chuyển các giao dịch kinh tế. Nen kinh tế chỉ
có thể phát triển nhịp nhàng, đồng bộ một khi dây chuyền logistics hoạt động liên tục,
nhịp nhàng. (GS,TS Hoàng Văn Châu, 2009, tr.21).
Hàng loạt các hoạt động kinh tế liên quan diễn ra trong chuỗi logistics, theo đó
các nguồn tài nguyên đuợc biến đổi thành sản phẩm và điều quan trọng là giá trị đuợc
tăng lên cho cả khách hàng lẫn nguời sản xuất, giúp thỏa mãn nhu cầu của mỗi nguời.
(GS,TS Hồng Văn Châu, 2009, tr.21).
1.1.2.2.


Vai trị của logỉstỉcs đối với doanh nghiệp

Đối với các doanh nghiệp, logistics có vai trò rất to lớn, logistics giúp giải
quyết đầu ra lẫn đầu vào của doanh nghiệp một cách hiệu quả. Nhờ có thể thay đổi
các nguồn tài nguyên đầu vào hoặc tối uu hóa quy trình chu chuyển ngun vật liệu,
hàng hóa, dịch vụ,... Logistics giúp giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh cho doanh
nghiệp. Có nhiều doanh nghiệp thành cơng lớn nhờ có đuợc chiến luợc và hoạt động
logistics đúng đắn, nguợc lại có khơng ít doanh nghiệp khó khăn, thậm chí thất bại,


phá sản do có những quyết định sai lầm trong hoạt động logistics.


Ngày nay để tìm được vị trí tốt hơn, kinh doanh hiệu quả hơn, các tập đoàn đa
quốc gia, các công ty nhỏ đủ mạnh đã và đang nỗ lực tìm kiếm trên tồn cầu nhằm
tìm kiếm được nguồn ngun liệu, nhân cơng, vốn, bí quyết cơng nghệ, thị trường
tiêu thụ, môi trường kinh doanh,... tốt nhất và thế là logistsic tồn cầu hình thành và
phát triển.
Ngồi ra, logistics cịn hỗ trợ đắc lực cho hoạt động marketing, đặc biệt là
marketing hỗ họp (4P - Right Product, Right Price, Proper Promotion, and Right
Place). Chính logistics đóng vai trị then chốt trong việc đưa sản phẩm đến đúng nơi
cần đến, vào đúng thời điểm thích họp. Sản phẩm/dịch vụ chỉ có thể làm thỏa mãn
khách hàng và có giá trị khi và chỉ khi nó đến được với khách hàng đúng thời hạn và
địa điểm quy định.
1.2.

Dịch vụ giao nhận

1.2.1.


Khái niệm về dịch vụ giao nhận

Dịch vụ giao nhận là một phần quan trọng trong chuỗi giá trị vận tải và
logistics. Chi phí giao nhận thường chiếm tới hơn 1/3 tổng chi phí của logistics, muốn
giảm chi phí của logistics phải giảm chi phí khấu hao giao nhận vận tải từ nơi sản
xuất tới nơi tiêu thụ khác nhau trên thị trường. Việc giao nhận phải đảm bảo về thời
gian giao hàng, đảm bảo cung ứng nguyên vật liệu cho sản xuất kịp thời, đúng lúc.
Từ đó giảm đến mức thấp nhất chi phí, thiệt hại do lưu kho, tồn đọng sản phẩm để
làm giảm chi phí logistics nói chung.


Trong sản xuất kinh doanh, một doanh nghiệp khó có thể tự mình thỏa mãn
nhu cầu về giao nhận vận tải, trên thực tế, nhu cầu này phổ biến do người giao nhận
đáp ứng. Người cung cấp dịch vụ giao nhận hoạt động hoàn toàn độc lập cho nên
cũng độc lập trong việc thu lợi nhuận từ việc cung cấp dịch vụ theo yêu cầu của các
doanh nghiệp. Người kinh doanh dịch vụ giao nhận chuyên cung cấp các dịch vụ cho
các doanh nghiệp được gọi là nhà trung gian chuyên nghiệp. Một kênh logistics có
thể được tạo ra bởi một số nhà trung gian chuyên nghiệp như người giao nhận (Freight
Forwarders); người kinh doanh vận tải công cộng không có tàu (Non vessel operating
common Carries - NVOCC); Các cơng ty quản lý xuất khẩu (Export management
companies - EMCs); Các công ty thương mại xuất khẩu (Export trading companies ETCs) hay người đóng gói hàng xuất khẩu hoặc mơi giới hải quan,... và sự thành bạicủa mỗi
nhà trung gian chuyên nghiệp đuợc quyết định bởi sụ thành bại của toàn bộ
kênh logistics và là bộ phận có vai trị quan trọng trong hoạt động chuỗi logistics.
Giao nhận là tổng thể các loại hình phuơng thức vận tải nhằm mục đích vận
chuyển hàng hóa từ nơi này đến nơi khác để đạt đuợc các mục tiêu thuơng mại của
các bên. Trong buôn bán quốc tế, nguời bán và nguời mua ở những nuớc khác nhau.
Do đó, nguời giao nhận đảm nhận việc di chuyển hàng hóa giữa nguời mua và nguời
bán, đây là một khâu rất quan trọng, bảo đảm hàng hóa đến tay nguời mua, việc họp
đồng mua bán có thục hiện đuợc hay không phụ thuộc rất nhiều vào khâu này. Đe
cho q trình vận chuyển đó bắt đầu đuợc, tiếp tục đuợc và kết thúc đuợc, tức là hàng

hóa đến tay nguời mua đuợc, cần phải thục hiện hàng loạt các cơng việc khác liên
quan đến q trình chun chở nhu: đóng gói, bao bì, luu kho, đua hàng ra cảng, làm
thủ tục gửi hàng, xếp hàng lên tàu, chuyển tải hàng hóa ở dọc đuờng, dỡ hàng ra khỏi
tàu và giao cho nguời giao nhận... Những công việc đó đuợc gọi là dịch vụ giao nhận.
Dịch vụ giao nhận (Freỉght Forwardỉng), theo “Quy tắc mẫu của FIATA về
dịch vụ giao nhận”, là bất kỳ loại dịch vụ nào liên quan đến vận chuyển, gom hàng,
lưu kho, bốc xếp, đóng gói hay phân phối hàng hóa cũng như dịch vụ tư vẩn hay có
liên quan đến các dịch vụ trên, kể các các vẩn đề hải quan, tài chỉnh, mua bảo hiểm,
thanh toán, thu thập chứng từ liên quan đến hàng hóa. (GS,TS Hồng Văn Châu,
2009, tr.129).
Nhu vậy về cơ bản, giao nhận hàng hóa là tập họp những cơng việc có liên
quan đến q trình vận tải nhằm thục hiện việc di chuyển hàng hóa từ nơi gửi hàng


(nguời gửi hàng) đến nơi nhận hàng (nguời nhận hàng).
1.2.2.

Nội dung cơ bản của dịch vụ giao nhận

Nghiệp vụ giao nhận truyền thống:
-

Chủ yếu là các khâu nghiệp vụ do chủ hàng trục tiếp thục hiện nghĩa vụ của
mình đuợc quy định trong họp đồng, bao gồm:

-

Tổ chức chuyên chở, xếp dỡ hàng hóa từ nơi sản xuất đến các điểm đầu mối
vận tải và nguợc lại;


-

Lập các chứng từ có liên quan đến giao nhận vận chuyển nhằm bảo vệ quyền
lợi của chủ hàng;


-

Theo dõi và giải quyết những khiếu nại về hàng hóa trong q trình giao nhận
vận ta, đồng thời thanh tốn các chi phí có liên quan đến giao nhận.
Nghiệp vụ giao nhận quốc tế - Dịch vụ giao nhận:

-

Trừ truờng họp nguời gửi hàng (hoặc nguời nhận hàng muốn tụ mình thục
hiện bất cứ khâu thủ tục và chứng từ nào), cịn lại thơng thuờng nguời giao nhận thay
mặt chủ hàng lo liệ q trình vận chuyển hàng hóa. Nguời giao nhận có thể trục tiếp
thục hiện các dịch vụ thông qua các đại lý của họ hoặc thông qua những nguời ký
họp đồng phục vụ.

-

Nguời làm dịch vụ giao nhận hàng hóa có thể tay mặt nguời xuất khẩu hoặc
nguời nhập khẩu hoặc thay mặt cả hai để thục hiện các dịch vụ:

-

Nhận ủy thác giao nhận vận tải trong và ngoài nuớc bằng các phuơng tiện
vận tải khác nhau các loại hàng hóa xuất nhập khẩu mậu dịch và phi mậu dịch.


-

Làm đầu mối vận tải đa phuơng thức: kết họp sử dụng nhiều phuơng tiện vận
tải để đua hàng đi bất cứ nơi nào theo yêu cầu của chủ hàng;

-

Thục hiện các dịch vụ có liên quan đến giao nhận vận tải nhu ký họp đồng
với nguời chuyên chở, luu cuớc tàu chợ, thuê tàu chuyến, phuơng tiện vận tải nội
địa.

-

Làm thủ tục liên quan gửi và nhận hàng, mua bảo hiểm cho hàng hóa xuất
nhập khẩu, bảo quản, tái chế, thu gom hoặc chia lẻ hàng, cuợc Container, giao hàng
đến các địa điểm theo yêu cầu.

-

Làm tu vấn cho các nhà kinh doanh xuất nhập khâu về vận tải và bảo hiểm,
các tổn thất có thể xảy ra, và khiếu nại, bồi thuờng. Nhận ủy thác và gom hàng xuất
nhập khẩu.

1.2.3.

Phân loại và đặc điểm của dịch vụ giao nhận

1.2.3.1.

Phân loại dịch vụ giao nhận


Căn cứ vào phạm vỉ hoạt động, dịch vụ giao nhận gồm: giao nhận nội địa và
giao nhận quốc tế.
Căn cứ vào nghiệp vụ kỉnh doanh, dịch vụ giao nhận gồm:
-

Giao nhận thuần túy chỉ bao gồm thuần túy việc gửi hàng hoặc nhận hàng;

-

Giao nhận tổng họp là giao nhận bao gồm tất cả các hoạt động nhu xếp dỡ,
bảo quản, vận chuyển.


Căn cứ vào phương thức vận tải: Giao nhận bằng đường biển, hàng không,
đường bộ, vận tải đa phương thức,...
Căn cứ vào tỉnh chất giao nhận:
-

Giao nhận riêng là người kinh doanh xuất nhập khẩu tự tổ chức, không sử
dụng dịch vụ giao nhận.

-

Giao nhận chuyên nghiệp là hoạt động giao nhận của các tổ chức công ty
chuyên kinh doanh dịch vụ giao nhận theo sự ủy thác của khách hàng.

1.2.3.2.

Đặc điểm của dịch vụ giao nhận


Là một loại hình dịch vụ nên dịch vụ giao nhận hàng hóa cũng mang những
đặc điểm chung của dịch vụ, dịch vụ là hàng hóa vơ hình nên khơng có tiêu chuẩn
đánh giá chất lượng đồng nhất, không thể cất giữ trong kho, sản xuất và tiêu dùng
diễn ra đồng thời, chất lượng của dịch vụ phụ thuộc vào cảm nhận của người được
phục vụ.
Dịch vụ giao nhận không tạo ra sản phẩm vật chất, nó chỉ làm cho đối tượng
này thay đổi vị trí về mặt khơng gian chứ khơng tác động về mặt kỹ thuật làm thay
đổi các đối tượng đó, nhưng giao nhận hàng hóa có tác động tích cực đến sự phát
triển của sản xuất và nâng cao đời sống nhân dân.
-

Mang tỉnh thụ động: đó là do dịch vụ phụ thuộc rất nhiều vào nhu cầu của
khách hàng, các quy định của người vận chuyển, các ràng buộc về pháp luật, thể chế
của Chính Phủ (nước xuất khẩu, nước nhập khẩu, nước thứ ba).

-

Mang tỉnh thời vụ: dịch vụ giao nhận là dịch vụ phục vụ cho hoạt động xuất
nhập khẩu nên nó phụ thuộc rất lớn vào lượng hàng hóa xuất nhập khẩu. Thơng
thường, hoạt động xuất nhập khẩu mang tính thời vụ nên dịch vụ giao nhận cũng
chịu
ảnh hưởng của tính thời vụ.
Ngồi những cơng việc như làm thủ tục, môi giới, lưu cước, người giao nhận

còn tiến hành các dịch vụ khác như gom hàng, chia hàng, bốc xếp nên để hồn thành
cơng việc tốt hay khơng cịn phụ thuộc nhiều vào cơ sở vật chất kỹ thuật và kinh
nghiệm của người giao nhận.
1.2.4.


Vai trò của dịch vụ giao nhận

Dịch vụ giao nhận đóng vai trò quan trọng trong thương mại quốc, hoạt động
ngoại thương giữa các quốc gia, giữa các doanh nghiệp ở các quốc gia khác nhau.


Thứ nhẩt, Giao nhận vận tải là ngành chiến lược hỗ trợ cho phát triển kỉnh
tế: Ngành giao nhận vận tải có ảnh hưởng quyết định đến cạnh tranh của ngành công
nghiệp và thương mại của mỗi quốc gia. Chi phí giao nhận vận tải chiếm một phần
khá lớn trong tổng giá trị hàng hóa. Ở các nước phát triển như Hoa Kỳ, Nhật Bản thì
chi phí này chiếm khoảng 10% trong GDP. Với các nước đang phát triển như Việt
Nam thì chi phí này có thể lên đến 30% GDP. Neu như phát triển ngành giao nhận
vận tải và tiết kiệm được chi phí thì năng lực cạnh tranh của các ngành công nghiệp
và thương mại trong nước sẽ tăng mạnh.
Trong bối cảnh nền kinh tế tăng trưởng chậm lại, thương mại toàn cầu giảm do
ảnh hưởng của chiến tranh thương mại Hoa Kỳ và Trung Quốc, tốc độ tăng trưởng
của Việt Nam cũng được dự báo sẽ giảm nhẹ, nhưng vẫn được duy trì ở mức khá cao
là 6,8% trong năm 2019 và 6,7% trong năm 2020. Bên cạnh đó, việc gia nhập WT0
từ năm 2006 và hịa nhập ngày càng sâu vào thương mại quốc tế, các hoạt động hội
nhập quốc tế của Việt Nam trong năm 2018: Chính thức thơng qua Hiệp định Đối tác
Tiến bộ và Tồn diện xun Thái Bình Dương (CPTPP); Ket thúc q trình rà sốt
pháp lý Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) và thống nhất toàn
bộ các nội dung của Hiệp định Bảo hộ đầu tư được tách ra từ EVFTA trước đây; Ký
Hiệp định Thương mại mới Việt Nam - Cuba, tham gia ngày càng nhiều các chuỗi
hàng hóa, dịch vụ tồn cầu dẫn đến nhu cầu xuất nhập khẩu hàng hóa cũng sẽ tiếp tục
tăng.
Thứ hai, Giao nhận vận tải có vai trị như một mạch máu của nền kỉnh tế:
Giao nhận vận tải là mạch máu của nền kinh tế, giao nhận giúp nối liền các ngành,
các đơn vị sản xuất với nhau, nối liền khu vực sản xuất với khu vực tiêu dùng, nối
liền thành thị với nông thôn, miền ngược với miền xi. Góp phần làm cho nền kinh

tế trở thành một khối thống nhất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất và trình độ
chun mơn hóa kéo theo sự phát triển không ngừng của dịch vụ giao nhận.


Thứ ba, Giao nhận vận tải là chu kỳ khép kín: Logictics có nghĩa là một chu
kỳ khép kín của sự vận động từ nguyên liệu đến thành phẩm. Từ khi bắt đầu sản xuất
đến nơi tiêu thụ cuối cùng. Logictics bao gồm 4 yếu tố: giao nhận vận tải, marketing,
phân phối và quản lý, trong đó giao nhận vận tải hàng hóa là yếu tố quan trọng nhất
và chiếm nhiều chi phí nhất. Việc lựa chọn hình thức giao nhận vận tải, phương thứcvận tải
hợp lý sẽ giúp tiết kiệm chi phí và đảm bảo giá thành sản phẩm được tốt nhất,
mang tính cạnh tranh tới tay người tiêu dùng. Đây cũng là yếu tố góp phần quan trọng
trong việc quyết định đi đến thành công trong lĩnh vực sản xuất của công ty, doanh
nghiệp...
Thứ tư, Giao nhận vận tải đóng vai trị quan trọng trong hoạt động ngoại
thương nói riêng cũng như nền kỉnh tế quốc dân nói chung. Giao nhận vận tải phát
triển tất yếu kéo theo sự phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng cơ sở, đặc biệt là các cơng
trình kết cấu hạ tầng trực tiếp phục vụ cho giao nhận vận tải như bến cảng, hệ thống
đường giao thơng.
Trong q trình mở cửa của Việt Nam, cơng nghiệp hóa hiện đại hóa cả nước
cùng với tác động của tự do hóa thương mại quốc tế, các hoạt động giao nhận vận tải
ngày một tăng trưởng mạnh, góp phần tích lũy ngoại tệ, đẩy mạnh giao lưu kinh tế,
nối liền các hoạt động kinh tế giữa các khu vực trong nước, nước ngoài, làm cho nền
kinh tế nhịp nhàng cân đối.
Giao nhận vận tải ảnh hưởng tới phạm vi buôn bán, ảnh hưởng tới mặt hàng,
khối lượng hàng hóa và kim ngạch của các quốc gia và các doanh nghiệp.. Dịch vụ
giao nhận đã là dịch vụ được chun mơn hóa cao, được tổ chức theo quy mô quốc
gia và quốc tế, giao nhận có những ưu thế rõ rệt trong việc xúc tiến các hoạt động
thương mại quốc tế: Các thông tin về thị trường hàng hóa như loại hàng hóa được ưa
chuộng, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu đều được nắm rõ thông tin; Biết rõ ưu và
nhược điểm của các phương thức vận tải khác nhau như thời gian, độ an tồn, giá vận

chuyển; Các cơng ty giao nhận đều có kinh nghiệm trong việc vận tải hàng hóa, thực
hiện bảo hiểm đối với hàng hóa khi có yêu cầu và thấy mức rủi ro cao, đặc biệt là
trong vận tải biển; Bên cạnh đó là việc thực hiện được nhiều các dịch vụ khác như
gom hàng, vận chuyển hàng triển lãm, cơng trình door to door,...
Với tất cả những dịch vụ và ưu điểm như thế, giao nhận ngày càng đóng vai
trị quan trọng, tạo điều kiện cho hàng hóa lưu thơng nhanh chóng, an tồn tiết kiệm


và giúp giảm thiểu chi phí trong mua bán quốc tế, rút ngắn thời gian lưu thơng hàng
hóa và khoảng cách giữa các nhà xuất nhập khẩu.
1.2.5.

Chủ thể cung ứng dịch vụ giao nhận

1.2.5.1. Khái niệm


Chủ thể cung ứng dịch vụ giao nhận hay còn gọi là Người giao nhận
(Forwarder/ Freỉght Forwarder/ Forwardỉng Agent). Người giao nhận có thể là chủ
hàng, chủ tàu, cơng ty xếp dỡ, hay kho hàng, người giao nhận chuyên nghiệp hay bất
cứ người nào khác có đăng ký kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa. Theo Luật
Thương Mại Việt Nam thì người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa là thương nhân có
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa. (GS,TS Hồng Văn
Châu, 2009, tr.129).
Trước đây, người giao nhận thường chỉ làm đại lý (Agent) thực hiện một số
công việc do các nhà xuất, nhập khẩu (XNK) ủy thác như: xếp dỡ, lưu kho hàng hóa,
làm thủ tục giấy tờ, lo liệu vận tải nội địa, thủ tục thanh toán tiền hàng,... Cùng với
sự phát triển của thương mại quốc tế và sự tiến bộ kỹ thuật trong ngành vận tải mà
dịch vụ giao nhận cũng được mở rộng hơn.
Ngày nay, người giao nhận đóng vai trị quan trọng trong thương mại và vận

tải quốc tế. Người giao nhận không chỉ làm các thủ tục hải quan, hoặc thuê tàu mà
còn cung cấp dịch vụ trọn gói về tồn bộ q trình vận tải và phân phối hàng hóa. Ở
các nước khác nhau, người kinh doanh dịch vụ giao nhận được gọi tên khác nhau:
“Đại lý hải quan” (Customs House Agent), “Môi giới hải quan” (Customs Broker),
“Đại lý thanh toán” (Clearing Agent), “Đại lý gửi hàng và giao nhận” (Shipping and
Forwarding Agent), “Người chuyên chở chính” (Principal Carrier)... (GS,TS Hồng
Văn Châu, 2009, tr.130).
1.2.5.2.

Phạm vỉ các dịch vụ của người giao nhận

Phạm vi các dịch vụ giao nhận là nội dung cơ bản của dịch vụ giao nhận kho
vận. Trừ khi bản thân người gửi hàng (hoặc người nhận hàng) muốn tự mình tham
gia làm bất kỳ khâu thủ tục, chứng từ nào đó, cịn thơng thường người giao nhận có
thể thay mặt người gửi hàng (hoặc người nhận hàng) lo liệu quá trình vận chuyển
hàng hóa qua các cung đoạn cho đến tay người nhận cuối cùng. Người giao nhận có
thể làm dịch vụ một cách trực tiếp hoặc thông qua đại lý và thuê dịch vụ của những
người thứ ba khác. (GS,TS Hoàng Văn Châu, 2009, tr. 130).
Những dịch vụ mà người giao nhận thường tiến hành là:
-

Chuẩn bị hàng hóa để chuyên chở;

-

Tổ chức chuyên chở hàng hóa trong phạm vi ga, cảng;


-


Tổ chức xếp dỡ hàng hóa;

-

Làm tư vấn cho chủ hàng trong việc chuyên chở hàng hóa;

-

Ký kết họp đồng vận tải với người chuyên chở, thuê tàu, lim cước;

-

Làm các thủ tục gửi hàng, nhận hàng;

-

Làm thủ tục hải quan kiểm nghiệm, kiểm định;

-

Mua bảo hiểm cho hàng hóa;

-

Lập các chứng từ cần thiết trong quá trình gửi hàng, nhận hàng;

-

Thanh toán, thu đổi ngoại tệ;


-

Nhận hàng từ chủ hàng, giao cho người chuyên chở và giao cho người nhận;

-

Thu xếp chuyển tải hàng hóa;

-

Nhận hàng từ người chuyên chở và giao cho người nhận;

-

Gom hàng, lựa chọn tuyến đường vận tải, phương thức vận tải và người
chuyên chở thích họp;

-

Đóng gói bao bì, phân loại, tái chế hàng hóa;

-

Lưu kho, bảo quản hàng hóa;

-

Nhận và kiểm tra các chứng từ cần thiết liên quan đến sự vận động của hàng
hóa;


-

Thanh tốn cước phí, chi phí xếp dỡ, chi phí lưu kho, lưu bãi...;

-

Thơng báo tình hình đi và đến của các phương tiện vận tải;

-

Thông báo tổn thất với người chuyên chở;

-

Giúp chủ hàng trong việc khiếu nại địi bồi thường.

-

Ngồi ra, người giao nhận cịn cung cấp các dịch vụ đặc biệt theo yêu cầu của
chủ hàng như: vận chuyển máy móc thiết bị cho các cơng trình xây dựng lớn, vận
chuyển quần áo may sẵn trong các Container đến thẳng cửa hàng, vận chuyển hàng
triển lãm ra nước ngoài... Đặc biệt trong những năm gần đây, người giao nhận
thường
cung cấp dịch vụ vận tải đa phương thức, đóng vai trị là MTO và phát hành cả
chứng
từ vận tải.

1.2.5.3.

Vai trò của người giao nhận trong thương mại quốc tế



Ngày nay do sự phát triển của vận tải Container, vận tải đa phương thức, người
giao nhận không chỉ làm đại lý, người ủy thác mà còn cung cấp dịch vụ vận tải vàđóng vai
trị như một bên chính - người chun chở. (GS,TS Hồng Văn Châu, 2009,
tr.131).
-

Mơi giới hải quan (Customs Broker): Người giao nhận ban đầu chỉ hoạt động
trong nước. Nhiệm vụ của người giao nhận lúc bấy giờ là làm thủ tục hải quan đối
với hàng nhập khẩu. Sau đó đã mở rộng hoạt động phục vụ cả hàng xuất khẩu hoặc
nhập khẩu và dành chở hàng trong vận tải quốc tế hoặc lưu cước với các hãng tàu
theo sự ủy thác của người xuất khẩu hoặc người nhập khẩu, tùy thuộc vào họp đồng
mua bán. Người giao nhân thay mặt người xuất khẩu, nhập khẩu đddeerkhia báo,
làm
thủ tục hải quan như một môi giới hải quan. (GS,TS Hoàng Văn Châu, 2009, tr.
132).

-

Đại lý (Agent): Trước đây, người giao nhận không đảm nhận trách nhiệm của
người chuyên chở và chỉ hoạt động như một cầu nối giữa người gửi hàng và người
chuyên chở như là một đại lý của người chuyên chở hoặc của người gửi hàng. Người
giao nhận ủy thác từ chủ hàng hoặc từ người chuyên chở để thực hiện các công việc
khác nhau như: nhận hàng, giao hàng, lập chứng từ, làm thủ tục hải quan, lưu kho,...
trên cơ sở họp đồng ủy thác. (GS,TS Hoàng Văn Châu, 2009, tr. 132).

-

Người gom hàng (Cargo): Ở Châu Âu, người giao nhận từ lâu đã cung cấp

dịch vụ gom hàng để phục vụ cho vận tải đường sắt. Đặc biệt, trong vận tải hàng hoắ
bằng Container dịch vụ gom hàng là không thể thiếu được nhằm biến lô hàng lẻ
(LCL)
thành lô hàng nguyên (FCL) để tận dụng sức chở của Container và giảm cước phí
vận
tải, Khi là người gom hàng , người giao nhận có thể đóng vai trị là người chun
chở
hoặc đại lý. (GS,TS Hồng Văn Châu, 2009, tr.132).

-

Người chuyên chở (Carrỉer): Ngày nay trong nhiều trường họp, người giao
nhân thường đóng vai trị là người chuyên chở, tức là người giao nhận trực tiếp ký
kết họp đồng vận tải với chủ hàng và chịu trách nhiệm chuyên chở hàng hóa từ một
nơi này đến nơi khác. Người giao nhận đóng vai trị là người thầu chuyên chở


(Contracting Carrier), nếu trực tiếp chuyên chở thì lúc này người giao nhận là người
chuyên chở thực tế (Performing/ Actual Carrier). (GS,TS Hoàng Văn Châu, 2009,
tr.132).


-

Người kỉnh doanh vận tải đa phương thức (MTO): Trong trường họp người
giao nhận cung cấp dịch vụ vận tải đi suốt hoặc còn gọi là vận tải “door to door” (từ
cửa đến cửa), thì người giao nhận đóng vai trò là người kinh doanh vận tải đa
phươngthức (Multimodal Transport Operator - MTO). MTO cũng là người chuyên
chở




phải chịu trách nhiệm đối với hàng hóa suốt hành trình vận tải. (GS,TS Hồng Văn
Châu, 2009, tr.133).
Người giao nhận cịn được gọi là “kiến trúc sư của vận tải”: vì người giao nhận
có khả năng tổ chức q trình vận tải một cách tốt nhất và tiết kiệm nhất.
1.2.5.4.

Quyền và nghĩa vụ của người làm dịch vụ giao nhận

Theo điều 235 Luật Thương mại Việt Nam 2005, người giao nhận có những
quyền và nghĩa vụ sau đây:
-

Được hưởng thù lao dịch vụ và các chi phí họp lý khác;

-

Trong q trình thực hiện họp đồng, nếu có lý do chính đáng vì lợi ích của
khách hàng thì có thể thực hiện khác với chỉ dẫn của khách hàng, nhưng phải thông
báo ngay cho khách hàng;

-

Khi xảy ra trường họp có thể dẫn đến việc khơng thực hiện được một phần
hoặc tồn bộ những chỉ dẫn của khách hàng thì phải thơng báo ngay cho khách hàng
để xin chỉ dẫn;

-


Trường họp khơng có thoả thuận về thời hạn cụ thể thực hiện nghĩa vụ với
khách hàng thì phải thực hiện các nghĩa vụ của mình trong thời hạn họp lý.

-

Khi thực hiện việc vận chuyển hàng hóa, thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics phải tuân thủ các quy định của pháp luật và tập quán vận tải.

1.2.5.5.
-

Quyền và nghĩa vụ của chủ thể thuê dịch vụ giao nhận (khách hàng)

Lựa chọn người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá đáp ứng với yêu cầu của
mình;

-

Hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện họp đồng;

-

Yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá vi
phạm họp đồng;

-

Cung cấp đầy đủ chỉ dẫn cho người làm dịch vụ giao nhận hàng hố;

-


Thơng tin đầy đủ, chi tiết và chính xác về hàng hoá cho người làm dịch vụ
giao nhận hàng hoá;


-

Đóng gói, ghi ký, mã hiệu hàng hố theo họp đồng mua bán hàng hoá, trừ
trường họp người làm dịch vụ giao nhận hàng hố đảm nhận cơng việc này;


-

Bồi thường thiệt hại, trả các chi phí phát sinh cho người làm dịch vụ giao
nhận hàng hoá nếu người đó đã thực hiện đúng chỉ dẫn cuả khách hàng hoặc do lỗi
của khách hàng gây ra;

-

Trả cho người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá mọi khoản tiền đã đến hạn
thanh toán.

1.2.5.6.
-

Trách nhiệm của người giao nhận

Khỉ người giao nhận là Đại lý:
+ Phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình theo họp đồng và phải chịu


trách nhiệm về:
+ Giao hàng khơng đúng chỉ dẫn;
+ Thiếu sót trong việc mua bảo hiểm cho hàng hóa, mặc dù đã có hướng dẫn;
+ Thiếu sót trong khi làm thủ tục hải quan;
+ Chở hàng đến sai nơi quy định;
+ Tái xuất không theo những thủ tục cần thiết hoặc khơng hồn lại thuế;
+ Giao hàng mà khơng thu tiền từ người nhận hàng.
+ Người giao nhận còn phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại về người hoặc
tài sản mà anh ta đã gây ra cho người thứ ba trong hoạt động của mình. Tuy nhiên,
chủ thể cung ứng dịch vụ giao nhận không chịu trách nhiệm về hành vi hoặc lỗi lầm
của bên thứ ba như người chuyên chở hoặc chủ thể cung ứng dịch vụ giao nhận
khác... nếu chứng minh được là đã lựa chọn cẩn thận. Khi là đại lý chủ thể cung ứng
dịch vụ giao nhận phải tuân thủ “Điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn” (Standard Trading
Conditions) của mình. (GS,TS Hồng Văn Châu, 2009, tr. 133).
-

Khỉ đóng vai trị là người chun chở (Principal Carrỉer)
+ Khi là một người chuyên chở, người giao nhận đóng vai trị là một nhà thầu

độc lập, nhân danh mình chịu trách nhiệm cung cấp các dịch vụ mà khách hàng yêu
cầu. Người chuyên chở phải chịu trách nhiệm về những hành vi và lỗi lầm của mình,
của người chuyên chở, người giao nhận khác... mà người chuyên chở đã thuê để thực
hiện họp đồng vận tải. Trách nhiệm của người chuyên chở đối với hàng hóa như thế
nào là do luật lệ của các phương thức vận tải liên quan quy định. Người chuyên chở
thu ở khách hàng khoản tiền theo giá cả của dịch vụ mà mình cung cấp chứ khơng
phải tiền hoa hồng. (GS,TS Hồng Văn Châu, 2009, tr. 134).


×