Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật hôn nhân và gia đình việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (739.33 KB, 54 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHÂN HIỆU ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TẠI KON TUM

NGUYỄN DUY THÀNH

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG THEO
LUẬT HÔN NHÂN & GIA ĐÌNH VIỆT NAM

Kon Tum, ngày 20 tháng 6 năm 2019



ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHÂN HIỆU ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TẠI KON TUM

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG THEO
LUẬT HƠN NHÂN & GIA ĐÌNH VIỆT NAM

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

: Nguyễn Thị Anh Thư


SINH VIÊN THỰC HIỆN

: Nguyễn Duy Thành

Lớp

: K915LK1

MSSV

: 15152380107042


Kon Tum, ngày 20 tháng 6 năm 2019


MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT……………………………………………………ii
LỜI MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1.TỔNG QUAN VỀ VĂN PHÒNG LUẬT SƯ SÀI GÒN AN NGHIỆP ... 3
1.1. Khái quát về quá trình hình thành và phát triển .................................................... 3
1.2. Lĩnh vực hoạt động của Văn phòng Luật sư Sài Gòn An Nghiệp .......................... 3
1.3. Cơ cấu tổ chức ............................................................................................................. 5
1.4. Nội quy, quy chế làm việc của Văn phòng Luật sư Sài Gòn An Nghiệp................ 5
CHƯƠNG 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ

CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG ............................................................................ 6
2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIẾM, Ý NGHĨA CỦA CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ
CHỒNG .............................................................................................................................. 6
2.1.1. Khái niệm chế độ tài sản của vợ chồng ................................................................. 6
2.1.2. Đặc điểm của chế độ tài sản của vợ chồng ............................................................ 6
2.1.3. Ý nghĩa của chế độ tài sản của vợ chồng .............................................................. 7
2.2. CÁC LOẠI CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG ................................................ 7
2.2.1. Chế độ tài sản dựa trên sự thoả thuận của vợ chồng (chế độ tài sản ước định) .... 7
2.2.2. Chế độ tài sản của vợ chồng theo các căn cứ quy định của pháp luật (chế độ tài
sản pháp định) ...................................................................................................................... 7
2.3. KHÁI QUÁT CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG TRONG PHÁP LUẬT
VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ ................................................................. 8

2.3.1. Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật thời kỳ phong kiến ......................... 8
2.3.2 Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật thời kỳ Pháp thuộc .......................... 9
2.3.3. Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật HN&GĐ của nước ta từ Cách mạng
tháng Tám (1945) đến nay. ................................................................................................ 12
2.4. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN VỢ CHỒNG ................ 16
2.4.1. Chế độ tài sản theo luật định ............................................................................... 18
2.4.2. Chế độ tài sản theo thỏa thuận ............................................................................. 33
CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG, GIẢI QUYẾT CHẾ ĐỘ TÀI SẢN VỢ
CHỒNG TẠI VĂN PHÒNG LUẬT SƯ SÀI GÒN AN NGHIỆP ............................... 40
3.1. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG ........................ 40
3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ
CHỒNG TRONG LUẬT HN&GĐ HIỆN HÀNH ........................................................ 42

3.2.1. Căn cứ xác định tài sản chung của vợ chồng ...................................................... 42
3.2.2. Căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng ....................................................... 44
3.2.3. Về hình thức của văn bản chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận ............. 45
3.2.4. Về điều kiện có hiệu lực của chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận ........ 45
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 46
TÀI LIỆU THAM KHẢO
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
i


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS

DLBK
DLGYNK
DLTK
HN&GĐ
HVLL
HVTKHL
LGĐ
QTHL
TAND
XHCN

: Bộ luật Dân sự

: Dân luật Bắc kỳ
: Dân luật Giản yếu Nam kỳ
: Dân luật Trung kỳ
: HN&GĐ
: Hoàng Việt luật lệ
: Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật
: Luật Gia đình
: Quốc triều hình luật
: Tồ án nhân dân
: Xã hội chủ nghĩa

ii



LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, diện mạo của gia đình
đã thay đổi đáng kể, chức năng kinh tế của gia đình đã chuyển từ sản xuất sang tiêu dùng.
Kinh tế xã hội Việt Nam ngày càng phát triển, mối quan hệ trong gia đình vì thế cũng gặp
những thuận lợi và thách thức. Khi hai người nam nữ quyết định kết hôn với nhau, tức là
họ đã lựa chọn cho mình một con đường mới với rất nhiều bổn phận, nghĩa vụ và quyền
lợi, trong đó có quyền lợi và nghĩa vụ về tài sản. Quan hệ hôn nhân là một quan hệ đặc
thù, theo đó, quan hệ về tài sản giữa vợ và chồng cũng là một loại quan hệ đặc biệt.
Chính vì vậy, pháp luật về quan hệ tài sản của vợ chồng đã giành được nhiều sự quan tâm
và khơng ngừng được hồn thiện qua các thời kỳ.

Chế độ tài sản của vợ chồng là một chế định quan trọng của pháp luật HN&GĐ.
Luật Hơn nhân và gia đình đã đưa ra các quy định về vấn đề sở hữu tài sản của vợ chồng;
căn cứ xác lập tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng; vấn đề chia tài sản chung và
hậu quả chia tài sản chung của vợ chồng; quyền thừa kế tài sản giữa vợ chồng... Chế độ
tài sản của vợ chồng được quy định phụ thuộc chặt chẽ vào sự phát triển của các điều
kiện kinh tế, văn hoá, xã hội, tập quán... của đất nước. Những quy định về chế độ tài sản
của vợ chồng trong hệ thống pháp luật Việt Nam đã có từ lâu, được các nhà làm luật lựa
chọn theo thời gian và ngày càng thêm hoàn thiện.
Cho nên việc hiểu biết pháp luật vừa là công cụ vừa là phương tiện giúp các cá
nhân, tổ chức có thể thực hiện tốt quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong cuộc sống
cũng như trong gia đình. Tuy nhiên, không phải cứ hiểu hết pháp luật, nắm rõ luật là có
thể tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong thực tế, số người nắm rõ luật và

có thể tự đứng lên bảo vệ cho mình rất ít vì họ sợ khơng đủ trình độ để tự chứng minh
bảo vệ và lợi ích hợp pháp của mình trước pháp luật.
Chính vì vậy, trong cuộc sống họ cần tư vấn pháp luật để có thể giải quyết được nhu
cầu pháp lý của mình: Như nhà ở, đất đai, HN&GĐ… Hay khi sảy ra tranh chấp về
quyền cũng như lợi ích của họ bị xâm phạm thì họ cần có người đứng lên đại diện cho họ
địi lại quyền lợi cho mình khi họ khơng có khả năng tự bảo vệ quyền lợi của mình trước
pháp luật. Cũng như khi quyền về tính mạng, sức khỏe của mình bị xâm phạm, những
quyền và lợi ích hợp pháp khác theo quy định pháp luật của họ bị xâm phạm. Khi đó cần
người hiểu rõ pháp luật và có trình độ thay mặt họ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
họ, tư vấn pháp lý cho họ. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao này thì các Văn phịng luật
sư và các Cơng ty luật ra đời.
Xuất phát từ những lý do trên, cũng như mong muốn được hiểu biết về hoạt động

của các văn phòng luật sư, công ty luật hoạt động trong thực tế nên em đã chọn Văn
phòng Luật sư Sài Gòn An Nghiệp để thực tập. Với kiến thức được tích lũy trên lớp, em
xin chọn đề tài “Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ Việt Nam” nhằm tìm
hiểu và đi vào thực tế hoạt động giải quyết các vấn đề phát sinh trong chế độ tài sản của
vợ chồng.
Đề tài kết cấu gồm 3 phần:
1


Chương 1: Tổng quan về văn phòng luật sư sài gòn an nghiệp
Chương 2: Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về chế độ tài sản của
vợ chồng

Chương 3: Thực tiễn áp dụng, giải quyết chế độ tài sản vợ chồng tại Văn phòng
Luật sư Sài Gịn An Nghiệp.
Để hồn thiện tốt đề tài này, trước hết, em xin cảm ơn Trưởng Văn phòng Luật sư
Sài Gòn An Nghiệp và các anh chị, nhân viên của Văn phịng đã nhiệt tình hướng dẫn,
đóng góp ý kiến, cung cấp tài liệu, hồ sơ và chỉ dạy những kinh nghiệm quý báu trong
quá trình em thực tập lại văn phòng.

2


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ VĂN PHÒNG LUẬT SƯ SÀI GÒN AN NGHIỆP

1.1. Khái quát về quá trình hình thành và phát triển
Đáp ứng nhu cầu hội nhập của nước ta trong những năm gần đây, đặc biệt là khi
Việt Nam trở thành thành viên WTO, Quốc hội ban hành và sửa đổi pháp luật cho phù
hợp với thực tế, trong đó có Luật luật sư theo đó ban hành quy định phù hợp với các loại
hình luật sư trên thế giới, nhằm giúp cho pháp luật của chúng ta thi hành một cách triệt để
và chuyên nghiệp đồng thời cũng góp phần đáp ứng được yêu cầu Quốc tế trong tiến
trình hội nhập đó là : “Minh bạch trong vấn đề pháp luật”.
Văn phòng luật sư Sài Gòn An Nghiệp thành lập từ năm 2017 do Luật sư- Tạ Văn
Nghiệp làm trưởng văn phịng.
Tên doanh nghiệp: VĂN PHỊNG LUẬT SƯ SÀI GÒN AN NGHIỆP
Mã số thuế: 6101230466
Nơi đăng ký quản lý: Chi cục Thuế Thành phố Kon Tum

Địa chỉ: Số nhà 52 Bà Triệu, Phường Thắng Lợi, Thành phố Kon Tum, Tỉnh Kon
Tum
Điện thoại: 0987636141
Đại diện pháp luật: Tạ Văn Nghiệp
Ngày cấp giấy phép: 25/05/2017.
Lĩnh vực hành nghề hoạt động:
- Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực tố tụng
- Tư vấn pháp luật
- Dịch vụ pháp lý khác.
Văn phòng Luật sư Sài Gòn An Nghiệp với phương châm hết lòng phục vụ khách
hàng đã đạt được những thành tựu nhất định. Bên cạnh việc cung cấp dịch vụ pháp lý cho
khách hàng, Văn phòng Luật sư Sài Gòn An Nghiệp cịn tham gia các cơng tác xã hội và

phục vụ cộng đồng cũng như chia sẽ kinh nghiệm pháp lý với đồng nghiệp nhằm nâng
cao kinh nghiệm và kỹ năng hành nghề.
1.2. Lĩnh vực hoạt động của Văn phòng Luật sư Sài Gòn An Nghiệp
- Tư vấn pháp luật doanh nghiệp:
Tư vấn lựa chọn loại hình doanh nghiệp, thành lập doanh nghiệp; tư vấn và biên tập
ngành nghề kinh doanh; tư vấn mức vốn điều lệ và cơ cấu góp vốn; tư vấn bộ máy điều
hành, quản trị nội bộ; tư vấn thay đổi đăng ký kinh doanh; tư vấn chuyển đổi doanh
nghiệp; tư vấn cơ cấu lại doanh nghiệp; tư vấn pháp luật trong kinh doanh.
- Tư vấn về hợp đồng thương mại- dân sự:
Tư vấn quy định pháp luật về hợp đồng. Đánh giá tính hợp pháp của hợp đồng về
chủ thể, nội dung, năng lực ký kết, thực hiện hợp đồng của đối tác khách hàng; nhận
tham gia cùng khách hàng đàm phán, thương lượng, thẩm định nội dung của bản dự thảo

hợp đồng trước khi giao dịch với đối tác; soạn thảo hợp đồng, tư vấn các vấn đề pháp lý
liên quan.
3


- Tư vấn pháp luật về đất đai – xây dựng:
Tư vấn việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất; tư
vấn việc cấp đổi giấy tờ về đất đai, nhà ở, công trình trên đất; tư vấn tách thửa, chuyển
mục đích sử dụng đất; tư vấn việc thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho
thuê, thế chấp, thừa kế, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất; tư vấn hình thức sử dụng
đất của tổ chức kinh tế, cá nhân, tổ chức nước ngoài khi đầu tư sinh sống tại Việt Nam; tư
vấn điều kiện, hình thức sở hữu nhà của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân

nước ngoài đang làm ăn, sinh sống ở Việt Nam; tư vấn giải quyết tranh chấp quyền sử
dụng đất, tranh chấp tài sản trên đất, tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất v.v…
- Tư vấn pháp luật lao động:
Văn phòng cũng cung cấp các hoạt động tư vấn trong nhiều lĩnh vực khác nhau liên
quan đến lao động của Việt Nam, như thảo các hợp đồng lao động, các quy định làm việc
trong công ty, thoả ước lao động tập thể để ký giữa công ty và công đồn của cơng ty, các
vấn đề liên quan đến luật pháp và các chế độ chính sách của nhà nước về tiền lương, thuế
thu nhập cá nhân, bảo hiểm xã hội, tuyển dụng và sa thải lao động, cũng như chế độ bồi
thường khi chấm dứt hợp đồng lao động, cũng chế độ bồi thường khi chấm dứt hợp đồng
lao động,…Văn phịng có nhiều kinh nghiệm trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho khách hàng tại tồ án trong các vụ tranh chấp hợp đồng lao động.
- Tư vấn về pháp luật dân sự - hôn nhân gia đình:

Tư vấn pháp luật liên quan đến việc thực hiện, bảo vệ quyền nhân thân, tài sản công
dân; tư vấn pháp luật quốc tịch, hộ tịch, cư trú; tư vấn pháp luật thừa kế; tư vấn pháp luật
bảo vệ quyền sở hữu, quyền bất động sản liền kề; tư vấn việc kết hôn, ly hôn, chia tài sản
vợ chồng thời kỳ hôn nhân sau ly hôn (kể quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi); tư
vấn pháp luật thực việc dân tuyên bố người tích/chết, tuyên bố mất/hạn chế lực hành vi
dân sự; Thơng báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú; Yêu cầu công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam định, bản án dân sự nước ngồi.
- Về tranh tụng, Văn phịng Luật sư Sài Gòn An Nghiệp cung cấp dịch vụ luật sư
tranh tụng - giải tranh chấp cấp Toà án, bao gồm:
Tư vấn cách thức giải tranh chấp, đánh giá điểm mạnh điểm yếu bên tranh chấp;
Đưa phương án cụ thể có lợi trình đàm phán, hịa giải (nếu có); Hướng dẫn tư vấn cho
khách hàng trình tự thủ tục khởi kiện, thời hiệu khởi kiện, điều kiện khởi kiện, tư cách

chủ thể soạn đơn khởi kiện gửi đến Tịa án có thẩm quyền; Tiến hành điều tra thu thập
chứng - tài liệu, kiểm tra đánh giá chứng - tài liệu để trình trước Tịa; Tham gia tố tụng
với tư cách luật sư bào chữa, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho thân chủ tịa án cấp vụ án
hình sự, dân sự, kinh doanh - thương mại, lao động, hành chính, hơn nhân gia đình; Tham
gia tố tụng với tư cách đại diện ủy quyền- nhân danh khách hàng thực tất phương án cách
thức theo quy định pháp luật để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp khách hàng cách tốt cấp
tòa xét xử .
Với những lĩnh vực hoạt động rộng như vậy, Văn phịng có thể đáp ứng hầu hết
những yêu cầu pháp lý của mọi chủ thể. Từ khi thành lập với tên là Văn phòng Luật sư
4



Sài Gịn An Nghiệp thì văn phịng đã trợ giúp pháp lý cho rất nhiều chủ thể trong nhiều
lĩnh vực từ tư vấn pháp lý cho cá nhân, pháp nhân đến tranh tụng tại toà để giúp các
đương sự thực hiện quyền cơng dân của họ. Có thể nói tranh tụng là hoạt động chủ yếu
của văn phòng.
1.3. Cơ cấu tổ chức
Trưởng văn phòng

Nhân viên văn phòng

Luật sư cộng tác

Tập sự


Sơ đồ 1.1: Cơ cấu tổ chức Văn phòng Luật sư Sài Gòn An Nghiệp
1.4. Nội quy, quy chế làm việc của Văn phòng Luật sư Sài Gòn An Nghiệp
Điều 1: Thời gian làm việc
Thời gian làm việc là 8 giờ / ngày, từ thứ 2 đến thứ 7.
Sáng: 7h40′ đến 11h45′
Chiều: Từ 13h30′ đến 17h20′
Có chế độ làm ngày chủ nhật khi cần thiết.
Có thể trực thêm giờ khi có khách bất ngờ đến muộn.
Điều 2: Tác phong và đạo đức
Khơng làm việc riêng trong giờ hành chính.
Nhân viên phải mang giầy, dép xăng đan, áo sơ mi có cổ, hoặc đồng phục, bảo hộ

lao động do văn phòng cấp.
Trung thực và có tinh thần trách nhiệm cao, tận tâm đào tạo nhân viên mới.
Điều 3: An toàn lao động
Không hút thuốc lá, uống bia, rượu hoặc đánh bài bạc .
Tuân thủ các quy định về phòng cháy, chữa cháy, an tồn điện.
Khơng mang vật dụng dễ cháy nổ hoặc hung khí vào văn phịng.
Mọi nhân viên ra ngồi trong giờ làm việc phải thông báo với cấp trên.
Điều 4: Quản lý tài sản
Trừ khi được giao trách nhiệm trực, không tự ý vào kho hàng .
Mọi nhân viên mang tài sản văn phịng ra ngồi cần được sự đồng ý của trưởng văn
phịng.
Có ý thức tiết kiệm và bảo vệ tài sản chung.

Không tự ý sử dụng tài sản riêng của người khác.

5


CHƯƠNG 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIẾM, Ý NGHĨA CỦA CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ
CHỒNG
2.1.1. Khái niệm chế độ tài sản của vợ chồng
Chế độ tài sản của vợ chồng được dự liệu xuất phát từ vị trí, vai trị quan trọng của

gia đình đối với sự phát triển của xã hội, do tính chất, mục đích của quan hệ hơn nhân
được xác lập, chế độ tài sản của vợ chồng được quy định phụ thuộc vào các điều kiện
kinh tế - xã hội, phong tục, tập quán, truyền thống văn hoá của đất nước. Các nhà làm
luật đã quan tâm xây dựng các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng là một trong
những chế định quan trọng, cơ bản nhất của pháp luật HN&GĐ.
Chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh về tài
sản của vợ chồng, bao gồm các quy định về căn cứ xác lập tài sản, quyền và nghĩa vụ
của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng; nguyên tắc phân chia tài sản giữa vợ
và chồng.
Tài sản được phân loại gồm: tài sản chung và tài sản riêng. Với quan hệ tài sản
chung, vợ chồng cùng tham gia vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản mà họ
có quyền sở hữu chung. Trong khi quan hệ tài sản riêng bảo tồn sự độc lập của mỗi người

trong việc xác lập và thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản. Việc quy định chế độ tài sản
vợ chồng ở các quốc gia là khác nhau tuỳ thuộc vào chế độ kinh tế, xã hội cũng như tập
quán, thuần phong, mỹ tục. Riêng đối với việc xác lập tài sản của vợ chồng, pháp luật
hơn nhân gia đình nói chung quy định hai cách thức tương ứng với hai chế độ tài sản vợ
chồng: chế độ tài sản vợ chồng theo pháp luật (chế độ hôn sản pháp định) và chế độ tài
sản vợ chồng theo thoả thuận (chế độ hôn sản ước định).
2.1.2. Đặc điểm của chế độ tài sản của vợ chồng
Chế độ tài sản của vợ chồng thực chất là chế độ sở hữu tài sản của vợ chồng. Vợ,
chồng với tư cách là công dân, vừa là chủ thể của quan hệ HN&GĐ, vừa là chủ thể của
quan hệ dân sự khi thực hiện quyền sở hữu của mình, tham gia các giao dịch dân sự. Vì
vậy, chế độ tài sản của vợ chồng có những đặc điểm riêng biệt sau:
Thứ nhất, chủ thể của quan hệ sở hữu trong chế độ tài sản này phải có đầy đủ năng

lực chủ thể và phải tuân thủ các điều kiện kết hôn được quy định trong pháp luật
HN&GĐ.
Thứ hai, quy định của pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng là cơ sở tạo điều
kiện để vợ chồng chủ động thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình đối với tài sản của
vợ chồng.
Thứ ba, chế độ tài sản của vợ chồng chỉ tồn tại trong thời kỳ hôn nhân.
Thứ tư, chế độ tài sản của vợ chồng cũng mang những đặc thù riêng trong việc thực
hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ thể, như quyền định đoạt tài sản bị hạn chế trong một
6


số trường hợp (ví dụ, nếu tài sản riêng đang là nguồn sống duy nhất của cả gia đình, khi

định đoạt liên quan đến tài sản này thì phải có thoả thuận của hai vợ chồng).
2.1.3. Ý nghĩa của chế độ tài sản của vợ chồng
Chế độ tài sản của vợ chồng với ý nghĩa là một chế định trong pháp luật về
HN&GĐ. Nhìn vào chế độ tài sản của vợ chồng được quy định trong pháp luật của Nhà
nước, người ta có thể nhận biết được trình độ phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội
(tính khách quan) và ý chí của Nhà nước thể hiện bản chất của chế độ xã hội đó (tính chủ
quan).
Chế độ tài sản của vợ chồng được quy định trong pháp luật có ý nghĩa nhằm xác
định các loại tài sản trong quan hệ giữa vợ chồng và gia đình.
Việc phân định các loại tài sản trong quan hệ giữa vợ chồng của chế độ tài sản còn
nhằm xác định các quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với các loại tài sản của vợ
chồng. Từ đó, là cơ sở pháp lý để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết các tranh

chấp về tài sản giữa vợ chồng với nhau và với những người khác trong thực tế.
2.2. CÁC LOẠI CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật về HN&GĐ ở mỗi quốc gia được quy
định gắn liền với các điều kiện kinh tế - xã hội, chế độ sở hữu, truyền thống, phong tục,
tập quán, tâm lý, nguyện vọng của người dân. Do đó, giữa các nước khác nhau thường có
những quy định khác biệt về tài sản của vợ chồng. Tuy nhiên, về cơ bản pháp luật của các
quốc gia trên thế giới đã quy định có hai chế độ tài sản của vợ chồng đó là chế độ tài sản
theo sự thoả thuận của vợ chồng (chế độ tài sản ước định) và chế độ tài sản theo quy định
của pháp luật (chế độ tài sản pháp định).
2.2.1. Chế độ tài sản dựa trên sự thoả thuận của vợ chồng (chế độ tài sản ước
định)
Đây là loại chế độ tài sản dựa trên sự thoả thuận của vợ chồng (hơn ước). Miễn sao

sự thoả thuận đó không trái với trật tự công cộng, với đạo đức, với thuần phong mỹ tục
và những quy định của pháp luật.
Hệ thống pháp luật về HN&GĐ của Nhà nước ta từ năm 1945 đến Luật HN&GĐ
năm 2000 không quy định về loại chế độ tài sản này. Hiện nay, Điều 28 Luật HN&GĐ
năm 2014 đã bổ sung quy định về áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng: “Vợ chồng có
quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thoả
thuận”.
2.2.2. Chế độ tài sản của vợ chồng theo các căn cứ quy định của pháp luật (chế độ
tài sản pháp định)
Với chế độ tài sản này, pháp luật đã dự liệu từ trước về căn cứ, nguồn gốc, thành
phần các loại tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng; quyền và nghĩa vụ của vợ,
chồng đối với từng loại tài sản đó; các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản chung của

vợ chồng; phương thức thanh toán liên quan tới các khoản nợ chung hay nợ riêng của vợ,
chồng.
7


2.3. KHÁI QUÁT CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG TRONG PHÁP LUẬT
VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ
2.3.1. Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật thời kỳ phong kiến
Xã hội phong kiến Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của nho giáo, trong đó có các
quan niệm về HN&GĐ. Các quy định về HN&GĐ chiếm một vị trí quan trọng trong các
văn bản luật, tiêu biểu nhất là hai bộ luật: Quốc triều hình luật (còn gọi là Bộ luật Hồng
Đức - thời Lê) và Hồng Việt luật lệ (cịn gọi là Bộ luật Gia Long - thời Nguyễn). Theo

các nhà nghiên cứu, chế độ tài sản của vợ chồng không được quy định như một chế định
riêng rẽ và cụ thể. Trong Quốc triều hình luật (QTHL) đã thiết lập một chế độ tài sản
tương đối bình đẳng giữa vợ và chồng, quyền bình đẳng về tài sản thể hiện qua các quyền
sở hữu tài sản của vợ và chồng đối với tài sản chung và tài sản riêng.
Nguồn tài sản gồm có:
Tài sản của chồng được thừa kế từ gia đình chồng (phu điền sản);
Tài sản của vợ được thừa kế từ gia đình vợ (thê điền sản);
Tài sản chung do hai vợ chồng cùng kiếm được sau khi lấy nhau (tần tảo điền sản).
Tồn bộ tài sản trong gia đình được hợp thành một khối. Mặc dù Bộ luật Hồng Đức
và Bộ luật Gia Long không trực tiếp đề cập đến việc quản lý tài sản trong gia đình, nhưng
quy định tại các Điều 374, 375, 376 của Bộ luật nhà Lê đã gián tiếp thừa nhận năng lực
bình đẳng của vợ chồng trong việc quản lý tài sản của gia đình. Các văn cố lập dưới thời

Lê cho thấy các định đoạt quan trọng đối với tài sản như bán, tặng cho, cầm cố, lập chúc
thư, ... do hai vợ chồng cùng thực hiện, các văn tự đều do hai vợ chồng cùng ký.
Với tư cách là người chủ gia đình, người chồng có quyền quản lý và sử dụng tài sản
của gia đình nhưng phải xuất phát vì lợi ích của gia đình, nếu làm tổn hại đến tài sản của
gia đình thì người vợ có quyền phản đối.
Trong Bộ luật cũng thừa nhận vợ chồng đều có quyền sở hữu tài sản riêng. Tài sản
riêng của vợ chồng là tài sản có trước khi kết hơn, được thừa kế từ gia đình mỡi người.
Đối với tài sản này vợ, chồng đều có quyền sở hữu riêng, mặc dù tài sản này được quản
lý chung bởi vợ chồng và các lợi tức từ tài sản đó mang lại là tài sản chung, nhưng tài sản
này chỉ tạm thời gộp lại để vợ chồng quản lý trong thời gian hôn nhân. Như vậy, có thể
hiểu tài sản riêng của vợ và chồng thì cả hai đều có quyền chiếm hữu, sử dụng trong thời
gian hơn nhân nhưng khơng có quyền định đoạt đối với tài sản riêng của người khác. Do

đó, khi họ ly hơn thì tài sản riêng của ai vẫn thuộc về người đó và họ có quyền mang theo
trừ trường hợp ly hôn do vợ gian dâm. Việc thừa nhận vợ có quyền sở hữu tài sản riêng là
điểm đặc sắc của pháp luật phong kiến nhà Lê và tạo cho người vợ có vị thế ngang bằng
nhất định với người chồng.
Tuy nhiên, sự bất bình đẳng trong quan hệ tài sản của vợ chồng theo quy định của
Bộ luật Hồng Đức thể hiện ở chỗ trong trường hợp người chồng chết trước, nếu người vợ
lấy chồng khác thì người vợ mất quyền hưởng hoa lợi từ tài sản của người chồng đã chết;
nhưng ngược lại, nếu người vợ chết trước thì mặc dù người chồng lấy vợ khác, nhưng
vẫn được hưởng hoa lợi từ tài sản của người vợ đã chết.
8



Đến thế kỷ XIX, Bộ luật Gia Long cho phép người chồng có tồn quyền chuyển
nhượng tài sản của gia đình, vấn đề tài sản giữa vợ và chồng hầu như không được Luật
Gia Long đề cập tới, người vợ phải phụ thuộc người chồng một cách tuyệt đối. Quy định
này xuất phát từ chỗ Bộ luật Gia Long đã sao chép máy móc các quy định của Nhà Thanh
và đã làm hạn chế quyền tài sản của người vợ so với các quy định tiến bộ của Bộ luật
Hồng Đức.
Qua nghiên cứu các quy định liên quan đến vấn đề tài sản của vợ chồng trong
QTHL và HVLL có thể thấy rằng, chế độ tài sản của vợ chồng được áp dụng trong thời
kỳ phong kiến là chế độ cộng đồng toàn sản, với nội dung toàn bộ tài sản mà vợ, chồng
có được từ trước khi kết hơn hoặc do vợ chồng tạo dựng trong thời kỳ hôn nhân đều
thuộc khối tài sản chung của vợ chồng, khối tài sản chung này được sử dụng vào mục
đích là nuôi dưỡng, giáo dục các con, để lại cho các con khi cha, mẹ chết. Tài sản chung

của vợ chồng bao gồm các tài sản là động sản (QTHL gọi là phù vật) và các bất động sản
(điền sản). Trong đó điền sản được coi là tài sản chủ yếu, chiếm vị trí quan trọng hàng
đầu trong khối tài sản chung của vợ chồng. Nó có ý nghĩa thiêng liêng và thể hiện trật tự
giữa các thành viên trong gia đình.
2.3.2. Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật thời kỳ Pháp thuộc
Trong thời kỳ Pháp thuộc, thực dân Pháp ban hành ở nước ta ba Bộ luật dân sự áp
dụng cho ba miền:
- Ở Bắc Kỳ áp dụng BLDS năm 1931 (DLBK);
- Ở Trung Kỳ áp dụng BLDS năm 1936 (DLTK);
- Ở Nam Kỳ cho ban hành tập Dân luật giản yếu năm 1883 (DLGYNK).
Trong cả ba Bộ dân luật nói trên đều có phần quy định về HN&GĐ, trong đó có chế
độ tài sản vợ chồng.

Bộ dân luật giản yếu Nam Kỳ có 5 tiết nói về hôn thú, ly dị, phụ hệ, nuôi con nuôi
và phụ quyền; khơng có quy định về hơn sản, di sản và tư sản. Thời kỳ đầu các án lệ của
Nam Kỳ có cơng nhận người vợ có của riêng và chế độ hôn nhân theo tục lệ là cộng đồng
tạo sản. Nhưng sau đó các án lệ lại đổi hướng khơng cơng nhận quyền có tài sản riêng
của người vợ, với lập luận rằng nếu công nhận chế độ cộng đồng tài sản tức là đã gán cho
người vợ những quyền ngang hàng với quyền của người chồng, trong khi đó trong gia
đình, người vợ chỉ có địa vị của một người con gái.
Chế độ hôn sản được áp dụng tại Nam Kỳ theo các nguyên tắc:
Người vợ không có của riêng, do đó khơng thể có cộng đồng tài sản giữa vợ và
chồng. Toàn thế tài sản trong gia đình đều thuộc quyền sở hữu và quyền quản lý của
người chồng trong thời kỳ hôn nhân cũng như sau khi người vợ chết. Trong trường hợp
vợ chết thì chồng là chủ sở hữu đối với toàn bộ tài sản của gia đình do hiệu lực của hơn

nhân chứ không phải là hưởng gia tài của người vợ; nhưng nếu người chồng chết thì
người vợ chỉ có quyền hưởng dụng thu lợi trên tồn bộ tài sản gia đình trong khi cịn ở
gố.
9


Theo đó, các án lệ tại các Tồ án ở Nam Kỳ đã áp dụng nguyên tắc chồng là chủ sở
hữu duy nhất các tài sản của gia đình, bao gồm:
- Các động sản đã mua trong thời kỳ hôn nhân, kể cả các động sản khi mua đã đứng
tên vợ;
- Các bất động sản đã ban cấp riêng cho người vợ;
- Các bất động sản có được trong thời kỳ hơn nhân, mặc dù các bất động sản đó

đứng tên người vợ khi mua ...
Như vậy, chế độ tài sản của vợ chồng được áp dụng trong thời Pháp thuộc ở Nam
Kỳ là rất bất công đối với người vợ, nhất là khi tài sản mà vợ tạo ra được do hành nghề
riêng trong thời kỳ hôn nhân vẫn phải coi là thuộc tài sản của người chồng.
Tuy nhiên, án lệ cũng công nhận trong một số trường hợp thì những tài sản sau đây
được coi là tài sản riêng của vợ:
- Các đồ tư trang của người vợ;
- Tài sản người vợ có được do được gia đình vợ tặng cho hoặc được hưởng di sản
của gia đình vợ;
- Bất động sản đã ghi rõ tên vợ là chủ sở hữu trong sổ địa bộ.
Do các án lệ đã công nhận chồng là chủ sở hữu đối với tài sản của gia đình nên
trong việc quản lý tài sản, người chồng có thể một mình đứng ra thực hiện các giao dịch

và thu nhận hoa lợi; nếu con nợ vay tiền của vợ thì có thể trả nợ đó cho người chồng.
Ngược lại, người vợ khơng được ký kết các hợp đồng một mình và người chồng có quyền
khiếu nại để phủ nhận hợp đồng đó. Là chủ sở hữu đối với tài sản của gia đình, người
chồng có thể một mình ký kết để chuyển dịch động sản và bất động sản. Trên thực tế,
mỗi khi chồng bán hoặc tặng cho bất động sản thì người vợ cũng thường ký cùng chồng
vào các giấy tờ, nhưng các án lệ khơng coi đó là một thể thức có giá trị pháp lý .
Tại Bắc và Trung Kỳ, ảnh hưởng của BLDS Pháp (1804) thể hiện trong việc nhà
làm luật dự liệu chế độ tài sản ước định và áp dụng nguyên tắc bất di, bất dịch của chế độ
tài sản của vợ chồng theo hôn khế. Điều 104 DLBK quy định:
Về đường tài sản, pháp luật chỉ can thiệp đến đoàn thể vợ chồng là khi nào vợ
chồng khơng có tuỳ ý lập ước riêng với nhau mà thôi, miễn là ước riêng ấy không được
trái với phong tục và không được trái với quyền lợi người chồng là người chủ trương

trong đồn thể .Tiếp đó, Điều 105 quy định: Phàm tư ước về tài sản giá thú phải làm
thành chứng thư tại trước mặt, hoặc do Lý trưởng thị thực, mà phải làm trước khi khai giá
thú. Đã khai giá thú rồi thì khơng được thay đổi gì nữa.
Quy định chế độ tài sản ước định này lần đầu tiên được dự liệu trong hệ thống pháp
luật Việt Nam theo quan niệm của nhà làm luật tư sản là không phù hợp với tục lệ và
truyền thống của gia đình người Việt Nam, nên mặc dù được hai bộ DLBK và DLTK dự
liệu, các cặp vợ chồng thường không thoả thuận lựa chọn loại chế độ tài sản ước định
này.
Trường họp vợ chồng không thoả thuận lập hôn khế khi kết lập giá thú, DLBK và
DLTK đều dự liệu một chế độ tài sản pháp định để áp dụng cho họ, đó là chế độ cộng
10



đồng toàn sản. Theo tục lệ của người Việt Nam thì mọi tài sản trong gia đình đều là tài
sản chung và đều để dành cho con cháu. Các quy định trong hai Bộ Dân Luật Bắc kỳ và
Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật cũng chấp nhận tục lệ này. Điều 106 DLBK và Điều 104
DLTK quy định: “Nếu hai vợ chồng khơng lập hơn ước riêng thì hai người đã theo chế
độ cộng đồng toàn sản, gồm tất cả của cải và hoa lợi của chồng cũng như của vợ”.
Vợ hoặc chồng có thể có của riêng trước khi kết hôn, nhưng kể từ khi kết hôn và
trong suốt thời kỳ hơn nhân thì các tài sản riêng đó (bao gồm cả động sản và bất động
sản) hợp nhất thành khối tài sản chung. Tuy nhiên, đó chỉ là sự hợp nhất tạm thời trong
thời kỳ hôn nhân. Chỉ có những tài sản do hai vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hơn nhân mới
là tài sản chung chính thức. Khi hơn nhân chấm dứt thì các tài sản riêng của vợ chồng đã
được hợp nhất tạm thời vào khối tài sản chung lại được tách ra để chia theo ngun tắc

của ai thì người đó lấy lại, cịn các tài sản chung thì được chia đơi cho vợ và chồng.
Việc xác định tài sản chung của vợ và chồng ở thời kì này được quy định Điều 107
DLBK và Điều 105 DLTK. Như vậy, toàn bộ tài sản mà vợ chồng có được trong thời kỳ
hơn nhân (cả động sản và bất động sản) đều là tài sản chung của vợ chồng. Để phân biệt
được động sản hoặc bất động sản nào là tài sản riêng hay tài sản chung của vợ chồng, thì
căn cứ vào việc đăng ký hoặc có chứng thư xác nhận nguồn gốc của tài sản đó. Đối với
các động sản khơng được đăng ký và cũng khơng có chứng thư xác nhận nguồn gốc thì
Tồ án suy đốn là tài sản chung của vợ chồng; nếu vợ hoặc chồng muốn khiếu nại đó là
tài sản riêng của mình thì phải chứng minh.
Theo Điều 111 Bộ DLBK và Điều 109 HVTKHL, tất cả các khoản nợ của chồng,
dù vay từ trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân, không phân biệt là do ký kết
hợp đồng hoặc do hành vi phạm pháp mà gây ra thì đều phải coi là nợ của hai vợ chồng

và do khối cộng đồng phải gánh chịu. Mặc dù các món nợ do hành vi phạm pháp của
người chồng gây ra không được quy định rõ trong hai bộ dân luật, nhưng theo đạo lý thì
phải trích từ khối tài sản chung của gia đình để thanh tốn.
Về việc quản lý tài sản của gia đình, theo Điều 100, Điều 111 DLBK và Điều 98,
Điều 109 DLTK quy định đối với các nhu cầu của gia đình thì vợ hoặc chồng đều có thể
đại diện cho gia đình để giao dịch và được trích từ khối tài sản của gia đình để chi dùng.
Theo quy định tại Điều 109 Bộ DLBK và Điều 107 HVTKHL vợ chồng muốn sử
dụng tài sản chung thì phải có sự ưng thuận của vợ và của chồng, chồng có quyền sử
dụng các động sản mà khơng cần phải có sự đồng ý của vợ, miễn là việc sử dụng đó đem
lại lợi ích cho gia đình; việc ưng thuận của người chồng phải được thể hiện bằng văn bản,
có chữ ký của người chồng, còn việc ưng thuận của người vợ thì chỉ cần là sự ưng thuận
cơng nhiên hoặc mặc nhiên không cần phải ghi chép hoặc giấy tờ. Quy định này cũng nói

lên sự bất bình đẳng trong quan hệ vợ chồng khi định đoạt các tài sản của gia đình. Ngồi
ra, pháp luật cịn cho phép người chồng có đặc quyền được thực hiện các giao dịch mua
bán bất động sản và các bất động sản chung của gia đình (chỉ trừ bất động sản riêng của
người vợ) mà khơng cần phải có sự tham gia hoặc ưng thuận của người vợ, miễn là việc
mua bán đó đem lại lợi ích cho gia đình (Điều 109).
11


Để bảo vệ khối tài sản của gia đình, các Bộ dân luật đều có quy định trong trường
hợp người vợ một mình thực hiện các giao dịch cho gia đình mà lạm dụng quyền đó thì
người chồng có quyền thu hồi một phần hoặc toàn bộ quyền của người vợ (Điều 100).
Ngược lại, trong trường hợp người chồng không chu cấp để nuôi dưỡng vợ con

hoặc phá tán tài sản của gia đình thì người vợ có quyền xin Tồ án cấm người chồng sử
dụng kỷ phần của mình, và tất cả các tài sản do nghề nghiệp riêng của vợ tạo ra. Trong
trường hợp này, Tồ án có thể cho phép người vợ được quản lý, hưởng dụng các tài sản
đó (Điều 110).
Khi ly hơn, nếu người vợ khơng có con thì được lấy lại kỷ phần của mình bằng hiện
vật và được nửa của chung. Nếu là vợ thứ thì khơng được dự phần của chung, chỉ được
lấy lại tài sản riêng ( Điều 112),
Trong trường hợp vợ chồng ly dị mà có con thì pháp luật quy định sẽ khơng thanh
tốn tài sản. Điều 112 Bộ DLBK quy định trong trường họp này, người vợ được hưởng
một phần từ khối tài sàn chung, phần đó nhiều hay ít tuỳ thuộc vào sự đóng góp của
người vợ đã là tăng khối tài sản chung và do Toà án quyết định; nếu người vợ thông gian
mà bị ly hơn thì phần đó sẽ bị bớt đi 1/2; Người vợ bị ly hơn bao giờ cũng có quyền lấy

lại các đồ tư trang, phục sức của mình. Tuy nhiên, Bộ HVTKHL quy định phần của
người vợ khi vợ chồng ly hơn mà có con bằng 1/3 khối tài sản chung, nếu người vợ thơng
gian mà bị ly dị thì bị mất cả quyền lợi về tài sản chung (Điều 110).
Khi người chồng chết mà người vợ không tái giá, của chung vẫn để nguyên, người
vợ goá được thay quyền chồng quản lý tài sản chung.
Nếu người vợ chết trước, người chồng thành sở hữu tất cả tài sản chung kể cả kỷ
phần của người vợ.
Vợ thứ được giữ quyền sở hữu và quản lý, hưởng thụ cùng định đoạt tài sản riêng
của mình.
2.3.3. Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật HN&GĐ của nước ta từ Cách
mạng tháng Tám (1945) đến nay
Giai đoạn 1945 - 1954

Ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công, do điều kiện lịch sử xã hội, Nhà nước
ta chưa thể ban hành ngay một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh. Các quan hệ dân luật và
HN&GĐ từ năm 1945 - 1950 vẫn được điều chỉnh bởi ba văn bản luật (DLBK, DLTK,
DLGYNK) do thực dân Pháp ban hành trước năm 1945 (theo sắc lệnh số 90-SL ngày
10/10/1945 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã cho phép áp dụng pháp
luật cũ một cách chọn lọc; miễn sao không trái với lợi ích của chính thể Nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hồ và lợi ích của nhân dân lao động).
Năm 1946 Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hồ đã khẳng
định quyền bình đẳng giữa nam và nữ. Hiến pháp quy định: “Đàn bà ngang quyền với
đàn ông về mọi phương diện” (Điều 9). Đây là cơ sở pháp lý đầu tiên khẳng định quyền
bình đẳng giữa nam và nữ và cũng chính là cơ sở pháp lý xác nhận quyền bình đẳng giữa
vợ và chồng.

12


Đến năm 1950, Nhà nước ta đã ban hành sắc lệnh đầu tiên điều chỉnh quan hệ
HN&GĐ, đó là sắc lệnh 97/SL ngày 22/5/1950 về sửa đổi một số quy lệ và chế định
trong dân luật và sắc lệnh số 159/SL ngày 17/11/1950 quy định về vấn đề ly hôn. Một
trong những nội dung của hai sắc lệnh này là thể hiện nguyên tắc “nam nữ bình đẳng” và
nguyên tắc “người chồng và người vợ có địa vị bình đẳng trong gia đình”. Đây là những
quy định mới và tiến bộ góp phần đáng kể vào việc xố bỏ chế độ HN&GĐ phong kiến
lạc hậu, nói lên quan hệ bình đẳng giữa vợ và chồng trong đó có quan hệ về tài sản.
Sắc lệnh số 97/SL quy định:“Trong lúc con sinh thời người chồng goá hay vợ goá,
các con đã thành niên có quyền xin chia phần tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết,

sau khi đã thanh toán tài sản chung” (Điều 11), trong khi sắc lệnh số 90/SL đã cho phép
vận dụng pháp luật cũ có chọn lọc. Theo đó, ta suy luận: Mặc dù sắc lệnh số 97/SL khơng
có điều nào quy định về thành phần tài sản chung của vợ chồng thì chế độ tài sản của vợ
chồng được áp dụng theo tinh thần của các sắc lệnh trên là chế độ cộng đồng toàn sản
(chế độ tài sản này đã được áp dụng theo DLBK và DLTK).
Sắc lệnh số 159/SL quy định:“Hai vợ chồng đã ly hơn phải cùng chịu phí tổn về
việc ni dạy con, mỡi bên tuỳ theo khả năng của mình” (Điều 6). Theo đó, khi ly hơn,
tài sản chung của vợ chồng phải được chia tuỳ theo khả năng của mồi bên vợ, chồng phải
cùng có nghĩa vụ trong việc nuôi dạy con.
Như vậy, sắc lệnh số 97/SL và sắc lệnh số 159/SL đã góp phần quan trọng vào việc
xố bỏ chế độ HN&GĐ phong kiến lạc hậu, thúc đẩy sự phát triển của xã hội Việt Nam
trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Nội dung của hai sắc lệnh đã thể hiện

tính dân chủ và tiến bộ của một nền pháp chế mới.
Giai đoạn 1954 - 1975
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, nước ta tạm thời bị chia cắt làm
hai miền với hai chế độ chính trị khác biệt. Miền Bắc được giải phóng, bước vào thời kỳ
quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ,
đấu tranh thống nhất nước nhà. Vì vậy, pháp luật được áp dụng trong giai đoạn này ở hai
miền là khác nhau, trong đó có chế độ HN&GĐ.
- Ở miền Bắc, Sắc lệnh số 97/SL và sắc lệnh số 159/SL tuy góp phần vào việc xố
bỏ chế độ HN&GĐ phong kiến lạc hậu nhưng khơng cịn đáp ứng được tình hình mới.
Việc xây dựng và ban hành một đạo luật mới về HN&GĐ là một tất yếu khách quan. Vào
thời gian này, bản Hiến pháp thứ hai của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã được Quốc
hội thông qua vào năm 1959. Hiến pháp năm 1959 đã quy định và ghi nhận quyền bình

đẳng giữa nam và nữ về mọi mặt, là cơ sở pháp lý cho việc xây dựng chế độ HN&GĐ
mới XHCN. Vì vậy, cùng thời gian này, Luật HN&GĐ năm 1959 đã ra đời và có những
quy định về chế độ tài sản của vợ chồng.
Theo Luật HN&GĐ năm 1959, chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ cộng đồng
toàn sản quy định: “vợ chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử đụng ngang nhau
đối với tài sản có trước và sau khi cưới’’ (Điều 15). Nghĩa là toàn bộ các tài sản của vợ
chồng dù có trước khi kết hôn hoặc được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân; dù vợ, chồng
13


được tặng cho riêng, được thừa kế riêng hoặc cả hai vợ chồng được tặng cho chung hay
thừa kế chung, không phân biệt nguồn gốc tài sản và công sức đóng góp đều thuộc khối

tài sản chung của vợ chồng. Luật khơng thừa nhận vợ, chồng có tài sản riêng. Vợ, chồng
có quyền bình đẳng ngang nhau khi thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản chung và ln
có kỷ phần bằng nhau trong khối tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất đó. Có hai trường
hợp chia tài sản chung của vợ chồng là khi vợ, chồng chết trước (Điều 16) và khi vợ
chồng ly hôn (Điều 29). Về nguyên tắc, tài sản chung của vợ chồng được chia căn cứ vào
cơng sức đóng góp của mỡi bên vào tình hình tài sản. Lao động trong gia đình được kể
như lao động sản xuất.
- Ở miền Nam, hệ thống các văn bản pháp luật HN&GĐ được ban hành bao gồm:
+ Luật gia đình ngày 2/1/1959 (Luật số 1 - 59) dưới chế độ Ngơ Đình Diệm.
+ Sắc luật số 15/64 ngày 23/7/1964 về giá thú, tử hệ và tài sản cộng đồng.
+ Bộ dân luật ngày 20/12/1972 dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu.
Về chế độ tài sản của vợ chồng, cả ba văn bản luật này đều dự liệu chế độ tài sản

ước định, cho phép vợ chồng ký kết với nhau một hôn ước thoả thuận về vấn đề tài sản từ
trước khi kết hôn, miễn là sự thoả thuận bằng hơn ước đó khơng trái với trật tự công
cộng, thuần phong mỹ tực và quyền lợi của con. Trong trường hợp hai vợ chồng không
lập hôn ước với nhau về tài sản thì áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo các căn cứ
quy định của pháp luật. BLDS Sài Gòn năm 1972 quy định: “Luật pháp chỉ quy định chế
độ phu phụ tài sản khi vợ chồng không lập hôn ước. Vợ chồng có thể tự do lập hơn ước
tuỳ ỷ muốn, miễn không trải với trật tự công cộng và thuần phong mỹ tục ” ( Điều 144,
145), Điều 45 LGĐ; Điều 49 sắc luật số 15/64 cũng quy định tương tự, về chế độ tài sản
của vợ chồng theo luật định thì LGĐ năm 1959 đã dự liệu chế độ cộng đồng tồn sản,
cịn sắc luật số 15/64 và BLDS năm 1972 dự liệu chế độ cộng đồng động sản và tạo sản
với những thành phần tài sản, phạm vi quản lý, định đoạt tài sản và việc phân chia tài sản
chung của vợ chồng có những nội dung khác nhau. Cả ba văn bản luật này vẫn bảo vệ

quyền gia trưởng của người chồng trong gia đình, quan hệ bất binh đẳng về tài sản giữa
vợ và chồng vẫn tồn tại trong pháp luật và trong thực tế.
Giai đoạn từ 1975 đến nay
Cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, cả nước thống nhất, trước thực tế đó địi hỏi
phải có hệ thống pháp luật XHCN thống nhất trên cả hai miền Nam - Bắc, trong đó có
pháp luật về HN&GĐ. Ngày 25/3/1977, Hội đồng Chính phủ đã ra Nghị quyết số 76/CP,
quy định về việc thực hiện pháp luật thống nhất trong phạm vi cả nước, trong đó có Đạo
luật số 13 về HN&GĐ (Luật HN&GĐ năm 1959).
Quá trình thực hiện và áp dụng Luật HN&GĐ năm 1959 đã góp phần xố bỏ những
tàn tích lạc hậu của chế độ HN&GĐ phong kiến, thực hiện chế độ HN&GĐ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta. Tuy nhiên, đến những năm 1980 nền kinh tế xã hội nước ta đã có những
thay đổi căn bản, ảnh hưởng sâu sắc tới vấn đề thực hiện và áp dụng pháp luật, trong đó

có pháp luật về HN&GĐ. Việc áp dụng Luật HN&GĐ năm 1959, một số điều không phù
hợp. Việc ban hành Luật HN&GĐ mới là một tất yếu khách quan. Trước thực tế đó, năm
14


1986 Quốc hội khoá VII kỳ họp thứ 12 đã thơng qua Luật HN&GĐ mới, trong đó có các
điều quy định về chế độ tài sản của vợ chồng.
Luật HN&GĐ năm 1986 cũng không ghi nhận chế độ tài sản ước định mà chỉ quy
định chế độ cộng đồng tài sản pháp định áp dụng cho các cặp vợ chồng. Chế độ cộng
đồng tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 1986 là chế độ cộng đồng tạo sản, với
phạm vi thành phần khối tài sản chung của vợ chồng hẹp hơn rất nhiều so với chế độ
cộng đồng toàn sản mà Luật HN&GĐ năm 1959 áp dụng. Điều 14 quy định: “Tài sản

chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập về nghề nghiệp và
những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ
chồng được thừa kế chung hoặc được cho chung ”.
Bên cạnh khối tài sản chung của vợ chồng, Luật HN&GĐ năm 1986 đã ghi nhận
vợ, chồng có quyền có tài sản riêng quy định: “Đối với tài sản mà vợ hoặc chồng có
trước khi kết hơn, tài sản được thừa kế riêng hoặc được cho riêng trong thời kỳ hơn nhân
thì người có tài sản đó có quyền nhập hoặc khơng nhập vào khối tài sản chung của vợ
chồng” (Điều 16).
Về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, Luật HN&GĐ năm 1986 đảm bảo quyền bình
đẳng của vợ chồng đối với tài sản chung, quy định rõ mục đích sử dụng tài sản chung của
vợ chồng nhằm đảm bảo những nhu cầu chung của gia đình: “Vợ, chồng có quyền và
nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản chung. Việc mua bán, cho, đổi, vay mượn và những

giao dịch khác có quan hệ đến tài sản có giá trị lớn thì phải được sự thoả thuận của hai
vợ chồng ” (Điều 15).
Về chia tài sản chung của vợ chồng thì ngồi hai trường hợp như Luật HN&GĐ
năm 1959: Chia khi một bên vợ, chồng chết trước (Điều 17) và khi vợ, chồng ly hơn
(Điều 42), Luật HN&GĐ năm 1986 cịn quy định thêm chia tài sản chung của vợ chồng
khi hôn nhân đang tồn tại (Điều 18). Đây là quy định mới, xuất phát từ thực tiễn của đời
sống xã hội và với mục đích bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ, chồng cũng như của
những người có lợi ích liên quan (người thứ ba) đến tài sản chung của vợ chồng. Ngồi
ra, trong Luật HN&GĐ năm 1986 cịn quy định “nguyên tắc chia đôi tài sản chung’’ của
vợ chồng (Điều 17, 18, 42),
Luật HN&GĐ năm 1986 đã dự liệu tương đối đầy đủ các quan hệ HN&GĐ cần
được điều chỉnh, tuy nhiên, sau hơn 10 năm thực hiện, theo sự phát triển của nền kinh tế

xã hội, việc áp dụng Luật HN&GĐ năm 1986 đã bộc lộ những hạn chế nhất định: các quy
định của Luật HN&GĐ năm 1986 vẫn rất cơ đọng, khái qt, mang tính định khung. Vì
vậy, quá trình thực hiện và áp dụng Luật HN&GĐ năm 1986 cịn gặp nhiều khó khăn,
vướng mắc. Trước thực tế đó, Luật HN&GĐ năm 2000 đã ra đời với những quy định mới
phù hợp với hoàn cảnh của đất nước, trong đó có các quy định về chế độ tài sản của vợ
chồng.
Giống với Luật HN&GĐ năm 1986, Luật HN&GĐ năm 2000 của Nhà nước ta cũng
không dự liệu về chế độ tài sản ước định giữa vợ chồng. Chế độ cộng đồng tài sản pháp
định mà Luật HN&GĐ năm 2000 quy định là chế độ cộng đồng tạo sản, áp dụng cho các
15



cặp vợ chồng. Cũng như Luật HN&GĐ năm 1986, Luật HN&GĐ năm 2000 quy định về
phạm vi thành phần khối tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng; quyền và nghĩa vụ
của vợ chồng đối với các loại tài sản đó; các trường hợp chia tài sản chung và hậu quả
của việc chia tài sản chung của vợ chồng.
Khác với Luật HN&GĐ năm 1959 và năm 1986, Luật HN&GĐ năm 2000 có quy
định về việc đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản chung của vợ chồng; các quy định về
chế độ tài sản của vợ chồng được cụ thể hơn, khắc phục một số điểm hạn chế khi dự liệu
về chế độ tài sản của vợ chồng góp phần điều chỉnh kịp thời những phát sinh trong đời
sống HN&GĐ. Tuy nhiên, Luật HN&GĐ năm 2000 quy định chưa rõ ràng về chế độ sở
hữu của vợ chồng, thiếu cơ chế công khai minh bạch về tài sản chung, tài sản riêng. Sự
không minh bạch này gây hậu quả khơng an tồn cho các giao dịch dân sự liên quan đến
người thứ ba. Luật chủ yếu đề cập đến vấn đề đất đai, còn các tài sản khác như chứng

khốn, tài sản trong doanh nghiệp thì chưa được đề cập tới, gây khó khăn trong q trình
giải quyết tranh chấp. Bên cạnh đó, Luật HN&GĐ 2000 chỉ quy định một chế độ tài sản
của vợ chồng là chế độ tài sản pháp định có một số hạn chế, như: Quy định của luật 2000
không bảo đảm quyền tự định đoạt của chủ sở hữu tài sản. Về nguyên tắc, mỡi cá nhân có
quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu và theo ý chí của mình,
miễn sao khơng xâm phạm lợi ích của người khác, không trái với đạo đức xã hội; Việc
chỉ áp dụng một chế độ hôn sản pháp định cho tất cả các trường họp không đáp ứng được
nhu cầu của một số cặp vợ chồng. Thực tế, có những trường hợp mà hai người kết hôn
muốn tất cả tài sản mà mỡi bên có trước khi kết hơn cũng như trong thời kỳ hôn nhân đều
là tài sản chung; ngược lại, có những trường hợp mà người kết hơn có nhiều tài sản riêng
có nguồn gốc từ gia đình mình hoặc vì lý do kinh doanh riêng nên muốn thực hiện một
chế độ tách riêng tài sản và thoả thuận với nhau về việc đóng góp cho đời sống chung của

gia đình. Xuất phát từ những lý do đó, Luật HN&GĐ năm 2014 được ban hành đã giải
quyết được một số vấn đề bất cập của Luật HN&GĐ năm 2000 và bổ sung nội dung chế
độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận.
2.4. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN VỢ CHỒNG
Trước khi Luật HN &GĐ năm 2014 ra đời, pháp luật HN&GĐ của Việt Nam qua
các thời kỳ chỉ ghi nhận một loại chế độ tài sản của vợ chồng duy nhất là chế độ tài sản
vợ chồng theo luật định. Qua thực tiễn áp dụng cho thấy, việc chỉ quy định chế độ tài sản
vợ chồng theo luật định đã khơng cịn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội
hiện nay, đồng thời không đảm bảo tôn trọng quyền của vợ chồng trong việc định đoạt tài
sản.
Do đó, giống như hầu hết các quốc gia trên thế giới, Luật HN&GĐ Việt Nam năm
2014 đã quy định hai loại chế độ tài sản trong quan hệ tài sản của vợ chồng. Đây là một

trong những điểm mới quan trọng của Luật HN&GĐ năm 2014. Việc áp dụng hai loại
chế độ tài sản này được quy định tại Điều 28 Luật HN&GĐ năm 2014.
Điều 28, đã chỉ rõ hiệu lực áp dụng của các quy định chung là áp dụng bắt buộc cho
chế độ tài sản của vợ chồng. Các quy định này được thực hiện sẽ đảm bảo chế độ tài sản
16


của vợ chồng, bao gồm cả chế độ tài sản pháp định và chế độ tài sản theo thỏa thuận
được thực hiện theo một trật tự phù hợp, hài hòa giữa lợi ích của gia đình và lợi ích của
cá nhân, mở rộng quyền tự do định đoạt tài sản của vợ chồng phải ln đi cùng lợi ích
của gia đình, quyền lợi của các con và các thành viên khác trong gia đình. Đồng thời,
cũng chính là để luật hóa đi quan niệm thừa nhận các quyền tự chủ của mỗi bên vợ,

chồng trong việc thực hiện các giao dịch với người thứ ba; đảm bảo tính an tồn của giao
dịch được ký kết giữa một bên vợ chồng với người thứ ba, bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của người thứ ba trong giao dịch với một bên vợ, chồng, đặc biệt là trong nhiều
trường hợp, pháp luật không buộc các bên tham gia giao dịch phải biết về tình trạng hơn
nhân của nhau.
Nội dung của những quy định chung bao gồm: quy định về các loại chế độ tài sản
của vợ chồng; việc lựa chọn chế độ tài sản của vợ chồng; nguyên tắc chung về chế độ tài
sản của vợ chồng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng trong việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của
gia đình; giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng; giao dịch với người
thứ ba ngay tình liên quan đến tài khoản ngân hàng tài khoản chứng khoán và động sản
khác mà theo quy định của pháp luật không phải đăng kỷ quyền sở hữu, quyền sử dụng.
Nguyên tắc về chế độ tài sản của vợ chồng được Luật HN&GĐ 2014 quy định tại

Điều 29. Trong đó, mục đích của ngun tắc thứ nhất (quy định lao động trong gia đình
được coi như lao động có thu nhập) chính là để bảo vệ quyền lợi cho người vợ, chồng
không tham gia vào các hoạt động tạo ra thu nhập mà thực hiện công việc nội trợ của gia
đình, chăm lo cho cuộc sống của con cái và các thành viên khác trong gia đình. Nguyên
tắc này sẽ đảm bảo quyền và lợi ích pháp của họ, đặc biệt là khi vợ, chồng thực hiện chế
độ tách riêng tài sản (tài sản do bên nào làm ra thuộc quyền sở hữu riêng của bên đó) thì
họ có quyền u cầu bên kia thanh tốn cho mình một phần giá trị tài sản tương đương
với cơng sức đóng góp của mình dành cho việc nội trợ và chăm sóc gia đình.
Ngun tắc thứ hai thể hiện sâu sắc nhất tinh thần của Luật HN&GĐ năm 2014 khi
thừa nhận chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận là phải bảo đảm lợi ích chung của
gia đình. Cùng với nguyên tắc này, Điều 30 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định thêm về
quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng trong việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình.

Điều này đã khẳng định vợ, chồng có quyền tự mình thực hiện các giao dịch nhằm
đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình, đồng thời cũng xác định trách nhiệm liên đới về
nghĩa vụ phát sinh từ những giao dịch này đối với người vợ, chồng không thực hiện giao
dịch.
Nguyên tắc thứ ba xuất phát từ yêu cầu bảo vệ quyền lợi hợp pháp của vợ, chồng.
Trong trường hợp một bên vợ, chồng không tuân thủ những quy định chế độ tài sản của
vợ chồng, gây thiệt hại cho người kia như tự ý dùng tài sản chưng nhằm đáp ứng nhu cầu
cá nhân của riêng bản thân mình đánh cờ bạc, tẩu tán tài sản hoặc tự ý tặng cho người
khác..., thì người kia có quyền yêu cầu bồi hoàn cho khối tài sản chung. Nếu như gây
thiệt hại đến tài sản riêng của bên kia thì người vợ chồng gây thiệt hại phải có trách
nhiệm bồi thường.
17



Ngoài ra, quy định chung về chế độ tài sản của vợ chồng còn đề cập đến những vấn
đề như: giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng và giao dịch với
người thứ ba ngay tình liên quan đến tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán và
động sản khác mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sỡ hữu, quyền
sử dụng. Cụ thể là, trong trường hợp nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng thì khi thực hiện
việc xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch liên quan đến nhà đó phải có sự thỏa
thuận của vợ chồng. Đối với nhà ở thuộc sở hửu riêng của vợ, chồng, thì vợ, chồng vẫn
được bảo đảm thực hiện quyền xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch liên quan đến nhà
đó, tuy nhiên phải đảm bảo chổ ở cho vợ chồng . Điều này cũng thể hiện rất rõ tinh thần
đảm bảo lợi ích chung của gia đình trong Luật HN&GĐ năm 2014. Bởi lẽ, đối với gia

đình nhà ở là một vấn đề vơ cùng quan trọng, cần thiết sự ổn định, nhà ở không chỉ là nơi
ở của vợ, chồng mà cịn có các thành viên khác trong gia đình, con cái cần phải có nơi để
sinh sống và đảm bảo những điều kiện tốt nhất để phát triển.
Đối với các giao dịch liên quan đến tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán và
động sản khác mà pháp luật không quy định phải đăng ký quyền sở hữu , quyền sử dụng,
khi giao dịch với người thứ ba ngay tình, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
người thứ ba ngay tình và tạo thuận lợi cho vợ, chồng trong việc thực hiện các giao dịch,
do vậy những nguyên tắc suy đoán đã được đặt ra tại Điều 32 Luật HN&GĐ năm 2014.
Theo đó, người thứ ba (gồm có ngân hàng, cơng ty chứng khốn hoặc người có giao
dịch với vợ, chồng) được phép suy đốn rằng chủ tài khoản chính là người có quyền định
đoạt những tài sản có trong tài khoản. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp
luật về tài chính, ngân hàng trong việc xác định chủ tài khoản là người duy nhất có quyền

thực hiện các giao dịch liên quan đến tài khoản của họ. Nguyên tắc suy đoán trên vừa tạo
điều kiện cho vợ, chồng trong việc tự do thực hiện các giao dịch liên quan đến tài khoản,
mà không phải đưa ra các tài liệu chứng minh về quyền định đoạt tài sản. Đồng thời, vừa
có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của người thứ ba. Khi đó,
người thứ ba khơng cần thiết phải biết về tinh trạng hôn nhân hay chế độ tài sản của
người ký kết giao dịch với mình.
Tương tự như vậy, đối với tài sản là động sản mà không thuộc diện phải đăng ký
quyền sở hữu thì người thứ ba được phép suy đoán người vợ, chồng đang chiếm hữu tài
sản là người có quyền thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản đó.
Nguyên tắc này chỉ có hiệu lực trong quan hệ giữa một bên là vợ, chồng với bên kia
là người thứ ba. Còn trong quan hệ giữa hai vợ, chồng thì vợ chồng phải tuân theo các
quy định của Luật HN &GĐ hoặc theo chế độ tài sản thỏa thuận của vợ, chồng.

2.4.1. CHẾ ĐỘ TÀI SẢN THEO LUẬT ĐỊNH
a. Tài sản chung của vợ chồng
Căn cứ xác lập tài sản chung vợ chồng.
Để cuộc sống chung của vợ chồng được duy trì, một trong những yếu tố quan trọng
nhất là việc tạo lập tài sản để ni sống gia đình. Việc xác định tài sản chung của vợ
chồng được quy định tương đối đầy đủ, cụ thể, căn cứ để xác định tài sản chung của vợ
18


chồng dựa trên hai cơ sở là “thời kỳ hôn nhân ” và “nguồn gốc tài sản”. Vấn đề này
được quy định tại Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014 .
Quy định về tài sản chung của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 2014 là sự kế thừa

Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 về xác định tài sản chung của vợ chồng căn cứ vào thời
kỳ hôn nhân (tài sản được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân); nguồn gốc tài sản; thỏa thuận
của vợ chồng và nguyên tắc suy đoán. Vậy, căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng
bao gồm:
Tài sản chung của vợ chồng được xác lập trong thời kỳ hôn nhân
Theo khoản 13 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014: “Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời
gian tồn tại quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân
”. Như vậy, việc xác định tài sản chung của vợ chồng sẽ được tính từ ngày đăng ký kết
hơn đến ngày phán quyết ly hơn của Tồ án có hiệu lực pháp luật hoặc từ ngày đăng ký
kết hôn đến ngày vợ, chồng chết hoặc bị Toà án tuyên bố là đã chết. Tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được tạo thành từ các nguồn gốc sau:
- Những tài sản do vợ chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất,

kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và những thu nhập hợp pháp
khác của vợ chồng
Hành vi tạo ra tài sản là một trong những chức năng chính để ni sống gia đình.
Sau khi kết hơn, vợ chồng cùng chung sức trong việc tạo lập tài sản để duy trì cuộc sống
và đảm bảo cho gia đình tồn tại. Hành vi tạo ra tài sản là việc vợ chồng tạo ra tài sản
bằng chính sức lao động của mình dựa trên cơng việc hoặc nghề nghiệp chun mơn của
mình. Vợ chồng có thể trực tiếp tạo ra tài sản như trồng trọt, chăn nuôi,... hoặc thông qua
các hợp đồng với người khác như hợp đồng lao động, mua bán tài sản nhằm tạo ra thu
nhập đảm bảo các nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng của gia đình.
Thu nhập hợp pháp của vợ chồng là việc hưởng thành quả lao động do tham gia lao
động, hoạt động sản xuất, kinh doanh theo tính chất nghề nghiệp, cơng việc, chun mơn
mà vợ chồng thực hiện. Tài sản chung từ thu nhập hợp pháp của vợ chồng thường là tiền

lương, tiền công lao động, tài sản thu được qua hoạt động sản xuất như trồng trọt, chăn
nuôi, lợi nhuận thu được thông qua hoạt động sản xuất, kinh doanh...
Ngoài các thành phần nêu trên trong khối tài sản chung của vợ chồng cịn có các
khoản thu nhập khác được quy định cụ thể tại Điều 9 Nghị định số 126/2014/NĐ CP.
Luật HN&GĐ năm 2014 đã bổ sung thêm điểm mới khi quy định về căn cứ xác lập
tài sản chung của vợ chồng, đó là: các hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ,
chồng trong thời kỳ hôn nhân cũng thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Các hoa lợi, lợi tức
từ tài sản, do việc khai thác tự nhiên hoặc khai thác pháp lý: cây con sinh ra từ cây mẹ,
gia súc con sinh ra từ gia súc mẹ, cá con, trứng, tiền cho thuê nhà, tiền lãi tiết kiệm,... bất
kể tài sản gốc là của riêng hay của chung, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đều là của
chung.
- Những tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, được tặng cho chung

19


Việc xác lập loại tài sản này phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu hoặc do pháp luật
quy định về thừa kế. Việc tặng cho một tài sản chung cho cả vợ và chồng thường được
ghi nhận trong thực tiễn Việt Nam, người tặng cho thường là cha mẹ của vợ hoặc chồng.
Khi xác lập hợp đồng tặng cho chung hoặc di chúc để lại tài sản chung cho vợ chồng, chủ
sở hữu khơng có sự phân biệt kỷ phần cho mỗi bên vợ, chồng được hưởng. Nếu có sự xác
định tỷ lệ tài sản cho mỡi bên vợ, chồng thì phần tài sản đó sẽ thuộc tài sản riêng của mỗi
bên theo tỷ lệ được thừa kế, tặng cho và chỉ là tài sản chung khi vợ, chồng tự nguyện
nhập vào khối tài sản chung hay vợ chồng thoả thuận đó là tài sản chung.
Trường hợp vợ chồng cùng hàng thừa kế theo quy định của pháp luật về thừa kế thì

tài sản được thừa kế “theo hàng thừa kế” đó thuộc tài sản riêng của vợ, chồng; chỉ là tài
sản chung khi vợ chồng tự nguyện nhập vào tài sản chung hoặc có thoả thuận là tài sản
chung của vợ chồng.
- Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hơn:
Đất đai là một loại tài sản đặc biệt thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất
quản lý. Quyền sử dụng đất là một loại quyền tài sản được pháp luật công nhận và bảo
vệ. Khoản 2 Điều 54 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tổ chức, cá nhân được Nhà nước
giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất. Người sử dụng đất được chuyển
quyền sử dụng đất, thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy đinh của luật. Quyền sử
dụng đất được pháp luật bảo hộ”. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết
hôn là tài sản chung của vợ chồng. Khoản 1 Điều 33 Luật HN&GĐ 2014 quy định :
“Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ

chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có
được thơng qua giao dịch bằng tài sản riêng”.
- Tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung:
Để xây dựng một gia đình hạnh phúc, bền vững thì việc phát triển kinh tế, tạo lập tài
sản của vợ chồng được các bên chú trọng. Khi cuộc sống hồ thuận hạnh phúc, việc xác
định rạch rịi tài sản chung của vợ chồng và tài sản riêng của mỡi bên ít được quan tâm,
coi trọng. Vợ chồng thường có xu hướng sử dụng các tài sản có được vào mục đích
chung của gia đình, giới hạn giữa tài sản chung và riêng khơng có sự phân biệt rõ ràng.
Các bên thường có xu hướng nhập phần tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung của
vợ chồng nhằm đảm bảo đời sống của gia đình. Pháp luật ghi nhận việc thoả thuận của
các bên trên nguyên tắc quyền tự định đoạt, giữa vợ và chồng có thể thoả thuận tài sản
nào là tài sản chung của vợ chồng và tài sản nào là tài sản riêng của vợ, chồng. Việc nhập

hay không nhập tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng vào khối tài sản chung của vợ chồng
có thể mặc nhiên hoặc được thoả thuận bằng văn bản.
Khi vợ chồng có mâu thuẫn về tình cảm thì yếu tố tài sản cũng được các bên đem ra
tính tốn. Do tính chất phức tạp của quan hệ tài sản mà việc xác định đâu là tài sản chung
của vợ chồng và đâu là tài sản riêng của mỡi bên vợ, chồng gặp nhiều khó khăn. Có
trường hợp tài sản riêng của một bên được sử dụng nhằm đảm bảo cuộc sống chung của
vợ chồng, giữa tài sản chung và tài sản riêng có sự chuyển hố, trộn lẫn với nhau dẫn đến
20


khó xác định chính xác. Do vậy, khoản 3 Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014 vẫn giữ
nguyên quy định tại khoản 3 Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000: “Trong trường hợp

khơng có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng
của mỡi bên thì tài sản đó là tài sản chung ” .
Ví dụ: Anh A và chị B kết hơn với nhau, sau khi kết hôn anh A đã bán số vàng của
mình có trước khi kết hơn để thêm tiền vào xây một ngôi nhà trên mảnh đất được cha mẹ
anh cho anh dùng làm chỗ ở chung cho hai vợ chồng. Như vậy, anh A đã tự nguyện nhập
số vàng là tài sản riêng của anh (có được trước khi kết hôn) vào tài sản chung của vợ
chồng (ngôi nhà chung). Việc nhập số vàng là tài sản riêng của anh A vào tài sản chung
được coi là sự mặc nhiên vì số tiền có được do bán vàng đã dùng vào mục đích chung của
gia đình. Tuy nhiên, nếu anh A muốn nhập tài sản riêng là mảnh đất do cha mẹ anh cho
riêng anh hoặc mua trước khi kết hôn vào tài sản chung của vợ chồng thì phải làm các thủ
tục pháp lý có liên quan. Việc anh dùng mảnh đất này để xây ngôi nhà chung cho vợ
chồng không mặc nhiên được coi là nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng. Anh A

muốn chứng minh tài sản nào là tài sản riêng của mình thì phải đưa ra được chứng cứ
chứng minh, nếu khơng chứng minh được thì tuỳ từng trường hợp Tồ án có thể suy đốn
đó là tài sản chung của vợ chồng hoặc là tài sản riêng của anh A.
Như vậy, so với các văn bản pháp luật trước đây, Luật HN&GĐ năm 2000 đã đưa
ra được điểm mới là nguyên tắc suy đoán tài sản chung của vợ chồng và được giữ nguyên
trong Luật HN&GĐ năm 2014, đây là một trong những công cụ hữu hiệu để bảo vệ khối
tài sản chung. Nguyên tắc này đã phần nào đảm bảo được sự cơng bằng trên cơ sở vì lợi
ích chung của gia đình.
Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung
- Quyền của vợ chồng đối với tài sản chung
Luật HN&GĐ năm 2014 quy định tương đối cụ thể về quyền bình đẳng của vợ
chồng đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất, các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng

đối với tài sản chung. Căn cứ khoản 2 Điều 213 BLDS năm 2015 và khoản 1 Điều 29
Luật HN&GĐ năm 2014, như vậy, vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ bình đẳng với nhau
trong việc xây dựng, phát triển và duy trì khối tài sản, đồng thời họ cũng có quyền và
nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản thuộc sở
hữu chung hợp nhất.
Quy định khơng phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập, tức
là đối với những người vợ, chồng không tham gia vào các hoạt động tạo ra thu nhập mà
thực hiện công việc nội trợ của gia đình, chăm lo cho cuộc sống của con cái và các thành
viên khác trong gia đình cũng có quyền, nghĩa vụ về nhân thân, về tài sản ngang bằng với
người lao động có thu nhập.
Khi quy định về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong việc chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản, khoản 1 Điều 28 Luật HN&GĐ năm 2000 chỉ quy định: "Vợ, chồng có

quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử đụng, định đoạt tài sản chung".
Việc bổ sung quy định "khơng phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu
21


×