Trờng đại học vinh
Khoa luật
---------------
Cao thị vân
Vai trò luật s bào chữa trong
phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự. Thực trạng tại tỉnh nghệ an
và các giải pháp
Khoá luận tốt nghiệp đại học
ngành: cử nhân luật
Vinh - 2011
1
Trờng đại học vinh
Khoa luật
---------------
Vai trò luật s bào chữa trong
phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự. Thực trạng tại tỉnh nghệ an
và các giải pháp
ngành: cử nhân luật
Giảng viên hớng dẫn:
Th.S. Phạm Thị Huyền
Sang
Sinh viên thực hiện:
Cao Thị Vân
Lớp:
48B1 - Luật
0755033357
MSSV:
2
Vinh - 2011
LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành Khố luận này, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành
và sâu sắc tới Hội đồng khoa học, tổ bộ mơn Luật Hình sự - khoa Luật Trường Đại học Vinh, Đoàn luật sư tỉnh Nghệ An, Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Nghệ An, các Toà án, Giảng viên - ThS. Phạm Thị Huyền Sang,
các thầy giáo, cô giáo, bạn bè cùng gia đình đã quan tâm, tạo điều kiện
giúp đỡ tơi trong suốt quá trình tiến hành thực hiện và triển khai đề tài.
Trong tầm hiểu biết và kiến thức có hạn của bản thân, q trình tìm
hiểu, phân tích vấn đề khó tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Rất mong
nhận được sự quan tâm, góp ý xây dựng của quý thầy cô và bạn đọc.
Xin chân thành cảm ơn!
Vinh, tháng 05 năm 2011
Sinh Viên
Cao Thị Vân
3
MỤC LỤC
Trang
A. PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................
1. Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài.........................................................
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài.......................................................................
3. Mục đích và nhiệm vụ khoa học............................................................
4. Phương pháp nghiên cứu........................................................................
5. Đối tượng, phạm vi và ý nghĩa nghiên cứu............................................
6. Kết cấu đề tài..........................................................................................
B. PHẦN NỘI DUNG...............................................................................
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về vai trò luật sư bào chữa trong
1
1
4
5
6
6
7
8
phiên tồ xét xử sơ thẩm vụ án hình sự..................................................
1.1. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự..............................................................
1.1.1. Các khái niệm liên quan đến vấn đề.................................................
1.1.2. Đặc trưng của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự....................................
1.1.3. Các giai đoạn của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự..............................
1.1.4. Nhiệm vụ của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự....................................
1.2. Địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự..................................
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của chế định luật sư bào chữa......
1.2.2. Những vấn đề chung về vai trò tranh tụng của luật sư ở Việt Nam.
1.2.3. Các quy định pháp luật về luật sư và hoạt động tố tụng của luật sư
Chương 2. Thực trạng và giải pháp thực hiện tốt các quy đinh pháp
8
8
8
12
12
18
19
19
22
24
luật về vai trò luật sư bào chữa trong phiên tồ xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự trên thực tế tại tỉnh Nghệ An................................................
34
2.1. Bình luận một số quy định pháp luật về vai trò luật sư bào chữa
trong phiên tồ xét xử sơ thẩm vụ án hình sự............................................. 34
2.1.1. Giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự............................. 34
2.1.2. Luật sư tham gia bào chữa trong phiên tồ sơ thẩm vụ án hình sự.. 39
2.2. Thực trạng hoạt động luật sư bào chữa trong phiên tồ xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Nghệ An........................................... 45
2.2.1. Tình hình chung về kinh tế - xã hội của tỉnh Nghệ An.................... 45
2.2.2. Kết quả hoạt động bào chữa của luật sư Nghệ An trong phiên tồ
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự...................................................................... 46
2.2.3. Những hạn chế, tồn tại..................................................................... 48
4
2.3. Nguyên nhân của các hạn chế, tồn tại................................................. 49
2.3.1. Hệ thống pháp luật chưa đầy đủ, cụ thể và chưa được thực hiện
nghiêm túc..................................................................................................
2.3.2. Về hệ thống tổ chức và hoạt động nghề luật..................................
2.3.3. Trình độ nhận thức của dân trí.........................................................
2.3.4. Chất lượng tham gia tranh tụng của luật sư......................................
2.4. Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò luật sư bào chữa tại phiên tồ
49
51
52
52
sơ thẩm vụ án hình sự trên phạm vi cả nước nói chung và địa bàn tỉnh
Nghệ An nói riêng...................................................................................... 53
2.4.1. Thực hiện và đảm bảo trên thực tế nguyên tắc quan trọng của tố
tụng hình sự................................................................................................
2.4.2. Các giải pháp chung.........................................................................
2.4.3. Các giải pháp riêng...........................................................................
C. PHẦN KẾT LUẬN..............................................................................
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
5
53
54
58
60
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài
Hiện nay, cùng với sự phát triển và xu thế chung của thế giới,
Việt Nam đang tiến hành hội nhập sâu rộng, đẩy mạnh cơng cuộc cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa
“công bằng, dân chủ, văn minh”. Bên cạnh những thành tựu nhất định
đạt được trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, cũng có khơng ít
các thay đổi, biến động theo hướng tiêu cực, tình hình vi phạm pháp luật
ở nước ta xảy ra ngày càng nghiêm trọng, diễn biến phức tạp, có chiều
hướng gia tăng ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc gia.
Cùng với sự nỗ lực của Đảng, Nhà nước và mọi công dân, các cơ
quan tiến hành tố tụng đã có nhiều cố gắng trong cơng tác tư pháp để góp
phần vào việc củng cố, giữ vững an ninh - chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân về chủ quan lẫn khách quan mà chất
lượng công tác tư pháp nói chung và cơng tác xét xử nói riêng cịn chưa
ngang tầm với yêu cầu và nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó, bộc lộ
nhiều yếu kém: bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, xâm phạm đến các
quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của xã hội và cơng dân, vai trị
bào chữa của luật sư trong q trình tố tụng cịn nhạt, hiệu quả chưa cao
nên tuy số lượng án oan có giảm những trên thực tế vẫn có, gây ảnh hưởng
khơng nhỏ tới chất lượng hoạt động của ngành và tác động tới nhận thức,
quan điểm của quần chúng.
Cải cách tư pháp luôn được coi là một bộ phận quan trọng gắn
liền với nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam. Để hướng tới mục tiêu xây dựng một hệ thống cơ quan tư
pháp trong sạch, vững mạnh có phương thức tổ chức, hoạt động khoa
học, hiện đại góp phần quan trọng vào việc giữ gìn trật tự, kỷ cương
phép nước, quá trình này tập trung vào việc củng cố, kiện toàn bộ máy
1
các cơ quan tư pháp, phân định lại thẩm quyền của Toà án, đổi mới tổ
chức và hoạt động của Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành
án và các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp khác.
Trong hoạt động tư pháp, hoạt động xét xử được coi là khâu
trọng tâm vì ở đây biểu hiện sự tập trung và thể hiện đầy đủ quyền tư
pháp, là nơi trên cơ sở kết quả điều tra, truy tố và bào chữa, Toà án nhân
danh Nhà nước đưa ra phán xét một người có tội hay khơng có tội. Do
vậy một phán xét chính xác, khách quan và đúng pháp luật hay khơng,
quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân có được bảo đảm hay khơng phụ
thuộc vào quá trình điều tra, truy tố và xét xử từ phía cơ quan tiến hành
tố tụng, mặt khác từ phía hoạt động tích cực của luật sư với vai trò là
người bào chữa cho bị can, bị cáo và góp phần bảo vệ cơng lý. Hoạt
động của luật sư khơng phải là hoạt động tư pháp nhưng lại có mối liên
hệ gắn chặt với hoạt động tư pháp, hỗ trợ cho hoạt động tư pháp.
Trong lịch sử xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam, nhiều văn kiện của Đảng đã thể hiện sự quan tâm, chú trọng
đến cải cách tổ chức và hoạt động luật sư. Nghị quyết 08 - NQ/TW ngày
02/1/2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác
tư pháp trong thời gian tới” đã đặc biệt quan tâm đến vai trò của luật sư
và đặt nhiệm vụ cho cơ quan tư pháp trong việc bảo đảm hoạt động của
luật sư trong tố tụng. Nghị quyết này đề cập nhiều nội dung khác nhau
của công tác tư pháp từ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử cho đến việc
đào tạo cán bộ tư pháp, nhưng tăng cường yếu tố tranh tụng trong quá
trình xét xử vụ án hình sự được coi là điểm nhấn của cải cách tư pháp và
là vấn đề trọng tâm của Nghị quyết. Trong đó, quyền bào chữa của bị
can, bị cáo được xác định rõ hơn và theo đó, vai trị của người bào chữa
cũng được nâng cao.
Để thực hiện những nhiệm vụ mà Nghị quyết 08 - NQ/TW của Bộ
Chính trị địi hỏi phải bổ sung, hồn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt
2
động của cơ quan tư pháp và luật sư theo hướng phân định rõ chức năng,
nhiệm vụ của từng cơ quan đồng thời xác định rõ vị trí của luật sư trong
hoạt động tư pháp, Nghị quyết 49 - NQ/TW của Bộ Chính trị về “Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020” nêu rõ: “Đào tạo, phát triển đội
ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ
chun mơn. Hồn thiện cơ chế để luật sư thực hiện tốt tranh tụng tại
phiên toà, đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư. Nhà
nước tạo điều kiện về pháp lý để phát huy chế độ tự quản của luật sư đối
với các tổ chức thành viên của mình”.
Mặt khác, sự ra đời của Luật Luật sư 2006 tạo hành lang pháp lý
quan trọng để cho hoạt động pháp lý và vai trò của Luật sư Việt Nam
được phát triển trong thực tế. Nhưng cũng đặt ra nhiều câu hỏi về vai trò
thật sự của những người bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp của cơng
dân, góp phần không nhỏ vào việc bảo vệ nền pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Trước yêu cầu của thực tế, để đảm bảo sự dân chủ, bình đẳng
trong hoạt động tố tụng hình sự, tránh bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô
tội, nâng cao chất lượng tranh tụng của luật sư, góp phần làm sáng tỏ
phần nào về mặt lý luận cho vấn đề, em chọn nghiên cứu về vai trò luật
sư tranh tụng trong phiên tịa hình sự để làm khóa luận tốt nghiệp cho
mình. Nhưng do phạm vi vấn đề khá rộng, mang tính bao quát cao và
khá mới mẻ nên địi hỏi phải có trình độ hiểu biết khá sâu sắc, toàn diện
và kinh nghiệm thực tiễn. Là một sinh viên, trong phạm vi khóa luận tốt
nghiệp ngành cử nhân Luật, với tầm hiểu biết của bản thân, trên cơ sở
những kiến thức tổng quan, khái quát về vai trò luật sư trong tranh tụng
em nghiên cứu sâu hơn ở khía cạnh cụ thể hơn để có điều kiện được
phân tích, tìm hiểu và làm sáng tỏ thực trạng của nó trong phạm vi nhất
định - hoạt động tư pháp ở địa bàn tỉnh Nghệ An, vì thế em chọn đề tài:
"Vai trò luật sư bào chữa tại phiên tồ xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Thực trạng tại tỉnh Nghệ An và các giải pháp”.
3
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều bài viết, bài nghiên cứu và sách chuyên khảo đề cập
đến vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự như: "Tranh tụng trong tố
tụng hình sự" của tác giả Nguyễn Đức Mai trong cuốn kỷ yếu: "Những
vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của tố tụng hình sự Việt Nam" - Viện
kiểm sát nhân dân tối cao năm 1995; bài "Về tranh tụng tại phiên tịa
hình sự" của tác giả Tống Anh Hào trong Tạp chí Tịa án nhân dân số
5/2003; bài "Bàn về vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự" đăng trong
Tạp chí Kiểm sát, tháng 9/2003 của tác giả Trần Đại Thắng; bài viết của
nhiều tác giả trong Đặc san nghề luật số 5/2003 về chuyên đề mở rộng
tranh tụng; cuốn chuyên khảo "Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai
đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền" do Tiến sĩ khoa học Lê Cảm và
Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Chí đồng chủ biên.
Trong khoa học pháp lý, cũng có khơng ít bài viết, bài nghiên cứu,
khóa luận và sách chuyên khảo đề cập đến vai trị luật sư trong tố tụng
hình sự như: Luận án Tiến sĩ luật học của Hoàng Thị Sơn - “Thực hiện
quyền bào chữa của bị cáo, bị can trong tố tụng hình sự”, Tiến sĩ Phạm
Hồng Hải - “Đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội”, Tiến sĩ
Nguyễn Văn Tuân - “Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự”, Thạc sĩ
Nguyễn Thị Thu Thủy - “Vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền con
người trong tố tụng hình sự Việt Nam”, cuốn “Vai trò của luật sư trong
hoạt động tranh tụng” của Học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh, Viện Nhà nước và Pháp luật do Tiến sĩ Trương Thị Hồng Hà
chủ biên và nhiều bài viết có liên quan khác đã làm sáng tỏ vai trò của luật
sư trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự.
Nhưng đối với thực trạng hoạt động tranh tụng, nhất là việc bào
chữa của luật sư tỉnh Nghệ An, chưa có một nghiên cứu cụ thể nào
làm sáng tỏ và đưa ra những phương hướng nhằm nâng cao hơn nữa
chất lượng bào chữa của luật sư nói riêng và hiệu quả cơng tác tư pháp
4
tỉnh Nghệ An nói chung, góp phần phát triển, hồn thiện chất lượng
xét xử vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ khoa học
3.1. Mục đích
Đề tài này hướng tới mục đích làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực
tiễn của vấn đề; bản chất, nội dung vai trò bào chữa của luật sư tại phiên
tịa xét xử vụ án hình sự nói chung và phiên tịa xét xử sơ thẩm nói riêng,
chỉ ra những bất cập còn tồn tại của việc luật sư bào chữa tại phiên tòa ở
tỉnh Nghệ An hiện nay, thơng qua đó đề xuất những giải pháp thiết thực
nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng nói chung và hoạt động bào chữa
nói riêng của luật sư tại phiên tịa, hướng tới xây dựng một phiên tịa
hình sự thực sự cơng bằng, dân chủ góp phần thực hiện q trình cải
cách tư pháp, trong đó vai trị của luật sư được thừa nhận và chú trọng
thực sự.
3.2. Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ của khóa
luận được đặt ra là:
Nghiên cứu cơ sở lý luận hoạt động luật sư bào chữa tại phiên tòa
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của chế định luật sư
bào chữa.
Sơ lược về lịch sử các qui định về tranh tụng nói chung và việc
bào chữa nói riêng, địa vị pháp lý của luật sư trong phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Phân tích, đánh giá thực trạng luật sư bào chữa tại phiên tịa xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Nghệ An những năm gần đây,
qua đó rút ra những mặt tích cực cũng như những tồn tại, hạn chế trong
hoạt động bào chữa của luật sư trong phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự ở địa phương.
5
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu và những đánh giá về thực trạng
luật sư bào chữa tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự khố luận
nêu ra các giải pháp nâng cao hiệu quả bào chữa của luật sư tại phiên tòa
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở tỉnh Nghệ An nói riêng, Việt Nam nói
chung trước yêu cầu cải cách tư pháp.
4. Phương pháp nghiên cứu
Việc tìm hiểu vấn đề được tiến hành dựa trên cơ sở phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về pháp luật, về cải cách tư pháp.
Đồng thời, khoá luận sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ
thể sau: Phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê, so sánh;
phương pháp lịch sử; phương pháp khảo sát thực tiễn luật sư bào chữa tại
những phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
5. Đối tượng, phạm vi và ý nghĩa nghiên cứu
5.1. Đối tượng
Khóa luận tập trung tìm hiểu và làm rõ hơn về vai trò tranh tụng,
đặc biệt là vai trò bào chữa của luật sư trong phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự, phân tích các nội dung của quá trình luật sư tiến hành bào
chữa để làm nổi bật các vai trò của họ khi tham gia giải quyết vụ án hình
sự ở cấp sơ thẩm.
5.2. Phạm vi
Thực trạng của vấn đề được triển khai trên cơ sở của quá trình
điều tra, thu thập số liệu về hoạt động tranh tụng nói chung và hoạt động
bào chữa nói riêng của luật sư trên địa bàn tỉnh Nghệ An, thơng qua các
báo cáo của Đồn luật sư tỉnh Nghệ An, số liệu từ các Tòa án trong tỉnh
nhằm minh họa, chứng minh cho các nội dung lý luận đưa ra.Từ đó, chỉ
ra các nguyên nhân, tồn tại và giải pháp chung để nâng cao hơn nữa về
số lượng cũng như chất lượng vai trò bào chữa của luật sư trong tố tụng.
6
5.3. Việc nghiên cứu các nội dung của vấn đề này hướng đến
những ý nghĩa nhất định về lý luận cũng như thực tiễn.
Cung cấp những kiến thức khái quát cũng như cụ thể để đánh giá sâu
và bổ sung những kiến thức mới để đem lại một cái nhìn tồn diện, biện
chứng về vai trị bào chữa của luật sư. Qua đó góp phần nâng cao nhận thức
của các cấp, ngành, cơ quan, tổ chức, cá nhân về vai trị bào chữa của luật
sư trong q trình xét xử vụ án hình sự, đặc biệt là cấp sơ thẩm.
Góp phần hoàn thiện pháp luật, tăng cường hiệu quả của hoạt
động luật sư trên thực tế, tham gia vào quá trình cải cách tư pháp mà
Đảng và Nhà nước chính quyền và cơ quan tư pháp, tổ chức tư pháp trên
địa bàn tỉnh Nghệ An đang tiến hành hiện nay, hướng tới xây dựng nền
pháp chế xã hội chủ nghĩa cơng bằng, dân chủ, trong đó quyền cơng dân
được quan tâm và tơn trọng thực sự.
Khóa luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ trong việc
nghiên cứu về các vấn đề liên quan và hoạt động thực tiễn.
6. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung đề tài gồm 2 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về vai trò luật sư bào chữa trong
phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Chương 2: Thực trạng và giải pháp thực hiện tốt các quy định
pháp luật về vai trò bào chữa của luật sư tại phiên tồ xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự trên thực tế tại tỉnh Nghệ An.
7
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRỊ LUẬT SƯ BÀO CHỮA
TRONG PHIÊN TỒ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.1.1. Các khái niệm liên quan đến vấn đề
1.1.1.1. Theo Từ điển luật học, tranh tụng là các hoạt động tố tụng
được thực hiện bởi các bên tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên bị buộc
tội) có quyền bình đẳng với nhau trong việc thu thập, đưa ra chứng cứ để
bảo vệ các quan điểm và lợi ích của mình, phản bác lại các quan điểm và
lợi ích của phía đối lập.
Tranh tụng tại phiên toà là những hoạt động tố tụng được tiến
hành tại phiên toà xét xử bởi hai bên tham gia tố tụng, nhằm bảo vệ ý
kiến, luận điểm của mỗi bên và bác bỏ ý kiến, luận điểm của phía bên
kia, dưới sự điều khiển, quyết định của Toà án với vai trò trung gian,
trọng tài.
Tranh tụng tại phiên tòa cịn được hiểu là hình thức tố tụng mà
trong đó Tòa án thay mặt Nhà nước xác định sự thật của vụ án trên cơ sở
điều tra công khai tại phiên tòa, nghe ý kiến của các bên tham gia tố tụng
để ra quyết định phán xét giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn
diện, đầy đủ và đúng pháp luật.
Theo quan điểm của PGS - TS. Trần Văn Độ, Tòa án Quân sự
Trung ương trong bài viết “Bản chất của tranh tụng tại phiên tịa” thì
q trình tranh tụng bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
Đưa ra chứng cứ mới bằng cách yêu cầu triệu tập thêm người làm
chứng, đưa ra vật chứng hoặc tài liệu mới. Hồ sơ, chứng cứ được xác lập
trong giai đoạn điều tra là rất quan trọng cho việc xét xử tại phiên tịa. Tuy
nhiên, các chứng cứ có trong hồ sơ là do các cơ quan tiến hành tố tụng thu
8
thập, nhiều trường hợp chưa thể đầy đủ và không loại trừ việc thiếu khách
quan. Đặc biệt đối với vụ án hình sự, trách nhiệm chứng minh thuộc về
các cơ quan tiến hành tố tụng; cho nên đa số các trường hợp Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát chỉ thu thập chứng cứ buộc tội, không chú trọng thu
thập chứng cứ gỡ tội; trong khi đó bên bào chữa (người bào chữa, bị can,
bị cáo) không được quyền chủ động thu thập chứng cứ làm hạn chế khả
năng tranh tụng của họ tại phiên tịa. Vì vậy, cho nên pháp luật tố tụng
quy định các bên tham gia tố tụng có quyền yêu cầu triệu tập thêm người
làm chứng, quyền đưa ra các chứng cứ mới tại phiên tòa. Nhiệm vụ của
Tòa án là đảm bảo để các bên thực hiện quyền tố tụng này; tránh trường
hợp sợ phiền phức, sợ phiên tòa đi chệch quỹ đạo chuẩn bị nên không chú
trọng thủ tục này tại phần mở đầu phiên tòa.
Thực hiện việc xét hỏi tại phiên tòa: thực chất là cuộc điều tra
chính thức tại phiên tịa để xác định sự thật khách quan của vụ án. Vì
vậy, các bên tham gia tố tụng đều có quyền điều tra dưới sự điều khiển
của chủ tọa phiên tòa từ hỏi người khác, xem xét vật chứng, tài liệu.
Việc xét hỏi này chỉ kết thúc khi Tịa án thấy rằng thơng qua xét hỏi sự
thật khách quan, đối tượng chứng minh trong vụ án đã được xác định
đầy đủ, các tình tiết liên quan đến việc giải quyết đã được làm rõ. Vì thế
cho nên, thủ tục tố tụng quy định quyền thu thập chứng cứ chỉ cho các cơ
quan tiến hành tố tụng, quy định gánh nặng xét hỏi cho Tịa án, quy định
chỉ cho phép một số ít các bên tham gia xét hỏi (đại diện Viện kiểm sát,
luật sư) cần được xem xét lại từ góc độ tranh tụng;
Phát biểu ý kiến về đánh giá chứng cứ: Qua việc điều tra chính
thức, cơng khai tại phiên tịa, mỗi bên tham gia tố tụng đều có cách nhìn
nhận, đánh giá của mình về kết quả chứng minh. Để thực hiện chức năng
tố tụng, nhiệm vụ tố tụng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, các
bên tham gia tố tụng phải công khai đưa ra ý kiến đánh giá của mình về sự
thật khách quan của vụ án để giúp cho Tòa án cân nhắc khi ra phán quyết.
9
Các đánh giá khác nhau, phản biện nhau của các bên tham gia tố tụng tại
phiên tòa sẽ giúp cho Tịa án khách quan hơn, tồn diện hơn, thận trọng
hơn khi đánh giá để ra phán quyết.
Phát biểu ý kiến về pháp luật áp dụng: Thực tiễn cho thấy rằng,
do nhiều lý do khác nhau như kĩ thuật lập pháp chưa tốt, quy định của pháp
luật chưa rõ ràng, thiếu cụ thể, trình độ am hiểu cịn hạn chế mà sự nhận
thức về pháp luật tố tụng cũng có sự khác nhau. Vì vậy, nội dung của tranh
tụng trong giai đoạn tranh luận tại phiên tòa bao gồm việc các bên tham gia
tố tụng đề nghị áp dụng luật để bảo vệ quan điểm của mình trong giải quyết
vụ án theo chức năng, nhiệm vụ được giao. Ví dụ: trong phiên tịa hình sự,
đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng pháp luật hình sự để bảo vệ cáo
trạng, bảo vệ việc buộc tội; người bào chữa đề nghị áp dụng pháp luật hình
sự để gỡ tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo...
Đề nghị biện pháp giải quyết vụ án liên quan đến quyền và lợi
ích liên quan: Mỗi bên tham gia tố tụng đều nhằm mục đích bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vì vậy, nội dung khơng thể thiếu
trong tranh tụng là các bên đề xuất ý kiến và lập luận trên cơ sở chứng cứ,
quy định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích đó. Tùy theo tư cách tố
tụng của mình mà phạm vi xét hỏi, tranh luận, đề xuất ý kiến của mỗi
người tham gia tố tụng cũng có khác nhau: đại diện Viện kiểm sát bảo vệ
cáo trạng, người bào chữa, bị cáo bảo vệ quan điểm khơng có tội hoặc
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nguyên đơn dân sự đòi hỏi việc bồi thường,
bị đơn dân sự bác bỏ hoặc giảm mức bồi thường...
1.1.1.2. Tố tụng hình sự
Tố tụng hình sự là trình tự (quá trình) tiến hành giải quyết vụ án
hình sự theo quy định của pháp luật (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án hình sự).
Tố tụng hình sự bao gồm toàn bộ hoạt động của cơ quan tiến hành
tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án); người tiến hành tố
10
tụng (thủ trưởng, phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, điều tra viên; viện
trưởng, phó viện trưởng Viện kiểm sát, kiểm sát viên; chánh án, phó
chánh án, thẩm phán, hội thẩm và thư ký Tòa án); người tham gia tố tụng
(người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; người bào chữa, người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án; người bảo vệ quyền lợi của đương sự; người làm chứng; người giám
định và người phiên dịch); của cá nhân, cơ quan và tổ chức khác góp
phần vào việc giải quyết vụ án theo quy định của luật tố tụng hình sự.
Tố tụng hình sự thể hiện một cách đậm nét bản chất và các nội
dung của hoạt động tranh tụng thơng qua phiên tịa hình sự, cơng tố viên
(kiểm sát viên) sẽ nhân danh Nhà nước buộc tội bị cáo và luật sư sẽ hiện
diện với vai trò của người bào chữa, gỡ tội cho thân chủ. Các chủ thể ở
đây có mối quan hệ giữa cơ quan, cá nhân hoạt động nhân danh Nhà
nước, thuộc nhánh quyền tư pháp với cá nhân hoạt động mang tính xã hội
- nghề nghiệp. Việc tranh tụng phần nào đó có sự bất bình đẳng về vị trí
pháp lý của chủ thể nên cần có sự bình đẳng trong cách thức, quy trình,
thủ tục, cách đánh giá, phán xét để đảm bảo quyền này cho luật sư và sự
cân bằng trong khi tiến hành hoạt động này.
1.1.1.3. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn của tố tụng
hình sự, trong đó, Tịa án có thẩm quyền tiến hành xem xét, giải quyết và
xử lí vụ án bằng việc ra bản án hoặc các quyết định cần tố tụng theo quy
định của pháp luật.
Trong quá trình tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự diễn ra
việc tranh tụng và cũng tại đây, vai trò bào chữa của luật sư được thể
hiện rõ nét.
1.1.1.4. Bào chữa
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa đó là việc dùng nhiều lí lẽ, chứng cớ
để bênh vực cho hành vi của ai đó đang bị xem là phạm pháp hoặc đang bị
lên án.
11
Theo Từ điển luật học, bào chữa là việc dùng lí lẽ, chứng cứ để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bị can.
1.1.2. Đặc trưng của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Xét xử sơ thẩm được xem như giai đoạn kết thúc của quá trình
giải quyết vụ án hình sự, mọi tài liệu, chứng cứ của vụ án do các cơ quan
có thẩm quyền trước đó thu thập đều được xem xét một cách cơng khai
tại phiên tòa. Giai đoạn này mang những đặc trưng cơ bản sau:
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được tiến hành sau khi Tòa án nhận
được cáo trạng quyết định truy tố bị can (quyết định truy tố bị can trong
trường hợp áp dụng thủ tục rút gọn) và hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát
chuyển đến. Sau khi vụ án được thụ lý, Chánh án Tòa án có thẩm quyền
phân cơng thẩm phán (hoặc một nhóm thẩm phán) nghiên cứu hồ sơ vụ
án và tham gia tố tụng tại phiên tòa với tư cách là chủ tọa hoặc thẩm
phán xét xử;
Giai đoạn xét xử sơ thẩm kết thúc bằng việc Tịa án ra bản án hình
sự do Hội đồng xét xử tuyên tại phiên tòa hoặc quyết định đình chỉ vụ án;
Nhiệm vụ của xét xử sơ thẩm là xem xét và giải quyết nội dung
vụ án theo quy định của pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân;
Chủ thể cơ bản tiến hành tố tụng trong giai đoạn này là Tịa án.
Chỉ có Tịa án mới có thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Ngồi
ra cịn có sự tham gia tố tụng của các chủ thể khác theo quy định của
pháp luật như người bào chữa, người bị hại, người làm chứng…
1.1.3. Các giai đoạn của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự bao gồm hai khâu là chuẩn bị xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự và phiên tịa sơ thẩm vụ án hình sự.
Là bước đầu tiên của quá trình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, giai
đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm có vai trị quyết định, ảnh hưởng rất lớn
12
đến kết quả của việc xét xử, đảm bảo tính chính xác, khách quan, đúng
người đúng tội.
Giai đoạn này bắt đầu kể từ ngày Tòa án nhận được hồ sơ do Viện
kiểm sát chuyển sang. Để có thể quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc ra
các quyết định tố tụng khác phù hợp với yêu cầu của pháp luật phải có
một khoảng thời gian nhất định để chuẩn bị, tức là nghiên cứu hồ sơ
hoặc và giải quyết yêu cầu của những người tham gia tố tụng, đồng thời
tiến hành những việc cần thiết cho việc mở phiên tịa hình sự sơ thẩm.
Sau khi nhận hồ sơ vụ án đã được thụ lý, chánh án Tòa án phải
phân cơng ngay thẩm phán làm chủ tọa phiên tịa để kịp thời nghiên cứu
hồ sơ và giải quyết những vấn đề cần thiết theo quy định của pháp luật.
Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm được tính từ ngày thẩm phán
được phân cơng chủ tọa phiên tịa nhận hồ sơ của vụ án quy định tại
khoản 2, Điều 176, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003:
“1. Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa
phiên tịa có nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ; giải quyết các khiếu nại và yêu
cầu của những người tham gia tố tụng và tiến hành những việc khác cần
thiết cho việc mở phiên tòa.
2. Trong thời hạn ba mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng,
bốn mươi lăm ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, hai tháng đối với tội
phạm rất nghiêm trọng, ba tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng,
kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên
tòa phải ra một trong những quyết định sau đây:
a) Đưa vụ án ra xét xử;
b) Trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
c) Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Đối với những vụ án phức tạp, Chánh án Tịa án có thể quyết định
gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá mười lăm ngày đối
với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá ba
13
mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng. Việc gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử phải được thông báo
ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp.
Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án
ra xét xử, Tồ án phải mở phiên tồ; trong trường hợp có lý do chính
đáng thì Tồ án có thể mở phiên toà trong thời hạn ba mươi ngày.
Đối với vụ án được trả lại để điều tra bổ sung thì trong thời hạn
mười lăm ngày sau khi nhận lại hồ sơ, Thẩm phán được phân cơng chủ
tọa phiên tịa phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử”.
Như vậy, theo đó thì Thẩm phán được Tịa án có thẩm quyền phân
công xét xử, giao nhiệm vụ làm chủ tọa (nếu vụ án được đưa ra xét xử)
có trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ và quyết định những công việc về thủ
tục cũng như nội dung để chuẩn bị tiến tới mở phiên tòa xét xử: áp dụng,
thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo; quyết định
đưa vụ án ra xét xử (trong trường hợp sau khi nghiên cứu hồ sơ, thẩm
phán nhận thấy có đủ điều kiện đưa vụ án ra xét xử như tài liệu trong hồ
sơ vụ án phản ánh Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát truy tố là có căn cứ,
đã có đủ chứng cứ cơ bản, cần thiết cho việc xét xử tại phiên tịa… thì
thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra xét xử); quyết định trả hồ sơ điều
tra bổ sung; quyết định tạm đình chỉ vụ án; quyết định đình chỉ vụ án.
Trước khi mở phiên tịa, cần thực hiện những cơng việc sau:
Giao quyết định đưa vụ án ra xét xử cho bị cáo, người đại diện hợp
pháp của họ hay người bào chữa chậm nhất là mười ngày trước khi mở
phiên tòa để họ có điều kiện nghiên cứu nhằm chuẩn bị cho việc bào chữa
tại phiên tòa.
Trường hợp xét xử vắng mặt bị cáo thì quyết định đưa vụ án ra xét
xử và bản cáo trạng được giao cho người bào chữa hoặc người đại diện
hợp pháp của bị cáo. Ngoài ra, quyết định này còn phải được niêm yết tại
14
trụ sở chính quyền xã, phường, thị trấn nơi cư trú hoặc nơi làm việc cuối
cùng của bị cáo.
Căn cứ vào quyết định đưa vụ án ra xét xử, thẩm phán gửi giấy
triệu tập những người cần xét hỏi đến phiên tòa.
Gửi lịch xét xử cho Viện kiểm sát, trại tạm giam nơi giam giữ bị
cáo để dẫn giải bị cáo đến phiên tòa (nếu bị cáo đang bị tạm giam) và cơ
quan cơng an để bố trí lực lượng bảo vệ phiên tòa.
Gửi giấy mời cho đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân liên quan
có mặt tại phiên tòa.
Chuẩn bị việc tổ chức phiên tòa.
Sau khi đã chuẩn bị về nội dung, Tòa án cần phải chuẩn bị tốt cả
việc tổ chức phiên tòa về các mặt như địa điểm, thời gian, những người
được mời đến dự phiên tòa, việc giữ trật tự và bảo vệ phiên tịa, dẫn giải
các bị cáo bị tạm giam, bố trí nơi xử án...
Những việc làm trên nhằm đảm bảo cho quá trình chuẩn bị xét xử
được tiến hành đúng trình tự và thủ tục theo quy định của pháp luật, đảm
bảo hiệu quả của việc xét xử.
Phiên tịa là hình thức hoạt động xét xử của Toà án, nơi các vụ án
được đưa ra xét xử công khai, trực tiếp. Theo đó, phiên tịa hình sự là nơi
các vụ án hình sự được đưa ra xét xử cơng khai, trực tiếp. Tuỳ theo tính
chất của thủ tục xét xử vụ án mà có phiên tồ sơ thẩm, phiên tồ phúc
thẩm, phiên toà giám đốc thẩm và phiên toà tái thẩm.
Phiên tịa là nơi điều tra cơng khai, chính thức về vụ án với sự
tham gia của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người
tham gia tố tụng với vị trí pháp lý được xác định theo luật. Các bên có
quyền tham gia vào q trình chứng minh, làm rõ về vụ án được đưa ra
xét xử: đưa ra tài liệu, chứng cứ chứng minh… Tòa án tiến hành xác
định sự thật khách quan và chỉ ra các phán quyết trên cơ sở kết quả điều
tra tại phiên tòa nên giữ vai trò trung tâm, điều khiển, quyết định các vấn
15
đề tại phiên tịa và có trách nhiệm tạo điều kiện cho các bên thực hiện
quyền tham gia tố tụng của mình.
Trong tồn bộ q trình tố tụng, xét xử đóng vai trị trung tâm, thể
hiện đầy đủ nhất bản chất của hệ thống tư pháp của mỗi Nhà nước, là giai
đoạn quyết định tính đúng đắn, khách quan của việc giải quyết vụ án, bảo
vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cơng dân.
Trong xét xử, phiên tịa là giai đoạn có vai trị đặc biệt quan trọng và
mang tính quyết định trong giải quyết vụ án. Do đó, cũng trong bài viết
“Bản chất của tranh tụng tại phiên tòa”, PGS - TS. Trần Văn Độ cho
rằng, phiên tòa thực hiện các nhiệm vụ, mục đích tố tụng đặt ra sau đây:
Phiên tịa là nơi Tịa án bằng thủ tục cơng khai, tồn diện thực
hiện cuộc điều tra chính thức để xác định sự thật khách quan của vụ
án. Tòa án ra bản án, quyết định trên cơ sở các chứng cứ được thu thập
và kiểm tra cơng khai tại phiên tịa. Việc chứng minh (bao gồm cả quá
trình thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ) được các chủ thể có quyền
và lợi ích khác nhau (bên buộc tội, bên bào chữa, nguyên đơn, bị đơn)
thực hiện một cách bình đẳng, dân chủ tại phiên tòa khi xét hỏi cũng như
tranh luận. Việc chứng minh và từ đó xác định sự thật của vụ án được
Tòa án thực hiện trên cơ sở chứng cứ được thu thập, thẩm tra tại phiên
tòa và cân nhắc, đánh giá của các bên tham gia tố tụng khác nhau;
Hơn ở đâu hết, tại phiên tòa quyền và nghĩa vụ tố tụng của
những người tham gia tố tụng được quy định và được đảm bảo thực
hiện đầy đủ nhất bằng thủ tục tố tụng trực tiếp, cơng khai. Vì ở đó
khó có thể xảy ra các trường hợp vi phạm pháp luật nghiêm trọng như
bức cung, ép cung, dùng nhục hình v.v…;
Phiên tịa cũng là nơi có điều kiện tốt nhất để thực hiện việc áp
dụng đúng đắn pháp luật. Qua phân tích nội dung các đề xuất của các
bên tham gia tố tụng về áp dụng pháp luật, Tịa án lựa chọn cho mình
phương án áp dụng pháp luật chính xác nhất để giải quyết đúng đắn vụ án;
16
Thơng qua thủ tục tại phiên tịa, việc điều tra công khai, việc tranh
luận và đặc biệt là qua việc cơng bố một bản án đúng đắn, hợp lý, hợp
tình, Tòa án giúp cho những người tham gia tố tụng cũng như những
người tham dự phiên tòa nâng cao hiểu biết pháp luật, củng cố lòng
tin vào pháp luật để từ đó khơng chỉ tự nguyện tn thủ pháp luật, mà
cịn tích cực tham gia vào đấu tranh phịng chống vi phạm pháp luật...
Đây là một kênh thực hiện việc giáo dục và tuyên truyền pháp luật rất
hiệu quả.
Có thể nói, phiên tịa là giai đoạn trung tâm thể hiện đầy đủ nhất
bản chất q trình tố tụng nói chung và xét xử nói riêng. Phiên tịa có sự
tham gia đầy đủ của các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến
hành tố tụng, những người tham gia tố tụng với địa vị pháp lý được xác
định. Thông qua phiên tịa, bằng thủ tục trực tiếp, cơng khai, qua nghe ý
kiến và đề xuất của các bên tham gia tố tụng, Tòa án (với tư cách là cơ
quan tiến hành tố tụng quan trọng nhất) tiến hành xác định sự thật khách
quan của vụ án và ra các phán quyết giải quyết vụ án một cách đúng đắn,
đầy đủ, khách quan và đúng pháp luật.
Theo quy định tại các chương XIX, XX, XXI, XXII của Bộ luật
Tố tụng hình sự 2003, phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự gồm các
phần sau: thủ tục bắt đầu phiên tòa, thủ tục xét hỏi tại phiên tòa, tranh
luận tại phiên tịa, nghị án và tun án. Nó mang những đặc điểm chung
và thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ của phiên tịa. Trong đó phần xét hỏi
và tranh luận sẽ thể hiện rõ nét toàn bộ bản chất của quá trình tiến hành
tố tụng, các bên tranh luận sẽ đưa ra quan điểm của mình về đánh giá
chứng cứ được xem xét, các điều khoản của Bộ luật hình sự, Bộ luật Tố
tụng hình sự và các văn bản liên quan khác cần áp dụng và đề xuất các
biện pháp cụ thể cho việc giải quyết vụ án. Đây chính là cơ sở để Hội
đồng xét xử đưa ra phán quyết đúng đắn, khách quan, hợp lý.
17
1.1.4. Nhiệm vụ của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt động tố tụng rất phức tạp
không chỉ thể hiện trong việc chứng minh vụ án tại phiên tòa mà cịn thể
hiện cả trong nhiệm vụ của nó.
Xét xử sơ thẩm là xét xử lần đầu nên trong giai đoạn này, Tòa án
phải giải quyết mọi vấn đề của vụ án trên cơ sở cáo trạng mà Viện kiểm
sát truy tố. Các nhiệm vụ của xét xử sơ thầm gồm:
Xem xét và giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật
nhằm bảo vệ chế độ, pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ tài sản Nhà
nước, của tập thể; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, góp
phần đấu tranh phịng ngừa và phịng chống tội phạm.
Trên cơ sở truy tố của Viện kiểm sát, Tòa án tiến hành giải quyết
vụ án bằng việc ra bản án, quyết định việc bị cáo có phạm tội hay khơng
phạm tội, hình phạt và các biện pháp tư pháp khác căn cứ vào các chứng
cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của kiểm sát viên và những
người tham gia tố tụng.
Trường hợp không đủ căn cứ để đưa vụ án ra xét xử theo trình tự
sơ thẩm, Tịa án tiến hành giải quyết vụ án bằng việc ra quyết định đình
chỉ vụ án, quyết định tạm đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật.
Qua việc xét hỏi và tranh luận dân chủ, cơng khai tại phiên tịa, Hội
đồng xét xử kiểm tra, đánh giá lại tồn bộ những chứng cứ, tình tiết của
vụ án đã có trong hồ sơ và tại phiên tịa để đưa ra phán quyết cuối cùng.
Thơng qua việc xét xử và đặc biệt là qua các phiên tòa công khai,
giai đoạn xét xử sơ thẩm quyền tự do, dân chủ của cơng dân được bảo
đảm, qua đó góp phần giáo dục công dân chấp hành nghiêm chỉnh pháp
luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống xã hội, nâng cao ý thức đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm cũng như các vi phạm pháp luật khác.
Trong phiên tịa xét xử sơ thẩm cần sự có mặt của kiểm sát viên;
bị cáo; người bào chữa; người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
18
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người làm chứng;
người giám định.
1.2. Địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của chế định luật sư
bào chữa
Trong hệ thống pháp luật của nhiều nước trên thế giới, luật sư là
một chế định quan trọng và được xem như một nghề nghiệp đặc biệt.
Hoạt động tranh tụng, nghề luật có lịch sử xuất hiện gắn với thiết chế
Tịa án gắn với việc tổ chức, hồn thiện bộ máy nhà nước và thừa nhận
quyền được bào chữa, đảm bảo tự do, nhân quyền của các đương sự.
Ở Việt Nam, pháp luật thành văn thiết lập chế định luật sư và các
quy định pháp luật đảm bảo vai trò tranh tụng của luật sư chỉ được hình
thành sau khi thực dân Pháp xâm lược. Từ năm 1945 trở về trước, pháp
luật về luật sư là một bộ phận gắn liền với hệ thống pháp luật của chủ
nghĩa thực dân và đế quốc xâm lược. Về bản chất, đó là hình thức, cơng
cụ phục vụ cho bộ máy nhà nước thực dân và bán nước.
Sau khi nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân được thiết lập, đánh
dấu bởi thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 và sự kiện chủ
tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tun ngơn độc lập ngày 02/9/1945, tư tưởng
nhân quyền, đảm bảo quyền tự do cá nhân, trong đó có quyền tự do cơ
bản là quyền bào chữa của bị can, bị cáo đã được thực hiện trên thực tế.
Chỉ 38 ngày sau khi đọc bản Tun ngơn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã thấy rõ sự cần thiết phải thay thế tổ chức luật sư cũ do Pháp bắt đầu
thiết lập từ năm 1864 ở nước ta và sửa đổi cho phù hợp với yêu cầu mới
của Cách mạng. Ngày 10/10/1945, Người ký Sắc lệnh số 46/SL quy định
cho duy trì các tổ chức đồn thể luật sư, trong đó nêu rõ: “Cách tổ chức
đoàn thể luật sư trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn tạm giữ
như cũ. Sắc lệnh ngày 25/5/1930 quy định tổ chức ấy vẫn tạm thi hành
với các điều sửa đổi sau này (...) các luật sư có quyền bào chữa ở trước
19
tất cả các tòa án (...)” (Điều 1 và Điều 2). Trong Sắc lệnh này, các tiêu
chuẩn để được làm luật sư cũng được quy định cụ thể: có quốc tịch Việt
Nam bất luận nam, nữ; có bằng cử nhân luật; đã làm luật sư tập sự trong
ba năm (kể từ ngày tuyên thệ) ở một văn phòng luật sư thực thụ trong
nước Việt Nam; những người đã làm luật sư tập sự ở Pháp có thể xin
tính thời hạn tập sự ở Pháp nhưng chỉ được trừ nhiều nhất là 12 tháng; có
hạnh kiểm tốt; được bằng chứng rằng đã hết hạn tập sự và đủ tư cách làm
luật sư tập sự... Điều đó cho thấy sự đánh giá cao của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về quyền bào chữa, nghề luật sư và vận dụng nó thích nghi, phù
hợp trong điều kiện cụ thể của Cách mạng Việt Nam.
Quyền bào chữa đã chính thức trở thành một nguyên tắc hiến định
trong lĩnh vực tư pháp. Nguyên tắc ấy đã khẳng định vị trí, vai trị của
người luật sư trong xã hội dân chủ pháp quyền với tính cách là người bảo
vệ, trợ giúp pháp lý cho nhân dân, đồng thời thể chế hóa quyền bào chữa
và nhờ người khác - Luật sư bào chữa cho mình.
Sắc lệnh 46/SL ngày 10/10/1945 đã trở thành một cột mốc quan
trọng trong việc hình thành khái niệm quyền bào chữa và nghề luật sư
trong chế độ Cách mạng. Hơn một năm sau, Hiến pháp đầu tiên (1946)
của nước ta, do chính Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo thực hiện, Điều 67
đã quy định: “Các phiên tịa đều phải cơng khai, trừ những trường hợp
đặc biệt. Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”.
Một điều trùng hợp ý nghĩa là hơn hai năm sau, trong Bản tuyên
ngôn thế giới về Nhân quyền ngày 10/12/1948 của Đại hội đồng Liên
Hiệp quốc, ý tưởng này cũng đã được khẳng định: “Mỗi bị cáo dù đã bị
buộc tội đều có quyền được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là
phạm tội theo luật pháp tại một phiên tòa xét xử công khai với mọi bảo
đảm biện hộ cần thiết” (khoản 1, Điều 11).
Về sau, Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị đã
được Đại hội đồng Liên Hiệp quốc thông qua ngày 16/12/1966 (Việt
20