Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

(9 điểm) Tiểu luận nghiên cứu: Điều kiện lịch sử và cơ sở hình thành văn hóa nông thôn Việt Nam truyền thống và vận dụng kiến thức về điều kiện lịch sử để so sánh làng Việt Bắc Bộ và làng Việt Nam Bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.73 KB, 24 trang )

1


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Nội dung nghiên cứu .................................................................................... 2
3. Kết cấu của đề tài ......................................................................................... 2
PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................. 3
1. Một số khái niệm ......................................................................................... 3
1.1. Nông thôn ............................................................................................... 3
1.2. Văn hóa nơng thơn.................................................................................. 4
2. Điều kiện và cơ sở hình thành văn hóa nơng thơn Việt Nam truyền thống .... 5
2.1. Điều kiện lịch sử ..................................................................................... 5
2.2. Cơ sở hình thành..................................................................................... 6
3. So sánh làng Việt Bắc Bộ và làng Việt Nam Bộ ......................................... 16
3.1. Làng Việt Bắc Bộ ................................................................................. 17
3.2. Làng Việt Nam Bộ................................................................................ 18
KẾT LUẬN....................................................................................................... 19
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................ 21

2


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong tiến trình lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước cho đến nay,
nơng thơn ln đóng vai trị quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,... Nói đến nơng thơn là nói đến làng Việt,
làng Việt có vị trí đặc biệt đối với lịch sử đất nước nói chung và đối với mỗi
người dân Việt Nam nói riêng. Làng là cơ sở, nền tảng của văn hóa, văn minh


Việt. Đó là một đơn vị kinh tế xã hội độc lập nhưng không tách rời môi trường
trồng lúa nước ở vùng nhiệt đới gió mùa. Làng Việt phát triển phong phú, đa
dạng: làng Việt Bắc Bộ, Nam Bộ, Trung Bộ và mỗi vùng lại có những tiểu
vùng riêng mà ở đó các làng Việt vừa chứa đựng những đặc điểm giống nhau
đồng thời lại ẩn chứa nét riêng.
Trong cuộc sống hiện đại ngày nay khi mà đất nước đang trên đà phát
triển ngày một hiện đại và giàu đẹp hơn. Không nằm ngồi sự phát triển đó ở
các vùng nơn thơn, các làng quê đã có nhiều sự thay đổi để bắt kịp sự phát triển
của đất nước. Nhưng đó cũng chính là vấn nạn cần quan tâm vì nó ảnh hưởng
rất lớn đến đời sống văn hóa của nhân dân. Để khơng cho một nét văn hóa độc
đáo có từ hàng ngàn năm bị phai nhạt và lãng quên. Để cho mọi người thấy
được những nét độc đáo mà không đâu trên thế giới ngày nay có và gìn giữ
được thì việc nghiên cứu và tìm tịi về văn hóa nơng thơn truyền thống lại cần
thiết đến vậy. Chính vì lý do này mà em chọn “Các điều kiện và cơ sở hình
thành văn hóa nơng thơn Việt Nam truyền thống và vận dụng kiến thức về
điều kiện lịch sử để so sánh làng Việt Bắc Bộ và làng Việt Nam Bộ” là đề tài
cho bài tập này.

1


2. Nội dung nghiên cứu
Bài tập bước đầu phân tích, làm rõ một số khái niệm liên quan tới đề tài
để nhìn nhận đúng đắn về vấn đề nghiên cứu, từ đó phân tích điều kiện lịch sử
và cơ sở kinh tế, cơ sở xã hội hình thành văn hóa nông thôn Việt Nam truyền
thống. Đồng thời vận dụng kiến thức về điều kiện lịch sử để so sánh làng Việt
Bắc Bộ và làng Việt Nam Bộ.
3. Kết cấu của đề tài
Phần 1: Một số khái niệm;
Phần 2: Điều kiện và cơ sở hình thành văn hóa nơng thơn Việt Nam

truyền thống;
Phần 3: So sánh làng Việt Bắc Bộ và làng Việt Nam Bộ.

2


PHẦN NỘI DUNG
1. Một số khái niệm
1.1.

Nơng thơn

Hiện nay, có rất nhiều khái niệm về “nông thôn”, nổi bật như:
Nông thôn được hiểu là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các
thành phố, thị xã, thị trấn và được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Ủy ban
nhân dân xã. Nông thôn Việt Nam là danh từ để chỉ những vùng đất mà ở đó,
người dân sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam.[3]
Nông thôn là khu vực không gian lãnh thổ mà ở đó cộng đồng cư dân có
cách sống và lối sống riêng, lấy sản xuất nông nghiệp làm hoạt động kinh tế
chủ yếu và sống chủ yếu dựa vào nghề nơng (nơng, lâm, ngư nghiệp), có mật
độ dân cư thấp và quần cư theo hình thức làng xã; có cơ sở hạ tầng kinh tế kém
phát triển, trình độ về dân trí, trình độ khoa học kỹ thuật cũng như tư duy hàng
hóa và kinh tế thị trường thấp kém hơn so với đơ thị; có những mối quan hệ
bền chặt giữa các cư dân dựa trên bản sắc văn hóa, phong tục tập qn cổ
truyền và tín ngưỡng, tơn giáo.[8]
Như vậy qua phân tích các khái niệm trên đều khẳng định hoạt động
kinh tế chủ yếu của nông thôn là sản xuất nông nghiệp và so sánh nông thôn
trong sự đối lập, khác biệt với đô thị. Khái niệm thứ nhất nhấn mạnh vào quản
lý hành chính. Khái niệm thứ hai nhấn mạnh đến sự yếu kém, chậm phát triển
hơn của nông thôn so với đô thị về trình độ dân trí, khoa học kỹ thuật và tư duy

kinh tế thị trường, đồng thời khẳng định hạt nhân gắn bó các thành viên ở nơng
thơn dựa trên bản sắc văn hóa, phong tục tập quán cổ truyền về tín ngưỡng, tơn
giáo.
Ở Việt Nam, cho đến năm 2009, có đến 70,4% dân số sống ở vùng nông
thôn, trong khi tỷ lệ này vào năm 1999 là 76,5%. Con số đó những năm trước
cịn lớn hơn nhiều. Chính vì thế cuộc sống và tổ chức nông thôn ảnh hưởng rất

3


mạnh mẽ đến toàn xã hội. Ngay cả những Việt kiều sống ở các nước văn minh,
tiên tiến nhất thế giới, vẫn giữ nhiều nét đặc biệt của nông thôn Việt Nam.
1.2.

Văn hóa nơng thơn

Về khái niệm “văn hóa”, tới nay người ta đã thống kê có hơn 600 định
nghĩa về văn hóa. Nghĩa lục sự xác định khái niệm “văn hóa” khơng đơn giản
bởi mỗi học giả đều xuất phát từ những cứ liệu riêng, góc nhìn nhận riêng, mục
đích riêng phù hợp với vấn đề mình cầu nghiên cứu. Hai định nghĩa được nhiều
người tán đồng nhất là định nghĩa của UNESCO và của GS. Hà Văn Tấn.
Theo khái niệm của UNESCO năm 2002: “Văn hóa là tổng thể sống
động các hoạt động của con người trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỷ,
các hoạt động sáng tạo ấy làm hình thành một hệ thống các giá trị, các truyền
thống, các thị hiếu, những yếu tố xác định tính riêng của mỗi tộc người”. Định
nghĩa này nhấn mạnh vào hoạt động sáng tạo của các cộng đồng người gắn liền
với tiến trình phát triển có tính lịch sử của mỗi cộng đồng trải qua một thời
gian dài tạo nên những giá trị có tính nhân văn phổ qt, đồng thời có tính đặc
thù của mỗi cộng đồng, bản sắc riêng của từng dân tộc.
Định nghĩa của GS. Hà Văn Tấn: “Văn hóa là hệ thống ứng xử của con

người với thiên nhiên và xã hội, là sản phẩm hoạt động của con người trong
mối quan hệ tương tác với tự nhiên và xã hội, diễn ra trong khơng gian, thời
gian và hồn cảnh nhất định”. GS. Hà Văn Tấn đã nhấn mạnh đến những hệ
thống ứng của con người và những chuẩn mực được thể hiện ra trong mọi sinh
hoạt, mọi hành vi, mọi nếp nghĩ, từ cách ăn, cách ở, cách lao động sản xuất đến
cách sinh hoạt và ứng xử.
Như vậy ta có thể hiểu khái qt: Văn hố nơng thơn là tất cả sản phẩm
vật thể và phi vật thể có giá trị do người dân sống ở nơng thơn sáng tạo, gìn giữ
qua nhiều thế hệ.

4


2. Điều kiện và cơ sở hình thành văn hóa nơng thơn Việt Nam
truyền thống
2.1.

Điều kiện lịch sử

Nói đến văn hóa nơng thơn tức nói đến tổ chức làng Việt. Làng là một
đơn vị cư trú và là một hình thức tổ chức xã hội quan trọng của nông thôn ở
Việt Nam. Làng Việt hình thành từ sớm, bắt đầu từ vùng trung du và châu thổ
Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, gắn liền với công cuộc dựng nước, giữ nước từ thời
kỳ các Vua Hùng và đối phó với thiên tai như bão lụt, hạn hán, sâu bệnh, dịch
bệnh,…
Những nghiên cứu khảo cổ học cho thấy, kể từ khi có nghề trồng lúa
nước, thì xóm làng bắt đầu hình thành. Thuở ban đầu, con người từ vùng
thượng du về đồng bằng để làm nông nghiệp, chuyển từ quan hệ huyết thống
sang quan hệ láng giềng, phân chia nơi ở theo địa vực. Họ dần biết hợp tác
trong việc khai phá đất đai, đào kênh mương tưới nước, đắp đê chống lũ,…

những công việc không thể thực hiện bởi một cá nhân hay một gia đình. Sự cố
kết ấy đã tạo ra đơn vị tụ cư nhỏ gọi là xóm, xóm phát triển rộng mà hình thành
nên làng. Sự cố kết cộng đồng dựa trên nhu cầu: đoàn kết để chống ngoại xâm,
hợp tác để làm thủy lợi và trị thủy mà từ nhiều làng hình thành nên quốc gia sơ
khai. Và theo tiến trình lịch sử, các cuộc khai phá các vùng đất trong thời kỳ
chúa Nguyễn đã đưa lãnh thổ người Việt được mở rộng vào Nam, mô hình
làng Việt từ Bắc Bộ được dịch chuyển vào Nam, tiếp thu các yếu tố của văn
hóa Chăm Pa, Khơ – me nên đã mang một diện mạo mới cho làng xã Việt.
Làng trở thành một đơn vị hành chính cấp cơ sở (xã) từ thế kỷ VII dưới thời
thuộc nhà Đường.
Với những đặc điểm trên, cấu trúc làng truyền thống của người Việt
thường gắn với hình ảnh con đê làng, cổng làng, đình làng, cây đa, bến nước và
khơng gian trong làng là những xóm dân cư, nhà vườn, ao khép kín. Cấu trúc

5


làng là không gian nông thôn, mang đậm dấu ấn văn hố lịch sử của người
Việt.
2.2. Cơ sở hình thành
2.2.1. Cơ sở kinh tế
a) Nông nghiệp
Nông thôn gắn với nền nơng nghiệp ruộng nước có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, sản xuất nông nghiệp được thực hiện trong điều kiện khí hậu
nhiệt đới gió mùa cùng nhiều yếu tố bất thường xảy ra nên yếu tố “thì” tức thời
vụ đóng vai trị quan trọng. Mỗi năm có 24 tiết khí, mỗi tiết ứng sẽ với một
công đoạn của sản xuất nông nghiệp, buộc phải tuân thủ; nếu không sẽ ảnh
hưởng tới năng suất của mùa vụ. Chẳng hạn, đối với tiết Kinh Trập (5-6/3) là
lúc sâu bọ sinh sôi và phá hại mùa màng vụ xuân của người dân. Chính vì vậy
cần tiến hành phịng trừ sâu bệnh để bảo vệ mùa màng bằng cách làm cỏ lúa.

Thứ hai, do chưa có các thiết bị khoa học kỹ thuật hỗ trợ nên hoạt động
sản xuất của nông dân chủ yếu là các công đoạn thủ công, sử dụng các kỹ thuật
cơ bắp và làm ăn dựa theo những kinh nghiệm đã được đúc kết từ lâu.
Thứ ba, phụ thuộc nặng nề vào thiên nhiên “Ơn trời mưa nắng phải
thì”, khi gặp phải bão lụt lớn hay sâu bệnh sẽ gây thiệt hại cho mùa màng vì
vậy mà hoạt động sản xuất nơng nghiệp có năng suất thấp và bấp bênh, thường
theo quy luật có tính chu kỳ: năm tạm được mùa, năm bình thường và năm mất
mùa. Theo thống kê trong chính sử, từ 1010 - 1858, có 106 năm bị lụt, 84 năm
bị hạn, 13 năm bị sâu bệnh nặng, 29 năm bị động đất, 19 năm bị dịch bệnh, 69
năm mất mùa lớn dẫn đến đói to, chỉ có 21 năm được mùa. Trước năm 1989,
an ninh lương thực không đảm bảo, người nông dân luôn phải đối phó với
miếng cơm manh áo thường ngày; đời sống vật chất rất thấp.
b) Thủ công nghiệp

6


Thủ công nghiệp là một bộ phận không tách rời của nơng nghiệp, do
tính chất mùa vụ nên người nơng dân có thời gian nhàn rỗi do đó thường gắn
với các nghề thủ công; số lượng các làng nghề rất ít và sản xuất cũng mang
những đặc điểm của nông nghiệp nên kỹ thuật không thể cải tiến, không dẫn
đến tách thủ công nghiệp khỏi nông nghiệp; ngược lại, việc làm nghề phụ
thuộc lớn vào nông nghiệp do sử dụng các vật liệu là sản phẩm của nơng
nghiệp; từ đó khơng hình thành các cơng trường thủ cơng để tiến lên sản xuất
tư bản chủ nghĩa. Một bộ phận cư dân làng nghề ỷ thế độc quyền của mình để
làm dối, làm ẩu kiếm lợi.
c) Thương nghiệp
Thương nghiệp truyền thống của người Việt nhìn chung khơng mấy
phát triển. Ngun nhân, do ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho giáo coi nghề
buôn là “mạt nghệ”, nông nghiệp mới được coi là “nghề gốc” và thương nhân

là tầng lớp cuối cùng trong “tứ dân” (sĩ - nông - công - thương). Hơn nữa,
trong thương nghiệp thì nội thương là chủ yếu, được thực hiện qua hệ thống
các chợ làng và luồng buôn bán tiểu thương do những người phụ nữ tranh thủ
lúc nông nhàn đi buôn ở các chợ để kiếm thêm thu nhập cho gia đình; cơ cấu
mặt hàng chủ yếu là nông sản mà phần nhiều là tự sản tự tiêu trong vòng kinh
tế tự túc tự cấp, số người có cửa hiệu bn ở thành phố khơng nhiều, nên
khơng hình thành các trung tâm thương nghiệp lớn. Các chợ làng tạo ra một
“vùng liên làng” theo chu kỳ phiên chợ trong từng táng. Một số làng gần nhau
được phân chia theo tính chất luân phiên, tạo ra một sự lưu thơng hàng hóa,
một vịng khéo kín. Chẳng hạn ở vùng Vónh Bảo (Hải Phịng) có câu ca dao
“Một Râu, hai Mét, ba Ngà / Tư Cầu, năm Táng, sáu Ngà, lại Râu / Bảy Ngà,
tám Mét, chín Chầu / Mồng mười chợ Táng, một Râu lại về”.
Tóm lại, kinh tế truyền thống của người Việt tuy phát triển hơn các tộc
người thiểu số nhưng vẫn ở trình độ thấp, sản xuất dựa trên cơ sở nông nghiệp,

7


trong đó trồng trọt là chủ đạo. Có thể coi nền kinh tế đó như là một vườn cây,
trong đó là trồng trọt - nông nghiệp là cây cổ thụ tỏa bóng rợp che hết ánh sáng
của các cây - ngành khác, làm cho các cây ngành này chỉ là những cây leo bám
quanh cây cổ thụ, cố kết rất vững bền nhưng vươn lên rất chậm chạp.
2.2.2. Cơ sở xã hội
*Một thiết chế tự quản với nhiều tổ chức, gồm: xóm ngõ, dịng họ, phe
giáp, phường hội và kỳ mục, chức dịch, lấy hương ước làm cơ sở quản lý
chính.
a) Xóm
Xóm là phân thể của làng về mặt cư trú và có cuộc sống riêng của
chúng, dưới thời Việt Nam Cộng hòa còn gọi là liên gia, đây là nơi gồm những
gia đình sinh sống gần nhau và có quan hệ láng giềng kết hợp cùng với quan hệ

huyết thống tại các vùng nông thôn. Người nông dân ứng xử với nhau theo
nguyên tắc “Bán anh em xa mua láng giềng gần”.
Xóm là một cộng đồng được kết tinh trong một hình thái thờ phụng về
tín ngưỡng - phong tục ở dưới cấp làng qua việc thờ thần thổ địa ở điếm xóm
và qua tục đặt hậu xóm (thường là những phụ nữ không con hoặc không chồng
con đặt hậu). Trên bình diện cơng việc chung của làng, xóm là cái khung địa
vực mà chính quyền quan chủ ở cấp xã lựa chọn để tổ chức các đội tuần phiên
để bảo vệ an ninh. Làm phiên (hay ra phiên) là nghĩa vụ bắt buộc của nam giới
từ 18 đến 49 tuổi. Họ phải canh gác “Nội hương ấp, ngoại đồng điền”, được
hưởng lúa sương túc theo đầu sào ruộng (mỗi sào 1 lượm).
b) Gia đình
Gia đình là một tập hợp của những người có quan hệ hơn nhân và quan
hệ huyết thống, gắn bó với nhau bằng các quan hệ tình cảm và trách nhiệm,
ni dưỡng và giáo dục.

8


Gia đình người Việt chủ yếu là tiểu gia đình phụ quyền, bao gồm 2 thế
hệ bố mẹ và con cái, một số trường hợp có 3 thế hệ sống cùng ơng bà, số ít bốn
thế hệ “Tứ đại đồng đường”. Gia đình là một đơn vị xã hội cơ bản, đảm nhận
các chức năng: Là đơn vị tổ chức sản xuất, kinh tế tự chủ; tái sản xuất sức lao
động; duy trì nịi giống và thờ cúng tổ tiên; đơn vị giáo dục; trao truyền văn
hóa; điều hịa tình cảm. Do dựa trên cơ sở kinh tế là nền nông nghiệp ruộng
nước và chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, gia đình người Việt mang tính
gia trưởng cao tức đề cao vai trò của người chồng, người cha; song vẫn tơn
trọng vai trị của người phụ nữ, người vợ với vai trị “nội tướng”, “tay hịm
chìa khóa” “Của chồng cơng vợ”, đề cao sự hịa hợp vợ chồng “Thuận vợ
thuận chồng, tát biển Đơng cũng cạn”.
c) Dịng họ

Dịng họ (Tộc) là tổ chức xã hội có mối liên kết bền vững nhất trong tổ
chức cộng đồng làng xã Việt Nam. Dòng họ là tập hợp của những thành viên
có cùng một tổ tiên (hay dịng máu hay huyết thống; trong chế độ phụ hệ được
biểu tượng bằng một ông tổ (thủy tổ, khởi tổ, triệu tổ, v.v…), gắn kết các cá
nhân với nhau, chịu sự ràng buộc theo một quy tắc nhất định; chi phối mạnh
mẽ quan hệ hơn nhân và gia đình.
Những trường hợp cùng tên họ nhưng khác huyết thống vốn có hoặc do
đổi họ do các nguyên nhân: vì kỵ húy, chẳng hạn họ Hoa thành họ Văn, họ
Hồng thành họ Cung; hay được vua cho đổi họ theo họ vua; hoặc theo họ khác
(họ Phí đổi thành họ Bùi vào thời Trần); hoặc bị truy nã, loạn lạc (họ Mạc đổi
thành họ Lều, Bùi); và có thể do là dân ngụ cư phải làm con ni một người có
thế lực để khơng bị chèn ép, nhanh được trở thành dân chính cư.
Dịng họ được tổ chức theo hai nguyên lý: Nguyên lý trưởng đích (chi
trưởng, ngành trưởng được tôn trọng “Xanh đầu con nhà bác, bạc đầu con nhà

9


chú” và nguyên tắc cửu tộc (chín đời, gồm bốn đời trên và bốn đời dưới của
một cá nhân), quan hệ với nhau theo nguyên tắc “Cửu đại hơn ngoại nhân”.
Trưởng tộc và các chi trưởng cùng các bậc cao tuổi trong họ quyết định
các công việc trong họ. Duy trì các mối quan hệ huyết thống trên tinh thần
“giọt máu đào hơn ao nước lã” là gia phả (sổ ghi chép về lai lịch từng người
của các đời thuộc các chi họ để nhận biết nhau và ứng xử với nhau), nhà thờ
họ, ruộng họ, quỹ họ và ngày giỗ họ. Quan hệ trong dòng họ thể hiện tinh thần
đùm bọc, có trách nhiệm với nhau về vật chất “Sẩy cha cịn chú, sẩy mẹ bú
dì”, hỗ trợ nhau về mặt tinh thần “Cháu nó lú nhưng chú nó khơn” và đơi khi
là “chính trị” nữa với quan niệm dân dã: “Một người làm quan cả họ được
nhờ”.
Họ của người Việt từ lâu đã khơng cịn là một đơn vị sản xuất, đơn vị

kinh tế mà đã phân thành các gia đình nhỏ (tiểu gia đình phụ quyền) với thân
phận kinh tế - xã hội riêng “Anh em kiến giải nhất phận”. Song dòng họ tồn tại
như một sức mạnh tâm lý.
Đối với các công việc trong làng, họ khơng đóng một vai trị nào cả,
song với sự cố kết về tâm lý huyết thống, dòng họ nổi lên là một tổ chức chi
phối đời sống cộng đồng khi trong làng có các cặp họ đối lập: chính cư - ngụ
cư; giàu - nghèo; đơng đinh - ít đinh; có học - ít học, v.v… Sự cố kết trong nội
bộ dịng họ rất lớn thì sự liên kết giữa các dịng họ lại suy giảm. Vì thế, năm
1921, người Pháp lấy dòng họ để tổ chức lại bộ máy làng xã song đã thất bại
do đánh giá sai về dịng họ.
d) Giáp
Giáp là tổ chức xã hội chìm sâu trong cộng đồng làng xã để “hòa giải”
các mối quan hệ láng giềng (chiều ngang - bình đẳng) và dịng họ (chiều dọc áp đặt, gia trưởng). Giáp là thiết chế của nam giới, từ những bé trai mới sinh
đến các cụ ông cao tuổi nhất trong làng. Mỗi giáp gồm nam giới của một số gia

10


đình thuộc nhiều dịng họ. Nhiều trường hợp, giáp phân theo địa vực như Giáp
Nhất, Giáp Nhị ở Thịnh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội. Song một số ít làng khơng có
giáp như làng Kim Sơn, Gia Lâm, Hà Nội; hoặc theo dịng họ. Giáp mang tính
chất “cha truyền con nói” và nội bộ giáp được tổ chức theo nguyên lý lớp tuổi:
ti ấu (từ nhỏ đến 18 tuổi), đinh (gia đinh, giai rốt) và lềnh – lão, đây là nguyên
tắc và điều kiện để tiến thân xã hội trong lòng giáp.
Mỗi giáp gồm một số mâm (hay bàn), mồi bàn gồm 4 (hay 5, 6 người)
cùng một độ tuổi, cùng độ tuổi thì bình đẳng với nhau về quyền lợi và nghĩa
vụ, cứ đến tuổi ấy thì có địa vị ấy được hàng giáp quy định và làng xã thừa
nhận. Điều hành giáp là trưởng giáp (thôn trưởng, lềnh trưởng hoặc lềnh nhất)
cùng 3 hoặc 4 mâm lềnh (trước tuổi lên lão).Vinh dự tối cao của các thành viên
trong giáp là lên lão. Lên lão là xênh xang, ra đình được ngồi chiếu trên, được

trọng vọng “Kính lão đắc thọ”, “Kính già già đề tuổi cho”. Và một mối liên
hệ chặt chẽ giữa làng và giáp là đinh không chỉ là thành viên chính thức của
giáp mà qua tư cách này họ tự nhiên thành dân làng chính thức.
Với nguyên lý lớp tuổi, giáp đã tạo ra một ảo giác về một xã hội bình
đẳng, dân chủ, do vậy giáp là thiết chế được Nhà nước phong kiến lợi dụng lấy
làm đơn vị tổ chức thực hiện các công việc trong làng: Đơn vị quản lý nhân
đinh; đơn vị phân cấp và quản lý công điền; đơn vị thực hiện biện lễ và phục
vụ tế lễ thờ thần hàng năm; đơn vị phân bổ các đóng góp xây dựng các cơng
trình trong làng; đơn vị cắt cử tuần phiên, trơng coi thuỷ lợi; đơn vị thu thuế.
Giáp là tổ chức năng động nhất, một mắt xích quan trọng nhất trong cơ
cấu tổ chức tổ chức làng xã.
e) Bộ máy quản lý làng
Trong tổ chức bộ máy quản lý làng có hai thiết chế là: thiết chế quan
phương (bộ máy chức dịch), thiết chế phi quan phương (hội đồng kỳ mục).

11


Hội đồng kỳ mục: bao gồm các thành viên là quan lại, sĩ quan quân đội
đã về hưu, các chánh phó tổng mãn nhiệm và đương chức, các cựu lý phó
trưởng. Một số làng, các quan lại đương chức, nhất là quan triều đình (triều
quan) vẫn nắm quyền điều hành làng xã (làng Tả Thanh Oai, Thanh Trì, Hà
Nội). Đứng đầu hội đồng là Tiên chỉ và một thứ chỉ là những người có phẩm
hàm, hoặc chức tước hoặc học vị cao nhất trước khi về hưu.
Hội đồng kỳ mục là cơ quan quyền lực của làng xã; có quyền quyết định
tất cả những công việc quan trọng liên quan đến làng xã: sửa đổi và bổ sung
hương ước, chia hoặc đấu thầu cơng điền cơng thổ, quản lí theo kì hạn, đấu giá
tài sản và thu chỉ ngân sách, sửa chữa đình chùa, mở hội, quan hệ với các làng
khác,… Hội đồng kỳ mục hoạt động khơng có nhiệm kỳ hạn định và hồn tồn
độc lập với chính quyền nhà nước cấp trên, chính quyền phong kiến cấp xã

muốn thực thị các nhiệm vụ của mình phải nhờ sự giúp đỡ của Hội đồng kỳ
mục.
Ngày 12/08/1921, nhằm cải tổ cung cách quản lý của làng xã để nắm
chặt làng xã hơn nữa, thực dân Pháp ở Bắc Kỳ bãi bỏ Hội đồng kỳ mục, thay
thế bằng Hội đồng tộc biểu do cơ chế tuyển cử trong các họ, bao gồm các đại
biểu của các dòng họ trong làng, mỗi họ được cử một số đại biểu, tùy theo số
suất đinh trong họ. Song, Hội đồng tộc biểu không đảm đương được nhiệm vụ
nên đến năm 1927, thực dân Pháp phải lập lại Hội đồng kỳ mục, làm nhiệm vụ
tư vấn cho Hội đồng tộc biểu. Đến năm 1941, Hội đồng tộc biểu bị bãi bỏ, Hội
đồng kỳ mục làm nhiệm vụ của Hội đồng tộc biểu. Cách mạng tháng Tám
1945 thành cơng, hệ thống chính quyền cách mạng ra đời thì Hội đồng kỳ mục
hồn tồn bị xố bỏ.
Bộ máy chức dịch: là cơ quan chấp hành và mang tính đại diện của Nhà
nước phong kiến ở xã, có trách nhiệm giữ gìn an ninh, thu thuế, điều động binh
dịch và các mặt liên quan khác về hành chính. Đứng đầu bộ máy này thời Trần

12


là các xã quan (quan lại Nhà nước cử về), đến 1466, bỏ xã quan, cử xã trưởng
(3- 5 người, do làng bầu từ người trong làng, song không được là người có
quan hệ anh em ruột, cha con, chú cháu, bác cháu ruột, người có quan hệ thơng
gia), năm 1828 chỉ còn một người gọi là lý trưởng và 1 - 2 phó lý tuỳ theo số
suất đinh nam và tùy số thơn hợp thành. Ngồi ra, cịn có các tay chân giúp
việc như: hộ lại (phụ trách giấy tờ hộ tịch, hộ khẩu), chưởng bạ (phụ trách giấy
tờ về ruộng đất), thủ quỹ, trương tuần (khán thủ, hương trưởng).
f)

Các Phường, Hội


Phường, Hội là tổ chức nghề nghiệp gồm nhiều loại, được rải rác khắp
thơn và thành thị. Có làng đến hàng chục phường như Quần Anh (Nam Định).
Phường, Hội được thành lập theo mục đích tập hợp như: mục đích tương trợ
(phường gạo, thóc, tiền,…), mục đích sản xuất, kinh doanh của người làm nghề
thủ công, làm nghề buôn như: phường gốm làm sánh sứ, phường vải làm nghề
dệt vải, phường nón, phường giấy,… và vì mục đích sở thích, tín ngưỡng như:
hội tư văn (liên kết các quan cùng làng), hội chư bà (liên kết các cụ bà đi
chùa), hội cờ tướng,… Trong các hội này, hội tư văn có vị trí quan trọng trong
làng xã: là tổ chức truyền bá, bảo vệ tư tưởng Nho giáo, bảo vệ địa vị kẻ sĩ;
chịu trách nhiệm tế lễ trong các lễ tiết, kỳ hội.
g) Hương ước
Hương ước là bản ghi chép các điều lệ liên quan đến tổ chức xã hội
cũng như đến đời sống xã hội trong làng, các điều lệ hình thành dần trong lịch
sử, được điều chỉnh và bổ sung mỗi khi cần thiết. Hương ước cịn có các tên
goi khác như: hương biên, hương lệ, hương khoán,… Hương ước ra đời vốn là
các nguyên tắc đạo đức, phong tục, lệ tục các quan niệm tín ngưỡng truyền
thống hay các quy định của làng được tuân thủ thành lệ tục được văn bản hóa
(giữa thế kỷ XV). Hương ước được phát triển qua ba giai đoạn:

13


Hương ước cổ: (từ thế kỷ XV đến tháng 8/1921): được viết bằng chữ
Hán, do các làng tự soạn thảo, đa dạng về nội dung, phụ thuộc vào đặc điểm
các mặt của từng làng. Nhìn chung gồm các điều khoản liên quan đến các mặt
sau:
-

Quy ước về chế độ ruộng đất


-

Quy ước về khuyến nông, bảo vệ sản xuất, môi trường

-

Quy ước về tổ chức xã hội và trách nhiệm các chức dịch của làng

-

Quy ước về văn hóa tinh thần và tín ngưỡng.

Gắn với các quy định thưởng (chủ yếu trong bảo vệ an ninh: ban ngôi
thứ, miễn phu phen tạp dịch, ghi công, trợ cấp thương tật, tuất); phạt (đánh
địn, tiền, bắt bồi thường thiệt hại, hạ ngơi thứ, tẩy chay sinh hoạt, tẩy chay
đám tang, đuổi khỏi làng). Ví dụ, về hương ước cổ có hương ước làng Mộ
Trạch (Bình Giang, Hải Dương) ra đời năm 1665.
Hương ước cải lương: được soạn theo mẫu hương ước cải lương hương
chính của thực dân Pháp. Mỗi bản hương ước gồm hai phần: Chính trị (hoặc
Việc cai trị) gồm tổ chức hội đồng tộc biểu, bộ máy chức dịch, thu chi, bảo vệ
an ninh ...) và phần Phong tục (hoặc việc lễ nghĩa) gồm tổ chức các phong tục
cưới xin, tang ma, khao vọng,... theo hướng “cải cách”, xóa bỏ hủ tục theo ý đồ
của người Pháp. Hiện nay, tại Viện Thông tin Khoa học xã hội đang lưu giữ
nhiều bản hương ước cải lương trong đó có 38 bản của huyện Hồn Long, Hà
Đơng.
Hương ước mới (Quy ước làng văn hóa): Hương ước có vai trị quan
trọng trong đời sống làng xã, giúp điều chỉnh mối quan hệ giữa các thiết chế tổ
chức, các quan hệ xã hội trong làng trong những nghĩa vụ và quyền lợi chung
(tác động trực tiếp đến từng cá nhân, tác động đến các thiết chế, nắm cá nhân
để nắm thiết chế và ngược lại). Hương ước cịn là cơng cụ để Nhà nước can


14


thiệp vào làng xã, lấn át cổ tục, quy chuẩn hóa các quan hệ xã hội theo chiều
hướng Nho giáo hóa.
Như vậy, hương ước là cơng cụ chính yếu để quản lý làng (kết hợp với
tín ngưỡng, quan niệm về đạo đức, với pháp luật). Từ một tri thức dân gian về
quản lý cộng đồng, hương ước được “nhà nước hóa” để trở thành cơng cụ quản
lý làng xã. Hương ước thể hiện cho việc điều chỉnh mối quan hệ giữa tự quản
và hành chính, giữa phong tục và luật pháp, giữa phi quan phương và quan
phương, của việc điều hịa lợi ích giữa làng với nhà nước.

*Một xã hội phân tầng không triệt để
Xã hội người Việt đã phân hóa giai cấp từ rất sớm, nhưng khơng triệt
để, thể hiện ở các mặt:
Thứ nhất, sở hữu công cộng về ruộng đất còn tồn tại với các mức khác
nhau, gồm các loại: Ruộng của Nhà nước do các làng quản lý (quan điền); Các
loại ruộng bán công bán tư, gồm các loại ruộng đặt hậu (trong đó có một phần
là ruộng của quan lại hiến cho làng, nhưng nằm ở địa phận khác, gọi là ruộng
kỳ tại), ruộng môn sinh (ruộng của cha mẹ học trị hoặc học trị góp lại để
nuôi, cúng giỗ thầy dạy); hoặc ruộng đất do làng khai phá, đất bãi hình thành
tự nhiên,…
Mức bình quân ở đồng bằng Bắc Bộ đến sát thời điểm Cải cách ruộng
đất (1955 - 1957) khoảng 25% (nhiều hay ít hơn tùy vùng, tùy làng, phụ thuộc
vào điều kiện tự nhiên và phương thức khai lập làng). Nhìn chung, các làng
ven sơng, các làng được hình thành theo phương thức khai hoang tập thể cho
đến cuộc Cải cách ruộng đất, ruộng đất công chiếm tuyệt đối.

15



Ruộng đất công là cơ sở quan trọng để duy trì các hoạt động hành chính
và thờ cúng, củng cổ tính cộng đồng của làng. Những làng cịn nhiều, ruộng
đất công đem chia cho các suất đinh (hoặc là trai đinh; hoặc là tráng đinh từ 18
- 60 tuổi, tức những người phải chịu thuế thân). Ruộng đất công
Thứ hai, giai cấp không rõ ràng: xen vào giữa 2 cặp đối lập (địa chủ - tá
điền; phú nông - cố nông) là tầng lớp trung nông (lớp trên, lớp dưới) với ranh
giới rất mờ nhạt và “độ bền” của mỗi giai cấp không lớn do kinh tế nhỏ bé, xã
hội chịu nhiều tác động (cờ bạc, mua ngôi thứ, kiện cáo…) .
Thứ ba, sở hữu tư nhân nhỏ bé và manh mún, khơng có tầng lớp nào
khống chế được xã hội bằng thế lực kinh tế của mình mà phải dựa vào quyền
lực chính trị. Người Việt muốn khá giả phải nhờ quyền lực chính trị để có các
nguồn thu khác ngồi cơng việc làm kinh tế.
Thứ tư, trong khi vấn đề giai cấp nhạt hồ thì vấn đề “đẳng cấp” lại nổi
lên, thể hiện sự phân chia cư dân thành nhiều tầng lớp (quan viên - bạch đinh),
dựa trên tiêu chuẩn về bằng cấp (học vị), phẩm hàm (từ nhất phẩm đến cửu
phẩm), chức tước, tuổi tác, tài sản, thành phần xuất thân, được biểu hiện cụ thể
ở hệ thống ngơi thứ tại đình (mỗi cấp bậc có vị trí ngơi thứ riêng, quyền lợi
riêng trong họp hành tế lễ), tuỳ tập tục từng làng. Làng Yên Sở (Hoài Đức, Hà
Tây) chia dân cư thành 12 hạng, trong đó 11 hạng có ngơi thứ ở đình.
Ngồi ngơi thứ chính nhờ các tiêu chuẩn do phấn đấu mà có, cịn có
ngơi thứ do bỏ tiền ra mua (ngơi trùm, trưởng, xã nhiêu, lý phó trưởng…) để
lấy một cái danh và không phải phu phen tạp dịch.
3. So sánh làng Việt Bắc Bộ và làng Việt Nam Bộ
Do các điều kiện, nhân tố khác nhau nên sự hình thành các làng Việt
diễn ra ở các giai đoạn lịch sử, ở các vùng, tiểu vùng là khác nhau. Vì vậy
ngồi những điểm chung của làng xã Việt Nam truyền thống thì làng xã Bắc
Bộ và Nam Bộ cũng có nhiều nét khác biệt như sau:


16


3.1. Làng Việt Bắc Bộ
Về nguyên nhân hình thành: Thứ nhất, tan rã từ xã hội nguyên thủy; thứ
hai hình thành từ việc định cư của một dòng họ, thứ ba là do vai trò của nhà
nước. Rất nhiều làng Việt ở vùng đồng bằng Bắc Bộ có nguồn gốc từ thời
nguyên thủy. Các làng này vẫn mang nặng những tàn dư nguyên thủy với bộ
phận đất công không nhỏ. Bên cạnh đó là sự hiện diện của các làng Việt từ
việc khai khẩn của một hoặc nhiều dòng họ. Dân cư của một làng thường phát
triển bởi sự tăng lên của các thành viên trong dòng họ. Bộ phận làng còn lại,
chiếm số lượng khiêm tốn là các làng do nhà nước giữ vai trò chủ chốt trong
việc phá hoang lập ấp. Những làng thuộc loại này chủ yếu hình thành ở các
vùng ven biển. Tiêu biểu là các làng mới tại hai huyện Tiền Hải (Thái Bình) và
Kim Sơn (Ninh Bình).
Về thời gian hình thành: Làng Việt Bắc Bộ được hình thành sớm, trước
khi Nhà nước thiết lập các đơn vị hành chính (năm 722), có tính tự quản cao,
hành chính phải “nương” theo tự quản.
Về tính cố kết cộng đồng: Làng Việt Bắc Bộ có tính cố kết chặt chẽ,
quan hệ địa vực nặng nề (chính cư - ngụ cư) thể hiện trong cơ cấu tổ chức xã
hội nông thôn theo nhiều nguyên tắc, cơ sở khác nhau: cơ sở huyết thống (gia
đình, dịng họ); địa bàn cư trú (xóm, làng), trong đó có theo nghề nghiệp, sở
thích (phường, hội), theo truyền thống nam giới (giáp);... Trong các mối quan
hệ đó, mỗi người đều tìm thấy vị trí của mình trong cộng đồng. Và hầu hết các
làng Việt Bắc Bộ đều có hương ước. Hương ước của từng làng tác động trực
tiếp đến các thành viên của làng.
Về đặc điểm kinh tế: Từ những đặc điểm về tính cố kết cộng đồng chặt
chẽ mà làng Việt Bắc Bộ hoạt động kinh tế mang đặc điểm tự cấp tự túc, tự sản
tự tiêu và khép kín khác hẳn với làng Việt Nam Bộ.


17


Về sự phân cực giai cấp: Làng Việt phân cực giai cấp xã hội thấp,
“đẳng cấp” nổi trội, trọng tuổi già.
3.2. Làng Việt Nam Bộ
Về nguyên nhân hình thành: Làng Nam Bộ khơng có sự hiện diện của
các làng tan rã từ xã hội nguyên thủy mà làng chủ yếu hình thành theo hai
hướng: Một là do dân tự khai phá; hai là do sự hỗ trợ của chính quyền. Nhà
nước tổ chức các làng đồn điền rồi huy động nhân dân, nhất là binh lính đến
làm việc theo kỷ luật để duy trì qn đội với chính sách “Ngụ binh ư nông”.
Dân cư trong làng Việt Nam Bộ được tập hợp từ nhiều nơi khác nhau, từ nhiều
dòng họ khác nhau. Do vậy làng Việt Nam Bộ có thể gọi là làng khai phá.
Về thời gian hình thành: Làng Việt Nam Bộ hình thành muộn hơn gắn
với cơng cuộc khai phá, mở mang đất đai của các chúa Nguyễn. Vùng nông
thôn ở khu vực Nam bộ cũng được tổ chức thành những làng xã, nhưng với tên
gọi “làng” không được phổ biến như ở phía Bắc mà thay vào đó là phương ngữ
mang đậm tính chất Nam bộ đó là “thơn ấp”.
Về tính cố kết cộng đồng: Diễn ra lỏng lẻo, khơng có sự phân biệt chính
cư và ngụ cư như trong làng Việt Bắc Bộ, tính cố kết không chặt chẽ, cư dân ở
các thôn ấp Nam bộ thường hay có sự biến động, người dân khơng bị gắn chặt
với q hương, khơng bị bó hẹp trong thơn ấp của mình. Những người trong
cùng một làng khơng có quan hệ thân tộc cũng không phải là láng giềng lâu
đời, sợi dây gắn bó giữa họ là tình người. Và các làng khơng có hương ước do
các làng ngay từ khi hình thành đã chịu sự quản lý trực tiếp của nhà nước, tính
hành chính nặng hơn tính tự quản.
Về đặc điểm kinh tế: làng Việt Nam Bộ mang đặc điểm kinh tế hàng
hóa, mở rộng, tự do, phóng khoáng “Làm bao nhiêu ăn bấy nhiêu, được đến
đâu hay đến đó”.


18


Về sự phân cực giai cấp: Làng Việt Nam Bộ thì ngược lại, phân cực các
giai cấp rõ ràng, triệt để.
Có thể nói, làng Việt Bắc Bộ hình thành lâu đời, có cơ cấu tổ chức chặt
chẽ, ổn định, khép kín, bền vững trên cơ sở liên kết nhiều tổ chức mà mỗi tổ
chức đều có ảnh hưởng đến từng thành viên trong làng. Người nơng dân sống
gắn bó chặt chẽ với xóm giềng, họ tộc, gia đình, làng nước. Còn làng Việt ở
Nam Bộ là làng khai phá, tuổi đời còn trẻ, định cư kéo dài trên diện rộng nên
thiếu chất kết dính đồng thời do sớm tiếp xúc với nền kinh tế hàng hố nên
phóng khống và năng động hơn. Ngày nay, trong xu thế tồn cầu hóa, cơng
nghiệp hóa nơng nghiệp, nơng thơn...; cả làng Việt Bắc Bộ và Nam Bộ đều
biến đổi không ngừng, mau lẹ. Đó là một quy luật tất yếu, phù hợp với sự phát
triển, giao lưu, hội nhập của văn hóa Việt, đất nước và con người Việt.

KẾT LUẬN
Như vậy, qua những phân tích trên có thể thấy làng là tổ chức xã hội
quan trọng của nơng thơn Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tất cả các
lĩnh vực và là nơi lưu giữ và biểu hiện sinh động bản sắc văn hóa Việt Nam.
Các cơ sở kinh tế và cơ sở xã hội đã tạo thành một tổ chức làng xã là một đơn
vị tụ cư truyền thống của người nơng dân Việt ở nơng thơn, có địa vực, cơ sở
hạ tầng, cơ cấu tổ chức, phong tục, tập quán, hương ước, tâm lý, quan niệm,
tính cách và cả “hương âm”, “thổ ngữ” tức “giọng làng” riêng, hoàn chỉnh và
tương đối ổn định trong quá trình lịch sử. Cơ cấu tổ chức làng xã xưa đơn giản
nhưng chặt chẽ. Do tính chất tự trị, tự quản cao như thế nên người ta đánh giá
làng xã cổ truyền Việt Nam “như một nước cộng hòa thu nhỏ”, với những thiết
chế chặt chẽ, những quy định bảo đảm “dân chủ làng xã” và cố kết cộng đồng
rất cao. Làng được hình thành từ sớm ở vùng trung du và châu thổ Bắc Bộ, gắn
19



liền với các công cuộc dựng nước, giữa nước từ thời Vua Hùng và trong cơng
cuộc đối phó với thiên nhiên và từ thời chúa Nguyễn việc khai phá vùng đất
phía Nam đã đem lại diện mạo mới cho làng xã Việt Nam, hình thành làng Việt
Nam Bộ. Ngồi những điểm chung về làng xã Việt thì giữa làng Bắc Bộ và
làng Nam Bộ cũng có những sự khác biệt, đặc trưng riêng. Nói một cách ngắn
gọn, làng Bắc Bộ mang tính khép kín, tự trị cịn làng Nam Bộ mang tính mở,
phóng khống. Sau cùng, từ việc tìm hiểu, nghiên cứu về đề tài giúp người học
phần nào hiểu thêm về điều kiện lịch sử, các yếu tố hình thành văn hóa nơng
thơn Việt Nam, kiến thức rất bổ ích sẽ phục vụ cho các ngành học sau này./.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Đại Doãn (2004), Mấy vấn đề về văn hóa làng xã Việt Nam
trong lịch sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
2. Thân Thị Hạnh (2016), Văn hóa làng vùng đồng bằng Bắc Bộ, Tạp
chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1(98);
3. Thu Hiền, Nơng thơn là gì? Chương trình mục tiêu quốc gia về xây
dựng

nông

thôn

mới,

kinhtenongthon.com,


xem

tại:

cập nhật ngày 08/07/2019;
4. Trương Mạnh, Hội đồng kỳ mục, baodanang.vn, xem tại:
/>
cập

nhật ngày 13/12/2020;
5. Nguyễn Thị Nhung, Đối sánh làng Việt Bắc Bộ và làng Việt Nam
Bộ, ms.hpu2.edu.vn, xem tại: ms.hpu2.edu.vn cập nhật ngày 25/09/2018;
6. Phan Thanh Tá (2012), Văn hóa cổ truyền trong làng xã Việt Nam
hiện nay, Nxb Lao động, Hà Nội;
7. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục,
Hà Nội;
8. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2008), Giáo trình Kinh tế nơng
thơn, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, tr.6;
9. Tô Tuấn, Làng và các thành tố tạo nên diện mạo làng Việt Nam,
vovworld.vn, xem tại: />09/01/2017;

21

cập

nhật

ngày



10. Trần Quốc Vượng (2008), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.

22



×