Chương 1
ĐẠI CƯƠNG VI SINH VẬT
ĐẠI CƯƠNG VI KHUẨN
Vi khuẩn (Bacteria) là sinh vật tiền nhân (Procaryote) có cấu tạo tế bào rất
nhỏ, chỉ nhìn thấy được qua kính hiển vi phóng đại hàng nghìn lần . Vi khuẩn
cùng với virus, prion, vi nấm… hợp thành vi sinh vật (Microbiology) nói chung.
Trong vi sinh vật, có những thành viên gây bệnh và những thành viên khơng gây
bệnh cho người. Những vi sinh vật gây bệnh được gọi là vi sinh vật y học
(Medical microbiology). Tài liệu giáo khoa này chỉ trình bày một số vi sinh vật y
học.
1. Kích thước và hình thể vi khuẩn
Phần lớn vi khuẩn có kích thước từ 1 3 m. Cũng có vi khuẩn có kích
thước lớn như vi khuẩn than (6 m) và có lồi có kích thước nhỏ như vi khuẩn
dịch hạch (0,5 m).
Kích thước của vi khuẩn có thể thay đổi theo tuổi và điều kiện dinh
dưỡng.
Về hình thể của vi khuẩn, có 3 loại hình cơ bản:
Hình cầu: gọi là cầu khuẩn. Cầu khuẩn gây bệnh có các cách sắp xắp
xếp khác nhau.
Tụ cầu khuẩn (Staphylococcus): các cách sắp xếp thành đám như chùm
nho.
Liên cầu khuẩn (Streptococcus): các tế bào xếp thành dãy dài.
Song cầu khuẩn (Diplococcus): hai tế bào xếp bên nhau như song cầu
khuẩn lậu, song cầu khuẩn màng não.
Vi cầu khuẩn (Micrococcus): từng tế bào hình cầu khuẩn riêng lẻ như cầu
khuẩn ruột.
Hình thẳng: gọi là trực khuẩn. Trực khuẩn gây bệnh có các cách xắp xếp
khác nhau.
1
Các tế bào xếp thành dãy dài như trực khuẩn than.
Các tế bào xếp thành đám như trực khuẩn hủi.
Các tế bào xếp thành xếp thành hình các chữ X, Y, N như trực khuẩn lao.
Tế bào đứng riêng lẻ như trực khuẩn uốn ván.
Tế bào của mỗi loại vi khuẩn cũng có hình dạng khác nhau. Trực khuẩn
hai đầu trịn như trực khuẩn lỵ, trực khuẩn hai đầu vng như trực khuẩn
than, trực khuẩn hai đầu hình thoi như trực khuẩn ho gà, trực khuẩn hai đầu to
như trực khuẩn bạch hầu.
Hình cong: gọi là phẩy khuẩn. Hình cong ngắn và khơng q 1/4 đường
trịn như phẩy khuẩn tả. Hình xoắn nhiều vịng như xoắn khuẩn giang mai.
Ý nghĩa thực tiễn của kích thước, hình thể vi khuẩn:
Mỗi lồi vi khuẩn có kích thước và hình thể riêng nên dựa vào kích thước,
đặc biệt là hình thể, người ta có thể chẩn đốn xác định tên một số vi khuẩn
gây bệnh. Nếu vi khuẩn được nhuộm Gram thì dựa vào hình thể và tính chất
bắt màu Gram của vi khuẩn có thể chẩn đốn khá chính xác một số lồi vi
khuẩn. Thí dụ: từ một bệnh phẩm dịch não tuỷ, nhuộm Gram, soi kính hiển vi
thấy song cầu khuẩn như hai hạt cà phê, bắt màu Gram âm thì kết luận được
bệnh nhân bị nhiễm cầu khuẩn màng não. Việc dựa vào kích thước, hình thể
để chẩn đốn vi khuẩn gây bệnh có thể có giá trị tuyệt đối như trường hợp
trên, nhưng có thể chỉ có giá trị tương đối vì một số lồi vi khuẩn khơng gây
bệnh cũng có kích thước, hình thể giống vi khuẩn gây bệnh.
2. Cấu tạo tế bào vi khuẩn
Nói chung vi khuẩn có cấu tạo một tế bào nhưng chưa hồn chỉnh, bao
gồm các phần cấu tạo cơ bản là nhân, bào tương và thành tế bào.
2.1. Nhân
Với sự trợ giúp của kính hiển vi điện tử, người ta biết được nhân của vi
khuẩn khơng có màng nhân bao bọc và khơng có nhiều thể nhiễm sắc như
những tế bào bậc cao. Nhân của vi khuẩn là một phân tử ADN hình sợi, uốn
vịng, dài khoảng 1mm và là thể nhiễm sắc độc nhất của vi khuẩn.
Sợi ADN tự sao chép theo sơ đồ của Watson Crick trong q trình nhân lên
của vi khuẩn.
2
Nhân của vi khuẩn bắt màu thuốc nhuộm kiềm như bào tương nên khó
phân biệt với bào tương khi nhuộm thuốc nhuộm thơng thường . Để nhuộm
phân biệt cần phải dùng thuốc nhuộm đặc biệt.
2.2. Bào tương
Thành phần cấu trúc của bào tương vi khuẩn đơn giản hơn nhiều so với
bào tương của tế bào sinh vật bậc cao. Bào tương ở trạng thái gel, chứa nước
với các chất hồ tan và nhiều loại hạt vùi.
Chất hồ tan: có protid, glucid, lipid, ARN thơng tin, ARN vận chuyển,
một số enzyme, sắc tố, muối khống,…
Hạt vùi: có hạt volutin, khơng bào chứa glucogen, plasmid, ribosom.
Mỗi vi khuẩn có khoảng 15.000 hạt ribosom. Kích thước từ 17 21nm.
Ribosom chứa 40% trọng lượng khơ của vi khuẩn và chứa 90% tổng số ARN.
Về thành phần hố học, ribosom chứa 60% ARN và 40% protein.
Trong bào tương, ribosom xếp thành đám mang tên polyribosom. Các
polyribosom có nhiệm vụ tổng hợp protein. Phía ngồi bào tương được bao
bọc bởi màng bào tương.
2.3. Màng bào tương
Màng bào tương dày 10 20 nm, có những nếp gấp gọi là mesosom. Vi
khuẩn Gram dương có nhiều mesosom hơn vi khuẩn Gram âm. Màng bào
tương có chức năng:
Là một màng thẩm thấu chọn lọc, chứa nhiều enzyme làm nhiệm vụ
điều khiển trao đổi chất giữa vi khuẩn và mơi trường.
Là nơi chứa nhiều enzyme hơ hấp, màng bào tương có chức năng như của
ty lạp thể ở tế bào sinh vật bậc cao.
2.4. Vách tế bào
Vách hay thành tế bào bao bọc bên ngồi màng tế bào vi khuẩn. Vách tế
bào dày 15 nm ở các vi khuẩn Gram dương, 8 12 nm ở các vi khuẩn Gram âm.
Về thành phần hố học, vách tế bào có chung chất cơ bản là glycopeptid, gọi
là peptidoglycan là một phân tử lớn, trọng lượng phân tử hàng tỷ dalton. Ở
những vi khuẩn Gram dương cịn có acid teichoic cịn ở vi khuẩn Gram âm thì
chứa nhiều lipopolysarid (LPS) và lipoprotein. Những chất này đã tạo nên nội
độc tố của vi khuẩn.
3
Vách tế bào vi khuẩn Gram dương và Gram âm có sự khác nhau về độ dày,
về thành phần hố học, nên dẫn đến sự khác nhau về tính bắt màu.
Vách tế bào vi khuẩn có chức năng: bảo vệ vi khuẩn, tạo nên hình thể cố
định của vi khuẩn và mang tính kháng ngun của vi khuẩn.
Nhìn chung, vi khuẩn có cấu trúc một tế bào gần hồn chỉnh, có hệ thống
enzyme để chuyển hố đảm bảo đời sống độc lập của vi khuẩn. Tuy vậy,
cũng có các trường hợp ngoại lệ: Mycoplasma khơng có vách tế bào mà chỉ bao
bọc một màng mỏng, Rickettsia, Chlamydia khơng có đầy đủ hệ thống enzyme
và do đó phải ký sinh bắt buộc trong tế bào sống khác.
Ngồi các phần cấu trúc cơ bản kể trên, ở một số giống vi khuẩn cịn có
các phần cấu trúc phụ như vỏ, lơng, pili, bào tử.
2.5. Vỏ
Một số vi khuẩn tiết ra một chất hữu cơ bao bọc bên ngồi vách tế bào
được gọi là vỏ. Chỉ có một số giống vi khuẩn có khả năng sinh vỏ và q trình
sinh vỏ phụ thuộc nhiều vào mơi trường. Người ta thấy cầu khuẩn phổi chỉ
tạo ra vỏ khi vi khuẩn ở trong cơ thể người hoặc động vật sống . Ra khỏi cơ
thể hoặc được ni trong mơi trường nhân tạo, vi khuẩn mất khả năng sinh vỏ
nhưng vẫn sống, vẫn sinh sản.
Bản chất hố học của vỏ là chất polysacharid (cầu khuẩn phổi, liên cầu
khuẩn gây mủ, trực khuẩn hoại thư sinh hơi ), cũng có thể là chất polypeptid
(trực khuẩn than).
Vỏ vi khuẩn có liên quan đến độc lực của chúng. Khi có vỏ, vi khuẩn dễ
chống lại sự thực bào của tế bào bạch cầu . Mất vỏ, được coi là hình thức
biến dị và thấy vi khuẩn đó mất tính gây bệnh. Vỏ cịn làm hạn chế tác động
của một số yếu tố lý hố tác hại tới vi khuẩn như thuốc kháng sinh . Như vậy,
vỏ là một yếu tố duy trì độc lực của vi khuẩn.
Vỏ vi khuẩn cịn mang tính kháng ngun đặc hiệu. Trong thực tế, dựa vào
kháng ngun vỏ để phân biệt một lồi vi khuẩn thành nhiều type . Thí dụ:
phân loại cầu khuẩn phổi thành 85 type khác nhau về kháng ngun vỏ.
Vỏ vi khuẩn ít bắt màu. Để quan sát vỏ, phải nhuộm vỏ theo kỹ thuật đặc
biệt hoặc làm cho vỏ phình to ra (phản ứng phình vỏ).
2.6. Lơng
4
Một số giống vi khuẩn có lơng. Đó là những sợi rất nhỏ (đường kính 1030
nm), bắt nguồn từ bào tương, xun qua vách tế bào ra ngồi, giúp vi khuẩn di
động.
Tùy vi khuẩn mà số lượng và vị trí lơng có thể khác nhau : một lơng hoặc
một chùm lơng ở một đầu hoặc nhiều lơng xung quanh tế bào.
Thành phần hố học chủ yếu của lơng vi khuẩn là protein. Lơng mang tính
kháng ngun đặc hiệu; Căn cứ kháng ngun lơng có thể phân loại và chẩn
đốn xác định một lồi vi khuẩn.
Để phân biệt vi khuẩn có lơng có thể thực hiện theo ba cách:
+ Cấy vi khuẩn vào ống mơi trường thạch mềm rồi quan sát hiện tượng vi
khuẩn mọc lan rộng ra xa đường cấy.
+ Quan sát vi khuẩn di động bằng kính hiển vi tụ quang nền tối (nền đen).
+ Nhuộm lơng theo kỹ thuật đặc biệt rồi quan sát ở kính hiển vi thường.
2.7. Pili
Ở một số lồi vi khuẩn Gram âm, mặt ngồi có những sợi nhỏ và ngắn
hơn lơng gọi là pili. Người ta phân biệt hai loại : pili chung và pili giới tính.
Chúng được phát hiện trên kính hiển vi điện tử.
+ Pili chung: dài 0,52 micromet, một vi khuẩn có 100200 pili chung. Pili
này giúp vi khuẩn bám lên các bề mặt và quyết định tính chất ngưng kết hồng
cầu của vi khuẩn.
+ Pili giới tính: dài hơn pili chung, tới 20 micromet . Mỗi vi khuẩn có 14
pili giới tính. Pili giới tính được coi như cầu nối để chuyển ADN từ tế bào vi
khuẩn cho sang tế bào vi khuẩn nhận.
2.8. Bào tử
Một số vi khuẩn trong điều kiện bất lợi cho sự sống, có khả năng hình
thành những thể có khả năng chống đỡ rất cao gọi là bào tử (nha bào). Bào tử
chỉ thấy ở một vài giống vi khuẩn như Bacillus, Clostridium...
Bào tử hình thành trong tế bào vi khuẩn qua nhiều giai đoạn. Tế bào vi
khuẩn có khả năng sinh bào tử gọi là tế bào sinh dưỡng. Trong tế bào này, bào
tử hình thành dần, đồng thời tế bào sinh dưỡng tự tiêu đi và cuối cùng bào tử ở
trạng thái tự do. Thời gian hình thành bào tử mất khoảng 1820 giờ. Khi gặp
5
điều kiện thuận lợi, bào tử nảy mầm và trở thành tế bào vi khuẩn hoạt động .
Thời gian chuyển từ bào tử sang thể hoạt động khoảng từ 4 đến 5 giờ.
Bào tử có các đặc điểm cấu tạo: vách dày, có nhiều chất canxi và acid
dipicolinic, dưới dạng muối canxidipicolinat, nước ở dạng tự do chiếm t ỷ l ệ
thấp (40% trọng lượng bào tử).
Do đặc điểm cấu tạo như vậy nên bào tử có khả năng chống đỡ lại các tác
động lý học, bảo vệ được chất liệu sống bên trong, tồn tại nhiều năm ở ngoại
cảnh và chịu được nhiệt độ cao.
Bào tử cũng có thể bị phá huỷ bởi một vài chất hố học, thí dụ chất bêta
propiolacton và bị huỷ bởi nhiệt độ trên 100oC. Trong thực tế, các dụng cụ
phẫu thuật, dụng cụ nội soi, kim, bơm tiêm, thuốc, dịch truyền phải đảm bảo
khơng cịn vi khuẩn sống và bào tử. Để loại bỏ bào tử thường tiến hành theo
các cách: sấy hấp bằng hơi nước nóng 120oC/30 phút, sấy khơ bằng khơng khí
nóng 170oC/60 phút hoặc bằng phương pháp Tyndall.
Bào tử chỉ có ở một số giống vi khuẩn và ở những giống vi khuẩn đó, vị trí
của bào tử cũng khác nhau. Bào tử vi khuẩn uốn ván trịn, to hơn thân tế bào và
nằm ở một đầu tế bào, bào tử vi khuẩn độc thịt hình bầu dục to hơn thân tế bào
và nằm ở một đầu tế bào, bào tử vi khuẩn than trịn, to bằng thân tế bào và nằm
giữa tế bào. Sự khác nhau về hình và vị trí bào tử giúp cho việc xác định giống
vi khuẩn.
3. Dinh dưỡng của vi khuẩn
3.1. Đặc điểm
Vi khuẩn cần lượng thức ăn rất lớn: tế bào vi khuẩn có thể chuyển hố
trong một ngày đêm một khối lượng vượt q 30 40 lần trọng lượng bản thân
nó. Sở dĩ thế vì vi khuẩn có sức hoạt động trao đổi chất rất mạnh và sức phát
triển sinh sản rất nhanh; Điều này giải thích vai trị lớn lao của vi khuẩn trong
sự tuần hồn vật chất trên trái đất và giải thích khả năng tàn phá của vi khuẩn
gây bệnh một khi vào được cơ thể người và động vật.
Sự trao đổi chất tiến hành qua tồn bộ về mặt vi khuẩn.
Sự dinh dưỡng được thực hiện nhờ có một hệ thống enzyme đảm bảo .
Những enzyme này được chia làm hai loại:
6
+ Enzyme ngoại bào (ngoại enzyme): là những enzyme của vi khuẩn tiết ra
ngồi để phân huỷ thức ăn, biến các chất thức ăn từ phức tạp thành đơn giản
để có thể lọt vào tế bào vi khuẩn.
+ Enzyme nội bào (nội enzyme): là những enzyme trong tế bào vi khuẩn có
tác dụng tổng hợp những thức ăn đã hấp thụ được thành những chất của vi
khuẩn.
Mỗi loại vi khuẩn có những enzyme riêng của mình, tạo thành một hệ
thống đặc hiệu dùng được trong việc chẩn đốn phân loại vi khuẩn. Ví dụ
trong những trực khuẩn Gram âm giống nhau về hình thể thì trực khuẩn E.
coli có enzyme lactoza nên sử dụng đường lactoza, cịn trực khuẩn thương hàn,
trực khuẩn lỵ khơng sử được chất đường này vì khơng có enzyme lactoza .
Bằng cách ni từng loại vi khuẩn trên vào mơi trường có chất lactoza và phát
hiện xem chất lactoza có bị phân huỷ hay khơng, người ta có thể phân biệt
được trực khuẩn E. coli (lactoza +) với hai loại trực khuẩn kia (lactoza ).
Hệ thống enzyme đặc hiệu của từng loại vi khuẩn là những enzyme có
sẵn, di truyền qua các thế hệ, đảm bảo dinh dưỡng của vi khuẩn trong hồn
cảnh bình thường. Trong những điều kiện đặc biệt về dinh dưỡng, vi khuẩn
có thể tổng hợp ra một enzyme mới để thích nghi với hồn cảnh, gọi là
enzyme thích ứng, enzyme này sẽ mất đi khi hồn cảnh đặc biệt khơng cịn.
Ngược lại trong q trình tiến hố lâu đời, từ ngoại cảnh vào cơ thể sống
do thích nghi dần với lối sống ký sinh, vi khuẩn có thể mất đi một số enzyme.
3.2. Nhu cầu
Thức ăn năng lượng: có những loại vi khuẩn sử dụng được năng lượng
ánh sáng mặt trời để hoạt động, đây là những vi khuẩn quang dưỡng hay
quang hợp.
Cịn những loại vi khuẩn khác lấy năng lượng cần thiết để hoạt động từ
những chất vơ cơ hoặc hữu cơ, đây là những vi khuẩn hố dưỡng hay hố hợp.
Những vi khuẩn ở người (gây bệnh hoặc khơng gây bệnh) thuộc vào loại
hố dưỡng hữu cơ, nghĩa là chúng lấy năng lượng bằng cách oxy hố một
hoặc nhiều cơ chất hữu cơ qua một chuỗi phản ứng oxy hố khử.
Cơ chất bị oxy hố thường là một chất đường (như chất glucoza) hoặc là
một chất đơn giản (như acid amin, acid carboxylic…), ít khi là một phân tử lớn
7
(protein). Q trình oxy hố cơ chất tạo ra những chất chuyển hố trung gian
giầu năng lượng.
Thức ăn tạo hình (vật liệu kiến thiết)
+ Nguồn cacbon: vi khuẩn cần được cung cấp nhiều cacbon vì cấu tạo tế
bào vi khuẩn có nhiều chất này. Vi khuẩn lấy cacbon từ một nguồn đơn giản
là CO2 và rất nhiều nguồn khác, như acid acetic, acid lactic, các đường hoặc
các hợp chất hữu cơ khác. Thường nguồn cung cấp cacbon cũng là nguồn cung
cấp năng lượng.
+ Nguồn nitơ: một vài vi khuẩn có khả năng sử dụng trực tiếp nitơ của
khơng khí; các loại nitơ từ amoniac, từ nitrit, nitrat, những acid amin, pepton,
protein phức tạp.
+ Các chất vơ cơ: vi khuẩn cần những chất vơ cơ như: P, S, Na, K Cl,
Ca,vv… lấy từ nhiều nguồn khác nhau, dưới dạng phosphat, sulphat, NaCl, vv
… có những chất tuy cần cho vi khuẩn, nhưng chỉ cần với số lượng rất ít, gọi
là ngun tố vi lượng, thí dụ những chất Mg, Mn, Co, Fe, Cu, vv … những
chất này thường có lẫn vào trong các chất khác được dùng với nồng độ cao
hơn.
Yếu tố phát triển (cịn gọi là yếu tố sinh trưởng)
Từ những nguồn thức ăn kể trên, nhiều loại vi khuẩn có khả năng tự tổng
hợp ra những enzyme và những chất của mình. Nhưng có loại vi khuẩn khơng
tự tổng hợp được một chất hoặc vài chất của mình, nếu khơng có sẵn những
chất ấy trong mơi trường thì vi khuẩn khơng phát triển được; những chất ấy
được gọi là yếu tố phát triển, cần phải cung cấp cho vi khuẩn từ bên ngồi. Ví
dụ: trong mơi trường đơn giản cần có glucoza là nguồn cung cấp cacbon, một
nguồn nitơ và những muối vơ cơ, trực khuẩn đường ruột E. coli mọc được
một cách dễ dàng; trái lại với Proteus vulgalis (là một vi khuẩn đường ruột có
những tính chất gần giống E. coli) chỉ mọc được nếu cho thêm vào mơi trường
một lượng nhỏ nhất nicotinamit (là một vitamin cần thiết cho sự tổng hợp
chất nicotinamit adenin dinucleotit NAD) hoặc nếu khơng có nicotinamit thì
có thể thay thế bằng chất nghiền nát của E.coli. Điều này chứng tỏ cả hai loại
trực khuẩn đường ruột này đều cần chất nicotinamit, nhưng E. coli tự tổng
hợp được cịn Proteus thì khơng; như vậy với Proteus vulgalis thì nicotinamit là
một yếu tố phát triển cần phải cung cấp.
8
Yếu tố phát triển cần cho vi khuẩn rất khác nhau và bao gồm những acid
amin, những bazơ purin và pyrimidin, những vitamin; acid amin để tổng hợp
protein, bazơ purin và pyrimidin để tạo acid nhân, vitamin đóng vai trị là
coenzyme.
Yếu tố phát triển có hai đặc điểm:
Chỉ cần nồng độ rất thấp: đối với acid amin là 25mg trong 1 lít, đối với
bazơ purin là 10mg trong một lít, đối với vitamin là 1 24 microgam trong 1 lít.
Tác dụng rất đặc hiệu và chặt chẽ: chỉ cần thay đổi nhỏ về cấu trúc hố
học cũng đủ làm mất hoạt tính. Thí dụ chất acid PAB (acid para amino
benzoic) là một yếu tố phát triển của một số loại vi khuẩn, cần cho sự tổng
hợp acid folic, nhưng chất para amino benzen sunfanilamit có cấu trúc gần
giống PAB khơng những khơng giúp vi khuẩn phát triển mà cịn cạnh tranh với
chất PAB khơng cho tạo thành acid folic, làm ngừng trệ sự phát triển của vi
khuẩn.
3.3. Điều kiện lý hố
Những thức ăn của vi khuẩn cần được cung cấp trong những điều kiện lý
hố thích hợp mới tạo điều kiện cho vi khuẩn phát triển.
3.3.1. Nhiệt độ
Mỗi loại vi khuẩn chỉ phát triển trong những giới hạn nhiệt độ nhất định.
Vi khuẩn ưa lạnh sống và phát triển ở những nhiệt độ thấp gần 0 0C.
Những vi khuẩn này gây huỷ hoại các loại thực phẩm, máu, huyết tương giữ
ở lạnh.
Vi khuẩn ưa ấm phát triển được ở nhiệt độ từ 200C đến 450C. Các vi
khuẩn gây bệnh ở người phát triển nói chung tốt nhất ở nhiệt độ 370C, nhưng
vẫn có thể mọc được từ 30 đến 420C.
Vi khuẩn ưa nóng phát triển được trên 450C, thường thấy ở các suối
nước nóng.
3.3.2. pH
Hầu hết các loại vi khuẩn phát triển được trong khoảng pH từ 6,5 đến 7,5
(pH gần với 7,0). Vì vậy mơi trường ni cấy cần có tính đệm tốt, chống lại
sự kiềm hố hoặc acid hố, chất đệm này thường được bảo đảm bằng những
pepton hoặc bởi những dung dịch phosphat.
9
Có loại vi khuẩn phát triển được trong khoảng pH rộng, như E. coli mọc
được ở pH từ 4,4 tới 9, có loại vi khuẩn ưa acid hoặc kiềm. Ví dụ phẩy khuẩn
tả là loại ưa kiềm, phát triển tốt nhất ở pH 9, tính chất này được lợi dụng để
phân lập phẩy khuẩn tả tách biệt khỏi những loại vi khuẩn khác.
3.3.3. Nhu cầu về oxy
Có những vi khuẩn địi hỏi phải có oxy tự do mới phát triển được, đấy là
những vi khuẩn ưa khí tuyệt đối. Ngược lại, có những vi khuẩn chỉ mọc được
nếu khơng có oxy tự do, đấy là những vi khuẩn kỵ khí tuyệt đối. Giữa hai loại
vi khuẩn này có những vi khuẩn trung gian, vừa ưa khí vừa kỵ khí tuỳ theo
điều kiện hồn cảnh.
4. Ni vi khuẩn
Muốn ni vi khuẩn, người ta phải cung cấp cho vi khuẩn những thức ăn
cần thiết trong những điều kiện lý hố thích hợp. Có thể ni vi khuẩn ở động
vật, ở trứng gà ấp, nhưng thơng thường người ta ni vi khuẩn ở mơi trường
dinh dưỡng nhân tạo.
Mơi trường dinh dưỡng nhân tạo để ni một loại vi khuẩn cần cần đáp
ứng những u cầu sau đây:
Có đủ các chất thức ăn cần thiết cho lồi vi khuẩn định ni.
Có độ pH thích hợp cho loại vi khuẩn đó.
Vơ trùng trước khi dùng.
Để tiện cơng việc, người ta tìm cách chế ra những mơi trường ni được
càng nhiều loại vi khuẩn càng tốt và gọi đó là những mơi trường cơ bản. Mơi
trường cơ bản gồm có, canh dinh dưỡng ở thể lỏng và thạch dinh dưỡng ở
thể đặc.
Canh dinh dưỡng (vẫn thường gọi là canh thang, có thể gọi ngắn là canh)
có cơng thức đại thể như sau:
Nước thịt (500g thịt/ lít)
1000ml
Pepton bột
10g
NaCl
5g
(Dùng NaOH 1N điều chỉnh pH cho bằng 7,2 7,4).
10
Thạch dinh dưỡng (cịn gọi là thạch thường) là canh dinh dưỡng cho
thêm thạch làm cho đặc lại (trong cơng thức trên cho thêm 25g thạch). Có thể
cho vào canh hoặc thạch dinh dưỡng một ít huyết thanh hoặc máu (5%) hoặc
men (10g/l) để tăng thêm chất dinh dưỡng và các yếu tố phát triển.
Từ mơi trường cơ bản người ta làm ra nhiều loại mơi trường khác nhau để
dùng với nhiều mục đích khác nhau bằng cách cho thêm chất này hoặc chất
khác.
Tuỳ theo nhu cầu oxy của lồi vi khuẩn định ni mà người ta dùng những
mơi trường và phương pháp ni ưa khí hoặc kỵ khí.
Sau khi cấy vi khuẩn vào mơi trường, người ta để vi khuẩn ở nhiệt độ
thích hợp, tuỳ theo mục đích. Thơng thường người ta để ở nhiệt độ tối ưu cho
sự phát triển của vi khuẩn để nhanh chóng thu được một số lượng lớn vi
khuẩn.
5. Hơ hấp của vi khuẩn
Cũng như ở mọi tế bào sinh vật, hơ hấp của vi khuẩn là một chuỗi phản
ứng oxy hố khử nhằm tạo ra năng lượng cần thiết cho mọi hoạt động của vi
khuẩn. Cơ chất cũng được sử dụng là những chất hữu cơ hoặc vơ cơ. Đối với
những vi khuẩn liên quan đến y học thì thơng thường chất được sử dụng là
glucoza.
Cơ chất bị oxy hố mất điện tử đồng thời có một chất khác nhận điện tử.
Chất cho điện tử tạo ra một chất bị oxy hố, cịn chất nhận điện tử tạo ra một
chất bị khử. Thơng thường cơ chất là một hợp chất hữu cơ, có hydro, vì vậy
phản ứng oxy hố khử thực tế là một sự khử hydro kèm theo một sự gắn
hydro, tạo ra một chất bị oxy hố và một chất bị khử và giải phóng ra năng
lượng.
Có thể khái qt như sau:
2H2e
Sự oxy hố: AH2 (chất cho hydro) A(chất bị oxy hố) + năng lượng
+2H 2e
Sự khử: B (chất nhận hydro)
BH2 (chất bị khử) + năng lượng
11
Chung: AH2 + B A + BH2 + năng lượng
Trong chuỗi phản ứng trên, việc vận chuyển hydro hay các điện tử từ cơ
chất đến chất nhận được thực hiện bởi một loạt các enzyme dehydraza kết
hợp với các coenzyme. Các coenzyme này là những chất nhận điện tử. Năng
lượng tạo ra do các phản ứng oxy hố được góp lại trong các liên kết cao năng
lượng kiểu A.T.P.
5.1. Hơ hấp của vi khuẩn ưa khí
Khi chất cuối cùng nhận điện tử là oxy phân tử thì ta có hiện tượng hơ hấp
và vi khuẩn được gọi là vi khuẩn ưa khí. Điện tử của cơ chất được chuyển
vận qua các coenzyme NAD (nicotinamit adenin dinucleotit), FAD (flavin
adenin dinucleotit) và các cytochrom, cuối cùng đến cytochrom oxydaza rồi
được chuyển cho oxy phân tử. Chất glucoza được oxy hóa hồn tồn thành CO2
và H2O, năng lượng sinh ra rất lớn
C6H12O6 + 6 O2 6CO2 + 6H2O + 688,5 kilocalo
Đối với một số vi khuẩn, sản phẩm cuối cùng H2O2 là một chất độc,
nhưng vi khuẩn có enzyme catalaza phân huỷ được:
catalaza
2H2O2
2H2O + O2
5.2. Lên men của vi khuẩn kỵ khí
Khi chất cuối cùng nhận điện tử khơng phải là oxy phân tử, mà là hợp chất
hữu cơ, ta có hiện tượng lên men và vi khuẩn được gọi là vi khuẩn kỵ khí. Các
chất vận chuyển điện tử là NAD và NADP (NAD phosphat), khơng có các
cytochrom tham gia. Sản phẩm thu được rất phong phú và khác nhau tuỳ theo
cơ chất vi khuẩn (những chất như rượu etanol, butanol, isopropanol, glycerol;
những acid hữu cơ như acid acetic, acid lactic, acid citric, acid propionic …).
Năng lượng sinh ra ít, Ví dụ: một phân tử glucoza lên men thành rượu etylic chỉ
giải phóng 31,2 kilocalo
C6H12O6
2C2H5OH + 2CO2 +31,2 kilocalo
Trong q trình lên men, cơ chất glucoza được hố giáng thành pyruvat như
trong q trình hơ hấp, nhưng chất pyruvat lại oxy hố ngay hydro được vận
12
chuyển đến và pyruvat bị khử thành nhiều chất khác nhau (chủ yếu là các
acid). Chất pyruvat đóng vai trị cuối cùng nhận điện tử.
5.3. Hơ hấp kỵ khí
Khi chất cuối cùng nhận điện tử khơng phải là oxy phân tử, cũng khơng
phải là một hợp chất hữu cơ, mà là một chất vơ cơ như nitrat, sunfat, cacbonat
thì người ta gọi là hơ hấp kỵ khí và vi khuẩn là những vi khuẩn kỵ khí tuyệt
đối hoặc cịn gọi là vi khuẩn thở nitrat, sunfat v.v…
Tuỳ theo cách vi khuẩn tạo ra năng lượng, người ta phân biệt 4 loại như
sau:
Vi khuẩn ưa khí tuyệt đối
Kiếm năng lượng bằng cách oxy hố, chỉ phát triển được nếu có oxy tự do.
Ví dụ: phẩy khuẩn tả, trực khuẩn lao. Có loại cịn có thêm khả năng thở nitrat
(thí dụ trực khuẩn mủ xanh).
Vi khuẩn ưa khí kiêm kỵ khí tuỳ ý
Kiếm năng lượng bằng cách oxy hố, nhưng cũng có thể phát triển khi
khơng có oxy bằng cách lên men. Thí dụ các trực khuẩn đường ruột.
Vi khuẩn kỵ khí kiêm ưa khí
Kiếm năng lượng bằng cách lên men và có thể phát triển dù có oxy hay
khơng. Ví dụ liên cầu khuẩn.
Vi khuẩn kỵ khí tuyệt đối
Kiếm năng lượng bằng cách lên men, oxy là chất độc, chỉ phát triển được
trong hồn cảnh khơng có oxy. Ví dụ: trực khuẩn uốn ván, trực khuẩn hoại thư
sinh hơi, trực khuẩn độc thịt.
Đa số vi khuẩn thuộc về các lồi vừa ưa khí vừa kỵ khí. Những tính chất
ưa khí, kỵ khí của vi khuẩn được lợi dụng trong kỹ thuật phân lập, ni giữ vi
khuẩn nói chung cũng như trong việc chống lại các vi khuẩn kỵ khí gây bệnh.
6. Nhân lên (sinh sản) của vi khuẩn
Tế bào vi khuẩn lớn rất nhanh, trong vài phút. Khi tế bào vi khuẩn đã
trưởng thành thì tự nhân lên.
6.1. Cách nhân lên
Phân đơi: cách nhân lên thơng thường của vi khuẩn là tự chia đơi, bào
tương và màng tế bào vi khuẩn có chỗ thắt lại, eo thắt đó hẹp dần, cuối cùng
13
chia vi khuẩn thành hai tế bào mới bằng nhau hoặc gần bằng nhau . Mỗi tế bào
mới tiếp tục phát triển, lớn lên rồi lại chia đơi, cứ như vậy 1 thành 2, 2 thành
4, 4 thành 8 v.v… Đây cách nhân lên vơ tính, khơng có hiện tượng đực cái.
Thể L: ngồi cách tự chia đơi, nhiều loại vi khuẩn có thể phình to lên rồi
vỡ thành nhiều mảnh, gọi là thể L (để nhớ đến viện Lister ở nước Anh là nơi
bà Knineberger Nobel phát hiện ra thể này của vi khuẩn). Thể L được hình
thành khi có những tác nhân cản trở sự tổng hợp vách vi khuẩn, thí dụ:
penicillin. Thể L nhỏ độ 0,2 micromet đường kính, qua được các lọc vi khuẩn,
có thể phát triển và nhân lên trong mơi trường ni.
Đặc điểm của thể L là có một phần của vách vi khuẩn, tuy rất ít, và do đó
trong điều kiện thích hợp có thể trở lại thành tế bào vi khuẩn ban đầu.
6.2. Tốc độ nhân lên
Tốc độ nhân lên của vi khuẩn nói chung là nhanh, nhưng có khác nhau giữa
các lồi. Trong những điều kiện thuận lợi, trung bình cứ 20 30 phút vi khuẩn
phân chia một lần, ví dụ trực khuẩn E. coli: 15 17 phút; trực khuẩn thương
hàn 23 phút. Trực khuẩn lao nhân lên chậm hơn, sau 18 giờ mới có thế hệ
mới. Phẩy khuẩn tả nhân lên nhanh, chỉ sau 5 7 phút có một thế hệ mới.
Cách sinh sản nhân lên với tốc độ 20 30 phút một lần làm cho số lượng vi
khuẩn tăng hết sức nhanh trong một thời gian rất ngắn . Chỉ cần một hoặc vài
tế bào vi khuẩn gây bệnh rơi vào vết mổ, vết thương, thuốc pha chế, thức ăn
v.v… cũng có thể dẫn đến hậu quả rất tai hại sau vài giờ. Vì thế cần đảm
bảo vơ trùng tuyệt đối trong mọi khâu cơng tác y, dược.
Nếu khơng có gì cản trở số lượng vi khuẩn sinh ra từ một tế bào sau 5
ngày đêm có thể tràn ngập mọi đại dương. Thực tế trong q trình nhân lên
của vi khuẩn gặp nhiều trở ngại như: mơi trường hết dần chất dinh dưỡng,
mơi trường bị các sản phẩm của chính vi khuẩn làm thay đổi, sự đối kháng
của các loại vi sinh vật khác làm tiêu huỷ vi khuẩn v.v…
6.3. Kết quả nhân lên của vi khuẩn ở môi trường lỏng
Vi khuẩn nhân lên ở mơi trường lỏng có thể làm đục đều mơi trường hoặc
tạo lên những hạt, những cặn ở đáy, những váng trên bề mặt mơi trường.
Cấy một chủng vi khuẩn cần thiết vào mơi trường lỏng thích hợp, rồi theo
dõi số lượng vi khuẩn sinh ra, người ta thấy q trình nhân lên của vi khuẩn
gồm 4 giai đoạn:
14
a/ Giai đoạn thích ứng: số lượng vi khuẩn khơng tăng, vi khuẩn chưa sinh
sản, cịn đang thích nghi với mơi trường.
b/ Giai đoạn tăng mạnh: số lượng vi khuẩn tăng nhanh, các tính chất của vi
khuẩn điển hình.
c/ Giai đoạn tối đa: số lượng vi khuẩn đạt đến mức nhiều nhất và khơng
thay đổi, các tính chất của vi khuẩn vẫn điển hình; ở giai đoạn này số lượng
vi khuẩn sinh ra và số lượng vi khuẩn chết đi xấp xỉ bằng nhau.
d/ Giai đoạn suy tàn: số lượng vi khuẩn chết đi lớn hơn số lượng vi khuẩn
sinh ra, tổng số vi khuẩn giảm dần, các tính chất của vi khuẩn khơng điển
hình và bị thay đổi; ở giai đoạn này mơi trường đã nghèo vì mất nhiều chất
dinh dưỡng và các chất do vi khuẩn sinh ra tích luỹ lại càng làm độc mơi
trường. Lúc này muốn giữ lại được chủng vi khuẩn phải cấy chuyển sang mơi
trường mới.
Thời gian của từng giai đoạn trên đây có thể khác nhau giữa các lồi vi
khuẩn, nhưng nói chung vi khuẩn nào cũng phát triển theo một q trình như
vậy.
Sơ đồ phát triển của vi khuẩn ở mơi trường lỏng
Ứng dụng thực tế: khi vi khuẩn xâm nhập gây hại nên can thiệp sớm,
ngay trong giai đoạn vi khuẩn đang thích ứng với mơi trường chưa sinh sản. Ví
dụ: cần phải bố trí trạm cấp cứu hoả tuyến sao cho có thể băng bó và xử trí
sớm vết thương trong 5 6 giờ đầu.
15
Muốn nghiên cứu những tính chất điển hình của vi khuẩn, cần lấy vi
khuẩn ni ở giai đoạn tăng mạnh.
6.4. Kết quả nhân lên của vi khuẩn ở môi trường đặc
Ở môi trường đặc, một tế bào vi khuẩn nhân lên qua nhiều thế hệ tập
trung ở một chỗ sẽ tạo thành một đám nhỏ mắt thường nhìn thấy được gọi là
khuẩn lạc. Vậy khuẩn lạc là một đám tập hợp ở mơi trường đặc rất nhiều vi
khuẩn sinh ra từ một tế bào vi khuẩn ban đầu. Tất cả những tế bào này có
những tính chất giống nhau và tạo thành một dịng thuần khiết gọi là clon . Ria
vi khuẩn trên mơi trường đặc để thu được những khuẩn lạc thuần khiết sinh
ra từ một tế bào vi khuẩn ban đầu là một việc quan trọng rất cần thiết trong
q trình phân lập vi khuẩn để rồi tiếp tục nghiên cứu vi khuẩn. Khuẩn lạc có
thể to, nhỏ, lồi, dẹt hay lõm, bờ đều hay răng cưa, trong hay đục, trắng, vàng
hoặc xanh, đỏ v v….của khuẩn lạc là những yếu tố được dùng để phân biệt
và chẩn đốn vi khuẩn.
Có hai hình thái khuẩn lạc chính:
Khuẩn lạc S (Smooth): bề mặt trơn nhẵn, ướt, lồi đều, bờ trịn đều đặn.
Khuẩn lạc R (Rough): bề mặt xù xì, lồi lõm khơng đều, thường dẹt, khơ,
bờ răn rúm.
Khuẩn lạc S là hình thái thường gặp của đại đa số vi khuẩn cho khả năng
gây bệnh lúc mới phân lập được từ bệnh nhân. Khuẩn lạc R là hình thái của
những vi khuẩn đã mất khả năng gây bệnh sau khi ni cấy nhiều lần hoặc
phân lập được từ những người đang khỏi bệnh. Đặc biệt có một vài lồi vi
khuẩn gây bệnh bình thường có khuẩn lạc R (trực khuẩn lao, trực khuẩn than,
trực khuẩn dịch hạch).
Ngồi ra một số loại vi khuẩn cịn có dạng khuẩn lạc M (Mucomus):
khuẩn lạc nhầy.
7. Chuyển hố của vi khuẩn
7.1. Phân giải
Các thức ăn trong mơi trường chung quanh vi khuẩn thường là những phân
tử lớn. Vi khuẩn tiết ra những ngoại enzyme thuỷ phân để biến thức ăn từ
phức tạp thành đơn giản: các protein thành những chuỗi peptid ngắn hoặc
16
những acid amin, các glucid thành những đường đơn, các lipid thành những
acid béo và glycerol, các acid nhân thành phosphat vơ cơ và những nucleotid.
Những chất đơn giản này có thể thẩm thấu dần qua màng bán thấm của tế
bào, nhưng chúng được vận chuyển nhanh hơn nhiều nhờ các pecmeaza hoạt
động như những enzyme. Đây là những chất xúc tác được tổng hợp khi có một
cơ chất, đảm bảo đưa chất vào tế bào và tích luỹ cơ chất trong tế bào đạt
mức cao hơn ở mơi trường bên ngồi rất nhiều (tới 10 lần).
Q trình phân giải các chất thức ăn tạo ra những chất trung gian hoặc
những sản phẩm cuối cùng riêng biệt với từng loại vi khuẩn, khiến người ta
có thể dùng vào mục đích chẩn đốn vi khuẩn.
Vi khuẩn phân huỷ các glucid có thể tạo ra nhiều loại acid và CO 2, H2O.
Sự phân huỷ các protein dẫn đến sự hình thành các chất như acid amin, SH 2,
CO2, NH3, Indol…..Trong thực hành ni cấy vi khuẩn, người ta có những cách
thích hợp để phát hiện những chất này nhằm chẩn đốn vi khuẩn.
7.2. Tổng hợp
Từ những thức ăn và năng lượng thu được, vi khuẩn tự tạo ra những chất
cấu tạo nên bản thân. Ngồi ra, vi khuẩn cịn tổng hợp được một số chất mà y
học quan tâm đến.
Độc tố: là những chất độc rất mạnh, gắn liền với tế bào vi khuẩn (nội độc
tố) hoặc do vi khuẩn sống tiết ra ngồi (ngoại độc tố), là những chất chủ yếu
gây bệnh.
Kháng sinh: là những chất có tác dụng ức chế hoặc giết chết những vi
khuẩn khác. Những chất kháng sinh hiện được dùng rộng rãi để chữa nhiều
bệnh do vi khuẩn.
Vitamin: trực khuẩn E. coli trong ruột người và động vật tổng hợp được
một số vitamin như vitamin K, B4.
Sắc tố: Một vài lồi vi khuẩn có sắc tố, làm cho khuẩn lạc có màu trắng,
vàng, xanh, đỏ, đen, v.v… (Ví dụ: tụ cầu trắng, tụ cầu vàng, trực khuẩn mủ
xanh…). Người ta cho rằng sắc tố bảo vệ vi khuẩn chống ánh sáng mặt trời
và cịn giúp vào q trình hơ hấp.
17
18
ĐẠI CƯƠNG VIRUS
Virus là một trong những sinh vật nhỏ nhất, cấu tạo đơn giản nhất . Chúng
chỉ là một đại phân tử nucleoprotein mang đặc tính di truyền cơ bản của sinh
vật, khơng có cấu tạo tế bào, khơng có q trình trao đổi chất và khơng tự
sinh sản được.
Virus được phát hiện lần đầu năm 1892 bởi Ivanopski.
Năm 1940 quan sát được hình thể của virus qua kính hiển vi điện tử .
Ngày nay khái niệm sinh vật nhỏ nhất, đơn giản nhất khơng cịn đúng với
virus nữa, kể từ khi phát hiện ra prion.
1. Kích thước và hình thể virus
Virus có kích thước rất nhỏ, qua được lọc vi khuẩn, đơn vị đo kích thước
virus là nanomet (nm). Virus chỉ được nhìn thấy qua kính hiển vi điện tử có độ
phóng đại nhiều nghìn lần.
Kích thước trung bình của virus khoảng từ 100 150nm như virus cúm, sởi,
quai bị. Có kích thước nhỏ từ 10 70nm như virus bại liệt, viêm não. Cũng có
những virus có kích thước lớn từ 250 300nm như virus đậu mùa. Tạm thời
qui ước loại virus nhỏ kích thước dưới 100 nm, trung bình 100200 nm, virus
lớn có kích thước trên 200 nm.
Virus có nhiều hình thể khác nhau:
+ Hình cầu: virus cúm, sởi, bại liệt
+ Hình khối đa diện: virus Adeno, Papova, Herpes
+ Hình que: virus khảm thuốc lá
+ Hình viên gạch: virus đậu mùa
+ Hình dùi trống: virus của vi khuẩn E. coli (phage T2)
Một virus hồn chỉnh được gọi là một virion. Trong một lồi virus, các
virion có kích thước và hình thể như nhau nên có thể kết tinh các hạt virion
thành tinh thể.
2. Cấu tạo virus
19
Virus khơng có cấu tạo tế bào hay nói cách khác cấu tạo của virus ở mức
dưới tế bào. Do có cấu tạo dưới tế bào nên các tính chất cơ bản của sự sống
như: sinh sản, cảm ứng, chuyển hóa vật chất ở virus rất khác vi khuẩn.
20
Các hình thể cơ bản của virus
21
Tất cả các virus đều có cấu tạo chung cơ bản giống nhau gồm lõi
(core) và vỏ (capsid). Ngồi ra một số virus cịn có cấu tạo riêng là bao ngồi,
tố ngưng kết hồng cầu và một số enzyme đặc biệt.
2.1. Lõi (core)
Lõi nằm ở giữa của hạt virion, tạo nên bởi acid nucleic và protein. Mỗi
virus chỉ có một loại acid nucleic, hoặc ADN hoặc ARN .
ADN của virus có thể ở dạng hai sợi như Adenoviridae, có thể ở dạng một
sợi như Pavoviridae.
Các lồi virus khác nhau thì khác nhau về thành phần cấu tạo nên acid.
Acid nucleic của virus chỉ chiếm 1 2% trọng lượng phân tử nhưng chứa
tất cả mã thơng tin di truyền của virus và quyết định tồn bộ hoạt động gây
bệnh của virus. Khi người ta chỉ đưa acid nucleic của một virus nào đó vào
trong một tế bào cảm thụ thì q trình nhân lên của virus vẫn xảy ra và một
thế hệ virus mới vẫn hình thành.
2.2. Vỏ (capsid)
Vỏ hay capsid bao bọc xung quanh lõi. Capsid (từ chữ Hy Lạp capsa cái
hộp) được tạo thành từ capsome liên kết với nhau, capsome là đơn vị hình thái
(morphologic unit) có thể nhìn thấy được qua kính hiển vi điện tử. Bản chất
hóa học của capsome là protein. Mỗi loại virus có một loại capsome đặc trưng
riêng về hình dáng, kích thước và cách sắp xếp . Cơ bản có hai kiểu sắp xếp
capsome:
Kiểu đối xứng hình xoắn như virus khảm thuốc lá.
Kiểu đối xứng hình hộp như virus bại liệt.
Thành phần protein của lõi và vỏ virus có tính kháng ngun, tạo nên đáp
ứng miễn dịch đặc hiệu.
2.3. Bao ngồi (envelope)
Một số virus có bao ngồi như virus HIV, Arbo, Herpes ... bao ngồi bao
quanh capsid. Thành phần hóa học của bao ngồi thường gồm lipid, protein,
glucid. Bao ngồi thường được tạo nên từ màng bào tương hoặc màng nhân
của tế bào chủ nên bao ngồi thường chứa các kháng ngun của tế bào chủ.
Hầu hết các virus có bao ngồi dễ bị bất hoạt bởi các dung mơi như ether,
muối mật...
22
Những virus khơng có bao ngồi được gọi là virus trần.
2.4. Tố ngưng kết hồng cầu (hemagglutinin)
Nhiều loại virus có cấu trúc kháng ngun bề mặt có khả năng bám vào bề
mặt màng hồng cầu của một số lồi động vật và người tạo nên hiện tượng
ngưng kết hồng cầu (NKHC) gọi là tố NKHC. Trong ống nghiệm, các hồng
cầu bị ngưng kết lại với nhau tạo thành một lớp ở đáy ống nghiệm có thể
quan sát bằng mắt thường. Hiện tượng NKHC được ứng dụng để nhận biết
một virus có tố NKHC.
Tố NKHC là kháng ngun mạnh có khả năng kích thích cơ thể tạo kháng
thể ngăn cản hiện tượng NKHC . Kháng thể này được gọi là kháng thể ngăn
ngưng kết hồng cầu (NNKHC). Kháng thể NNKHC thường xuất hiện trong
máu của người hoặc động vật bị nhiễm virus có tố NKHC . Hiện tượng
NNKHC được ứng dụng rộng rãi trong vi sinh vật y học để xác định tên của
chủng virus mới phân lập được hoặc chẩn đoán huyết thanh bệnh nhân.
Nguyên lý của ứng dụng được diễn đạt bằng sơ đồ phản ứng NNKHC sau:
Virus (có tố NKHC như virus cúm) + HC NKHC (+)
Kháng thể NNKHC + virus cúm + HC NKHC ()
2.5. Một số enzyme đặc biệt
Virus khơng có một hệ thống enzyme chuyển hóa hồn chỉnh như vi khuẩn .
Nhưng ở một số loại virus có thêm một vài enzyme. Ví dụ:
ADNpolymerase phụ thuộc ARN có ở Retrovirus, cịn gọi là enzyme
phiên mã ngược để tổng hợp nên ADN từ khn mẫu ARN.
ARNpolymerase phụ thuộc ADN thấy ở Poxvirus để tổng hợp ARN
Neuramydase ở Myxovirus
Lysozyme ở virus của vi khuẩn (phage)
Các enzyme này giữ vai trị quan trọng trong q trình nhân lên của virus.
3. Một số đặc tính của virus
3.1. Tính ký sinh bắt buộc trong tế bào sống
Khi ở ngồi tế bào sống virus dường như là một vật vơ sinh, thậm chí có
thể kết tinh lại được dưới dạng các tinh thể. Chúng khơng có cấu tạo tế bào,
khơng có ngay cả một số cơ quan siêu cấu trúc như ribosom, khơng có nguồn
23
năng lượng độc lập, khơng có hệ thống enzyme chuyển hóa hồn chỉnh. Vì
vậy virus chỉ thể hiện được q trình sống của mình khi ký sinh trong các tế
bào sống, thực chất là sử dụng các acid amin, các nucleotid, các enzyme, nguồn
năng lượng, các ribosom... của tế bào sống để tổng hợp nên các virus mới.
Tính ký sinh của virus trong tế bào sống là tuyệt đối và bắt buộc.
3.2. Sự nhân nên của virus
Thực chất sự nhân nên của virus là một q trình trong đó virus chỉ đóng
vai trị truyền các thơng tin di truyền của chúng cho tế bào chủ, bắt các tế bào
chủ (tế bào bị nhiễm virus) sau khi đã nhận thơng tin di truyền của virus thì
chuyển hướng các hoạt động bình thường của tế bào sang việc tổng hợp các
virus mới. Mỗi loại virus đều có sự khác biệt riêng trong cách nhân lên.
3.2.1. Cách nhân lên của virus
Cách nhân nên của các virus chứa ADN
ADN virus Nhân bảnADN virus
ARNtt virus Ribosome capid
Virus
mới
Theo cách này đầu tiên các thơng tin di truyền của virus được mã hóa
trong các phân tử ADN sẽ được sao chép sang các ARN thơng tin của virus,
q trình này cần đến sự tham gia của các enzyme ARN polymerase . Các ARN
thơng tin của virus sẽ truyền thơng tin đến ribosom để tổng hợp ra các protein
của vỏ capsid của virus. Mặt khác ADN virus cũng tự động được nhân bản
trong nhân của tế bào chủ rồi tiến ra bào tương, các virus mới sẽ được lắp ráp
từ ADN và protein capsid.
Cách nhân lên của virus ARN khơng cần đến ADN
ARN virus
ARN bổ sung ARN virus
Protein virus Virus mới
Theo cách này các thơng tin di truyền của virus được mã hóa trong các phân
tử ARN sẽ được sao chép sang một ARN bổ sung và từ đó chúng lại được làm
24
khn mẫu để tạo ra các ARN virus; Đồng thời các ARN của virus cũng đóng
vai trị của các ARN thơng tin để tổng hợp nên các protein của virus. Cuối cùng
là sự lắp ráp các thành phần để tạo nên các virus mới.
Các enzyme ARN polymerase phụ thuộc vào ARN đóng vai trị quan trọng
trong q trình này.
Cách nhân lên của các virus ARN cần đến ADN
Các thơng tin di truyền của virus được mã hóa trong phân tử ARN của virus
sẽ được sao chép ngược để tạo ra một phân tử ADN trung gian (bình thường
thơng tin chỉ được truyền từ ADN sang cho ARN ), q trình này cần đến
enzyme sao chép ngược reverstranscriptase ADN polymerase phụ thuộc ARN.
ARN virus ADN trung gian ARNtt Ribosome
ARN virus
Protein virus
Virus mới
Từ ADN trung gian các mã thơng tin di truyền của virus sẽ được sao chép
sang ARNtt, từ đó chúng tiếp tục được sao chép để tổng hợp ra các ARN virus
và các protein virus, cuối cùng là sự lắp ghép để tạo thành các virus mới.
Sự nhân lên theo cách này thường thấy ở các virus có khả năng gây ung thư
như Leucovirus, Retrovirus.
Cần lưu ý rằng:
Gen của virus có thể là một đoạn ADN (hai sợi hoặc 1 sợi), có thể là một
đoạn ARN (1 sợi hoặc 2 sợi).
Trong q trình nhân lên của virus có sự tham gia của nhiều enzyme của cả
virus và của cả tế bào chủ.
Q trình nhân lên của virus là một q trình liên tục nhưng người ta có thể
phân chia ra làm 4 đoạn lớn (chung cho cả virus chứa ADN và ARN).
3.2.2 Các giai đoạn của quá trình nhân lên
3.2.2.1. Giai đoạn bám và xâm nhập tế bào chủ
25