Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

Trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 50 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHÂN HIỆU ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TẠI KON TUM

ĐẶNG THỊ KIM THOA

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƯỜI
DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Kon Tum, tháng 6 năm 2019


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHÂN HIỆU ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TẠI KON TUM

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƯỜI
DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN : CHÂU THỊ NGỌC TUYẾT
SINH VIÊN THỰC HIỆN

: ĐẶNG THỊ KIM THOA

LỚP

: K915LK2


MSSV

: 15152380107103

Kon Tum, tháng 6 năm 2019


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành tốt chuyên đề thực tập tốt nghiệp này, với tình cảm chân thành, em
xin bày tỏ lòng biết ơn tới Trường Phân hiệu Đại học Đà Nẵng tại Kon Tum - Đại học Đà
Nẵng đã tạo điều kiện cho em có mơi trường học tập, rèn luyện bản thân tốt trong suốt
thời gian em học tập, nghiên cứu tại trường.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới Giảng viên hướng dẫn là cô Châu Thị Ngọc
Tuyết đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và đưa ra những lời nhận xét, chỉ bảo bổ ích cho em
trong suốt quá trình thực hiện chuyên đề tốt nghiệp. Đồng thời, em xin bày tỏ lòng cảm
ơn tới các thầy cô ở Phân hiệu Đại học Đà Nẵng tại Kon Tum trong quá trình giảng dạy
đã truyền đạt kiến thức quý báu, nâng đỡ, dạy bảo cho em trong suốt thời gian học tập tại
trường.
Ngoài ra, em xin chân thành cảm ơn Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng – là đơn
vị em thực tập đã giúp đỡ, hỗ trợ em trong suốt 03 tháng qua. Cảm ơn ban lãnh đạo cũng
như các cô chú, anh chị đang làm việc tại Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng nói chung,
tại Tịa Hình sự - Tịa án nhân dân thành phố Đà Nẵng nói riêng đã tạo điều kiện, tận tình
chỉ bảo trong cơng việc và cung cấp cho em các số liệu liên quan phục vụ cho việc tính
tốn thiết kế trong báo cáo tốt nghiệp.
Trong quá trình làm báo cáo, kinh nghiệm và kiến thức cịn hạn chế nên chắc chắn
khơng thể tránh khỏi những sai sót và khiếm khuyết. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo,
đóng góp ý kiến của các thầy cơ để bài báo cáo của em hồn thiện hơn và em có điều
kiện bổ sung, nâng cao kiến thức của mình hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!



MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG ......................................................................................................... iii
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu ......................................................................................................1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................1
4. Phương pháp nghiên cứu ..............................................................................................2
5. Bố cục ..............................................................................................................................2
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ...3
1.1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TỊA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ..................................................................................................3
1.2. CƠ CẤU TỔ CHỨC BỘ MÁY TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
..............................................................................................................................................5
CHƯƠNG 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI ....................8
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƯỜI DƯỚI 18
TUỔI PHẠM TỘI ..............................................................................................................8
2.1.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự và các đặc điểm cơ bản của trách nhiệm hình sự 8
2.1.2. Cơ sở lý luận của trách nhiệm hình sự ..................................................................8
2.1.3. Khái niệm trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi ........................................9
2.1.4. Các nguyên tác xử lý trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi.....................12
2.2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ CHÍNH
SÁCH XỬ LÝ ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI .......................................................16
2.2.1. Quy định chung về xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi. ............................16
2.2.2. Các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng trong trường hợp miễn trách nhiệm
hình sự ................................................................................................................................18
2.2.3. Biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng .............................................19
2.2.4. Các hình phạt áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ..............................20
2.2.5. Quyết định hình phạt, tổng hợp hình hình phạt, miễn giảm hình phạt, xóa án tích

............................................................................................................................................21
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ................................................................................................25
CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH
SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG - GIẢI PHÁP .......................................................................26
3.1. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI
VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI TẠI TỊA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
............................................................................................................................................26
3.1.1. Tình hình áp dụng pháp luật về trách nhiệm hình sự đối người dưới 18 tuổi
phạm tội tại Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.............................................................26

i


3.1.2. Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về về trách nhiệm hình sự đối người dưới
18 tuổi phạm tội tại Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng ................................................30
3.2. GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TẠI
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG.........................................................36
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ................................................................................................40
KẾT LUẬN CHUNG .......................................................................................................41
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN

ii


DANH MỤC BẢNG
STT
TÊN BẢNG

Bảng 3.1: Bảng số liệu thống kê các vụ án mà các bị cáo là người dưới 18
tuổi phạm tội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 20152018
Bảng 3.2: Bảng số liệu thống kê phân tích đặc điểm nhân dân của bị cáo là
người dưới 18 tuổi phạm tội đã được Tòa án xét xử trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015-2018
Bảng 3.3: Bảng số liệu thống kê về hình phạt đã được Tòa án áp dụng đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
giai đoạn 2015-2018

iii

TRANG
27

29

23


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thành phố Đà Nẵng là một trong các Trung tâm kinh tế chính trị xã hội lớn của khu
vực Miền Trung – Tây Nguyên, là địa phương diễn ra nhiều sự kiện quốc tế quan trọng,
thu hút hàng nghìn lượt khách du lịch trong và người nước. Trong những năm qua, tình
hình kinh tế, xã hội có những bước phát triển đáng kể, hợp tác trong nước và quốc tế diễn
ra sâu, rộng trên nhiều lĩnh vực. Trong bối cảnh đó, tình hình tội phạm và vi phạm pháp
luật vẫn cịn diễn biến khá phức tạp với phương thức và thủ đoạn ngày càng tinh vi, tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội ngày càng cao. Một trong những tình trạng đáng
chú ý đó là việc người dưới 18 tuổi vi phạm pháp luật hình sự có xu hướng gia tăng đáng
kể. Việc xử lý trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là một việc khá

phức tạp cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn triển khai áp dụng các quy định của pháp luật.
Nguyên nhân được xác định là do nhận thức về hành vi phạm tội của người dưới 18 tuổi
về hành vi phạm tội cịn chưa tồn diện, chính sách xử lý đối với họ thường mang tính
chất giáo dục cải tạo hơn là răn đe, phịng ngừa chung nên khơng thể áp dụng các biện
pháp xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội giống với những người đã đủ 18 tuổi trở lên.
Hiện nay, Bộ luật hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự cũng như các quy định khác của
pháp luật đã có những chế định riêng quy định về cách thức xử lý trách nhiệm hình sự đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội. Tuy nhiên, dưới góc độ lý luận cũng như thực tiễn vẫn
cịn nhiều khó khăn, vướng mắc khi triển khai áp dụng các chế định này. Trong bối cảnh
các vi phạm pháp luật về hình sự đối với người dưới 18 tuổi ngày càng gia tăng thì việc
tiếp tục nghiên cứu, đánh giá chính xác hiệu quả của pháp luật trong việc xử lý trách
nhiệm hình sự đối với họ là vấn đề cấp bách và có ý nghĩa hết sức quan trọng góp phần
thực hiện kịp thời yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm khơng chỉ ở phạm vi Tịa án
nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng mà còn trên phạm vi cả nước.
Chính vì lẽ đó, em xin phép chọn đề tài: “Trách nhiệm hình sự của người dưới 18
tuổi phạm tội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” cho bài báo cáo thực tập của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của chế định trách nhiệm
hình sự đối người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa
đổi bổ sung năm 2017 trong mối quan hệ so sánh, đánh giá với các quy định của Bộ luật
Hình sự trước đây. Trên cơ sở áp dụng quy định của pháp luật, đánh giá những kết quả
đạt được, nêu lên những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn áp dụng. Từ đó, đề xuất một số
kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của chế định trách nhiệm hình sự và chính sách
xử lý đối người dưới 18 tuổi phạm tội và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác
xét xử đối với các vụ án nêu trên.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu: Báo cáo thực tập nghiên cứu chế định về trách nhiệm
hình sự đối người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015

1



(sửa đổi, bổ sung năm 2017), Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và các pháp luật có liên
quan.
Về phạm vi nghiên cứu:
- Về khơng gian: Tình hình tội phạm tội của người dưới 18 tuổi trên thành phố Đà
Nẵng và công tác xét xử các vụ án này tại Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.
- Về thời gian: Từ năm 2015 đến hết năm 2018 mà tập trung vào giai đoạn từ ngày
Bộ luật hình sự có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2018, Bộ luật Tố tụng hình sự có hiệu
lực thi hành ngày 01/7/2016.
- Về nội dung: Các quy định pháp luật liên quan đến tội danh, tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các biện pháp khác theo quy định của pháp luật. Những
vấn đề còn tồn tại, nguyên nhân và giải pháp đặt ra.
- Các số liệu để minh chứng được dẫn chiếu từ thực tiễn trong công tác giải quyết,
xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm, phúc thẩm tại Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Báo cáo thực tập tốt nghiệp được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Các quan điểm, định hướng của Đảng và
pháp luật của Nhà nước ta về chính sách xử lý trách nhiệm đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội.
Các phương pháp chủ yếu được sử dụng để nghiên cứu đề tài là: phương pháp phân
tích, tổng hợp; phương pháp đối chiếu, so sánh; phương pháp thống kê…
5. Bố cục
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của báo cáo
thực tập tốt nghiệp gồm 03 chương:
Chương 1: Tổng quan về Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng
Chương 2: Một số vấn đề lý luận chung và quy định pháp luật về trách nhiệm hình
sự của người dưới 18 tuổi phạm tội
Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm hình sự đối người dưới 18
tuổi phạm tội tại Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng - Giải pháp


2


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
1.1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Cùng với sự ra đời của Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa sau thành công của
Cách mạng tháng 8 năm 1945, ngày 13/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 33C
thiết lập Tòa án quân sự trên cả ba miền Bắc, Trung, Nam của nước ta. Toà án quân sự có
thẩm quyền xét xử tất cả những người nào phạm vào một việc gì có phương hại đến nền
độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thực hiện trước hoặc sau ngày
19/8/1945. Toà án Quân sự ra đời ngày 13/9/1945 là tiền thân, đánh dấu sự ra đời của
Tịa án nhân dân ngày nay. Lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống Tòa án Việt
Nam gắn liền với lịch sử xây dựng, củng cố và hồn thiện bộ máy Nhà nước ta nói
chung, các cơ quan tư pháp nói riêng. Cho đến nay, ngành Tịa án Việt Nam bao gồm hệ
thống Tòa án nhân dân được tổ chức từ trung ương đến cấp huyện và hệ thống Tòa án
quân sự từ Tòa án quân sự trung ương đến các Tòa án quân sự khu vực và khơng ngừng
hồn thiện trong q thực hiện nhiệm vụ cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Ngày 29/3/1975, thành phố Đà Nẵng được giải phóng góp phần quan trọng vào
thắng lợi hồn tồn của công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Sau đại thắng mùa
xn năm 1975, Miền Nam hồn tồn giải phóng, đất nước thống nhất, non sơng thu về
một mối, Tịa án nhân dân các tỉnh ở miền Nam cũng lần lượt được thành lập. Ngày
12/02/1976, Tòa án nhân dân cách mạng tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng được thành lập, sau
này đổi tên là Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Cùng thời gian này, Tòa án
nhân dân cấp huyện cũng được thành lập tại 16 quận, huyện, Thị xã của tỉnh Quảng Nam
– Đà Nẵng.
Đến năm 1978, cùng với việc chia tách, thành lập mới đơn vị hành chính của tỉnh

Quảng Nam - Đà Nẵng, Tịa án Quận Nhất, Tịa án Quận Nhì và Tịa án Quận Ba sáp
nhập lại thành Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
Thời gian này, lực lượng cán bộ của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng chủ
yếu là cán bộ từ chiến khu xuống, từ Miền Bắc tăng cường vào và đặc biệt là từ Tòa án
nhân dân tỉnh Thanh Hóa là tỉnh kết nghĩa với Tịa án nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà
Nẵng.
Tuy điều kiện còn hết sức khó khăn trong bối cảnh chung của cả nước sau giải
phóng Miền Nam, thống nhất đất nước, nhưng ngành Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, đưa ra xét xử nhiều vụ án đặc biệt
nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia, âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân; tội
phạm đưa người ra nước ngoài trái phép, tội phạm xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Kết
quả cơng tác của ngành Tồ án nhân dân tỉnh trong thời kỳ này đã góp phần quan trọng
vào việc ổn định an ninh trật tự sau giải phóng, làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội để
nhân dân ta tiến hành xây dựng xã hội mới trên địa bàn tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
3


Ngành Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng không ngừng được trưởng
thành và phát triển cùng với quá trình Đổi mới của đất nước, chuyển đổi từ cơ chế tập
trung bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ chỗ chỉ có 2
Tồ chun trách là Tồ Hình sự và Tồ Dân sự theo Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm
1988. Năm 1992, Luật tổ chức Toà án nhân dân được sửa đổi, bổ sung được ban hành với
nhiều quy định mới về hoàn thiện tổ chức bộ máy ngành Toà án nhân dân. Ngày
01/7/1994 Toà Kinh tế Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng được thành lập để
giải quyết các tranh chấp kinh tế thay cho chức năng của Trọng tài Kinh tế Nhà nước.
Đến năm 1996 Tồ Lao động và Tồ Hành chính cũng được thành lập để giải quyết các
tranh chấp về lao động và các vụ án hành chính theo quy định pháp luật. Nguồn cán bộ
công chức cũng được bổ sung cơ bản, ngành đã tuyển dụng nhiều sinh viên tốt nghiệp đại
học luật hệ chính quy vào làm việc và từng bước chuẩn hố đội ngũ cán bộ cơng chức để
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong bối cảnh mới của đất nước.
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khóa IX về việc chia tách tỉnh Quảng Nam - Đà

Nẵng thành hai đơn vị hành chính trực thuộc trung ương là tỉnh Quảng Nam và thành phố
Đà Nẵng trực thuộc trung ương, ngày 31/12/1996, ngành Tòa án nhân dân tỉnh Quảng
Nam - Đà Nẵng đã tiến hành chia tách. Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng được thành
lập với 05 Tịa chun trách, 03 phịng nghiệp vụ và 06 Tồ án quận huyện gồm: Tòa án
nhân dân quận Hải Châu, Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, Tòa án nhân dân quận Sơn
Trà, Tòa án nhân dân quận Liên chiểu, Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn và Tòa án
nhân dân huyện Hịa Vang. Đến năm 2005, Tồ án nhân dân Quận Cẩm Lệ được thành
lập trên cơ sở chia tách từ Toà án nhân dân huyện Hoà Vang. Các Tịa chun trách gồm:
Tịa Hình sự, Tịa Dân sự, Tịa Kinh tế, Tịa Hành chính và Tịa Lao động, các phòng
nghiệp vụ bao gồm: Phòng Tổ chức - Cán bộ, Phòng Giám đốc – Kiểm tra và Văn phòng.
Sau khi chia tách, thành lập mới, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng tập trung ổn
định tổ chức và xây dựng cơ sở vật chất, đặc biệt là đối với các Toà án quận mới được
thành lập để đảm bảo hồn thành tốt nhiệm vụ chun mơn, đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm
vụ chính trị của thành phố Đà Nẵng trực thuộc trung ương đang chuyển mình phát triển
mạnh mẽ.
Thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và đặc biệt là Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020”. Ngành Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã phấn đấu đạt được những kết
quả tích cực. Toà án nhân dân thành phố và Toà án các quận huyện luôn chú trọng thực
hiện cải cách thủ tục hành chính tư pháp trong việc tiếp nhận đơn khởi kiện và các thủ tục
tư pháp tại Toà án; thực hiện cơng khai, đơn giản hố thủ tục hành chính tư pháp. Trong
cơng tác xét xử ngành Tồ án thành phố Đà Nẵng đẩy mạnh thực hiện tranh tụng, lấy kết
quả tranh tụng tại phiên toà làm căn cứ phán quyết của Hội đồng xét xử nhằm nâng cao
chất lượng công tác xét xử, giải quyết án. Từ ngày thành lập đến nay, Toà án nhân dân

4


thành phố Đà Nẵng khơng để xảy ra trình trạng kết án oan người không phạm tội hay bỏ
lọt tội phạm.

Với những thành tích đạt được trên các mặt cơng tác, Toà án nhân dân thành phố Đà
Nẵng và các Toà án quận huyện nhiều năm được tặng Cờ thi đua của Chính phủ, Cờ thi
đua ngành của Bộ Tư pháp, Cờ thi đua ngành Toà án nhân dân và của Uỷ ban nhân dân
thành phố Đà Nẵng và nhiều Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, của Chánh án Toà án
nhân dân tối cao và của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng. Đặc biệt, năm
2010, kỷ niệm 65 năm ngày thành lập ngành Toà án nhân dân, Toà án nhân dân thành
phố Đà Nẵng được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân Chương Lao động hạng I. Đến nay
Toà án nhân dân quận Hải Châu, Toà án nhân dân quận Thanh Khê và Toà án nhân dân
huyện Hoà Vang đã được tặng thưởng Huân Chương Lao động hạng II; Tịa Hình sự Tịa
án nhân dân thành phố Đà Nẵng và Toà án nhân dân quận Cẩm Lệ được tặng thưởng
Huân Chương Lao động hạng III của Chủ tịch nước1.
1.2. CƠ CẤU TỔ CHỨC BỘ MÁY TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Hiện nay, Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng có 04 Tồ chun trách, 03 Phịng
nghiệp vụ và 07 Tồ án quận huyện với tổng số 202 biên chế. Trong đó có 82 thẩm phán,
98 thư ký, và 22 chức danh khác. Đội ngũ Thẩm phán, cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ
thống Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng ngày càng trưởng thành, vững vàng
về bản lĩnh chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, nhiều thẩm phán, cán bộ cơng chức đạt trình
độ sau đại học, đáp ứng u cầu về ngoại ngữ, tin học để thực hiện nhiệm vụ đặt ra trong
bối cảnh hội nhập, hợp tác quốc tế.
Được sự quan tâm của lãnh đạo Toà án nhân dân tối cao, sự hỗ trợ của lãnh đạo
thành phố Đà Nẵng đến nay cơ sở vật chất của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác, từng bước hiện đại. Trụ sở của Toà án thành phố Đà
Nẵng và Toà án các quận huyện được đầu tư xây mới, sửa chữa. Đặc biệt Cơng trình xây
mới trụ sở Tồ án nhân dân thành phố Đà Nẵng được lãnh đạo Toà án nhân dân tối cao
xác định là cơng trình trọng điểm ưu tiên về vốn xây dựng theo yêu cầu đảm bảo cơ sở
vật chất cho hoạt động tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ chính trị. Cơng
trình gồm khối nhà 6 tầng, diện tích sử dụng là 11.967m2, được xây dựng trên lơ đất có
diện tích 6.537m2 với trang thiết bị hiện đại. Sau gần 02 năm xây dựng Cơng trình đã
hồn thành đưa vào sử dụng từ đầu năm 2013. Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đà
Nẵng sau nhiều năm đóng tại 38 Bạch Đằng - Đà Nẵng nay chuyển về địa chỉ mới tại 374

Núi Thành, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
Trong bối cảnh hội nhập, hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng của nước ta và trước
yêu cầu nhiệm vụ cải cách tư pháp, nhiệm vụ đặt ra đối với hệ thống Toà án nhân dân
ngày càng nặng nề, với yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao. Thẩm phán, cán bộ cơng chức Tịa
án nhân dân thành phố Đà Nẵng quyết tâm phấn đấu, không ngừng học tập, rèn luyện để
đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ đặt ra, xứng đáng với vai trị, vị trí trung
tâm trong hệ thống các cơ quan tư pháp, cơ quan thực hiện quyền tư pháp; kế thừa, nối
1

Trang Thông tin điện tử Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

5


tiếp truyền thống vẻ vang của ngành được xây dựng, cống hiến qua các thế hệ cán bộ
lãnh đạo, công chức ngành Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng trước đây và Toà
án nhân dân thành phố Đà Nẵng ngày nay.
Từ ngày 01 tháng 6 năm 2015, triển khai thực hiện Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2014, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015, cơ cấu tổ chức bộ máy và nhân sự Tịa án nhân dân thành phố Đà Nẵng
đã có sự thay đổi căn bản. Theo đó, hiện nay tại Tịa án nhân dân các quận huyện có các
Tịa chun trách và bộ phận tham mưu giúp việc là Văn Phòng. Tại Tòa án nhân dân
thành phố bộ máy và nhân sự cũng có sự thay đổi lớn với việc sát nhập và thành lập mới
Tòa chuyên trách và các Phòng nghiệp vụ. Các Tòa chuyên trách tại Tòa án nhân dân
thành phố bao gồm: Tịa Hình sự (được giảm thẩm quyền xét xử cho Tịa Gia đình và
Người chưa thành niên); Tòa Dân sự (được sáp nhập trên cơ sở Tòa Dân sự, Tòa Kinh tế
và Tòa Lao động); Tòa Hành Chính (được giữ nguyên chức năng nhiệm vụ và thẩm
quyền đối với các vụ án hành chính, được giảm thẩm quyền xét xử cho Tịa Gia đình và
Người chưa thành niên đối với việc áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính tại Tịa
án); Tịa Gia đình và người chưa thành niên (được kế thừa một phần chức năng nhiệm vụ

của Tịa Hình sự và Tịa Dân sự). Các Phòng nghiệp vụ bao gồm: Văn phòng, Phòng Tổ
chức Cán bộ, Thanh tra và Thi đua Khen thưởng, Phòng Kiểm tra nghiệp vụ 2. Chức năng
cụ thể như sau:
Tịa Hình sự xét xử các vụ án hình sự, trừ các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tịa gia đình và người chưa thành niên; xem xét, quyết định áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính tại Tịa án nhân dân trong trường hợp tại Tịa án đó khơng tổ chức
Tịa xử lý hành chính, trừ trường hợp việc xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử
lý hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tịa gia đình và người chưa thành niên.
Tịa Dân sự giải quyết các vụ việc dân sự; giải quyết các vụ việc kinh doanh thương
mại, phá sản, lao động, hành chính trong trường hợp tại Tịa án đó khơng tổ chức Tịa
kinh tế, Tịa lao động, Tịa hành chính.
Tịa Gia đình và Người chưa thành niên giải quyết các vụ việc như sau: Các vụ án
hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi hoặc các vụ án hình sự mà bị cáo là người đã đủ
18 tuổi trở lên nhưng người bị hại là người dưới 18 tuổi bị tổn thương nghiêm trọng về
tâm lý hoặc cần sự hỗ trợ về điều kiện sống, học tập do khơng có mơi trường gia đình
lành mạnh như những người dưới 18 tuổi khác; Xem xét, quyết định áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính tại Tịa án nhân dân đối với người chưa thành niên; Các vụ việc
hơn nhân gia đình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Tịa Hành chính giải quyết các vụ án hành chính, xử lý hành chính xem xét, quyết
định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân, trừ những việc thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tịa gia đình và người chưa thành niên3.
2

Báo cáo về cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân dân năm 2014 thành phố theo Luật tổ chức cán bộ
Thơng tư 01/2016/TT-CA ngày 21/01/2016 của Chánh án Tịa án nhân dân tối cao quy định việc tổ chức các tòa
chuyên trách tại tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh và tương đương
3

6



Đối với bộ phận được phân bổ về thực tập là Tịa hình sự Tịa án nhân dân thành
phố hiện nay có 04 Thẩm phán, 04 Thư ký trung bình hằng năm giải quyết trên 250 vụ án
hình sư sơ thẩm và 400 vụ án hình sự phúc thẩm. Trung bình mỗi Thẩm phán và Thư ký
giúp việc xử lý, giải quyết trên 150 vụ án/năm. Số lượng án nêu trên là cao hơn 03 lần so
với quy định của Tòa án nhân dân tối cao (48 vụ việc/năm). Số lượng đầu việc phải giải
quyết theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự cho mỗi vụ việc là rất nhiều nên tính chất
áp lực cơng việc đặt ra là rất lớn.
Như vậy, có thể khẳng định theo quy định mới hiện nay, bộ máy tổ chức, thẩm
quyền của Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng về cơ bản có sự thay đổi nhất
định, yêu cầu đặt ra đối với công tác xét xử, giải quyết các loại án ngày càng cao, vai trò
trách nhiệm của người giữ chức danh tư pháp ngày càng được coi trọng. Đến nay các
chức vụ lãnh đạo Tòa án thành phố và Tịa án quận huyện đã kiện tồn. Thực hiện Luật
Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Chánh án Tòa án thành phố đã bổ nhiệm chức vụ
Chánh Văn phòng cho 07 Tòa án nhân dân các quận, huyện. Khi bộ máy tổ chức và cơ
cấu nhân sự dần đi vào ổn định thì Tịa án nhân dân thành phố Đà Nẵng mới phát huy tối
đa các mặc tích cực đã đạt được, phấn đấu hồn thành tốt các nhiệm vụ chính trị đã đề ra,
đáp ứng kịp thời yêu cầu cải cách tư pháp và xu thế hội nhập quốc tế, xứng đáng với vai
trị, vị trí trung tâm trong hệ thống các cơ quan tư pháp, cơ quan thực hiện quyền tư pháp.

7


CHƯƠNG 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƯỜI DƯỚI 18
TUỔI PHẠM TỘI
2.1.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự và các đặc điểm cơ bản của trách nhiệm

hình sự
Trách nhiệm hình sự là một thuật ngữ khoa học pháp lý nhưng lại không được Bộ
luật Hình sự ghi nhận cụ thể về mặt nội dung. Tuy nhiên, thông qua quy định tại các Điều
2 về cơ sở của trách nhiệm hình sự, Điều 8 về khái niệm tội phạm, Điều 12 về tuổi chịu
trách nhiệm hình sự Bộ luật Hình sự năm 2015 thì có thể khẳng định một chủ thể phải
chịu trách nhiệm hình sự khi có đầy đủ cơ sở và những điều kiện bao gồm cả chủ quan và
khách quan. Cơ sở của trách nhiệm hình sự được hiểu là căn cứ buộc một người vi phạm
pháp luật hình sự phải chịu trách nhiệm hình sự.
Liên quan đến khái niệm và nội hàm về Trách nhiệm hình sự cịn có nhiều quan
điểm khác nhau nhưng cơ bản chúng có những đặc điểm như sau:
Một là, Trách nhiệm hình sự là một phần của trách nhiệm pháp lý, nó mang tính
nghiêm khắc so với bất kỳ dạng trách nhiệm pháp lý khác.
Hai là, Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi vi phạm
pháp luật hình sự. Vì vậy, khi có hành vi thực hiện gây nguy hiểm cho xã hội, gây tổn hại
đến các quan hệ xã hội được Bộ luật hình sự quy định là tội phạm thì có nghĩa phát sinh
trách nhiệm hình sự.
Ba là, Trách nhiệm hình sự chỉ được thực hiện trong phạm vi của quan hệ pháp luật
hình sự giữa một bên là Nhà nước và người phạm tội. Trách nhiệm hình sự mang tính
chất cơng, Nhà nước là cơ quan duy nhất mới có quyền buộc người phạm tội phải chịu
trách nhiệm hình sự nhằm mục đích trừng trị, trừng phạt các hành vi gây nguy hiểm cho
xã hội.
Bốn là, Trách nhiệm hình sự mang tính chất cá nhân và chỉ được áp dụng đối với
bản thân người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong Bộ luật hình sự quy định là
tội phạm.
Từ những phân tích trên, có thể khái qt như sau: “Trách nhiệm hình sự được hiểu
là một dạng của trách nhiệm pháp lý và là hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội
phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà
nước do luật hình sự quy định đối với người phạm tội”4.
2.1.2. Cơ sở lý luận của trách nhiệm hình sự
Cơ sở lý luận của trách nhiệm hình sự được hiểu là yếu tố nền tảng định hướng sự

hình thành của trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Về lý luận
là nhằm giải thích cho vấn đề cần đặt ra là: Tại sao một người thực hiện hành vi phạm tội
phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm đã được thực hiện của mình? Cơ sở lý luận của
4

Giáo trình tố tụng hình sự Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh xuất bản tháng 10/2017

8


trách nhiệm hình sự hình thành trên hai nền tảng sau: Cơ sở triết học và cơ sở pháp lý của
trách nhiệm hình sự.
Về cơ sở triết học: Cơ sở triết học của trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội
là tổng thể các mối quan hệ biện chứng giữa hành vi và trách nhiệm. Mọi trách nhiệm kể
cả trách nhiệm đạo đức và trách nhiệm pháp lý đều là hậu quả của hành vi không tuân thủ
các giá trị được bảo vệ và một người khi thực hiện hành vi thì phải chịu trách nhiệm.
Hành vi của chủ thể không phải là sự phản ánh trực diện đối với hồn cảnh mà nó là
sự phản ánh thơng qua sự suy xét của lý trí và sự quyết định của ý chí. Chính vì thế, khi
đặt trong cùng một hoàn cảnh, chịu sự tác động như nhau của những điều kiện bên ngoài
nhưng mỗi chủ thể khác nhau lại có cách xử sự khác nhau. Trong trường hợp họ lại chọn
cách xử sự xâm hại đến khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ thì họ phải chịu trách
nhiệm hình sự về chính hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, cơ sở để quy kết trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội chính là do họ đã thể hiện sự tự do trong những việc lựa
chọn cách hành xử trái với quy định pháp luật, trong khi họ vẫn có thể lựa chọn những
cách hành xử khác phù hợp với lợi ích của bản thân và lợi ích cộng đồng, xã hội.
Về cơ sở pháp lý: Cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự là những căn cứ có tính
chất bắt buộc chung do pháp luật hình sự quy định dựa vào đó mới có thể đặt vấn đề ai
phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội do mình gây ra xâm
phạm các khách thể được pháp luật bảo vệ.
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa ghi nhận: “Những gì có thể là cơ sở của trách

nhiệm hình sự đối với việc áp dụng hình phạt cũng như việc áp dụng hình thức trách
nhiệm hình sự với tính cách là hậu quả pháp lý của hành vi tội phạm đều phải do pháp
luật hình sự quy định”5.
Cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 2 của Bộ luật Hình
sự năm 2015 “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải
chịu trách nhiệm hình sự”. Như vậy, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đặt ra đối với một
người có hành vi nguy hiểm cho xã hội được Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm.
Ngồi Bộ luật Hình sự thì khơng có văn bản pháp luật nào khác được quy định về tội
phạm. Việc kết luận hành vi nào là tội phạm, cấu thành tội gì, chịu hình phạt như thế nào
thì cần phải xác định hành vi đó đã thỏa mãn những dấu hiệu cấu thành tội phạm theo
quy định của Bộ luật hình sự hay chưa? Các yếu tố đó là: khách thể, mặt khách quan, chủ
thể và mặt chủ quan của tội phạm. Nếu một hành vi đã thỏa mãn đầy đủ dấu hiệu của cấu
thành tội phạm tức là người đó đã phạm một tội cụ thể được quy định trong Bộ luật Hình
sự. Vì vậy, cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự, là điều kiện cần
và đủ của trách nhiệm hình sự.
2.1.3. Khái niệm trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi
a. Khái niệm, đặc điểm của người dưới 18 tuổi phạm tội
Khái niệm người dưới 18 tuổi:

5

Giáo trình tố tụng hình sự Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh xuất bản tháng 10/2017

9


Người dưới 18 tuổi là những đối tượng đang trong giai đoạn phát triển và hồn
thiện q trình nhận thức và điều khiển hành vi được Nhà nước cộng đồng xã hội quan
tâm và bảo vệ. Khái niệm người dưới 18 tuổi được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau
như: Khái niệm người chưa thành niên, trẻ em, người chưa đủ năng lực hành vi dân sự,

hình sự....
Dưới góc độ tâm sinh lý người dưới 18 tuổi là những người đang trong giai đoạn
đầu của quá trình phát triển. Từ khi được sinh ra đến khi trưởng thành con người cần phải
trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau từ sự phát triển toàn diện về thể chất cũng như
nhận thức. Ở giai đoạn này cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cơ thể, đời sống tâm sinh
lí của người dưới 18 tuổi cũng bắt đầu có những biến đổi sâu sắc. Người dưới 18 tuổi
chịu sự tác động chủ yếu của môi trường sống và họ chịu sự chi phối có tính chất quyết
định bởi nền giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội. Chính vì vậy, có thể kết luận
người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần.
Việc xác định người dưới 18 tuổi theo pháp luật hình sự Việt Nam là sự tiếp thu, thể
chế hóa các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật trong nước về khái niệm trẻ em,
người chưa thành niên. Chẳng hạn: Theo Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục Trẻ em
năm 2004 quy định “Trẻ em là cơng dân Việt Nam dưới 16 tuổi”, cịn theo Bộ luật Dân
sự năm 2015 thì “người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi”, còn theo Luật Lao
động năm 2012 thì “lao động chưa thành niên là người dưới 18 tuổi”…. Người dưới 18
tuổi trong Bộ luật Hình sự năm 2015 được tiếp cận theo phương thức tuổi chịu trách
nhiệm hình sự bao gồm: Người dưới 14 tuổi, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và
người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Đặc điểm của người dưới 18 tuổi:
Đặc trưng cơ bản của người dưới 18 tuổi cụ thể như:
Thứ nhất, dưới 18 tuổi là giai đoạn có những sự thay đổi mạnh mẽ nhất về thể chất.
Sự trưởng thành nhanh chóng gần như đột biến ấy không chỉ gây ra sự ngạc nhiên cho
những người xung quanh mà cịn cho chính bản thân họ.
Thứ hai, cùng với sự phát triển mạnh mẽ về thể chất, đời sống tâm lý của người
dưới 18 tuổi cũng có những biến đổi sâu sắc. Họ có tâm lý muốn khẳng định mình và
muốn được người khác thừa nhận về khả năng của mình, những biến động đó chịu sự tác
động có tính chất quyết định bởi nền giáo dục của gia đình, nhà trường và mơi trường xã
hội xung quanh.
Thứ ba, từ sự thay đổi về thể chất và tâm lý, người dưới 18 tuổi cịn có những biến
đổi mạnh mẽ trong hành vi. Họ sẵn sàng và dễ dàng hành động mà khơng cần có sự cân

nhắc, tính tốn thiệt hơn, thường nhất thời, nơng nỗi và ngẫu hứng nên dễ bị lôi kéo, dụ
dỗ vào những hành vi xấu mà bản thân không nhận biết được. Chính vì thế, người dưới
18 tuổi là đối tượng rất dễ bị lôi kéo vào những tệ nạn xã hội.
b. Khái niệm trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi
Trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội chính là trách nhiệm của
người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi tại thời điểm họ thực hiện hành vi phạm tội, hành vi
10


của họ xâm phạm đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ bằng Bộ luật Hình sự,
bản thân họ phải gánh chịu các hậu quả pháp lý bất lợi được quy định trong Bộ luật hình
sự do Tịa án áp dụng theo trình tự, thủ tục tố tụng nhất định. Chính vì vậy, trách nhiệm
hình sự do người dưới 18 tuổi phạm tội có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội là một phần của
trách nhiệm hình sự và nó mang các đặc điểm giống trách nhiệm hình sự đã được phân
tích ở trên.
Thứ hai, trách nhiệm hình sự là trách nhiệm cá nhân của người dưới 18 tuổi trước
Nhà nước và cá nhân thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội phải là người dưới 18 tuổi
khi họ thực hiện hành vi vi phạm pháp luật của mình và phải chịu sự trừng phạt của Nhà
nước. Căn cứ vào quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, người dưới 18 tuổi phạm
tội trong pháp luật hình sự Việt Nam chỉ bao gồm những người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa
đủ 18 tuổi. Tại Điều 12 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định: “Người từ
đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà
Bộ luật này có quy định khác. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại các
điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 178, 248, 249, 250, 251,
252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.”. Bên cạnh đó, Điều
90 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 cũng quy định giới hạn ở
ngưỡng trên để xem xét theo hệ thống áp dụng tư pháp “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18
tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này; theo

quy định khác của Phần thứ nhất của Bộ luật này không trái với quy định của Chương
này”. Từ những phân tích trên, có thể định nghĩa “Người dưới 18 tuổi phạm tội là người
từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được Bộ luật hình
sự hiện hành quy định trong là tội phạm”.
Thứ ba, cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội
được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam cụ thể được quy định tại chương XII của
Bộ luật hình sự hiện hành và các văn bản pháp luật của Nhà nước về các nội dung liên
quan đến người dưới 18 tuổi phạm tội.
Thứ tư, người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Hành vi của họ
trái với quy định của pháp luật hình sự Việt Nam. Người dưới 18 tuổi có quyền tự do lựa
chọn cách xử sự của mình cho phù hợp với lợi ích của bản thân mình và lợi ích chung của
xã hội. Tuy nhiên, họ lại lựa chọn cách xử sự xâm hại đến khách thể được luật hình sự
bảo vệ thì trong trường hợp này họ phải chịu trách nhiệm hình sự về chính hành vi phạm
tội của mình gây ra.
Thứ năm, trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi mang tính chất cơng, chỉ có
Nhà nước mới có quyền buộc người dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự
trước Tịa án, đây là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để xác nhận người dưới 18 tuổi thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là bị cáo chính thức bị coi là
“tội phạm” và “có tội”.
11


Thứ sáu, trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội về mức độ có giảm
nhẹ hơn so với trách nhiệm hinh sự của người đủ 18 tuổi phạm tội. Ở cùng một loại tội
phạm được quy định trong Bộ luật hình sự thì người dưới 18 tuổi có thể khơng bị xem là
phạm tội. Căn cứ vào quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự quy định thì người từ đủ 16
tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ
luật này có quy định khác. Người từ đủ 14 tuổi dến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một
trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248,

249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303, và 304 của Bộ luật này.
Thứ bảy, người dưới 18 tuổi phạm tội bị Tịa án áp dụng theo trình tự, thủ tục tố
tụng nhất định được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự, họ phải gánh chịu hậu quả
pháp lý bất lợi được quy định trong Bộ luật hình sự. Họ bị pháp luật Việt Nam trừng trị
thì có nghĩa là phải chịu tước bỏ hoặc hạn chế quyền, tự do nhất định; nhưng đồng thời
cũng có quyền yêu cầu sự tuân thủ từ phía Nhà nước đối với các quyền và lợi ích của con
người theo đúng các quy định của pháp luật.
Từ các phân tích trên, cho thấy khái niệm trách nhiệm hình sự của người dưới 18
tuổi phạm tội được hiểu như sau: “Trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội
là trách nhiệm của người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi tại thời điểm thực hiện hành vi vi
phạm pháp luật, họ phải hánh chịu các hậu quả pháp lý bất lợi được quy định trong Bộ
luật hình sự do Tịa án áp dụng theo trình tự, thủ tục tố tụng nhất định.”6
2.1.4. Các nguyên tác xử lý trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi
Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới
18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành
mạnh, trở thành cơng dân có ích cho xã hội.
Đây là nguyên tắc đầu tiên, mang tính chất chung nhất, phản ánh mục đích của việc
xử lý, áp dụng hình thức trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. “Việc
xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của họ về
tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội
phạm”.
Do người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như về tâm
sinh lý, nên họ có những hạn chế nhất định trong quá trình nhận thức và hành vi của
mình. Tại Việt Nam người dưới 18 tuổi phạm tội được giới hạn từ đủ 14 tuổi đến dưới 18
tuổi. Dưới 14 tuổi đứa trẻ đó thực hiện 1 hành vi khách quan (có dấu hiệu của một tội
phạm hình sự) cũng khơng phải chịu trách nhiệm hình sự mà thay vào đó là biện pháp xử
lý khác.
Trên cơ sở thừa nhận sự hạn chế về năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của
người dưới 18 tuổi Nhà nước ta đã quy định chính sách hình sự mang tính giảm nhẹ đối
với người dưới 18 tuổi khi họ phạm tội. Các biện pháp xử lý không phải là trừng phạt mà

nhằm giáo dục các yếu tố tích cực trong nhận thức của họ đang trong q trình hồn
thiện, đồng thời uốn nắn các yếu tố tiêu cực đang có xu hướng đi lệch lạc quay về đúng
12


quỹ đạo của nó. Điều này khác với mục đích chung của trách nhiệm hình sự được thể
hiện qua mục đích của hình phạt được quy định tại Điều 31 Bộ luật hình sự hiện hành
“Hình phạt khơng chỉ nhằm trừng trị người phạm tội.” Điều này có nghĩa là bên cạnh
việc giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, hình phạt cịn nhằm
trừng trị người phạm tội và giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phịng
ngừa và chống tội phạm. Vì vậy, nguyên tắc xử lý chung trong mọi trường hợp điều tra,
truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người dưới 18 tuổi, các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền phải xác định rõ khả năng nhận thức của họ về tính nguy hiểm cho xã hội của hành
vi do họ gây ra.
Thêm vào đó, việc làm rõ nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm của người dưới
18 tuổi phạm tội giúp cơ quan tư pháp và người tiến hành tố tụng lựa chọn đúng các biện
pháp cần áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong giới hạn luật quy định, cũng
như đưa ra được các biện pháp kiểm sốt, phịng ngừa việc phạm tội của người dưới 18
tuổi.
Nguyên tắc miễn trách nhiệm hình sự cho người dưới 18 tuổi phạm tội6
Đây là nguyên tắc thứ hai trong xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội liên quan đến
việc miễn trách nhiệm hình sự. Nội dung nguyên tắc này là: “Người dưới 18 tuổi phạm
tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện
khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ
luật này, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp
quy định tại Mục 2 chương này…”
Theo nguyên tắc này, phạm vi áp dụng chế định miễn trách nhiệm hình sự đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội rộng và khoan hồng hơn so với người đủ 18 tuổi trở lên
phạm tội. Với mục tiêu Nhà nước ta đang hướng tới xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, vì vậy mọi chính sách của Đảng và Nhà nước trong đó các chính sách

pháp luật đều hướng đến xây dựng một Nhà nước pháp quyền, đề cao và bảo vệ tối đa
quyền con người. Các biện pháp cưỡng chế hình sự, tiêu biểu hình phạt bên cạnh tính
trừng trị cịn nhằm mục đích giáo dục người phạm tội, giúp họ nhận ra sai lầm và tạo cho
họ cơ hội để sửa chữa, sớm tái hòa nhập với cộng đồng. Bộ luật hình sự Việt Nam quy
định chính sách nhân đạo đối với người dưới 18 tuổi, họ là đối tượng đặc biệt được pháp
luật bảo vệ dưới cả hai góc độ, khi họ là người bị hại và cả khi họ là chủ thể của tội
phạm, chính sách này của Nhà nước ta thể hiện rõ và nhất quán, đồng thời cũng phù hợp
với Công ước quốc tế của Liên hợp Quốc về quyền Trẻ em năm 1989 mà Việt Nam đã
tham gia kí kết.
Nguyên tắc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm tội7
Nội dung của nguyên tắc này là “Việc truy cứu trách nhiệm hình sự của người dưới
18 tuổi phạm tội chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào những đặc điểm về
6
7

khoản 2, Điều 91 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.
khoản 3, Điều 91 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017

13


nhân thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi và yêu cầu của việc phòng
ngừa tội phạm”.
Quy định này thể hiện tính nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam bằng việc đặt
ra yêu cầu và giới hạn phạm vi những trường hợp cần truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội mà có thể áp dụng các biện pháp tư pháp, thậm chí miễn
hình phạt cho họ nếu có những căn cứ phù hợp với quy định của pháp luật. Truy cứu
trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội được xác định dựa trên các căn cứ
tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà người dưới 18 tuổi đã thực hiện;

yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm; đặc điểm nhân thân của chính người dưới 18 tuổi
phạm tội.
Nguyên tắc này bổ sung, nối tiếp cho nguyên tắc trên, khi người dưới 18 tuổi phạm
tội nhưng loại tội mà họ thực hiện khơng phải là tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng và
gây nguy hại không lớn, sự việc phạm tội khơng có nhiều tình tiết giảm nhẹ… khi đó họ
khơng đủ điều kiện để được miễn trách nhiệm hình sự. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự
đặt ra nhưng trong giới hạn và phạm vi xác định. Nếu bản thân họ là người có nhân thân
tốt, tội phạm mà họ thực hiện có tính nguy hiểm khơng cao… thì chỉ cần áp dụng các
biện pháp cưỡng chế khác hoặc áp dụng biện pháp pháp lý hình sự khác là đã bảo đảm xử
lý người dưới 18 tuổi và phòng, chống tội phạm. Chính vì vậy mà ngay trong Bộ luật tố
tụng hình sự cũng quy định các cơ quan tiến hành tố tụng khi điều tra, truy tố, xét xử mà
thấy có căn cứ áp dụng các biện pháp cưỡng chế khác, hoặc chuyển xử lý khác thì cần ra
văn bản áp dụng pháp luật, đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án hình sự (chấm dứt việc
truy cứu trách nhiệm hình sự). Điều này cũng được quy định tại Điều 424 Bộ luật tố tụng
hình sự về chấm dứt việc chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, biện
pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, giảm hoặc miễn chấp hành hình phạt “Người dưới
18 tuổi bị kết án có thể được chấm dứt việc chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường,
thị trấn, biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, giảm hoặc miễn chấp hành hình phạt
khi có đủ điều kiện quy định tại Điều 95 hoặc Điều 96 hoặc Điều 105 của Bộ luật hình
sự”. Trong điều kiện nhất định người dưới 18 tuổi sau khi bị Tòa án kết án vẫn có thể
chấm dứt việc chấp hành các biện pháp tư pháp, hình phạt khi họ có sự tiến bộ rõ rệt, lập
công hoặc mắt bệnh hiểm nghèo… dựa vào các điều, khoản được quy định tại Điều 96,
Điều 97 và Điều 105 Bộ luật hình sự hiện hành.
Nguyên tắc áp dụng biện pháp thay thế hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội8
Nội dung của nguyên tắc là: “Khi xét xử, Tịa án chỉ áp dụng hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một
trong các biện pháp quy định tại Mục 2 hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường
giáo dưỡng quy định tại Mục 3 Chương này không đảm bảo hiệu quả giáo dục; phịng
ngừa”.


8

khoản 4, Điều 91 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017

14


Đối với nguyên tắc này đòi hỏi Tòa án phải lựa chọn việc có áp dụng hình phạt đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội hay không? Trong trường hợp có căn cứ để Tịa án
khơng cần áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì Tòa án áp dụng các
biện pháp tư pháp. Những căn cứ để Tịa án quyết định lựa chọn việc có áp dụng hình
phạt hay biện pháp tư phàm chính là tính chất của hành vi phạm tội, những đặc điểm về
nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm đối với người phạm tội dưới 18 tuổi.
Nguyên tắc hạn chế một số hình phạt khi áp dụng hình phạt đối với người dưới
18 tuổi phạm tội
Nội dung nguyên tắc này là: “Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với
người dưới 18 tuổi.” (khoản 5, Điều 91 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017). Đây
là nguyên tắc cơ bản về xử lý về trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
nhưng lại có bản chất là căn cứ quan trọng để Tịa án quyết định hình phạt đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội. Trước hết thái độ của Nhà nước ta là việc tuyệt đối khơng áp dụng
hình phạt tử hình và tù chung thân đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, thể hiện tính
nhân đạo, quy định này thể hiện được nguyên tắc không lấy trừng trị là mục đích của
hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Mục đích của việc truy cứu trách nhiệm
hình sự chủ yếu là nhằm giáo dục, cải tạo, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm và phát triển
thành người công dân tốt của xã hội. Điều này cũng phù hợp với Công ước Quốc tế của
Liên hợp Quốc về quyền Trẻ em năm 1989 mà Việt Nam đã tham gia kí kết.
Trong hệ thống hình phạt ở nước ta, đây là hai hình phạt thể hiện tính trừng trị cao
nhất: Một hình phạt mang tính chất là tước tự do suốt đời và một hình phạt tước quyền
sống của người bị kết án. Với tính chất đó, các hình phạt này chỉ được áp dụng trong

những trường hợp hành vi phạm tội và nhân thân người phạm tội cho thấy người đó khó
hoặc khơng cịn khả năng cải tạo, giáo dục. Những hình phạt này trái với đường lối xử lý
chung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Theo khoản 5, Điều 91 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 thì: “Tịa án chỉ
áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các
hình phạt và biện pháp giáo dục khác khơng có tác dụng răn đe, phịng ngừa. Khi xử phạt
tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức
án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp
ngắn nhất. Khơng áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội”. Theo
đó, khi quyết định hình phạt đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi, Tòa án phải xem xét
mức án nhẹ hơn với mức án của người đủ 18 tuổi khi hành vi của họ là tương đồng về
tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội, tương đồng về mức độ lỗi, vai trị, các tính tiết
tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt. Quy định này phù hợp với đánh giá về sự thiếu hoàn thiện
trong nhận thức và kinh nghiệm sống của người dưới 18 tuổi và cũng là biểu hiện của
đường lối xử lý khoan hồng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm hạn chế tác động
tiêu cực của môi trường trại giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Đồng thời, quy
định này cũng là sự thể chế hóa các nguyên tắc cơ bản của tư pháp hình sự người dưới 18
tuổi được ghi nhận trong Công ước quốc tế về Quyền trẻ em, theo đó, khơng có trẻ em
15


nào bị tước quyền tự do một cách bất hợp pháp hoặc tùy tiện ở bất kỳ giai đoạn nào của
quá trình tư pháp người dưới 18 tuổi.
Một nội dung cơ bản của nguyên tắc này là: “Không áp dụng hình phạt bổ sung đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội”. Hình phạt bổ sung là hình phạt khác mà Tòa án áp
dụng cho bị cáo đối với một số loại tội có tính chất đặc thù thì nhằm hạn chế việc phát
sinh tội phạm mới hoặc để đảm bảo cho việc khác phục hậu quả sau hành vi phạm tội.
Các hình phạt bổ sung bao gồm: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công
việc nhất định; Cấm cư trú; Quản chế; Tước một số quyền công dân; Tịch thu tài sản;
Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính; Trục xuất, khi khơng áp dụng là hình

phạt chính (Khoản 2 Điều 32 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017). Lý do để
người dưới 18 tuổi khơng bị áp dụng các hình phạt bổ sung vì các hình phạt này phần lớn
là quyền của người đã đủ năng lực hành vi dân sự (đủ 18 tuổi) như: Đảm nhiệm chức vụ,
hành nghề…(nghĩa là khi đó người dưới 18 tuổi chưa đủ các điều kiện để được hưởng
các quyền này) hoặc việc áp dụng hình phạt bổ sung đối với họ khơng đạt được mục đích
của việc áp dụng hình phạt bổ sung (nghĩa là không đạt được yêu cầu về hạn chế việc
phát sinh tội phạm mới hoặc để đảm bảo cho việc khắc phục hậu quả sau hành vi phạm
tội). Hơn nữa, người trong độ tuổi này thường chưa tham gia lao động để có tài sản nên
việc hiểu đúng giá trị tài sản đối với cuộc sống còn hạn chế nên hình phạt bổ sung là phạt
tiền đối với họ có thể không phát huy được hiệu quả giáo dục, cải tạo của loại hình phạt
này.
Nguyên tắc hạn chế các tình tiết định đội, định khung tăng nặng khi người dưới 16
tuổi phạm tội: Nội dung nguyên tắc này được quy định tại khoản 7 Điều 91 Bộ luật hình
sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017: Án đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi phạm tội, thì
khơng tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm. Theo quy định của Bộ luật
hình sự, tái phạm, tái phạm nguy hiểm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định
tại điểm h, khoản 1 Điều 52 và trong một số loại tội cụ thể tái phạm, tái phạm nguy hiểm
được xem là tình tiết định khung tăng năng. Tuy nhiên, đối với người dưới 16 tuổi phạm
tội nhằm đảm bảo chính sách xử lý trách nhiệm hình sự đối với họ là cải tạo giáo dục nên
các hành vi phạm tội của họ không là căn cứ để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy
hiểm. Nghĩa là khơng áp dụng nó là tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự
hoặc tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với lần phạm tội kế tiếp. Quy định này
cũng thể hiện tính khoan hồng cao hơn trong xử lý hình sự người từ đủ 14 tuổi đến dưới
16 tuổi phạm tội so với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
2.2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ CHÍNH
SÁCH XỬ LÝ ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
2.2.1. Quy định chung về xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi.
Theo quy định tại Điều 90 Bộ luật Hình sự năm 2015 về áp dụng Bộ luật hình sự
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải
chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này; theo quy định khác của

Phần thứ nhất của Bộ luật này khơng trái với quy định của Chương này”. Theo đó, thì
16


trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi chịu được Bộ luật Hình sự quy định trong
giới hạn như sau:
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội sau:
Tội giết người; Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác,
Tội hiếp dâm; Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi Tội cưỡng dâm; Tội cưỡng dâm người từ
đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi; Tội mua bán người; Tội mua bán người dưới 16 tuổi; Tội
cướp tài sản; Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; Tội cưỡng đoạt tài sản Tội cướp giật
tài sản; Tội trộm cắp tài sản; Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản; Tội sản xuất
trái phép chất ma túy; Tội tàng trữ trái phép chất ma túy; Tội vận chuyển trái phép chất
ma túy; Tội mua bán trái phép chất ma túy; Tội chiếm đoạt chất ma túy; Tội tổ chức đua
xe trái phép; Tội đua xe trái phép, Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt
động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử; Tội cản trở hoặc gây rối
loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử; Tội xâm nhập
trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thơng hoặc phương tiện điện tử của người khác;
Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi
chiếm đoạt tài sản; Tội khủng bố; Tội phá hủy cơng trình, cơ sở, phương tiện quan trọng
về an ninh quốc gia; Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự.
Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm: Nhưng
nếu phạm những tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng mà có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự
nguyện khắc phục phần lớn hậu quả thì được miễn trách nhiệm hình sự, trừ những tội
sau: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; Tội hiếp
dâm; Tội cướp giật tài sản; Tội sản xuất trái phép chất ma túy; Tội tàng trữ trái phép chất
ma túy; Tội vận chuyển trái phép chất ma túy; Tội mua bán trái phép chất ma túy; Tội
chiếm đoạt chất ma túy.
So với quy định của Bộ luật hình sự năm 1999, quy định của Bộ luật Hình sự năm

2015 đã tiếp tục hồn thiện chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm
đảm bảo sự phù hợp với chủ trương của Đảng, Nhà nước ta về tăng cường bảo vệ người
chưa thành niên, đề cao hiệu quả phịng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người
phạm tội được ghi nhận trong Nghị quyết số 48-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW,
đồng thời bảo đảm sự phù hợp với Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em và các
chuẩn mực pháp lý quốc tế về tư pháp đối với người chưa thành niên9.
Đối với trường hợp xem xét trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi ở giai đoạn
chuẩn bị phạm tội thì Điều 14 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
quy định như sau: Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn cơng cụ, phương tiện hoặc tạo
ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm,
trừ trường hợp thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm quy định tại Điều 109, điểm a
khoản 2 Điều 113 hoặc điểm a khoản 2 Điều 299 của Bộ luật này (khoản 1). Và người từ
9

Trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội trong Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017). Đại tá, PGS, TS. Trần Thành Hưng . Bài viết đã được đăng tải trên Tạp chí KHGD CSND số 99

17


đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội quy định tại Điều 123, Điều 168 của Bộ
luật này thì phải chịu trách nhiệm hình sự (khoản 3)”.
Như vậy, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã thu hẹp phạm
vi các tội phạm mà người dưới 18 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự ở giai đoạn chuẩn bị
phạm tội. Thay vì người dưới 18 tuổi chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng, một tội
đặc biệt nghiêm trọng phải chịu trách nhiệm hình sự, thì hiện nay người 18 tuổi chuẩn bị
phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp chuẩn bị phạm tội đối với các
tội phạm quy định tại 25 điều luật của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017). Bên cạnh đó, đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội giết
người hoặc tội cướp tài sản thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Ngồi ra, Bộ luật Hình

sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã quy định theo hướng mở rộng phạm vi loại
tội phạm mà người dưới 18 tuổi có thể phải chịu trách nhiệm hình sự ở giai đoạn chuẩn bị
phạm tội, điều đó có nghĩa người dưới 18 tuổi khơng chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự
đối với việc chuẩn bị phạm tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng mà có thể
cịn phải chịu trách nhiệm hình sự đối với việc chuẩn bị phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội
nghiêm trọng. Quy định này nhằm thể chể hóa nguyên tắc mọi hành vi phạm tội phải
được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, cơng minh theo đúng pháp luật, đồng thời,
đáp ứng thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong những năm sắp tới.
2.2.2. Các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng trong trường hợp miễn trách
nhiệm hình sự
Để thực hiện chủ trương nhân đạo trong chính sách xử lý hình sự, Bộ luật hình sự
đã bổ sung mới 04 điều luật quy định về 03 biện pháp giám sát, giáo dục đối với người
dưới 18 tuổi trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 2, Điều 91 Bộ
luật Hình sự. Đó là: Khiển trách (Điều 93) và Hịa giải tại cộng đồng (Điều 94) và Giáo
dục tại xã, phường, thị trấn. Đây là một trong những biện pháp giám sát, giáo dục khi
người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự. về mặt thực tiễn các biện
pháp này mang tính giáo dục, phịng ngừa xã hội được áp dụng nhằm mục đích giúp cho
người dưới 18 tuổi phạm tội nhận rõ được lỗi lầm, có thái độ ăn năn, hối cải, khắc phục
sai phạm.
Về điều kiện áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng trong trường hợp
được miễn trách nhiệm hình sự: Theo tinh thần Điều 92, Bộ luật Hình sự để áp dụng biện
pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình
sự thì ngồi các điều kiện quy định tại khoản 2, Điều 91 và các Điều 93, 94, 95 của Bộ
luật Hình sự bắt buộc phải có sự đồng ý của người đó hoặc của người đại diện hợp pháp
của họ về việc áp dụng một trong các biện pháp giám sát, giáo dục này. Hơn nữa, biện
pháp giám sát, giáo dục được áp dụng đặt ra nhiều nghĩa vụ cho người được giám sát,
giáo dục; vì vậy, cần phải được sự đồng ý của họ trước khi ra quyết định áp dụng.
Về nghĩa vụ của người dưới 18 tuổi phạm tội được áp dụng các biện pháp giám sát,
giáo dục áp dụng trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự 10:
10


Khoản 3 Điều 93, khoản 3 Điều 94, khoản 3 Điều 95 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017.

18


- Đối với người bị áp dụng biện pháp khiển trách thì có các nghĩa vụ sau: Tn thủ
pháp luật, nội quy, quy chế của nơi cư trú, học tập, làm việc; Trình diện trước cơ quan có
thẩm quyền khi được yêu cầu; Tham gia các chương trình học tập, dạy nghề do địa
phương tổ chức, tham gia lao động với hình thức phù hợp
- Đối với người bị áo dụng biện pháp hòa giải tại cộng đồng phải thực hiện các
nghĩa vụ sau đây: Xin lỗi người bị hại và bồi thường thiệt hại; Nghĩa vụ quy định tại
khoản 3 Điều 93 của Bộ luật này.
- Đối với người bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn phải thực
hiện các nghĩa vụ sau đây: Chấp hành đầy đủ nghĩa vụ về học tập, lao động; Chịu sự
giám sát, giáo dục của gia đình, xã, phường, thị trấn; Không đi khỏi nơi cư trú khi không
được phép; Các nghĩa vụ theo quy định tại khoản 3 Điều 93 của Bộ luật này.
Như vậy, tương ứng với các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng trong trường hợp
được miễn trách nhiệm hình sự thì người dưới 18 tuổi phạm tội bị áp dụng sẽ có các
nghĩa vụ khác nhau. Các nghĩa vụ này chủ yếu có tác dụng giáo dục thì người dưới 18
tuổi phạm tội, tổ chức đào tạo nghề nghiệp cũng như rèn luyện ý thức chấp hành pháp
luật cho họ, giúp họ sau khi chấp hành xong các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng có
thể trở thành cơng dân tốt cho xã hội, có nghề nghiệp để thực hiện việc lao động tự đóng
góp cho xã hội cũng như ni sống bản thân. Có một số nghĩa vụ trực tiếp xâm phạm đến
quyền nhân thân của người bị áp dụng như: Chịu sự giám sát, giáo dục của gia đình, xã,
phường, thị trấn; Không đi khỏi nơi cư trú khi không được phép. Tuy nhiên, mức độ của
các nghĩa vụ này không ảnh hưởng đến việc người dưới 18 tuổi phạm tội được phát triển
toàn diện về khả năng nhận thức, thể chất cũng như các điều kiện học tập sinh hoạt khác.
Khi xây dựng về hệ thống nghĩa vụ của người dưới 18 tuổi phạm tội được áp dụng
các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình

sự đã có nhiều quan điểm đề xuất khác nhau đối với từng loại nghĩa vụ cụ thể. Tuy nhiên,
để phù hợp với công ước quốc tế về quyền trẻ em, quy định của pháp luật Việt Nam về
quyền trẻ em và các quy định khác thì mức độ thực hiện nghĩa vụ như quy định hiện này
là phù hợp. Điều này không chỉ thể hiện sự hài hòa giữa nguyên tắc đảm bảo sự phát triển
toàn diện của người dưới 18 tuổi và nguyên tác xử lý trách nhiệm hình sự đối với họ là
nhằm giáo dục cải tạo.
2.2.3. Biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng
Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định biện pháp tư pháp
giáo dục tại trường giáo dưỡng tại Điều 96 đảm bảo nguyên tắc chỉ áp dụng hình phạt đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng
các biện pháp xử lý chuyển hướng hoặc biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng khơng
đảm bảo hiệu quả giáo dục, phịng ngừa. Điểm mới về biện pháp tư pháp áp dụng đối với
người chưa thành niên phạm tội là theo BLHS năm 2015 thì chỉ cịn 01 biện pháp tư
pháp, đồng thời tên biện pháp này được đổi từ “Đưa vào trường giáo dưỡng” thành “Giáo
dục tại trường giáo dưỡng” cho phù hợp hơn. Về bản chất của biện pháp tư pháp giáo dục
tại trường giáo dưỡng, điều kiện áp dụng, thủ tục áp dụng, hậu quả pháp lý cũng như việc
19


×