CHƯƠNG 4: CHÍNH SÁCH VÀ BIỆN PHÁP ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI
1. Các yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư nước ngoài
Nếu các lý thuyết đầu tư nước ngoài trong chương 2 đã phân tích
những điều kiện cần để xuất hiện dịng lưu chuyển vốn đầu tư giữa các nước
thì chương này sẽ phân tích các điều kiện đủ góp phần thúc đẩy, thu hút
hoặc hạn chế đầu tư nước ngoài.
Các yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư nước ngoài là các yếu tố của môi
trường đầu tư quốc tế, có tác động đến hoạt động đầu tư nước ngồi trên
phạm vi tồn cầu. Mơi trường đầu tư quốc tế có thể hiểu là “tổng hồ các
yếu tố có ảnh hưởng đến các hoạt động kinh doanh của nhà đầu tư trên
phạm vi tồn cầu”
Mơi trường quốc tế (dung mơi)
Mơi trường kinh doanh ở
nước chủ đầu tư
(yếu tố đẩy)
Dòng vốn ĐTNN
Dịng lợi nhuận
Mơi trường đầu tư nước
ngồi
(yếu tố kéo)
Mơi trường đầu tư quốc tế gồm ba thành phần: môi trường đầu tư ở
nước nhận đầu tư (môi trường đầu tư nước ngồi), mơi trường kinh doanh ở
nước chủ đầu tư và môi trường quốc tế.
1.1. Môi trường quốc tế
Môi trường quốc tế bao gồm các yếu tố cơ bản như xu hướng đối
thoại chính trị giữa các nước, liên kết khu vực, tăng trưởng nhanh của các
TNCs và tốc độ tồn cầu hố. Các yếu tố này tạo ra mơi trường thuận lợi
thúc đẩy nhanh dòng lưu chuyển vốn đầu tư quốc tế.
- Xu hướng đối thoại chính trị giữa các nước
Như đã phân tích, tình hình chính trị là một trong những yếu tố được
các nhà đầu tư quan tâm hàng đầu trong đánh giá môi trường đầu tư. ở phạm
vi ngoài quốc gia, các nhà đầu tư cũng rất cần đến tình hình khu vực ổn
định. Bởi vậy, xu hướng đối thoại chính trị giữa các nước là yếu tố quan
trọng, tác động tích cực đối với lưu chuyển dịng vốn đầu tư quốc tế.
Đối thoại chính trị được hiểu là việc giải quyết các bất đồng giữa các
nước được thực hiện bằng đàm phán. Nếu xu hướng này gia tăng thì có
nghĩa là sẽ hạn chế được sự đối đầu bằng quân sự, vì thế sẽ mở rộng được
quan hệ hợp tác giữa các nước. Đây là điều kiện quan trọng để thực hiện tự
do hoá đầu tư.
Xu hướng đối thoại chính trị cịn có tác động quan trọng đến việc rút
bỏ các lệnh cấm vận hoặc bao vây kinh tế của các nước lớn đối với các nước
đang phát triển. Đây là những rào cảo lớn đối với lưu chuyển dịng vốn giữa
hai nhóm nước này. chính sách cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam trong thời
gian qua (ngày 3.2.1994 mới dỡ bỏ cấm vận) và với Cuba, I rắc… hiện nay
là những bằng chứng rõ rệt về tác động này.
- Liên kết khu vực
Sự hình thành các khối thị trường chung (EU, ASEAN, NAFTA…) đã
tạo ra các điều kiện thuận lợi cho các TNCs di chuyển địa điểm sản xuất và
phân phối giữa các nước thành viên trong khối, nhờ đó thúc đẩy lưu chuyển
dịng vốn đầu tư quốc tế. Thuận lợi này được thể hiện qua các mặt về chính
sách, các yếu tố kinh tế - xã hội và điều kiện kinh doanh.
Mặc dù phần lớn các khối thị trường chung không đưa ra những chính
sách trực tiếp đối với FDI, nhưng thơng qua các chính sách tự do hố thương
mại giữa các thành viên đã loại bỏ các rào cản trong thâm nhập vào thị
trường của các nước thành viên, vì thế đã tạo điều kiện thuận lợi cho các
TNCs mở rộng mạng lưới phân công lao động trong khối thị trường chung.
Đặc biệt, các chính sách này lại càng tạo ra các hấp dẫn cho các TNCs trong
điều kiện có sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, tiền lương, các chi
phí xã hội… giữa các nước thành viên trong khối và các rào cản (thuế quan,
lĩnh vực đầu tư …) của từng thành viên với bên ngoài.
Mặt khác, việc liên kết khu vực sẽ tạo ra sự phát triển ổn định của các
nước trong khu vùng, qua đó tạo cơ sở vững chắc cho các nước thành viên
thực hiện các cam kết chính sách tự do hố chính sách FDI. Mặc dù đây
không phải là tác động trực tiếp đối với thúc đẩy dòng đầu tư giữa các nước
trong khối nhưng lại có vai trị hết sức quan trọng đối với việc tạo ra môi
trường đầu tư thuận lợi trong vùng, nhờ đó thúc đẩy lưu chuyển dịng vốn
đầu tư quốc tế.
Trên cơ sở của tự do hoá thương mại, các nước trong khối đã hình
thành nên khu vực tự do đầu tư, tức là khơng có các rào cản trong di chuyển
vốn đầu tư giữa các nước trong khối. Chính sách này đã tác động trực tiếp và
thúc đẩy mạnh dòng lưu chuyển vốn đầu tư giữa các nước.
Đối với các yếu tố kinh tế- xã hội quyết định đầu tư nước ngồi thì
liên kết khu vực đã tạo ra một thị trường với qui mô lớn. Đây là yếu tố rất
hấp dẫn các TNCs, nhất là với các TNCs đầu tư theo mục đích tìm kiếm thị
trường. Việc xóa bỏ các rào cản của thị trường quốc gia để hình thành thị
trường vùng đã làm giảm bớt các chi phí sản xuất hướng vào xuất khẩu
trong vùng của các TNCs, bởi vì lúc này tất cả các nước trong khối đều là
một thị trường. Mặt khác, việc xoá bỏ các rào cản của các thị trường thành
viên còn giảm bớt được các thủ tục hải quan, xuất nhập cảnh cho các nhà
đầu tư, vì thế thúc đẩy dịng vốn đầu tư giữa các nước.
Liên kết khu vực tạo ra cơ hội cho các nhà đầu tư hình thành được
mối liên kết kinh tế giữa các công ty vệ tinh trong sản xuất và nghiên cứu
những sản phẩm tương tự, nhờ đó khơng những giảm được chi phí dịch vụ
mà còn giúp cho các nhà đầu tư thực hiện được chun mơn hố sản xuất
cao. Bởi vậy, trong phạm vi vùng, các nhà đầu tư nước ngoài khai thác được
tốt hiệu quả của phân công lao động quốc tế. Ngoài ra, việc loại bỏ các rào
cản của các thị trường thành viên cịn thúc đẩy các cơng ty cạnh tranh mở
rộng thị phần trong vùng. Để tăng thị phần, các công ty mở rộng sản xuất
bằng cách xây dựng cơ sở mới hoặc mua lại và sát nhập các cơ sở hiện có,
do đó làm tăng dịng vốn đầu tư nước ngồi.
Liên kết khu vực cũng tác động tích cực đến điều kiện kinh doanh của
các nhà đầu tư nước ngoài. Tác động đầu tiên là giảm bớt được chi phí giao
dịch trong kinh doanh. Những chi phí này phát sinh do thiếu thơng tin trong
kinh doanh, thủ tục hành chính khác nhau giữa các nước. Các hiệp định liên
kết khu vực đã xây dựng các chương trình hợp tác qui mơ vùng để cùng
nhau xoá bỏ hoặc đưa ra các biện pháp khắc phục những hạn chế này.
- Tăng trưởng nhanh của các TNCs
Phần lớn các hoạt động đầu tư nước ngoài được thực hiện bởi các
TNCs nên tốc độ tăng trưởng của các TNCs sẽ ảnh hưởng quan trọng đến
động thái của dòng đầu tư quốc tế. Tốc độ tăng trưởng của TNCs được biểu
hiện ở sự tăng nhanh về số lượng các công ty mẹ và các chi nhánh của chúng
trên phạm vi tồn cầu, trong đó nhất là ở các nước đang phát triển.
Nhận thức chung về công ty xuyên quốc gia - TNCs
TNCs bao gồm các công ty mẹ và các công ty con của chúng ở các
nước trên thế giới. Cơng ty mẹ là các cơng ty kiểm sốt toàn bộ tài sản của
chúng ở nước sở hữu hơn là ở nước ngồi. Cơng ty con là các cơng ty hoạt
động ở nước ngoài dưới sự quản lý của công ty mẹ và thường được gọi
chung là chi nhánh ở nước ngồi. Có các loại cơng ty con dưới đây:
- Phụ thuộc: Chủ đầu tư (thuộc công ty mẹ) sở hữu hơn 50% tổng tài
sản của công ty. Họ có quyền chỉ định hoặc bãi nhiệm các thành viên bộ
máy tổ chức và quản lý điều hành của công ty.
- Liên kết: chủ đầu tư tuy chiếm khoảng 10% tài sản của công ty,
nhưng chưa đủ tỷ lệ sở hữu để có quyền hạn như trường hợp cơng ty phụ
thuộc.
- Chi nhánh: cơng ty hoạt động ở nước ngồi với 100% tài sản thuộc
sở hữu của công ty mẹ.
ở cuối thập kỷ 60, hầu hết các TNCs còn tập trung vào các nước phát
triển với số lượng khoảng 7.276 TNCs và 27.000 chi nhánh. Nhưng đến năm
1990, những con số này đã lên đến 35.000 TNCs và 150.000 chi nhánh. Đến
năm 2006, trên thế giới đã có khoảng 64.000 TNCs với 840.000 chi nhánh.
Theo các con số này, cho thấy các TNCs đã tăng trưởng nhanh chóng và tác
động mạnh vào dịng lưu chuyển vốn đầu tư quốc tế.
- Mơi trường tài chính quốc tế
Bao gồm những nhân tố tác động vào hoạt động tài chính của các nhà
đầu tư. Có thể chia thành 2 nhóm nhân tố: hệ thống tiền tệ quốc tế; Hệ thống
tỉ giá linh hoạt.
Hệ thống tiền tệ quốc tế: bao gồm các tổ chức tài chính quốc tế và các
quy định- luật lệ đảm bảo cho sự hoạt động của các tổ chức này và ổn định tỉ
giá hối đối trên thị trường ngồi hối quốc tế. Hệ thống tiền tệ quốc tế được
hình thành trên cơ sở thoả thuận trực tiếp giữa Ngân hàng trung ương của
các nước.
Hoạt động của hệ thống tiền tệ quốc tế đặt dưới sự điều hành của quĩ
tiền tệ quốc tế (IMF - International Monetary Funds) và ngân hàng thế giới
(WB - World Bank). Theo thoả thuận giữa các nước thành viên năm 1944:
các nước cùng góp vốn để duy trì sự hoạt động của IMF và WB. Mỗi nước
được xác định mệnh giá cho đồng tiền quốc gia dựa theo chế độ bản vị vàng
và USD; IMF cho phép (ấn định) giá trị đồng tiền mỗi nước được phá giá
trong phạm vi 1%, trừ trường hợp khẩn cấp đồng tiền mỗi nước có thể phá
giá đến 10% nhưng có thời hạn và phải được sự chấp thuận của IMF.
Tuy nhiên khi qui mô của IMF mở rộng với nhiều nước mới xin gia
nhập, IMF đưa ra yêu cầu: trong một thời gian nhất định, sau khi trở thành
thành viên của IMF, mỗi thành viên phải xác định tỉ giá tiền tệ của mình so
với vàng hay một ngồi tệ mạnh nào đó, nhưng chủ yếu là USD. Tỉ giá này
có thể dao động ở mức 10% mà khơng cần có sự chấp thuận trước của IMF.
Nói cách khác IMF đã can thiệt vào việc ấn định tỉ giá của các nước trên thị
trường tài chính quốc tế.
Hệ thống tỉ giá linh hoạt
Năm 1976 IMF đưa ra yêu cầu các nước thành viên phải áp dụng hệ
thống tỉ giá thả nổi có điều kiện (hệ thống tỉ giá linh hoạt) nhằm giảm thiểu
sự can thiệp của Nhà nước trên thị trường ngoài hối và điều chỉnh giá trị của
những đồng tiền chủ yếu. Mà sự biến động của tỉ giá lại ảnh hưởng rất lớn
đến việc luân chuyển vốn từ nước này sang nước khác trong quá trình đầu
tư.
VD: Trung Quốc (TQ) đã giữ giá đồng nhân dân tệ (NDT) ổn định
trong hàng chục năm trước khi gia nhập WTO. Năm 2005 trước sức ép của
các nước bạn hàng, chính phủ TQ đã chấp nhận phá giá đồng NDT vào
tháng 7/2005, đồng thời luôn khẳng định về việc triển khai một chế độ tỉ giá
linh hoạt.
Tuy nhiên đồng NDT cũng chỉ tăng giá chưa tới 2% so với USD,
trong khi thặng dư thương mại của TQ ngày càng lớn (năm 2005 thặng dư
thương mại của TQ với cường quốc Mỹ là 200 tỉ USD), điều này gây nhiều
bất bình trong các nước bạn hàng của TQ.
Đầu tháng 9/2006 TQ quyết định tăng giá NDT lần nữa, vượt qua
ngưỡng 7,95 NDT/ 1USD. Việc tăng giá đồng NDT đã ảnh hưởng đến làn
sóng đầu tư nước ngồi vào TQ, vì các nhà đầu tư nước ngoài đến TQ nhằm
vào mục tiêu xuất khẩu hàng hoá. Nhưng do đồng NDT tăng giá, giá hàng
xuất khẩu từ TQ sẽ cao hơn khiến cho việc xuất khẩu trở nên khó khăn hơn,
các nhà xuất khẩu sẽ bớt đi lợi thế cạnh tranh. Vì thế theo dự báo của các
chuyên gia kinh tế: tình trạng chuyển dịch đầu tư nước ngoài từ TQ sang các
nước khác sẽ diễn ra ngày càng tăng.
Hệ thống tỉ giá linh hoạt cho phép tỉ giá chịu tác động của nhiều nhân
tố khác trên thị trường như dòng chảy vốn đầu tư, chính sách vĩ mơ của nhà
nước, các thành viên trên thị trường ngoại hối (Nhà nước, nhà bn, nhà mơi
giới, nhà đầu tư chứng khốn, nhà bảo hiểm, người kinh doanh tiền tệ), lãi
suất tương đương, lòng tin của nhà đầu tư …
(nhiều nước trong giai
đoạn kinh tế kế hoạch hoá tập trung thường áp dụng hệ thống tỉ giá cố định.
Nghĩa là tỉ giá do Nhà nước ấn định; dĩ nhiên theo hệ thống này, tỉ giá không
sát với thực tế cung - cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối).
- Những quy định của WTO liên quan đến đầu tư nước ngồi
Ngun tắc khơng phân biệt đối xử
Trong quy chế tối huệ quốc (MFN) có ghi rõ về nguyên tắc không
phân biệt đối xử, nguyên tắc này được hiểu theo 2 cách:
Không phân biệt đối xử quốc gia qui định: doanh nghiệp nước ngồi,
hàng hố, dịch vụ nhập khẩu từ nước ngồi được đối xử khơng kém thuận
lợi hơn so với doanh nghiệp trong nước và hàng hoá, dịch vụ cùng loại sản
xuất trong nước. Nguyên tắc này nhằm xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa nhà
đầu tư nước ngồi và nhà đầu tư trong nước.
Khơng phân biệt đối xử quốc tế qui định: nước nhận đầu tư sẽ giành
ưu đãi cho nhà đầu tư của một nước khác không kém thuận hơn những ưu
đãi đã giành cho các nhà đầu tư ở nước thứ ba khác khi họ đầu tư trên lãnh
thổ quốc gia mình. Nguyên tắc này nhằm chống phân biệt đối xử giữa các
nhà đầu tư hoạt động trên cùng một lãnh thổ, tạo mơi trường kinh doanh
bình đẳng giữa các nhà đầu tư.
Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs Trade Related Investment Measures)
TRIMs quy định các nước không được sử dụng 5 loại biện pháp đầu
tư liên quan đến thương mại về đối xử quốc gia và các qui định cấm sử dụng
hạn chế định lượng. Chẳng hạn, biện pháp yêu cầu về hàm lượng nội địa;
yêu cầu về cân đối thương mại; hạn chế nhập khẩu; hạn chế khả năng tiếp
cận ngoại hối; hạn chế xuất khẩu.
Trong thực tế, nhiều nước đang phát triển thường sử dụng những biện
pháp này để bảo hộ sản xuất trong nước. Khi tuân thủ sử dụng những biện
pháp này để bảo hộ sản xuất trong nước. Khi tuân thủ TRIMs có nghĩa là các
nước phải xố bỏ những biện pháp hạn chế định lượng trên đây, điều đó có
thể đặt các doanh nghiệp trong nước đứng trước sự cạnh tranh gay gắt,
nhưng lại là một trong những giải pháp làm tăng tính hấp dẫn của mơi
trường đầu tư của một nước, thu hút luồng vốn FDI mạnh hơn.
Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến quyền sử hữu trí tuệ (TRIPs
- Trade Related Intelectural Property Right)
TRIPs quy định các quyền được hưởng quyền sở hữu trí tuệ; phạm vi
duy trì và thực thi của quyền sở hữu trí tuệ (SHTT); khả năng được bảo hộ
và bình đẳng giữa người nước ngồi và cơng dân nước sở tại đối với quyền
sử hữu trí tuệ.
Thơng thương nhà đầu tư nước ngồi mang vốn và cơng nghệ vào
nước sở tại để tiến hành sản xuất - kinh doanh. Nếu quyền SHTT của nhà
đầu tư không được đảm bảo họ lo ngại rằng đến một lúc nào đó sẽ bị đối tác
địa phương chiếm hữu SHTT này.
Hơn nữa nếu quyền SHTT của nhà đầu tư không được đảm bảo còn
làm cho nạn hàng giả phát triển ảnh hưởng đến uy tín và hiệu quả kinh
doanh của nhà đầu tư. Hiệp định TRIPs giảm độ rủi ro trong đầu tư nước
ngoài và bảo đảm quyền lợi cho nhà đầu tư nước ngoài.
Muốn tránh rủi ro trong đầu tư ra nước ngoài và tham gia vào kinh
doanh thương mại quốc tế, nhà đầu tư phải đăng ký bảo hộ các đối tượng sở
hữu công nghiệp (SHCN) và (SHTT) nhằm tạo lập một cơ sở pháp lý bảo hộ
cho sản phẩm của mình
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra sâu rộng ở mọi
nơi trên thế giới, việc đăng ký bảo hộ các đối tượng SHCN và SHTT càng
trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Nhưng đến hết năm 2005 cũng chỉ có 5%
số doanh nghiệp Việt Nam chú ý đến điều này nên dễ dàng tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp khác sao chép hoặc giành quyền SHTT đối với các đối
tượng SHCN của chính họ.
Tính minh bạch trong cơ chế thị trường
WTO qui định đối với các chính phủ, trong q trình đàm phán để gia
nhập WTO phải cam kết (lộ trình và một số nội dung về cơ chế đầu tư và
thương mại) và thực hiện những cam kết ấy mà không được thay đổi trong
suốt quá trình thực hiện (trừ khi việc thay đổi này được các bên tham gia
đàm phán lại và cùng thống nhất).
WTO cũng qui định rằng chính phủ các nước phải minh bạch hố các
chính sách của mình bằng cách thông báo cho các bên liên quan biết những
qui định, hoặc những thay đổi (nếu có) đối với các chính sách thương mại và
đầu tư nhằm đảm bảo một môi trường đầu tư - kinh doanh dễ dự đoán.
- Tốc độ tồn cầu hố
Nếu liên kết kinh tế quốc tế nói về các hiệp định kinh tế giữa các nước
thì tồn cầu hố lại nhấn mạnh đến q trình đan kết giữa các cơng ty trên
phạm vị tồn cầu để hình thành lên mạng lưới sản xuất quốc tế.
Tồn cầu hố được hiểu: là mức độ hồ nhập , lan toả của các hoạt
động kinh tế trên phạm vi tồn cầu. Tồn cầu hố là sự phát triển cao và
phức tạp hơn của quốc tế hoá. Tốc độ của q trình tồn cầu hố sẽ thúc đẩy
xu hướng tự do hố FDI, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho các TNCs mở
rộng phạm vi hoạt động trên phạm vi toàn cầu.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ đã tạo ra nhiều lĩnh
vực sản xuất mới trong các ngành điện, điện tử, tin học, viễn thông… và các
phương tiện thuận khác cho phép các TNCs mở rộng qui mô khai thác lợi
thế so sánh của mình trên phạm vi tồn cầu. Lợi ích to lớn của việc tham gia
vào mạng lưới phân công lao động quốc tế đã làm cho các quốc gia tích cực
tháo bỏ những rào cản đối với các TNCs, nhờ đó thúc đẩy xu hướng tự do
hố đầu tư.
Xu hướng tự do hoá đầu tư tác động trở lại đối với TNCs trong việc
chọn lựa các lĩnh vực và hướng đầu tư. Việc mở rộng thị trường cho đầu tư
nước ngồi đã khuyến khích các TNCs đầu tư vào các lĩnh vực mà ở đó
chúng có nhiều thế mạnh. Các lĩnh vực hấp dẫn các TNCs thường là các
ngành sản xuất mới, có hàm lượng cơng nghệ cao như điện tử - tin học, viễn
thông…. Việc mở ra các lĩnh vực sản xuất này khơng những khuyến khích
các TNCs đầu tư các thị trường mới có tiềm năng tiêu thụ cao mà còn tạo
điều kiện cho các hoạt động mua lại và sát nhập (M&A) để tăng sức mạnh
độc quyền trong các ngành có cơng nghệ hiện đại. Hiện tượng này đã thúc
đẩy tăng nhanh dòng vốn đầu tư quốc tế.
Ngồi ra, tồn cầu hố cịn thúc đẩy phát triển của thị trường tài chính
quốc tế, qua đó tác động đến động thái dịng vốn đầu tư nước ngồi. Tác
động này được thể hiện qua các khía cạnh là: giảm bớt các định chế tài chính
đối với lưu chuyển vốn quốc tế, các phương tiện hiện đại để tạo điều kiện
thuận lợi, nhanh chóng và chính xác trong các nghiệp vụ giao dịch của thị
trường tài chính, đa dạng hố các hình thức đầu tư trên thị trường vốn và
cung cấp kịp thời các thông tin thị trường trên phạm vi toàn cầu cho các nhà
đầu tư.
1.2. Môi trường kinh doanh ở nước chủ đầu tư
Các yếu tố của môi trường kinh doanh ở nước chủ đầu tư có ảnh
hưởng rất lớn đến đầu tư ra nước ngồi. Các chính phủ có thể điều chỉnh các
yếu tố của môi trường đầu tư theo hướng thúc đẩy hoặc hạn chế dịng vốn
đầu tư ra nước ngồi, hoặc thậm chí cấm đầu tư ra nước ngồi.
Mơi trường kinh doanh ở nước đầu tư bao gồm tất cả các yếu tố về
chính trị, chính sách - pháp luật, vị trị địa lý, điều kiện tự nhiên, trình độ
phát triển kinh tế và các đặc điểm văn hoá - xã hội. Mức độ hấp dẫn của
từng yếu tố sẽ tạo ra những cơ hội hoặc rủi ro cho các nhà đầu tư, qua đó tác
động mạnh đến quyết định của họ trong việc so sánh nên đầu tư ở trong
nước hay chuyển đầu tư ra nước ngoài, quyết định đầu tư ra nước ngồi của
các nhà đầu tư cịn chịu ảnh hưởng rất lớn từ những thay đổi chính sách kinh
tế vĩ mô, các hoạt động thúc đẩy đầu tư ra nước ngồi của chính phủ và tiềm
lực kinh tế - khoa học công nghệ của nước họ.
- Thay đổi chính sách kinh tế vĩ mơ
+ Chính sách tài chính - tiền tệ:
Chính sách tài chính (chính sách tài khóa) trong kinh tế học vĩ mơ là
chính sách thơng qua chế độ thuế và đầu tư công cộng để tác động tới nền
kinh tế. Khi nền kinh tế đang ở pha suy thối, nhà nước có thể giảm thuế,
tăng chi tiêu (đầu tư cơng cộng) để chống lại. Chính sách tài chính như thế
gọi là chính sách tài chính nới lỏng => tăng lợi nhuận của nhà đầu tư trong
nước và do vậy khơng khuyến khích đầu tư ra nước ngoài
Ngược lại, khi nền kinh tế ở pha bùng nổ và có hiện tượng nóng, thì
nhà nước có thể tăng thuế và giảm chi tiêu của mình để ngăn cho nền kinh tế
khỏi rơi vào tình trạng q nóng dẫn tới đổ vỡ. Chính sách tài chính như thế
này gọi là chính sách tài chính thắt chặt => giảm lợi nhuận của nhà đầu tư
trong nước và do vậy khuyến khích đầu tư ra nước ngồi
Chính sách lưu thơng tiền tệ hay chính sách tiền tệ là q trình quản lý
hỗ trợ đồng tiền của chính phủ hay ngân hàng trung ương để đạt được những
mục đích đặc biệt- như kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đối,
đạt được tồn dụng lao động hay tăng trưởng kinh tế. Chính sách lưu thơng
tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất định, có thể trực tiếp hay
gián tiếp thơng qua các nghiệp vụ thị trường mở; qui định mức dự trữ bắt
buộc; hoặc trao đổi trên thị trường ngoại hối
ảnh hưởng đến lãi suất thực tế
Nếu lãi suất thực tế tăng (lãi suất hiệu quả là lãi suất thực sự nhận
được từ một khoản đầu tư) thì đầu tư nước ngồi giảm và ngược lại
Ảnh hưởng đến lạm phát và tỷ giá đồng tiền trong nước so với
đồng tiền nước ngồi
Nếu lạm phát tăng thì đầu tư nước ngồi giảm vì đồng tiền trong
nước bị mất giá, sẽ mua được ít hơn các hàng hoá và dịch vụ ở nước ngồ
và ngược lại.
+ Chính sách xuất nhập khẩu
Nếu càng có nhiều rào cản đối với việc xuất khẩu hàng hoá thì càng
khuyến khích đầu tư ra nước ngồi và ngược lại.
Nếu càng có nhiều rào cản đối với việc nhập khẩu hàng hố thì càng
làm giảm đầu tư nước ngồi và ngược lại.
+ Chính sách quản lý ngoại hối
Điều 4, Nghị đinh 63/1998 NĐ – CP ở Việt nam
Ngoại hối là:
a) Tiền nước ngoài như: tiền giấy, tiền kim loại;
b) Cơng cụ thanh tốn bằng tiền nước ngồi như: séc, thẻ thanh toán, hối
phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi bưu điện và các
công cụ thanh toán khác;
c) Các loại giấy tờ có giá bằng tiền nước ngồi như: trái phiếu Chính phủ,
trái phiếu cơng ty, kỳ phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá khác;
d) Quyền rút vốn đặc biệt, đồng tiền chung Châu Âu, các đồng tiền chung
khác dùng trong thanh toán quốc tế và khu vực;
đ) Vàng tiêu chuẩn quốc tế;
e) Đồng tiền đang lưu hành của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam trong trường hợp chuyển vào và chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt Nam
hoặc được sử dụng làm cơng cụ trong thanh tốn quốc tế
Nếu nới lỏng quản lý ngoại hối theo hướng tự do hoá thị trường vốn
thì các nhà đầu tư được quyền tự do chuyển vốn ra nước ngồi sẽ khuyến
khích đầu tư nước ngồi và ngược lại.
- Các hoạt động thúc đẩy đầu tư nước ngoài
+ Việc ký các hiệp định đầu tư với nước ngoài là cơ sở pháp lý quan
trọng hàng đầu để đảm bảo tin tưởng cho các nhà đầu tư khi đầu tư ở nước
ngoài. Hiệp định đầu tư song phương (Bilateral investment treaties - BITs)
là hiệp định ký kết giữa nước đầu tư với nước nhận đầu tư, còn hiệp định đa
phương (Multbilateral agreement on investment - MAI) là hiệp định được ký
kết giữa các chính phủ trong một nhóm nước với nhau.
+ Hiệp định tránh đánh thuế hai lần (Double taxation treaties - DTTs)
giữa các nước đầu tư với nước ngoài cùng tạo ra sức hấp dẫn về tài chính để
các nhà đầu tư chuyển vốn ra nước ngồi. Bởi vì, hiệp định này cho phép
các nhà đầu tư nước ngoài chỉ phải nộp một lần thuế ở nước nhận đầu tư,
nhờ đó họ giảm bớt được chi phí đầu tư và tăng lợi nhuận. Đây là biện pháp
quan trọng trong khuyến khích đầu tư nước ngồi giữa các nước tham gia
đầu tư.
+ Thực hiện các chương trình xúc tiến đầu tư và các tổ chức hỗ trợ
xúc tiến đầu tư, phần lớn ODA của họ được sử dụng cho các hoạt
động này.
+ Chính sách bảo hiểm vốn đầu tư cho các nhà đầu tư ở nước ngoài
cũng là yếu tố tác động mạnh đến thúc đẩy đầu tư ra nước ngồi. Vì
đầu tư ra nước ngoài, nhất là vào các thị trường mới, thường có độ
mạo hiểm cao hơn đầu tư ở trong nước nên các nhà đầu tư rất cần
chính phủ bảo hiểm vốn đầu tư cho họ. Đặc điểm này được phản ánh
rất rõ sau sự kiện Chính Nhật Bản tuyên bố bảo hiểm đầu tư (1992)
cho các công dân Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam đã làm cho dòng vốn
đầu tư của nước này vào Việt Nam tăng vọt.
+ Cung cấp đầy đủ, thường xuyên các thông tin về mơi trường đầu tư
nước ngồi và các chính sách đối ngoại của Chính phủ nước đầu tư cho các
nhà đầu tư sẽ tác động rất lớn đến quyết định đầu tư ra nước ngoài của các
nhà đầu tư. Đặc biệt, đối với chính sách đối ngoại của các nước lớn có ảnh
hưởng khơng chỉ đối với đầu tư ra nước ngồi của một nước mà cịn có tầm
ảnh hưởng đến tất cả các nhà đầu tư trên phạm vi tồn cầu.
- Tiềm lực kinh tế, khoa học cơng nghệ và chính sách xã hội
+ Tiềm lực kinh tế và khoa học - công nghệ của nước đầu tư.
Nếu tiềm lực kinh tế (tích luỹ vốn, dự trữ ngoại tệ) mạnh thì nhu cầu
đầu tư nước ngồi tăng và ngược lại.
Trình độ nghiên cứu và phát triển cơng nghệ luôn là một lợi thế quan
trọng của nước đầu tư. Một nước có trình độ nghiên cứu và phát triển công
nghệ cao thường tạo ra các công nghệ nguồn và có vai trị quyết định giá cả
trong thị trường cơng nghệ quốc tế. Các công nghệ nguồn sẽ tạo ra lợi thế
cạnh tranh độc quyền và cần sản xuất với qui mô lớn. Đây là những yếu tố
quyết định các cơng ty xun quốc gia đầu tư ra nước ngồi.
+ Chính sách xã hội
Thơng thường, đầu tư ra nước ngồi và tạo việc làm trong nước có
mối quan hệ ngược chiều nhau. Việc chuyển vốn ra nước ngoài dẫn tới giảm
đầu tư nội địa, do đó làm giảm cơ hội tạo việc làm trong nước. Vì thế, có thể
gia tăng tình trạng thất nghiệp và các vấn đề xã hội khác. Bởi vậy, nếu nước
đầu tư có mức trợ cấp phúc lợi xã hội cao, chủ yếu là trợ cấp thất nghiệp thì
sẽ giảm được làn sóng phản đối chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài. Đây là
hiện tượng rất phổ biến ở các nước phát triển, nhất là ở Anh trong những
năm cuối thập kỷ 80.
1.3. Mơi trường đầu tư nước ngồi
Khi lựa chọn địa điểm để đầu tư ở nước ngoài, chủ đầu tư sẽ phải cân
nhắc đến các điều kiện sản xuất, kinh doanh ở địa điểm đó xem có thuận lợi
hay khơng nghĩa là cân nhắc đến các yếu tố có liên quan đến lợi thế địa điểm
của nước nhận đầu tư (nhân tố L trong mơ hình OLI của Dunning). Các nhân
tố ảnh hưởng đến lợi thế địa điểm của các nước nhận đầu tư được chia thành
ba nhóm :
- Thứ nhất là khung chính sách về đầu tư nước ngồi
Khung chính sách về ĐTNN của nước nhận đầu tư bao gồm các qui
định liên quan trực tiếp và gián tiếp đến đầu tư nước ngoài. Các qui định
của luật pháp và chính sách liên quan trực tiếp đến đầu tư nước ngoài bao
gồm các qui định về việc thành lập và hoạt động của các nhà đầu tư nước
ngoài (cho phép, hạn chế, cấm đầu tư vào một số ngành, lĩnh vực; cho phép
tự do hay hạn chế quyền sở hữu của các chủ đầu tư nước ngoài đối với các
dự án; cho phép tự do hoạt động hay áp đặt một số điều kiện hoạt động; có
hay khơng các ưu đãi nhằm khuyến khích đầu tư nước ngồi; ...), các tiêu
chuẩn đối xử đối với đầu tư nước ngoài (phân biệt hay không phân biệt đối
xử giữa các nhà đầu tư có quốc tịch khác nhau, ...) và cơ chế hoạt động của
thị trường trong đó có sự tham gia của thành phần kinh tế có vốn ĐTNN
(cạnh tranh có bình đẳng hay khơng; có hiện tượng độc quyền khơng; thơng
tin trên thị trường có rõ ràng, minh bạch khơng; ...).
Các qui định thơng thống, có nhiều ưu đãi, khơng có hoặc ít có các
rào cản, hạn chế hoạt động ĐTNN sẽ góp phần tăng cường thu hút ĐTNN
vào và tạo thuận lợi cho các dự án ĐTNN trong quá trình hoạt động và
ngược lại.
Các qui định của luật pháp và chính sách sẽ được điều chỉnh tùy theo
định hướng, mục tiêu phát triển của từng quốc gia trong từng thời kỳ, thậm
chí có tính đến cả các qui hoạch về ngành và vùng lãnh thổ.
Bên cạnh đó, một số các qui định, chính sách trong một số ngành, lĩnh
vực khác cũng có ảnh hưởng đến quyết định của chủ đầu tư như:
Chính sách thương mại có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định lựa chọn
địa điểm đầu tư vì ĐTNN, đặc biệt là FDI gắn với sản xuất và tiêu thụ hàng
hóa, dịch vụ. Ví dụ các nước theo đuổi chiến lược phát triển sản xuất trong
nước để thay thế nhập khẩu sẽ thu hút được nhiều FDI vào sản xuất các hàng
tiêu dùng phục vụ nhu cầu trong nước nhưng sau đó một thời gian khi thị
trường đã bão hịa nếu nước đó khơng thay đổi chính sách thì sẽ khơng hấp
dẫn được FDI.
Chính sách tư nhân hóa liên quan đến việc cổ phần hóa, bán lại các
cơng ty. Những nước cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào q
trình tư nhân hóa sẽ tạo cho các nhà đầu tư nước ngoài nhiều cơ hội, nhiều
sự lựa chọn hơn trước khi quyết định đầu tư.
Chính sách tiền tệ và chính sách thuế có ảnh hưởng quan trọng đến sự
ổn định của nền kinh tế. Các chính sách này ảnh hưởng đến tốc độ lạm phát,
khả năng cân bằng ngân sách của nhà nước, lãi suất trên thị trường. Như vậy
các chính sách này ảnh hưởng rất nhiều đến quyết định đầu tư. Các chủ đầu
tư đều muốn đầu tư vào các thị trường có tỷ lệ lạm phát thấp. Lãi suất trên
thị trường nước nhận đầu tư sẽ ảnh hưởng đến chi phí vốn, từ đó ảnh hưởng
đến thu nhập của các chủ đầu tư nước ngoài. Chính sách thuế của nước nhận
đầu tư cũng thu hút được sự quan tâm rất lớn của các chủ đầu tư. Thuế thu
nhập doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của các dự án FDI.
Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thuế tiêu thụ đặc biệt, ... ảnh
hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm. Nhìn chung các chủ đầu tư đều tìm
cách đầu tư ở những nước có các loại thuế thấp.
Chính sách tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đến giá các tài sản ở nước nhận
đầu tư, giá trị các khoản lợi nhuận các chủ đầu tư thu được và năng lực cạnh
tranh của các hàng hóa xuất khẩu của các chi nhánh nước ngồi. Một nước
theo đuổi chính sách đồng tiền quốc gia yếu sẽ có lợi trong việc thu hút
ĐTNN và xuất khẩu hàng hóa.
Chính sách liên quan đến cơ cấu các ngành kinh tế và các vùng lãnh
thổ (khuyến khích phát triển ngành nào, vùng nào; ngành nào đã bão hịa rồi;
ngành nào, vùng nào khơng cần khuyến khích, ...)
Chính sách lao động: có hạn chế hay khơng hạn chế sử dụng lao động
nước ngồi; ưu tiên hay khơng ưu tiên cho lao động trong nước, ....
Chính sách giáo dục, đào tạo, chính sách y tế, ... ảnh hưởng đến chất
lượng nguồn lao động cung cấp cho các dự án FDI.
Các qui định trong các hiệp định quốc tế mà nước nhận đầu tư tham
gia ký kết. Ngày nay, các qui định này thường tạo thuận lợi cho FDI vì nó
bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư, hướng tới không phân biệt các chủ đầu
tư theo quốc tịch, ...
Nhìn chung các chủ đầu tư nước ngồi thích đầu tư vào những nước
có hành lang pháp lý, cơ chế, chính sách đầy đủ, đồng bộ, thơng thống,
minh bạch và có thể dự đốn được. Điều này đảm bảo cho sự an toàn của
vốn đầu tư.
- Thứ hai là các yếu tố của môi trường kinh tế.
Nhiều nhà kinh tế cho rằng các yếu tố kinh tế của nước nhận đầu tư là
những yếu tố có ảnh hưởng quyết định trong thu hút FDI. Tùy động cơ của
chủ đầu tư nước ngồi mà có thể có các yếu tố sau của mơi trường kinh tế
ảnh hưởng đến dịng vốn FDI:
Thị trường trong nước nhận đầu tư cũng rất quan trọng đối với các
chủ đầu tư là các hãng cung ứng dịch vụ. Lý do chính trong trường hợp này
khơng phải vì hàng rào thuế quan hay phi thuế quan mà do tính đặc thù của
sản phẩm dịch vụ là không thể vận chuyển sản phẩm từ nước này sang nước
khác, từ nơi này sang nơi khác. Chính vì vậy để đáp ứng nhu cầu dịch vụ ở
nước ngoài các công ty dịch vụ phải thiết lập các cơ sở cung ứng ở chính
nước đó. Các chủ đầu tư có động cơ tìm kiếm thị trường sẽ quan tâm đến các
yếu tố như dung lượng thị trường và thu nhập bình quân đầu người; tốc độ
tăng trưởng của thị trường; khả năng tiếp cận thị trường khu vực và thế giới;
các sở thích đặc biệt của người tiêu dùng ở nước nhận đầu tư và cơ cấu thị
trường.
Đối với các chủ đầu tư muốn mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm thì
dung lượng thị trường của nước nhận đầu tư là một yếu tố rất quan trọng khi
chủ đầu tư cân nhắc để lựa chọn địa điểm đầu tư. Một nước với dân số đông,
GDP bình quân đầu người cao, GDP tăng trưởng với tốc độ cao, sức mua
lớn sẽ có sức hấp dẫn đối với FDI vì đem lại cho chủ đầu tư cơ hội tăng thị
phần và lợi nhuận.
Bên cạnh thị trường trong nước, các chủ đầu tư nước ngoài ngày càng
quan tâm nhiều hơn đến khả năng tiếp cận thị trường khu vực và thế giới
của hàng hóa sản xuất ra tại nước nhận đầu tư. Trong xu thế tăng cường
liên kết kinh tế quốc tế và khu vực ngày nay, những nước tham gia vào
nhiều các liên kết quốc tế sẽ có lợi thế trong thương mại quốc tế vì hàng hóa
từ nước này xuất khẩu sang các nước thành viên khác trong liên kết sẽ được
hưởng chế độ thương mại ưu đãi hơn hàng hóa từ các nước khơng phải thành
viên chảy vào. Chính vì vậy chủ đầu tư nước ngồi chỉ cần đầu tư vào một
nước có tham gia vào nhiều các liên kết kinh tế khu vực và thế giới sẽ có cơ
hội tiếp cận một thị trường rộng lớn hơn rất nhiều thị trường nước nhận đầu
tư. Đây là một lợi thế mà các chủ đầu tư nước ngồi khơng thể bỏ qua khi
cân nhắc lựa chọn địa điểm đầu tư.
Các chủ đầu tư tìm kiếm nguồn nguyên liệu và tài sản sẽ quan tâm
đến tài nguyên thiên nhiên; lao động chưa qua đào tạo với giá rẻ; lao động
có tay nghề; cơng nghệ, phát minh, sáng chế và các tài sản do doanh nghiệp
sáng tạo ra (thương hiệu, ...); cơ sở hạ tầng phần cứng (cảng, đường bộ, hệ
thống cung cấp năng lượng, mạng lưới viễn thơng).
Việc có sẵn các nguồn tài ngun thiên nhiên phong phú đã từng là
yếu tố cơ bản thu hút FDI của các nước. Vào thế kỷ 19, phần lớn vốn FDI từ
Châu Âu, Mỹ và Nhật Bản hướng vào việc khai thác tài nguyên thiên nhiên.
Cho đến Đại chiến Thế giới lần thứ hai, 60% tổng FDI trên thế giới liên
quan đến việc tìm các nguồn tài nguyên thiên nhiên [44]. Nguyên nhân là do
trong thời kỳ đó lĩnh vực nơng nghiệp và khai khống là những lĩnh vực giữ
vai trị quan trọng trong sản xuất tồn cầu. Các nước chủ đầu tư, vốn phụ
thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu thô trên thị trường thế giới, muốn giảm
bớt sự phụ thuộc này để đảm bảo tính ổn định cho nền kinh tế. Họ tìm cách
đầu tư trực tiếp sang các nước có nhiều tài nguyên để có được quyền khai
thác lâu dài các nguồn tài nguyên đó. Trong khi đó phần lớn các nước đang
phát triển đều thiếu vốn, đặc biệt là thiếu thiết bị, công nghệ khai thác, kỹ
thuật bán hàng, cơ sở hạ tầng, ... để khai thác các nguồn lực của mình. Chình
vì vậy trong giai đoạn này FDI vào khai thác tài nguyên tăng mạnh. Từ
những năm 1960, tầm quan trọng tương đối của các nguồn tài nguyên thiên
nhiên trong thu hút FDI đã giảm. Trong phần lớn các nước chủ đầu tư, chỉ
11% tổng vốn FDI ra trong năm 1990 dành để tìm kiếm các nguồn tài
nguyên thiên nhiên so với 25% năm 1970. Trong giai đoạn 1991- 1995, tỷ lệ
này nhỏ hơn 5% đối với Đức, Nhật, Anh và Mỹ.[53, tr. 62] Lý do là vì các
ngành nghề, lĩnh vực mới ra đời và có tầm quan trọng ngày càng lớn, các
ngành nghề, lĩnh vực cũ trong đó có nơng nghiệp và khai khống có tầm
quan trọng giảm dần trong nền kinh tế của các nước đang phát triển. Thêm
vào đó, khi trình độ phát triển đã được nâng cao, khả năng tích lũy vốn trong
nội bộ nền kinh tế được cải thiện, nhiều doanh nghiệp trong nước nhận đầu
tư có đủ vốn và cơng nghệ thích hợp để tự tiến hành khai thác và chế biến
các nguồn tài nguyên vậy nên các ngành này sẽ không cần đến FDI nữa.
Lực lượng lao động dồi dào, trình độ thấp và giá rẻ ở nhiều nước
đang phát triển cũng thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư nước
ngoài. Lực lượng này đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp chế tạo
cần nhiều lao động. Ngược lại, những ngành, lĩnh vực, những dự án đầu tư
đòi hỏi công nghệ cao thường kèm theo yêu cầu về lao động có trình độ cao,
có tay nghề và được đào tạo bài bản.
Không phải lúc nào các chủ đầu tư nước ngồi cũng đem cơng nghệ
cùng với vốn đi đầu tư ở các nước khác. Bản thân họ cũng kỳ vọng tìm được
những cơng nghệ, phát minh, sáng chế và các tài sản mới do doanh nghiệp ở
nước nhận đầu tư sáng tạo ra và sở hữu độc quyền. Điều này đặc biệt đúng
với các dòng vốn FDI chảy giữa các nước công nghiệp phát triển với nhau.
Các chủ đầu tư tìm kiếm hiệu quả sẽ chú trọng đến chi phí mua sắm
các nguồn tài nguyên và tài sản được đề cập ở phần trên, có cân đối với năng
suất lao động; các chi phí đầu vào khác như chi phí vận chuyển và thơng tin
liên lạc đi/ đến hoặc trong nước nhận đầu tư; chi phí mua bán thành phẩm;
tham gia các hiệp định hội nhập khu vực tạo thuận lợi cho việc thành lập
mạng lưới các doanh nghiệp toàn khu vực.
Khi các chủ đầu tư chú trọng đến việc giảm chi phí thì một trong
những chi phí được các chủ đầu tư chú ý nhiều đó là chi phí lao động. Điều
này đặc biệt đúng trong những ngành, những lĩnh vực sử dụng nhiều lao
động. Các chủ đầu tư sẽ tìm đến những thị trường có nguồn lao động rẻ, phù
hợp. Tất nhiên chủ đầu tư cũng phải tính tốn cân đối giữa tiền lương, chi
phí đào tạo, các chi phí khác liên quan đến việc sử dụng lao động với năng
suất lao động để quyết định đầu tư ở địa điểm nào có hiệu quả sử dụng lao
động cao nhất. Các ngành có tỷ trọng chi phí nguyên vật liệu cao trong giá
thành sản phẩm lại chú ý nhiều đến việc giảm các chi phí liên quan đến việc
mua các nguyên vật liệu, ....
Cơ sở hạ tầng như cảng, đường bộ, hệ thống cung cấp năng lượng,
mạng lưới viễn thông cũng ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả hoạt động đầu tư.
Chính vì vậy khi lựa chọn địa điểm đầu tư các chủ đầu tư nước ngoài phải
cân nhắc vấn đề này.
- Thứ ba là các yếu tố tạo thuận lợi trong kinh doanh
Các yếu tố này bao gồm chính sách xúc tiến đầu tư; các biện pháp ưu
đãi, khuyến khích đầu tư; giảm các tiêu cực phí bằng cách giải quyết nạn
tham nhũng, cải cách thủ tục hành chính để nâng cao hiệu quả hoạt động của
bộ máy quản lý Nhà nước; nâng cao chất lượng các dịch vụ tiện ích xã hội
để đảm bảo chất lượng cuộc sống cho các chủ đầu tư nước ngoài (các trường
song ngữ, chất lượng cuộc sống, ...); các dịch vụ hậu đầu tư. Từ lâu các nước
nhận đầu tư đã ý thức được tầm quan trọng của các yếu tố này, vì vậy các
nước thường tìm cách cải tiến các yếu tố này nhằm tạo thuận lợi nhiều hơn
cho các chủ đầu tư.
Xúc tiến đầu tư bao gồm hoạt động xây dựng và giới thiệu hình ảnh
đất nước, đặc biệt giới thiệu môi trường đầu tư, cơ hội đầu tư cho các nhà
đầu tư nước ngoài; các hoạt động hỗ trợ cho đầu tư và các dịch vụ tạo thuận
lợi cho đầu tư. Xúc tiến đầu tư đặc biệt quan trọng đối với các nước mới mở
cửa thu hút FDI hoặc vừa thay đổi các chính sách liên quan đến FDI chuyển
từ hạn chế sang mở cửa và khuyến khích FDI. Hoạt động xúc tiến đầu tư lúc
này sẽ giúp các chủ đầu tư biết đến những chính sách thuận lợi dành cho
FDI mới được ban hành ở nước nhận đầu tư. Từ đó chủ đầu tư sẽ cân nhắc
và đi đến quyết định có đầu tư hay khơng vào nước đó. Thực tế cho thấy một
số nước đang phát triển không thành công trong thu hút FDI mặc dù đã đưa
ra nhiều cải tiến về chính sách có liên quan đến FDI theo hướng tạo thuận
lợi và dành nhiều ưu đãi cho FDI, lý do vì các chủ đầu tư nước ngồi khơng
được biết đến các thay đổi này. Như vậy hoạt động xúc tiến đầu tư sẽ giúp
các chủ đầu tư nước ngoài biết đến và phản ứng kịp thời với các thay đổi
trong chính sách FDI của nước nhận đầu tư, đặc biệt hoạt động này giúp các
chủ đầu tư phát hiện được các cơ hội mới mà nếu tự tìm hiểu thì có thể chủ
đầu tư sẽ không kịp thời thấy được các cơ hội này. Xúc tiến đầu tư sẽ giúp
rút ngắn khoảng cách về mặt địa lý giữa nước nhận đầu tư và chủ đầu tư vì
thơng tin đến được với chủ đầu tư kịp thời. Việc giới thiệu môi trường đầu
tư, cơ hội đầu tư có thể được tiến hành thơng qua các phương tiện thơng tin
đại chúng, cũng có thể qua những cuộc tiếp xúc riêng với các nhà đầu tư.
Thậm chí đối với các chủ đầu tư là các TNC, MNC lớn, cơng tác xúc tiến
đầu tư có thể được tiến hành với riêng từng chủ đầu tư.
Các hoạt động hỗ trợ cho đầu tư và các dịch vụ tạo thuận lợi cho đầu
tư cũng có ảnh hưởng nhiều đến chất lượng xúc tiến đầu tư và từ đó ảnh
hưởng đến dịng vốn FDI chảy vào một nước. Các hoạt động hỗ trợ này có
thể là hỗ trợ trong việc nghiên cứu thị trường, tìm kiếm đối tác, cơ hội đầu
tư; hỗ trợ trong việc lập hồ sơ dự án và xin phép đầu tư; hỗ trợ trong quá
trình triển khai dự án; hỗ trợ trong suốt quá trình hoạt động của dự án và hỗ
trợ khi dự án làm thủ tục để chuẩn bị chấm dứt hoạt động. Ngày nay, nhiều
nước đã áp dụng cơ chế một cửa nhằm giúp các nhà đầu tư nước ngồi chỉ
cần thơng qua một đầu mối có thể được hỗ trợ về mọi mặt và trong suốt quá
trình từ khi tìm kiếm cơ hội đầu tư đến khi chấm dứt hoạt động đầu tư. Cơ
chế này đã tạo thuận lợi rất nhiều cho các nhà đầu tư, giúp họ tiết kiệm được
thời gian và chi phí. Với chính sách xúc tiến đầu tư tốt, dịng vốn FDI chảy
vào một nước có thể tăng lên rất nhiều.