Tải bản đầy đủ (.doc) (130 trang)

BÀI GIẢNG MÔN QUẢN LÝ KINH TẾ HỘ và TRANG TRẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (744.75 KB, 130 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NƠNG NGHIỆP HÀ NỘI
KHOA KẾ TỐN & QUẢN TRỊ KINH DOANH

BÀI GIẢNG
MÔN QUẢN LÝ KINH TẾ HỘ & TRANG TRẠI

NGƯỜI BIÊN SOẠN: PGS.TS ĐỖ VĂN VIỆN

HÀ NỘI - 2012

0


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ KINH TẾ HỘ
VÀ KINH TẾ TRANG TRẠI

I.

Hộ và Kinh tế nông hộ

1. Các khái niệm cơ bản về hộ, kinh tế nông hộ
Trong một số từ điển ngôn ngữ học cũng như một số từ điển chuyên ngành
kinh tế, người ta định nghĩa về “hộ” như sau: “Hộ” là tất cả những người sống
chung trong một ngơi nhà và nhóm người đó có cùng chung huyết tộc và người
làm công, người cùng ăn chung. Thống kê Liên Hợp Quốc cũng có khái niệm về
“Hộ” gồm những người sống chung dưới một ngôi nhà, cùng ăn chung, làm chung
và cùng có chung một ngân quỹ.
Giáo sư Mc Gê (1989) - Đại học tổng hợp Colombia (Canada) cho rằng:
“Hộ” là một nhóm người có cùng chung huyết tộc hoặc không cùng chung huyết
tộc ở trong một mái nhà và ăn chung một mâm cơm.
Nhóm các học giả lý thuyết phát triển cho rằng: “Hộ là một hệ thống các


nguồn lực tạo thành một nhóm các chế độ kinh tế riêng nhưng lại có mối quan hệ
chặt chẽ và phục vụ hệ thống kinh tế lớn hơn”.
Nhóm “hệ thống thế giới” (các đại biểu Wallerstan (1982), Wood (1981,
1982), Smith (1985), Martin và BellHel (1987) cho rằng: “Hộ là một nhóm người
có cùng chung sở hữu, chung quyền lợi trong cùng một hoàn cảnh. Hộ là một đơn
vị kinh tế giống như các cơng ty, xí nghiệp khác”.
Giáo sư Frank Ellis Trường Đại học tổng hợp Cambridge (1988) đưa ra một
số định nghĩa về nông dân, nông hộ. Theo ông các đặc điểm đặc trưng của đơn vị
kinh tế mà chúng phân biệt gia đình nơng dân với những người làm kinh tế khác
trong nền kinh tế thị trường là:
Thứ nhất, đất đai: Người nông dân với ruộng đất chính là một yếu tố hơn
hẳn các yếu tố sản xuất khác vì giá trị của nó; đây là nguồn đảm bảo lâu dài
đời sống của gia đình nông dân trước những biến động của thiên tai.
Thứ hai, lao động: Sự tín nhiệm đối với lao động của gia đình là một đặc
tính kinh tế nổi bật của người nơng dân. Người “lao động gia đình” là cơ sở của

1


các nông trại, là yếu tố phân biệt chúng với các xí nghiệp tư bản
Thứ ba, tiền vốn và sự tiêu dùng: Người ta cho rằng: “người nông dân làm
công việc của gia đình chứ khơng phải làm cơng việc kinh doanh thuần túy”
(Woly, 1966) nó khác với đặc điểm chủ yếu của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là
làm chủ vốn đầu tư vào tích lũy cũng như khái niệm hoàn vốn đầu tư dưới dạng lợi
nhuận.
Từ những đặc trưng trên có thể xem kinh tế hộ gia đình nơng dân là một cơ
sở kinh tế có đất đai, các tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của hộ gia đình, sử dụng
chủ yếu sức lao động của gia đình để sản xuất và thường là nằm trong một hệ
thống kinh tế lớn hơn, nhưng chủ yếu được đặc trưng bởi sự tham gia cục bộ
vào các thị trường có xu hướng hoạt động với mức độ khơng hồn hảo cao.

Tóm lại: trong nền kinh tế hộ gia đình nơng dân được quan niệm trên các
khía cạnh:
Hộ gia đình nơng dân (nơng hộ) là đơn vị xã hội làm cơ sở cho phân tích
kinh tế; các nguồn lực (đất đai, tư liệu sản xuất, vốn sản xuất, sức lao động…)
được góp thành vốn chung, cùng chung một ngân sách; cùng chung sống dưới một
mái nhà, ăn chung, mọi người đều hưởng phần thu nhập và mọi quyết định đều
dựa trên ý kiến chung của các thành viên là người lớn trong hộ gia đình
Gia đình (family) là một đơn vị xã hội xác định với các mối quan hệ họ hàng,
có cùng chung huyết tộc. Trong nhiều xã hội khác nhau các mối quan hệ họ hàng
xây dựng nên một gia đình rất khác nhau. Gia đình chỉ được xem là hộ gia đình
(Household) khi các thành viên gia đình có cùng chung một cơ sở kinh tế
2. Vị trí, vai trị của kinh tế hộ trong thời kỳ đổi mới
Trong thời kỳ chiến tranh, hộ gia đình Việt Nam vừa cung cấp nguồn nhân
lực, vừa là nguồn của cải vật chất (chưa nói tới tinh thần) cho cuộc chiến, đồng
thời lại là nơi sản xuất vật chất để bảo đảm cuộc sống khơng những cho gia đình
(chỉ với 5% quỹ đất canh tác được chia cho các hộ gia đình làm kinh tế vườn theo
lối tự túc, tự cấp), mà cịn đóng vai trị là hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến
lớn miền Nam (trên cơ sở phát triển hợp tác xã theo kiểu cũ).
Vai trò của kinh tế hộ có nhiều thay đổi cả về phương thức quản lý lẫn lao
động sản xuất, nhất là kể từ khi phong trào hợp tác xã mất dần động lực phát triển.

2


Mốc quan trọng của sự thay đổi đó là sự ra đời của Chỉ thị 100, ngày 13/ 1/ 1981
của Ban Bí thư về cải tiến cơng tác khốn, mở rộng khốn sản phẩm đến nhóm và
người lao động trong hợp tác xã.
Tiếp theo đó, Nghị quyết 10, ngày 05/ 4/ 1988 của Bộ Chính trị về đổi mới
quản lý nông nghiệp đã tạo cơ sở quan trọng để kinh tế hộ nông dân trở thành đơn
vị kinh tế tự chủ trong nông nghiệp.

Từ Chỉ thị và Nghị quyết này dẫn đến sự thay đổi căn bản trong hoạt động
tổ chức, quản lý sản xuất của hộ
Đối với khu vực nơng, lâm trường, nhờ có Nghị định số 12/NĐ-CP, ngày
03/ 2/ 1993 về sắp xếp tổ chức và đổi mới cơ chế quản lý các doanh nghiệp
nông nghiệp Nhà nước, các nông, lâm trường đã từng bước tách chức năng quản
lý Nhà nước đối với với quản lý sản xuất, kinh doanh, các gia đình nơng, lâm
trường viên cũng được nhận đất khốn và hoạt động dưới hình thức kinh tế hộ.
Tuy những đặc điểm truyền thống của kinh tế hộ vẫn không thay đổi, nhưng việc
được giao quyền sử dụng đất lâu dài đã làm cho hộ gia đình trở thành đơn vị sản
xuất, kinh doanh tự chủ, tự quản. Động lực mới cho sự phát triển kinh tế trong
nông nghiệp, nông thôn đã xuất hiện.
3. Những điểm sáng, những nhân tố tích cực ban đầu
Chủ trương, chính sách về giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho kinh tế
hộ (đất nông nghiệp 20 năm, đất lâm nghiệp 50 năm) đã nhanh chóng đi vào cuộc
sống của hàng triệu hộ nông dân. Mặc dù phong trào hợp tác xã khơng cịn phát
huy tính tích cực như xưa, nhưng diện mạo của kinh tế hộ nông dân Việt Nam đã
thay đổi một cách cơ bản, nhất là ngày càng có nhiều đóng góp cho việc giải
phóng sức sản xuất, nâng cao sản lượng nông nghiệp, mở mang ngành nghề mới,
nâng cao thu nhập. Theo điều tra, trên 74,5% số hộ đã có từ 2 - 4 loại hình hoạt
động sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập (1).
Cơ cấu hộ nông dân theo ngành nghề đang chuyển dịch theo hướng tăng
dần số lượng và tỷ trọng nhóm các hộ tham gia sản xuất phi nông nghiệp, như
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ; số hộ làm nông, lâm nghiệp và thủy
sản giảm từ 80,9% năm 2001 xuống còn 70,9% năm 2006. Các nghiên cứu đều
cho thấy, giai đoạn 2001 - 2006 tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành sản xuất trong hộ

3


đã diễn ra nhanh hơn trước. Hiện tại GDP nông nghiệp đóng góp 20,23% vào cơ

cấu kinh tế, nhưng là nền tảng của sự ổn định chính trị - xã hội, vì nước ta có
trên 70% dân số sống tại nơng thơn, trong số đó, có hơn 40% dân số nơng thơn
có nguồn thu từ cơng nghiệp, tiểu thủ cơng nghiệp và dịch vụ. Đây là một động
thái tích cực.
Trong bản thân lĩnh vực sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản, số hộ sản
xuất thuần túy nông nghiệp giảm dần, trong khi số hộ tham gia sản xuất lâm
nghiệp, thủy sản tăng lên. Tuy vậy, tính đến năm 2006, số lượng và tỷ trọng các hộ
trong lĩnh vực thủy sản (chiếm 6,2%), lâm nghiệp (chiếm 0,3%) vẫn bị đánh giá là
còn quá thấp, chưa tương xứng với tiềm năng thực tế.
Một động thái tích cực cần lưu ý của kinh tế hộ nông dân là sự xuất hiện
ngày càng nhiều các hộ bứt phá khỏi tình trạng tự cung, tự cấp vươn lên sản xuất
hàng hóa, trong đó phương thức trang trại gia đình phát triển mạnh và ngày càng
đóng vai trị quan trọng trong sản xuất nơng, lâm nghiệp và thủy sản.
Trong bản thân kinh tế hộ, trang trại cũng có sự phát triển về chất, xuất hiện
nhiều nhu cầu đầu tư vốn lớn, thuê đất canh tác và lao động thường xuyên hoặc
theo thời vụ, chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu cây, con theo hướng đáp ứng ngày một
tốt hơn nhu cầu thị trường. Chẳng hạn, trang trại chăn nuôi tăng rất nhanh, bên
cạnh số trang trại sản xuất cây hàng năm và cây lâu năm cũng có sự phát triển về
số lượng và chất lượng. Lượng hàng hóa nơng sản của các trang trại đang ngày
càng có vị trí trên thương trường. Một số các trang trại lớn đã bắt đầu phát triển
thương hiệu, mở rộng các quan hệ làm ăn với các công ty lớn trong chế biến, thu
mua và xuất khẩu.
4. Khó khăn và thách thức đối với kinh tế hộ
- Kinh tế hộ gia đình phần lớn sản xuất với qui mơ nhỏ, tự cấp, tự túc, do
ruộng đất giao cho các hộ manh mún, bình quân ruộng đất trên đầu người thấp
- Trình độ học vấn, trình độ tay nghề của người lao động thấp, việc tổ chức
sản xuất, kinh doanh của các hộ gia đình chủ yếu dựa vào kinh nghiệm nên chất
lượng sản xuất, kinh doanh chưa cao và thiếu bền vững
- Chất lượng sản phẩm hàng hoá của các hộ gia đình chưa cao, chủ yếu
dưới dạng thơ, tiêu thụ khó khăn, chưa nắm bắt được thị trường, nên còn thụ động,


4


hiệu quả thấp.
- Khó khăn và thách thức lớn đối với nơng dân nước ta nói chung và kinh tế
hộ nói riêng trong tiến trình hội nhập ngày một sâu vào kinh tế thế giới là chênh
lệch lớn về năng suất lao động giữa công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp. Đây là
một trong số các nguyên nhân chính đang khoét sâu thêm khoảng cách cả thu nhập
lẫn mức chi tiêu giữa nơng thơn và thành thị... Thêm vào đó tỷ lệ hộ nghèo khu
vực nông thôn tuy đã giảm mạnh, hơn một nửa trong khoảng thời gian 10 năm,
năm 1993 - 2004, từ 66,4% xuống còn 25%. Hai năm gần đây, tỷ lệ hộ nghèo của
cả nước đã giảm từ 15,47% năm 2006 xuống còn 14,75% năm 2007, vượt kế
hoạch đề ra (16%). Nhưng trong nông thôn, cá biệt một số tỉnh miền núi, tại những
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người số hộ nghèo vẫn còn chiếm tỷ
trọng cao: Tỷ lệ hộ nghèo của Lai Châu hiện nay là 55,32%; Điện Biên 40,77%;
Hà Giang 39,44% và Bắc Cạn 37,8%. Dù khu vực nông thôn chiếm tới 90% số hộ
thuộc diện nghèo của cả nước, nhưng tốc độ giảm nghèo ở nông thôn vẫn chậm
hơn thành thị tới 20%. Tính bền vững trong các trường hợp thốt đói nghèo trong
nơng nghiệp, nơng thơn khơng chắc chắn, do thiên tai, dịch bệnh, ốm đau... Điểm
xuất phát thấp, tốc độ phát triển chậm, rủi ro lớn, thì khoảng cách khó có thể rút
ngắn nếu khơng có những giải pháp mang tính đột phá.
Nếu chia tồn bộ dân số ra 5 nhóm bằng nhau về số người và theo các mức
thu nhập từ thấp đến cao để so sánh chênh lệch thu nhập giữa nhóm 20% dân số
giàu nhất với nhóm 20% dân số có mức thu nhập thấp nhất, nếu năm 1994, chênh
lệch giữa nhóm giàu và nghèo là 6,50 lần, đến năm 2006 đã tăng lên 8,34 lần.
Nhưng nếu nhóm dân số càng nhỏ lại, 10%, hay 5%, thì sự chênh lệch thu
nhập giữa nhóm hộ giàu và nhóm hộ nghèo lại càng tăng lên đáng kinh ngạc. Theo
một cách suy luận khác, chênh lệch giàu nghèo là rất lớn khi đang tồn tại nghịch lý
ở Việt Nam, rằng thu nhập GDP đầu người còn rất thấp, nhưng giá nhà, đất lại

cao ngất ngưởng, ngang với những nước có thu nhập GDP cao gấp hàng chục lần.
- Hộ nông dân thường rất dễ bị tổn thương trước sự chi phối khắc nghiệt
của quy luật thị trường. Cơ hội kiếm tiền sẽ đến với người có vốn, có điều kiện về
thơng tin, và kể cả điểm xuất phát cao, sẽ nhiều hơn rất đáng kể so với các đối
tượng khác, nhất là người nghèo. Về nguyên lý, thị trường dường như mang lại cơ

5


hội cho tất cả mọi người, nhưng không phải mọi người đều có đủ khả năng
như nhau để tận dụng cơ hội đó. Người nắm thơng tin, người nhiều vốn, người
lanh lợi và phải có chút “tinh quái” mới tận dụng cơ hội tốt hơn và do đó giàu
lên nhanh hơn. Khơng ít người lợi dụng q trình cổ phần hóa các doanh nghiệp
Nhà nước những năm gần đây nắm giữ nhiều cổ phiếu; hay những người biết
trước thông tin về quy hoạch nên đầu cơ được những khu đất đắc địa... từ đó càng
có điều kiện thu vén những nguồn lợi từ các cơ hội tốt, lại càng có điều kiện tích
lũy làm giàu - giàu sẽ dễ giàu thêm hơn, nghèo thì thua thiệt và dễ nghèo đi.
Nhiều hộ nơng dân đang rơi vào cảnh thua thiệt đó trước vịng xốy của các
quy luật thị trường, nhất là ở những nơi hợp tác xã khơng cịn tồn tại, chính quyền
cơ sở lại yếu kém, thì khơng biết dựa vào đâu? Bởi vậy, sự nghiệt ngã của tình
cảnh “nghèo thì nghèo thêm, giàu thì giàu nhanh hơn” đang là tác nhân chính
khoét sâu thêm hố ngăn cách giàu nghèo giữa người giàu và người nghèo, giữa
nông thôn và thành thị. Đây là nguyên nhân chính của hiện tượng số người tự do
di cư ra thành thị kiếm việc làm đang tăng lên hàng ngày. Người nông dân bị thu
hồi đất cho cơng nghiệp hóa, hay đơ thị hóa cũng rơi vào tình trạng tương tự. Tư
liệu sản xuất bị mất hoặc giảm đi, trong lúc chưa chuẩn bị kịp các điều kiện để
chuyển đổi nghề nghiệp. Phần đông nông dân có tiền (ý nói tiền đền bù do bị thu
hồi đất) cũng khó tìmphương án nào cho hiệu quả để sử dụng lượng tiền dành dụm
được cho sản xuất, kinh doanh. Họ luôn trong tâm lý lo sợ rủi ro, bởi vậy, tư duy
“ăn chắc, mặc bền” vẫn là phổ biến, có đồng nào đổ vào “xây nhà xây cửa” chắp

vá, cơi nới một cách manh mún rất tốn kém.
- Vốn tích lũy của các hộ gia đình cũng có sự phân biệt khá rõ giữa các loại
hình sản xuất. Theo số liệu của tổng điều tra nông nghiệp, nơng thơn năm 2006
của Tổng cục Thống kê, tính đến giữa năm 2006 vốn tích lũy bình qn một hộ
nơng thôn là 6,7 triệu đồng, tănggấp 2,1 lần so với thời điểm tháng 10 năm 2001.
Nhưng vốn tích lũy của các hộ sản xuất phi nông nghiệp vẫn vượt lên cao hơn các
hộ thuần nơng. Hộ vận tải tích lũy bình quân là 14,9 triệu đồng, hộ thương nghiệp:
12,1 triệu đồng, hộ thủy sản 11,3 triệu đồng, trong khi đó hộ nơng nghiệp thuần
chỉ tích lũy dưới 4,8 triệu đồng. Lý do chính của việc tiết kiệm tiền trong phần
đơng các hộ gia đình nơng thơn(2) khơng phải là để tích lũy mở rộng sản xuất, mà

6


82%số người được hỏi trả lời là để chi trả khám và chữa bệnh khi cần thiết và 70%
trả lời là để đề phòng các nhu cầu chi tiêu đột xuất khác, chỉ 6% mong đợi lợi
nhuận hay lãi suất.
- Trong kinh tế thị trường, việc tìm ra cây gì, con gì để cho sản xuất hàng
hóa lớn đã khó, thì việc tiếp cận đầu vào và đầu ra cho sản xuất nơng nghiệp mấy
năm gần đây cũng đang khó khăn không kém. Đã thế, thị trường đầu vào của sản
xuất nông nghiệp biến động rất bất lợi cho các hộ nơng dân, giá lên cao liên tục,
giao thơng khó khăn, vốn ít nên khó khăn trong việc mua giá thấp với khối lượng
lớn (mua bn), mua lẻ thì giá lại rất cao, thiếu những nhà cung cấp tin cậy và ổn
định, và cịn thiếu cả thơng tin để có cơ hội lựa chọn phương án tối ưu.
- Khó khăn trong khâu sơ chế và chế biến sau thu hoạch cũng là một cản trở
lớn đối với kinh tế hộ nông dân. Phần lớn các hộ nông dân đều thiếu kỹ thuật và
khả năng sơ chế nông sản sau thu hoạch, thiếu thơng tin thị trường, chi phí giao
dịch cao... Nên phần lớn nông sản chưa nâng được thêm giá trị kinh tế đáng kể
trong các khâu tiếp theo của quy trình sản xuất đến tay người tiêu dùng, kể cả mẫu
mã, tiếp thị và tiêu thụ, xuất khẩu.

- Nhiều hộ nông dân đang rất cần đến những sự trợ giúp có tính chất cộng
đồng, hiệp hội ngành hàng hay hợp tác trong các khâu, nhất là đầu vào và đầu ra
của sản xuất, nhưng các hợp tác xã (HTX) hiện nay trong nông nghiệp, nông thôn
chưa đáp ứng đầy đủ, do chưa hoạt động thật hiệu quả và thiết thực. Theo số liệu
điều tra của Trung tâm Phát triển nơng thơn (RUDEC) năm 2007, thì HTX chỉ đáp
ứng 6,9% nhu cầu phân bón và 13,8% nhu cầu giống, trong khi đó các đại lý tư
nhân cung cấp tới 59,2% phân bón và 43,1% giống. Thực trạng chung của các
HTX là, mức vốn hoạt động còn nhỏ, đặc biệt là các HTX trong nông nghiệp, công
nghiệp, xây dựng, thương mại. Tỷ lệ vốn cố định ở các HTX rất cao, từ trên 70%
đến 95%. Tình trạng này làm cho HTX thường khơng đủ vốn lưu động để hoạt
động, do đó cũng không phát huy được vốn cố định, trong khi vay ngân hàng thì
gặp nhiều khó khăn về tài sản thế chấp. Ngược lại, trong lĩnh vực tín dụng thì tỷ
trọng vốn cố định rấtthấp (chưa đạt 5%), dẫn đến tình trạng chung ở các quỹ tín
dụng là cơ sở làm việc rất nghèo nàn, khơng đảm bảo an tồn cho việc mở rộng

7


hoạt động huy động và cho vay. Tỷ lệ HTX có quan hệ tín dụng với ngân hàng và
các tổ chức tín dụng khác chỉ bằng 11,3% số HTX được thống kê, điều đó cho
thấy các HTX chưa phát triển các quan hệ tín dụng với ngân hàng để có thêm vốn
phát triển các dịch vụ phục vụ nhu cầu sản xuất, kinh doanh của xã viên.
- Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt đối với quá trình sản xuất nơng nghiệp.
Nhưng khókhăn lớn hiện nay là diện tích đất nơng nghiệp đang mất vào các khu
cơng nghiệp, khu đô thịvà giao thông với tốc độ quá nhanh. Đất trồng lúa nước
năm 2005 đã giảm trên 302 ngàn hécta so với năm 2000. Theo số liệu thống kê,
trong 5 năm qua cả nước đã có khoảng 13% số hộ nơng dân bị mất đất, mà lý do
chính là bị thu hồi do q trình đơ thị hóa và cơng nghiệp hóa.Trong khi đó, nhiều
hộ khác tuy đã năng động chuyển đổi ngành nghề, nhưng vẫn không đủ “can đảm”
(tính chắc chắn của nghề mới chưa bảo đảm cho các hộ chuyển nghề yên tâm) để

nhượng ruộng cho người khác canh tác hay thuê người làm. Phần lớn là giữ đất
hay có chăng cũng là cho con cháu làm để vừa đủ mức nộp thuế sử dụng đất. Bởi
vậy, tốc độ tích tụ, hoặc dồn điền, đổi thửa diễn ra quá chậm so với nhu cầu phát
triển sản xuất hàng hóa. Bên cạnh đó, tình trạng lãng phí sử dụng đất diễn ra khá
phổ biến. Tại Nam Định, có địa phương người nơng dân muốn trả ruộng thì chính
quyền xã khơng nhận, vì thời hạn giao đất vẫn cịn hiệu lực, nếu nhận thì xã khơng
thu được lệ phí. Trong khi đó người dân nơi khác đến canh tác thì khó khăn do
chính sách cư trú... Hay tại huyện Từ Sơn, Bắc Ninh có đến 10.600 hộ nơng dân
mất đất, dẫn đến việc làm cho 21.000 lao động không có việc làm. Nhưng số diện
tích bị thu hồi lại bỏ hoang, chờ dự án, hoặc chỉ sử dụng khoảng 30%...
- Lề lối làm ăn còn nặng về sản xuất nhỏ, manh mún, chưa thích ứng với
kinh tế thị trường. Chữ tín trong làm ăn là rất quan trọng, thế nhưng một số địa
phương nông dân sẵn sàng “phá hợp đồng” để được lợi trước mắt do giá thị trường
đột ngột lên cao so với hợp đồng, như trong hợp đồng bán hoa hồi cho đối tác Bắc
Âu tại Lạng Sơn. Hay giã tâm, bất chấp độc hại, phun thuốc kích thích sinh trưởng
để nhanh chóng có rau phục vụ đồng bào mình ở đơ thị ở các vùng lân cận đơ thị.
Cịn chuyện giá cả lên xuống thất thường là quy luật cung - cầu của thị trường.
Đối với sản xuất nơng nghiệp, tính chất mùa vụ và sự lệ thuộc vào đất đai, tiểu khí
hậu rất chặt chẽ, nên khó có thể thành cơng nếu cứ chạy theo cái “lên - xuống” của

8


thị trường. Thế mà, một số nông dân ở huyện Đơng Triều, Quảng Ninh, khi giá vải
xuống, thì chặt vải trồng cây sưa (cây lấy gỗ phải mất 50 năm mới cho thu hoạch,
mà giá lúc đó chưa ai có thể nói rõ là sẽ như thế nào); ở một số địa phương phía
Namcũng vậy, thấy giá một số cây trồng khác đang sốt lên, thì vội chặt cây điều
đang kỳ cho thu hoạch... Trong khi đó, các ngành chức năng thiếu sự tun truyền,
giải thích hữu hiệu để có định hướng sản xuất đúng và hơn nữa có quy hoạch cây
con một cách khoa học, ổn định lâu dài. Chẳng hạn, nhiều địa phương đã khá

thành công trong việc tìm kiếm thị trường “cần những cái mình có”, như chè Nghệ
An vào thị trường Trung Đông, gạo, hạt tiêu, cà phê... xuất khẩu ra thế giới.
- Hội nhập càng sâu, nền kinh tế càng sớm hòa vào dòng chảy chung của
thế giới, rõ rệt nhất là sự san bằng mặt giá các vật phẩm tiêu dùng do giá xuất nhập
khẩu nguyên liệu đầu và và năng lượng rất nhanh chóng bị “quốc tế hóa về giá”,
bởi vậy các hộ gia định nông dân phần lớn là nghèo và dưới trung bình của xã hội
về mức sống sẽ dễ bị tốn thương khigiá cả leo thang. Thực tế vừa qua cho thấy
tình trạng nhập khẩu lạm phát (do giá thế giới lên cao, nhất là xăng dầu...) đan xen
với xuất khẩu lạm phát (xuất được gạo giá cao thì giá gạo trong nước cũng sốt lên,
xuất được giấy giá cao thì giá giấy trong nước cũng tăng lên, thậm chí thiếu
giấy..).
- Công nghiệp của đất nước phát triển chưa đủ mạnh để thu hút một lượng
lớn lao động nông thôn. Và dù có xuất hiện một nhu cầu lớn lao động thì trình độ
đào tạo của một lượng lớn lao động nơng thơn cũng chưa thế đáp ứng kịp (ước
tính mới chỉ có 17% lao động qua đào tạo). Tình trạng vừa thừa, vừa thiếu lao
động đang hiện hữu. Bởi vậy, thách thức rất lớn đối với lao động nông thôn là
chênh lệch thu nhập giữa nông thôn và thành thị. Theo ước tính của chúng tơi, nếu
năng suất lao động tăng như vừa qua, thì để sự chênh lệch thu nhập không quá
cách biệt giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa nông thôn và thành thị, một hộ
gia định nơng nghiệp (trung bình có 2 lao động chính) phải được canh tác trên một
diện tích là 1 - 2 héc-ta. Đến bao giờ mới tích tụ được như thế, câu hỏi thuộc về
các nhà hoạch định chiến lược của đất nước.
5. Xu hướng phát triển kinh tế hộ nông dân ở Việt Nam
Từ hộ nông dân tự cung tự cấp chuyển sang kinh tế hàng hóa kinh tế hộ

9


nơng dân nói riêng và kinh tế nơng thơn nơng nghiệp nói chung có thể phát triển
theo các xu hướng cơ bản như sau:

- Q trình hình thành các nơng trại hay trang trại gia đình. Sự hình thành
các nơng trại hany các trang trại gia đình chính là sự hình thành các cơ sở sản xuất
hàng hóa nơng nghiệp. Từ hộ gia đình nơng dân tự cung tự cấp, sản xuất mang
nặng tính chất hiện vật sang nền kinh tế trang trại sản xuất hàng hóa là một lịch sử
tiến hóa lâu dài trong q trình hình thành nền nông nghiệp thương phẩm. Và con
đường này không phải của riêng các nước TBCN… hay là các nước đang phát
triển… mà đó là sự phát triển hợp quy luật của nền nơng nghiệp tồn cầu.
- Sự hình thành các dịch vụ kinh tế, kỹ thuật phục vụ cho nghề nông thương
phẩm và đời sống của dân cư nông thôn diễn ra cùng với q trình cơng nghiệp
hóa nơng thơn. Q trình này làm nảy sinh các quan hệ hoạt động trong các lĩnh
vực kinh tế, kỹ thuật ngoài ruộng đất - tức kinh doanh tách khỏi ruộng đất.
- Quá trình làm tan rã hoàn toàn về mặt kinh tế các hộ nơng dân nghèo, hiệu
quả sản xuất thấp (có mức thu nhập dưới ngưỡng tích lũy) cùng với q trình gia
tăng phát triển công nghiệp và dịch vụ. Đây là q trình phi nơng nghiệp, giải
phóng dần cư dân khỏi lĩnh vực nông nghiệp nông thôn. Đây là nội dung quan
trọng của q trình phân cơng lại lao động xã hội và chuyển xã hội nông thôn
truyền thống sang xã hội nơng thơn hiện đại.
Ba q trình trên là những bộ phận khác nhau của cùng một nội dung:
chuyển kinh tế nơng thơn truyền thống sang kinh tế hàng hóa. Có thể xem kinh tế
Trang trại gia đình là một hình thức phát triển cao của kinh tế hộ nơng dân, là hạt
nhân, là nhân vật trung tâm trong mối quan hệ đan xen với kinh tế tư bản tư nhân,
kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác xã tạo thành kết cấu kinh tế nhiều thành phần,
đặc trưng cho nền kinh tế nơng thơn đang trong q trình xác lập nền kinh tế hàng
hóa hiện đại.
Q trình chuyển từ nền kinh tế tự nhiên, tự cấp sang nền kinh tế hàng hóa
phản ánh một xu thế có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn hiện đại. Đặc
trưng của quá trình này là sự thay thế khiêu tổ chức kinh tế - xã hội có tính chất
khép kín theo từng vùng, từng địa phương với kĩ thuật lạc hậu, sản xuất chậm phát

10



triển sang kinh tế thị trường. Thị trường là trung tâm của quá trình sản xuất và các
mối quan hệ kinh tế đều thực hiện thông qua quan hệ hàng hóa - tiền tệ.
Kinh tế thị trường có sức sống kỳ diệu của chính sự phát triển. Phát triển
kinh tế hàng hóa sẽ khai thác mọi tiềm năng của nền kinh tế, phát huy được tính
sáng tạo của người lao đông. Khác với kinh tế tự nhiên, sản xuất hàng hóa là nhằm
mục đích trao đổi, đáp ứng nhu cầu của người khác do đó kinh tế hàng hóa có ưu
thế là phát triển nhu cầu. Mà nhu cầu chính là động lực để thúc đẩy phát triển kinh
tế, phát triển xã hội, thúc đẩy tiến bộ khoa học kĩ thuật, cũng chính từ đó tạo ra
động lực kinh tế cho con người, thúc đẩy làm giàu, phát triển đi lên. Chỉ có sản
xuất hàng hóa mới tạo ra được mục tiêu và động lực rõ ràng cho người sản xuất,
dịch vụ và họ tồn tại vì người khác - người tiêu dùng. Kinh tế hàng hóa ra đời và
phát triển trên cơ sở phân công lao động xã hộ nhưng đến lượt nó, chính sự phát
triển của kinh tế hang hóa lại tác động, thúc đẩy mạnh mẽ sự phân cơng lao động
xã hội ở trình độ cao hơn.
Kinh tế hàng hóa cịn tạo ra được cơ chế đánh giá vai trị vị trí của từng cá
nhân, bộ phận và thành phần kinh tếtrong xã hội. Đặt mọi người vào vị trí bình
đẳng thực sự thơng qua cơ chế cạnh tranh để chọn lọc, đào thải làm cho con người
trở nên năng động và sáng tạo hơn.
Chính kinh tế hàng hóa là yếu tố đảm bảo cho sự hịa nhập giữa kinh tế
trong nước và kinh tế thế giới, có tác dụng nâng cao trình độ quản lý sản xuất, chất
lượng sản phẩm nhằm tạo ra cơ chế động lực thúc đẩy sự phát triển của lực lượng
sản xuất và xã hội hóa nền sản xuất.
Chuyển sang kinh tế hàng hóa với xuất phát điểm là hộ nơng dân với tính
cách là đơn vị kinh tế độc lập đồng thời cũng là một sự xác lập một trình độ mới
của sự hợp tác.
Hợp tác đó là phương thức tồn tại và phát triển của lao động của con người
xuất phát từ bản chất xã hộ của lao động. Nghiên cứu tư tưởng của những nhà sáng
lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học và những học giả khác trong lịch sử về chế độ

hợp tác có thể tóm tắt tư tưởng của họ về vai trị vị trí của kinh tế hộ nông dân và
xu hướng phát triển của kinh tế hộ nông dân như sau:

11


a) Do những đặc điểm của sản xuất nông nghiệp kiểu tổ chức kinh tế Trang
trại gia đình là hình thức kinh tế có hiệu quả cao.
b) HTX là con đương đơn giản nhất, dễ tiếp thu nhất đối với nơng dân trong
q trình xây dựng chế độ kinh tế mới.
c) Các quan hệ hợp tác này sinh trên cơ sở sự phát triển của lực lượng sản
xuất, nhu cầu của các hộ gia đình và hồn tồn mang tính chất tự nguyện.
d) “HTX nông nghiệp là sự bổ sung cho kinh tế nơng dân, phục vụ cho nó
và vì thế mà thiếu kinh tế hộ nơng dân thì HTX sẽ khơng cịn ý nghĩa gì cả” [70].
HTH là một q trình xã hội hóa từng bước kinh tế nơng dân. Kinh tế HTX ra đời,
phát triển không phá vỡ kinh tế hộ gia đình nơng dân, nó tách dần một số lĩnh vực,
một số công việc mà nếu làm ở gia đình khơng có lợi bằng hợp tác lại.
Cho đến nay ở các nước có nền kinh tế phát triển cao cho đến các nước mới
NIC gần đây, chúng ta đều thấy xuất hiện một cách đa dạng các loại hình HTX
trong nơng thơn, nơng nghiêp trên cơ sở phát triển kinh tế hộ gia đình (kinh tế
trang trại). Các hộ nông dân xuất phát từ chỗ bảo vệ lợi ích của mình đã tự nguyện
hợp sức thành các HTX để tạo nên sức mạnh kinh tế lớn hơn, có hiệu quả hơn
nhằm chống lại q trình cạnh tranh, chèn ép của các công ty Tư bản

II. Kinh tế trang trại
1. Khái niệm và tiêu chí xác định trang trại
FAO (1997), đã đưa ra khái niệm trang trại trên cơ sở khái niệm nông trại.
Theo FAO, nông trại (Farm) là một mảnh đất mà trên đó nơng hộ thực hiện các
hoạt động sản xuất nông nghiệp phục vụ cho sinh kế của họ. Nông trại ở khu vực
châu Á được chia thành 6 loại hình cơ bản theo mục đích sản xuất, diện tích đất

đai và mức độ phụ thuộc khác nhau.
-

Nơng trại gia đình qui mơ nhỏ sản xuất theo hướng tự cấp tự túc

Đối với nông trại thuộc loại này, "tự cấp tự túc" (sản xuất để tiêu thụ gia
đình) là mục tiêu chủ yếu của nơng trại. Có thể có sản phẩm để bán nhưng khơng
đáng kể. Nông trại thuộc loại này thường độc lập với bên ngồi (khơng chịu tác
động của thị trường).
-

Nơng trại gia đình qui mơ nhỏ, một phần sản xuất hàng hóa.

12


Mục tiêu của nông trại thuộc loại này là
(l) Tiêu thụ gia đình thơng qua việc sản xuất các nơng sản phục vụ cho tiêu
dùng hàng ngày của gia đình
(2) Thu nhập tiền mặt thông qua việc bán sản phẩm dư thừa so với u cầu
tiêu dùng gia đình.
-

Nơng trại gia đình qui mơ nhỏ, sản xuất chun mơn hóa và độc lập

Đặc trưng của nông trại thuộc loại này là chun mơn hóa trong một số hoạt
động sản xuất trồng trọt, chăn nuôi cụ thể. Mục tiêu của nông trại loại này cũng
bao gồm sản xuất hàng hóa và tiêu thụ gia đình nhưng ở mức độ chun mơn hóa.
-


Nơng trại gia đình qui mơ nhỏ, chun mơn hóa sản xuất nhưng phụ

thuộc
Tương tự như loại hình trang trại 3 nhưng có một khác biệt cơ bản là hộ gia
đình ít có quyền lực trong việc ra quyết định sản xuất của nông trại. Điều này do
một số lý do:
- Đất sản xuất của nông trại không thuộc quyền sở hữu của gia đình mà được
thuê mướn từ các chủ đất khác.
- Hộ gia đình phải vay mượn các đầu vào cho sản xuất từ các doanh nghiệp
và sản xuất hàng hóa theo yêu cầu của các doanh nghiệp.
- Chịu sự can thiệp của chính phủ vào hoạt động sản xuất của gia đình (ví dụ
như qui hoạch vùng sản xuất…).
-

Nơng trại gia đình sản xuất hàng hóa với qui mơ lớn

Nơng trại loại này có qui mơ như một trang trại và người hưởng lợi của nông
trại là các thành viên trong gia đình, cũng là chủ nơng trại mà khơng phải là người
ngồi gia đình làm chủ và hưởng lợi. Mục tiêu hoạt động của nông trại loại này là
lợi nhuận thơng qua sản xuất hàng hóa bán ra thị trường.
-

Trang trại sản xuất hàng hóa

Đặc trưng của nông trại thuộc loại này là sản xuất độc canh, diện tích nơng
trại lớn từ 20 - 2000 ha. Người hưởng lợi chủ yếu của nông trại là người chủ nông
trại, họ chỉ làm công tác quản lý, không tham gia lao động trực tiếp trên nông trại.
Lao động cho nơng trại hồn tồn được th mướn. Lợi nhuận là mục tiêu hàng

13



đầu của các nơng trại loại này.
Loại hình nơng trại thứ 5 và 6 được xem như là trang trại. Như vậy, trang
trại là nơng trại có qui mơ lớn và tập trung vào sản xuất hàng hóa để bán ra thị
trường nhằm mục tiêu chủ yếu là tạo ra lợi nhuận.
Ở nước ta hiện nay, có nhiều nhận thức và quan điểm khác nhau về trang trại
và kinh tế trang trại:
Ban kinh tế Trung ương cho rằng "Trang trại là một hình thức tổ chức kinh
tế trong nơng- lâm-ngư nghiệp phổ biến được hình thành trên có sở phát triển kinh
tế hộ nhưng mang tính sản xuất hàng hóa rõ rệt".
GS. Nguyễn Thế Nhã cho rằng "Trang trại là một loại hình tổ chức sản xuất
cơ sở trong nơng, lâm, thủy sản có mục đích chính là sản xuất hàng hóa, có tư liệu
sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một chủ độc lập, sản xuất
được tiến hành trên quy mô ruộng đất với các yếu tố sản xuất tiến bộ và trình độ
kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường.
Theo Thông tư liên tịch số 69/2000/TTLT IBNN-TCTK ngày 20/06/2000 của
Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn - Tổng cục thống kê hướng dẫn các tiêu
chí xác định trang trại như sau:
1. Giá trị sản lượng hàng hóa và giá trị bình quân một năm đạt từ 40 triệu
đồng trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và ven biền miền Trung, từ 50 triệu đồng trở
lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây ngun.
2. Có qui mơ sản xuất tương đối lớn so với mức trung bình của kinh tế hộ tại
địa phương, tương ứng với từng ngành sản xuất cụ thể như trồng trọt, chăn nuôi,
lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản.
- Đối với các trang trại trồng cây hàng năm là chủ yếu thì ở miền Bắc và
miền Trung phải có diện tích từ 2 ha canh tác trở lên, còn ở các tỉnh Nam Bộ phải
có diện tích từ 3 ha trở lên.
- Đối với trang trại trồng các loại cây lâu năm và cây ăn quả, thì ở các tỉnh
miền Bắc và miền Trung phải có diện tích từ 3 ha trở lên, ở các tỉnh Nam Bộ phải

có diện tích từ 5 ha trở lên.
- Đối với trang trại chăn nuôi như trâu bị phải có từ 50 con trở lên, lợn 100

14


con trở lên (không kể lợn sữa dưới 2 tháng, gia cầm có từ 2.000 con trở lên (khơng
tính số con dưới 7 ngày tuổi)
- Đối với trang trại lâm nghiệp phải có 10 ha đất rừng trở lên.
- Đối với trang trại ni trồng thủy sản phải có từ 2 ha diện tích mặt nước trở
lên.
3. Có sử dụng lao động làm thuê thường từ 2 lao động/năm. Nếu lao động
thời vụ thì quy mơ qui đổi thành lao động thường xuyên
4. Chủ trang trại phải là người có kiến thức, kinh nghiệm về nông, lâm, ngư
nghiệp và trực tiếp điều hành sản xuất tại trang trại.
5. Lấy sản xuất hàng hóa làm hướng chính và có thu nhập vượt trội so với
trung bình của kinh tế hộ tại địa phương.
Như vậy, nông hộ được xem là cơ sở để hình thành trang trại, một nơng hộ
bình thường khơng được xem là trang trại, khi nông hộ phát triển đến một mức độ
nhất định hội đủ các tiêu chỉ trên sẽ được xem là một trang trại. Tuy nhiên, hiện
nay vẫn chưa có sự thống nhất trong việc xác định trang trại và phân biệt giữa
trang trại và nông hộ sản xuất hàng hóa giữa các vùng khác nhau, cho nên cũng là
một hình thức tổ chức kinh tế giống nhau nhưng có nơi gọi là trang trại (như n
Bái, Bình Dương, Bình Phước), có nơi gọi là hộ sản xuất kinh doanh tổng hợp
(như Sóc Trăng). Vì thế mà số lượng trang trại được thống kê trên cả nước thường
khơng chính xác.
Kinh tế trang trại là một khái niệm khác, phân biệt với khái niệm "trang
trại". "Kinh tế trang trại" là tổng thể các yếu tố sản xuất kinh doanh và các mối
quan hệ kinh tế nảy sinh trong q trình hoạt động của trang trại. Cịn “trang trại”
là nói kết hợp các yếu tố vật chất của sản xuất và là chủ thể của của các mối quan

hệ kinh tế đó, trang trại là nơi diễn ra các mối quan hệ.
2. Những thành tựu đạt được và tồn tại của kinh tế trang trại ở nước ta
* Những thành tựu
- Kinh tế trang trại nước ta mở dù cịn nhỏ bé những đã góp phần phát huy
nội lực, khơi dậy được tiềm năng đất đai, lao động, vốn trong dân cư, cho đầu tư
phát triển sản xuất nông lâm, ngư nghiệp và phát triển nông thôn. Cơ cấu vốn của

15


trang trại chủ yếu là vốn tự có của chủ trang trại chiếm 85%. Phần còn lại là vay
ngân hàng 8%, vay thân nhân 6% và 1% là do liên kết với doanh nghiệp Nhà
nước.
- Kinh tế trang trại góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nông thôn, tạo ra các vùng tập trung, chuyên canh, sản xuất hàng hóa làm
tiền đề cho phát triển cơng nghiệp chế biên nông sản, thực phẩm ; tạo thuận lợi
cho việc đưa công nghiệp, dịch vụ vào nông thôn ,tăng tốc độ phủ xanh đất trống,
đồi núi trọc, cải thiện môi trường sinh thái.
Đến nay nhiều vùng sản xuất tập trung về cây công nghiệp và cây ăn quả
như : Cà phê, điều, hồ tiêu, mía, vải thiều,... về chăn ni bị sữa, bị thịt, dê, cừu,
ni tơm,... được hình thành phát triển dựa vào phát triển kinh tế trang trại.
- Kinh tế trang trại tạo thêm việc làm, góp một phần giải quyết số lao động
dư thừa trong nông thôn, tăng thu nhập cho một phận dân cư, góp phần thúc đẩy
việc nâng cao dân trí và đời sống văn hóa ở nơng thơn, đặc biệt là ở vùng trung du,
miền núi, vùng đồng bào dân tộc.
Năm 1997, bình quân giá trị thu hoạch sản phẩm trên 1 ha của nhiều trang
trại khá cao. Một số trang trại trồng hồ tiêu, thu nhập đạt từ 200 đến 500 triệu
đồng/ha; trang trại nuôi tôm đạt từ 80 đến 150 triệu đồng/ha,... Nhờ đó mà nhiều
chủ trang trại đã giàu lên nhanh chóng ; thu nhập của người lao động làm thuê
thường xuyên đạt khoảng 300 dấn 600 ngàn đồng/tháng ; người làm thuê thời vụ

nhận được đến 25000 đồng/ngày
- Kinh tế trang trại gắn với thị trường, phải tham gia cạnh tranh quyết liệt
trên thị trường, chính vì vậy, các trang trại có yêu cầu hợp tác, liên kế lại với nhau
với kinh tế nhà nước về nhiều mặt để có sức cạnh tranh trên thị trường và cùng
nhau chung sức giải quyết các nhu cầu xã hội của người lao động. Mối quan hệ
hợp tác sẽ giúp cho các trang trại vượt qua nhiều khó khăn, đặc biệt là vốn đầu tư
cho sản xuất là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế
trang trại trong điều kiện hiện hiện nay.
* Những tồn tại
- Đối với hầu hết các trang trại gia đình, trình độ quản lý của chủ trang trại

16


còn nhiều hạn chế, sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, chưa chú trọng vào
việc áp dụng các tiến bộ khoa học vào sản xuất. Hầu hết lao đông làm thuê cho các
trang trại thiếu kiến thức về khoa học kỹ thuật chưa được đào tạo qua các trường
lớp.
- Nhiều trang trại còn lúng túng về phương hướng sản xuất, thu nhập thấp.
Ở Yên Bái, năm 1997, thu nhập bình qn một trang trại chỉ có 14,5 triệu đồng.
- Các trang trại đều chưa được thừa nhận về mặt pháp lý nên chưa có tư cách
pháp nhân trong quan hệ giao dịch với cơ quan Nhà nước và các tổ chức kinh tế
nhất là đối với ngân hàng.
Thực tế, chủ trang trại chỉ được xem như là một chủ hộ nơng dân bình
thường, trong khi đó qui mơ sản xuất của chủ trang trang trại lớn gấp trăm thậm
chi gấp ngàn lần, nhất là vốn. Thiếu tư cách pháp nhân chủ trang trại chịu thiệt
thòi về nhiều mặt, do đó họ chưa n tâm và khơng có điều kiện để mở rộng sản
xuất kinh doanh.
- Các trang trại đều có qui mơ ruộng đất vượt q hạn điền theo quy định của
Luật đất đai hiện hành. Hầu hết quỹ đất của trang trại là do khai hoang, phục hóa

và nhận chuyển nhượng từ người khác.
Nguồn vốn và lao động của gia đình, nhưng lại chưa được pháp luật cơng
nhận. Đến nay, Nhà nước vẫn chưa có chính sách về đất đai vượt quá hạn điền của
các trạng trại nên họ còn rất băn khoăn. Hiện tượng phân tán ruộng đất của các
trạng trại thành nhiều chủ hoặc chuyển nhượng ngầm còn diễn ra phổ biến.
- Quan hệ giữa trang trại với chính quyền địa phương, các chủ thể kinh tế
(nông trường, lâm trường, HTX nông nghiệp) và các hội nơng dân trên địa bàn
cịn chưa rõ ràng, cả về quyền lợi và nghĩa vụ. Ranh giới giữa trang trại và hộ nông
sản xuất giỏi chưa được phân định đúng với thực tế và nói chung là chưa rõ ràng.
- Thiếu vốn nghiêm trọng nhưng Nhà nước chưa có chính sách tín dụng để hỗ
trợ các trang trại nhất là trong nhưng năm đầu thành lập.
- Thiếu kỹ thuật, hoạt động sản xuất của trang trại còn dựa chủ yếu vào kinh
nghiệm hơn là áp dụng khoa học kỹ thuật, thiếu máy móc, nơng cụ và thiêu lao
động lành nghề, nhưng bản thân các trang trại khơng có điều kiện đào tạo, bồi

17


dưỡng trong khi Nhà nước chưa quan tâm.
- Cơ sở hạ tầng yếu kém, gây khó khăn cho phát triển và mở rộng sản xuất.
Hầu hết các trạng trại hiện nay được hình thành ở vùng trung du, miền núi đất xấu,
địa hình phức tạp, giao thơng thủy lợi, điện đều khó khăn. Do đó sản phẩm làm ra
nhiều đang mâu thuẫn với khả năng vận chuyển chế biến và tiêu thụ.
- Thị trường và giá cả nông sản chưa ổn định nên nhiều chủ trang trại không
muốn mở rộng qui mô sản xuất mặc dù khả năng đất đai. lao động vẫn còn.
3. Những giới hạn của kinh tế nơng hộ và tính tất yếu của sự phát triển
kinh tế trang trại trong nền kinh tế thị trường
Từ sau nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (tháng 4/1988) và Nghị quyết Hội nghị
Trung ương Đảng khóa 6 (tháng 3/1989) "Gia đình xã viên trở thành những đơn vị
kinh tế tự chủ". Hộ nông dân (nông hộ) trong cả nước đã huy động được mọi khả

năng sẵn có về lao động, vật tư - tiền vốn để đầu tư sản xuất trên 90% diện tích đất
canh tác. Kết quả đã sản xuất ra được 98% tổng sản lượng thóc, 99% sản lượng
rau, 95% sản lượng cây công nghiệp ngắn ngày và 97% sản lượng chăn nuôi gia
súc, gia cầm. Nhờ đó sản xuất nơng nghiệp và đời sống nơng thơn nhìn chung đã
đạt kết quả cao hơn hẳn những thời kỳ trước đây. Tuy nhiên tỉ suất nơng sản hàng
hóa của nơng dân (đến năm 1991) cịn rất thấp, mới có 20%.
Tình trạng này là do qui mơ về những điều kiện phát triển sản xuất hàng hóa
của kinh tế nông hộ (kinh tế tiểu nông) như ruộng đất, vốn, kỹ thuật, thị trường, ...
bị hạn hẹp, dẫn đến năng suất lao động thấp. Sản phẩm làm ra căn bản mới đủ để
tự cấp tự túc, phần còn lại là sản phẩm hàng hóa ít. Đó cũng là tất yếu của nền
kinh tế tiểu nơng. Hay có thể nói là những giới hạn của kinh tế nơng hộ. Bên cạnh
đó, nền kinh tế ln ln vận động, và có nhiều sự đổi mới, nhu cầu về nông sản
phẩm ngày càng tăng. Do đó kinh tế hộ tuy có nhiều ưu việt, nhưng với hiện trạng
kinh tế hộ như thế sẽ khó có thể đáp ứng được những điều kiện cho thực hiện cơng
nghiệp hóa nơng nghiệp, nơng thơn. Vì lẽ đó cũng khơng thể thỏa mãn nhu cầu
cho nền kinh tế cất cánh. Để thoát ra khỏi nhũng hạn chế về sản xuất nơng sản
hàng hóa của kinh tế hộ và phù hợp với phù hợp với những quy luật vận động của
nên kinh tế thị trường, kinh tế nông hộ đã và đang diễn ra hai xu hướng: Vừa phát

18


triển nền kinh tế hàng hóa, vừa phân cực thành nông hộ giàu và nông hộ nghèo.
Nông hộ giàu từng bước phát triển thành những trang trại sản xuất hàng hóa, có
qui mơ kinh doanh hợp lý.
Ngồi ra, sự phát triển hình thức kinh tế trang trại là tất yếu khách quan của
quá trình phát triển, vì những lý do sau:
- Tích tụ và tập trung sản xuất là quy luật của quá trình chuyển từ sản xuất
nhỏ lên sản xuất lớn, từ hàng hóa giản đơn lên sản xuất hàng hóa trình độ cao.
- Xuất phát từ quy luật quan hệ sản xuất phải thích ứng với tính chất và trình

độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất công nghiệp là nội dung
chủ yếu của cơng nghiệp hóa.
- Xuất phát từ nội dung vận hành của cơ chế thị trường. Qui mô dung lượng
của thị trường được quyết định bởi số lượng, chủng loại hàng hóa.
* Doanh nghiệp và trang trại nông dân, nông thôn Việt Nam với Hội
nhập kinh tế quốc tế
Trong hai mươi năm đổi mới kinh tế nông nghiệp, nông thôn nước ta đã
giành được thành tựu to lớn. Từ một nền nông nghiệp tự cung tự cấp đã chuyển
sang sản xuất hàng hóa với nhiều thành phần kinh tế; Tăng trưởng kinh tế, sản
lượng hàng hóa, chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế ngày một cao. Sản xuất
nông nghiệp không những đủ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước mà tỷ trọng xuất
khẩu ngày một tăng. Cơ cấu sản xuất, cơ cấu lao động trong nơng nghiệp nơng
thơn đã chuyển dịch tích cực theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa...
Doanh nghiệp và trang trại nơng dân nơng thơn Việt Nam đã góp phần quan
trọng vào nền kinh tế của đất nước nói chung và kinh tế nơng nghiệp, nơng thơn
nói riêng. Hiện nay nước ta có khoảng gần 10 vạn trang trại với quy mô, cấp độ
khác nhau, tập trung ở các tỉnh phía Nam chiếm 51%, miền Trung Tây Nguyên
21%, miền núi phía Bắc 10%... so với tổng số trang trại. Nước ta có khoảng
70.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong đó doanh nghiệp tư nhân chiếm 58,76%,
cơng ty trách nhiệm hữu hạn chiếm 38,68%, công ty cổ phần hơn 1.700 doanh
nghiệp... đã thu hút hơn 4,6 triệu lao động có việc làm thường xuyên và ổn định.

19


Sự phát triển kinh tế doanh nghiệp và trang trại nơng dân, nơng thơn Việt Nam
ngày càng có vị trí quan trọng; cùng với kinh tế Nhà nước trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân. Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định kinh tế doanh
nghiệp và trang trại là một trong những động lực của nền kinh tế quốc dân; nơi

huy động được nguồn lực trí tuệ, kinh nghiệm, nguồn vốn, sức lao động, khai thác
có hiệu quả tiềm năng kinh tế của địa phương để phát triển hàng hóa, gải quyết lao
động việc làm, tạo ra sự phân công lao động mới trong nông nghiệp nơng thơn;
góp phần tăng thu nhập, nâng cao đời sống, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nơng
thơn mới.
Tuy nhiên do xuất phát điểm thấp nên cơ sở vật chất cịn nghèo nàn. Quy
mơ nhỏ bé, manh mún. Nguồn tài chính để đầu tư phát triển hạn hẹp và cịn khó
khăn. Phương hướng sản xuất, chuyển đổi kinh tế chưa ổn định. Thiếu thông tin
phục vụ sản xuất kinh tế và thị trường. Khoa học công nghệ bất cập, thậm chí cịn
lạc hậu chưa theo kịp với u cầu hiện nay.
Thực trạng nêu trên của doanh nghiệp và trang trại Việt Nam đang đứng
trước những khó khăn thách thức lớn và rất dễ bị tổn thương khi phải đối mặt với
sự cạnh tranh quyết liệt trên thị trường. Muốn vậy doanh nghiệp và trang trại nông
dân nông thôn Việt Nam cần tập trung giải quyết tốt những vấn đề sau:
- Đổi mới nhận thức, nêu cao vai trị vị trí của doanh nghiệp và trang trại
trong nền kinh tế. Sản xuất kinh doanh phải xuất phat từ thị trường trong và thế
giới để sản xuất các sản phẩm với số lượng ngày càng lớn, sản phẩm sạch, vệ sinh
an toàn thực phẩm đáp ứng với các tiêu chuẩn quốc tế. Đảm bảo hiệu quả kinh tế
cao đề vừa nâng cao đời sống cho người lao động và tích lũy mở rộng sản xuất.
Trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay phải thực hiện liên doanh, liên
kết sản xuất kinh doanh để có sức mạnh cạnh tranh sản phẩm tỏng nền kinh tế thị
trường, nhất là những sản phẩm cùng loại của khu vực và thế giới. Sự liên kết đó
thơng qua tổ chức hội, hiệp hội của mình; đồng thời phối hợp với Hội Nơng dân
các cấp để giúp đỡ nơng dân trong vùng có doanh nghiệp và trang trại phát triển
sản xuất kinh doanh có hiệu qủa.
- Phải xây dựng, mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh dịch vụ: về đất đai,
nguồn vốn, tay nghề lao động, chuyển đổi kinh tế nhanh chóng; gắn chặt giữa sản

20



xuất với chế biến và thị trường, trong đó chú trọng sản phẩm chế biến phải tinh,
sạch, xây dựng thương hiệu, quảng bá sản phẩm... theo nhu cầu và tiêu chuẩn của
thị trường thế giới là một trong những yếu tố để đứng vững trên thị trường và dẫn
đến sự thành công.
- Tiếp thu khoa học công nghệ, ứng dụng vào sản xuất, chế biến. Công
nghệ phải phù hợp với quy mơ của khối lượng hàng hóa, cơng nghệ hiện đại, tiên
tiến nhằm sản xuất ra các sản phẩm đáp ứng yêu cầu của thị trường thế giới và
nâng cao sức cạnh tranh, giảm giá thành, hiệu quả kinh tế cao.
- Một vấn đề quan trọng và cấp bách hiện nay là phải nâng cao trình độ
năng lực lãnh đạo cả giám đốc và các chủ trang trại cũng như các cán bộ chuyên
môn phải giỏi, thành thạo trong công việc. Vì vậy đào tạo, bồi dưỡng nâng cao
trình độ, khả năng lãnh đạo sản xuất kinh doanh phải thường xuyên trang bị cho
doanh nghiệp và trang trại các kiến thức về quản lý, khoa học kỹ thuật, sản xuất
kinh doanh, về thị trường công nghệ thông tin, về pháp luật trong nước, thông lệ
quốc tế, luật pháp của các nước trên thế giới... có như vậy mới đủ khả năng đưa
trang trại phát triển. Đào tạo nâng cao tay nghề trên từng lĩnh vực sản xuất là rất
quan trọng để họ có đủ khả năng làm ra sản phẩm với chất lượng cao.
- Xây dựng cơ chế chính sách và tài chính để hỗ trợ doanh nghiệp và trang
trại. Đầu tư và giúp đỡ về công nghệ thông tin, khuyến nông, lâm, ngư, khuyến
công, xúc tiến thương mại... các chính sách đào tạo, bồi dưỡng, bảo hiểm xã hội,
chính sách thuế... Tất cả để tạo cho doanh nghiệp và trang trại nông dân, nông
thôn Việt Nam phát triển, đáp ứng yêu cầu của sản xuất, chế biến và thị trường để
họ đóng góp xứng đáng vào cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn
và xây dựng đất nước. Để góp phần thực hiện nghị quyết Đại hội X của Đảng,
cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa nơng nghiệp, nông thôn, hội nhập với nền kinh tế
thế giới, Chính phủ đã quyết định cho thành lập Hiệp hội trang trại nơng dân,
nơng thơn Việt Nam. Hiệp hội có phương hướng nhiệm vụ trong giai đoạn hiện
nay là:
- Tập hợp rộng rãi các tổ chức, cá nhân, các chủ trang trại khu vực nông

nghiệp, nông dân và nông thôn trong cả nước tham gia Hiệp hội; nhằm hợp tác,
giúp đỡ lẫn nhau phát triển sản xuất, kinh doanh - dịch vụ.

21


- Mở rộng mạng lưới tổ chức hỗ trợ trang trại dưới các hình thức như trung tâm tư
vấn, cơng ty cổ phần, các câu lạc bộ... để phối hợp hoạt động .
Hợp tác với các tổ chức trong và ngoài nước để khai thác tiềm năng thế mạnh về
khoa học kỹ thuật, cơng nghệ, tài chính và thị trường.
- Tích cực tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm, hội
chợ, xây dựng thương hiệu...
- Tổ chức tốt việc bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt cho chủ trang trại.
Nâng cao kỹ năng lao động, trình độ tay nghề cho người lao động. Hiệp hội trang
trại Việt Nam ra đời sẽ tiến kịp với sự phát triển kinh tế trên thế giới, làm tròn sứ
mệnh của mình góp phần vào sự nghiệp CNH-HĐH nơng nghiệp, nơng thơn vì
mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

III. Quản trị trang trại
1. Khái niệm và tầm quan trọng của quản trị trang trại
Các hoạt động tập thể, sự hiệp tác (trong lao động, sản xuất kinh doanh,..)
đều đòi hỏi một sự phối hợp nhịp nhàng, sự điều khiển, sự hướng dẫn cụ thể đối
với từng cá nhân để hồn thành cơng việc chung. Khoa học quản trị giúp giải
quyết các yêu cầu đó. Quản trị là những hoạt động cần thiết phải được thực hiện
khi con người kết hợp với nhau trong một tổ chức, nhằm đạt được những mục tiêu
chung. Những hoạt động cần thiết phải thực hiện được hiểu như là:
+ Ra quyết định và thực hiện quyết định.
+ Thực hiện các chức năng quản trị: Hoạch định, tổ chức, phối hợp điều
khiển và kiểm tra.
+ Những hoạt động tác động qua lại giữa hệ thống quản lý và hệ thống bị

quản lý.
+ Nghệ thuật vận dụng các học thuyết quản trị vào từng tình huống
Trang trại là nơi diễn ra các hoạt động sản xuất kinh doanh dưới nhiều hình
thức hiệp tác khác nhau. Vì thế , hoạt động quản trị phải gắn liên với trang trại.
Quản trị trang trại là quá trình thực hiện các chức năng. hoạt động quản trị trên
trang trại nhằm đạt được các mục tiêu sản xuất kinh doanh của trang trại"
Quản trị đóng vai trị rất quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh

22


của trang trại. Một trang trại quản trị tốt, sản xuất kinh doanh sẽ phát triển và đạt
hiệu quả cao. Rất nhiều trang trại làm ăn thua lỗ một phần là do năng lực quản trị
của chủ trang trại kém.
Trong xu thế phát triển kinh tế trang trại ở nước ta hiện nay. Cần chú ý nhiều
đến hoạt động quản trị cũng như năng lực quản trị của các chủ trang trại. Trang
trại gia đình là loại hình trang trại phổ biến nhất ở nước ta hiện nay.Mặc dù qui mô
sản xuất của trang trại đã vượt trội so với qui mơ sản xuất gia đình trước đây,
nhưng cơng tác quản lý (quản trị) vẫn còn ở cấp độ gia đình chưa theo kịp với sự
phát triển về qui mơ sản xuất. Do đó. hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa cao,
nhiều trang trại làm ăn thua lỗ.
2. Chức năng của quản trị trang trại
Trang trại là nơi diễn ra các hoạt động sản xuất kinh doanh và các chức năng
quản trị thực chất là những tác động của nhà quản trị (thường là chủ trang trại) tới
đối tượng và khách thể sản xuất kinh doanh nhằm đạt được mục tiêu nhất định.
Các chức năng cụ thể bao gồm:
- Chức năng hoạch định
- Chức năng tổ chức. phối hợp và điều khiển.
- Chức năng kiểm tra và giám sát
- Chức năng điều chỉnh và thúc đầy.

Các hoạt động quản trị thường xuyên diễn ra trên mọi mặt hoạt động của
trang trại và tác động tới tất cả các yếu tố của q trình sản xuất kinh doanh. Vì
vậy nó rất phong phú và phức tạp.
2.1. Chức năng hoạch định
Đây là chức năng đầu tiên trong quá trình quản trị trang trại. Hoạch định là
quá trình xác định những mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp tốt nhất để thực hiện
những mục tiêu và nhiệm vụ đó Dự đốn và kế hoạch hoá là những nghiệp vụ
phản ánh chức năng hoạch định của các nhà quản trị khi xác định chiến lược sản
xuất kinh doanh. Xây dựng các kế hoạch, các chiến lược kinh doanh phải dựa trên
cơ sở phân tích hoạt động kinh doanh của trang trại, đồng thời sử dụng các kiến
thức của khoa học dự báo để tính toán, lựa chọn.

23


2.2. Chức năng tổ chức phối hợp và điều khiển
Sau hoạch định là một quá trình thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh
để đạt được mục tiêu của trang trại. Q trình này cần có sự kết hợp các nguồn lực
và các yếu tố kinh doanh. Để thực hiện kết hợp này, cần phải tổ chức, phối hợp và
điền khiển chúng thông qua một loạt các hoạt động như: xác định khối lượng các
cơng việc cần hồn thành theo một mục tiêu kinh doanh nào đó; xác định trách
nhiệm, sự liên quan và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các yếu tố và người lao động
trong trang trại; phân công và điều khiển các công việc. Trong số hàng loạt những
cơng việc đó điều khiển là cơng việc diễn ra hàng ngày của các nhà quản trị. Điều
khiển là các hoạt động hướng dẫn, đôn đốc, động viên, thúc đầy những người dưới
quyền làm việc nhằm đạt được mục tiêu đề ra với hiệu quả cao. Muốn thực hiện
công việc điều khiên, các nhà quản trị phải thường xuyên ra các quyết định. Vì vậy
việc lựa chọn quyết định đúng có ý nghĩa rất quan trọng.
2.3. Chức năng kiểm tra giám sát
Kiểm tra là một chức năng cơ bản của quản trị trang trại nhằm mục đích xác

định thực chất các công việc đã được thực hiện theo mục tiêu đã định. Trên cơ sở
kiểm tra để biết mức độ các công việc đã được thực hiện, phát hiện những lệch lạc
về mục tiêu hay những trục trặc trong việc thực hiện các cơng việc.... để có sự
chấn chỉnh kịp thời. Để làm tốt chức năng kiểm tra, phương pháp kiểm tra phải
phù hợp với từng loại công việc là các đối tượng thực hiện công việc. Kiểm tra
qua giấy tờ sổ sách là một biện pháp quan trọng, nhưng kiểm tra một cách sâu sát
tại hiện trường cơ sở là biện pháp cần thiết và quan trọng hơn.
2.4. Chức năng điều chỉnh và thúc đẩy
Hoạt động kinh doanh và công tác quản trị chịu sự chi phối của rất nhiều yếu
tố. Việc định hướng và xác lập sự cân đối trong kết hợp các yếu tố chỉ là tương
đối. Vì vậy, điều chỉnh những bất hợp lý do sự tác động của các nhân tố chủ quan
và khách quan là công việc thường xuyên và cần thiết. Nó hồn tồn khác với
nhận thức trước đây trong nền kinh tế "kế hoạch tập trung cho rằng kế hoạch đã
được phê duyệt cần phải nghiêm chỉnh thực hiện, không được thay đổi".
Để điều chỉnh kịp thời, đúng các nội dung cần điều chỉnh và mức độ cần

24


×