Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường nuôi cấy, mật độ ban đầu và độ mặn lên sự phát triển của tảo thalassiosira weissflogii làm thức ăn tươi sống cho ấu trùng tôm thẻ chân trắng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 93 trang )

MỞ ĐẦU
Thức ăn tự nhiên đóng vai trị rất quan trọng, quyết định sự thành cơng
trong ương ni nhiều lồi động vật thuỷ sản, đặc biệt là giai đoạn ấu trùng.
Các đối tượng chủ yếu hiện nay đang được quan tâm nghiên cứu, sử dụng làm
thức ăn cho thuỷ sản ni: vi tảo, ln trùng, Artemia, Copepoda… trong đó
vi tảo là nguồn thức ăn tự nhiên có ý nghĩa rất lớn. Bởi vì vi tảo là một loại
thức ăn tươi sống có kích thước phù hợp cho các giai đoạn ấu trùng của động
vật thân mềm, giáp xác, cá, kích thước của vi tảo từ 1-15 µm cho lồi ăn lọc,
10-100 µm cho những lồi khác. Quan trọng hơn cả là vi tảo có nhiều chất
dinh dưỡng có giá trị, cần thiết cho sự sinh trưởng và phát triển của vật nuôi
như: protein, hydratecacbon, các loại vitamine acid ascorbic (vitamin C),
(0,11÷1,62% khối lượng khơ), thiamin-B1, riboflavin-B2, pryridoxine-B6,
Cyanocobalamin-B12, pyridoxyl phosphat và các loại vitamin tan trong mỡ
như vitamin A, D, E và K, acid béo không no đặc biệt là EPA và DHA và
muối khống.
Để phục vụ cho mục đích ni thủy sản, nhiều lồi tảo khác cũng được
nghiên cứu ni trong điều kiện phịng thí nghiệm hoặc ở qui mơ sản xuất.
Wendy và Kevan, 1991, đã tổng kết: ở Hoa kỳ, các loài Thalasiossira
pseudomonas, Skeletonema, Chaetoceros calcitrans, Chaetoceros mulleri,
Nannochloropsis ocula, Cchlorella minutissima... được nuôi để làm thức ăn
cho luân trùng, ấu trùng hai mảnh vỏ, ấu trùng tôm và cá. Trong đó,
Thalassiosira weissflogii là một lồi tảo mới được sử dụng trong sản xuất
giống thủy sản ở Việt Nam mấy năm trở lại đây.
Thalassiosira weissflogii là tảo cát lớn (6-20μm x 8-15μm) được sử
dụng trong ngành công nghiệp tôm và larviculture động vật có vỏ. tảo này là
xem xét một số trại sản xuất là tốt nhất đơn tảo cho tôm ấu trùng

1


Hơn nữa, chúng có giá trị dinh dưỡng rất cao hàm lượng protein dao


động từ 6 - 52 %; carbohydrate từ 5 - 23 % và lipid từ 7 - 23 % (Brown & ctv,
1991; Lavens, Ph và Sorgeloos, P. eds., 1996)[15], [24]. Hàm lượng acid béo
không no (EPA + DHA) của T. weissflogii khá cao đạt 7,2 mg/ml tế bào
(Brown và ctv (1989) [13]. Tuy vậy, hàm lượng lipid và acid béo có trong tảo
cịn phụ thuộc nhiều vào điều kiện môi trường, chế độ chiếu sáng, nhiệt độ,
dinh dưỡng, độ mặn,... và cả vào giai đoạn phát triển của chúng.
Ở nước ta, hiện nay đã có một số cơ quan nghiên cứu đã nhập giống,
phân lập, lưu giữa và ni sinh khối lồi tảo này cho mục đích nghiên cứu và
sản xuất thực nghiệm. Song, thực tế, do chưa có điều kiện phịng thí nghiệm
lưu giống thuần tại trại và công việc này cũng khá phức tạo đối với trại sản
xuất kinh doanh. Chính vì vậy, việc tìm ra các điều kiện thích hợp để ni
trồng lồi tảo này là hết sức cần thiết để có thể chủ động trong việc lưu trữ
nguồn giống và cung cấp thức ăn cho quá trình sản xuất.
Xuất phát từ thực tế trên, để xác định các yếu tố môi trường phù hợp
cho sự phát triển của tảo Thalassiosira weissflogii trong nuôi sinh khối, chúng
tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường nuôi cấy, mật
độ ban đầu và độ mặn lên sự phát triển của tảo Thalassiosira weissflogii
làm thức ăn tươi sống cho ấu trùng tôm thẻ chân trắng”.
Mục tiêu của đề tài:
Tìm ra được mơi trường ni cấy, mật độ ni cấy ban đầu và độ mặn
thích hợp nhất từ đó tìm ra được quy trình ni sinh khối loài tảo
Thalassiosira weissflogii đạt kết quả cao, đảm bảo cung cấp đủ số lượng và
chất lượng tảo đúng thời gian cần thiết làm thức ăn phục vụ cho quá trình sản
xuất giống.

2


Chương 1


TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đặc điểm sinh học của tảo Thalassiosira wessflogii
1.1.1. Hệ thống phân loại
Theo phân loại của Hasle & Heimdal được công bố năm 1970 dựa trên
hệ thống phân loại của cleve (1873), tảo Thalassiosira wessflogii có hệ thống
phân loại như sau:

Hình 1.1. Tảo Thalassiosira wessflogii
Giới: Chromista
Phân giới: Chromobiota
Phân giới phụ: Heterokonta
Ngành:
Lớp:

Bacillariophyta
Coscinodiscophyceae

Phân lớp: Thalassiosirophycidae
Bộ: Thalassiosirales
Họ: Thalassiosiraceae
Giống: Thalassiosira
Loài: Thalassionema weisssflogii (Grunow) Fryxell & Hasle 1977

3


1.1.2. Phân bố
Thalassiosir weisssflogii phân bố phổ biến ở vùng nước lợ và vùng
nước ven biển của châu Âu, vùng ven biển Nhật Bản, ven biển Australia, các
vùng nước ven biển Ấn Độ, biển Argentina, biển Baltic, ven biển phía Bắc

Mỹ và một vài môi trường sống nội địa Bắc Mỹ
1.1.3. Đặc điểm hình thái và cấu tạo
Tảo đơn bào, chủ yếu sống đơn độc, đôi khi các tế bào liên kết với nhau
thành tập đoàn dạng bản hoặc trong khối chất nhầy. Tế bào có dạng hình trụ,
kích thước từ 6 - 20µm x 8 - 15µm.
Tảo cát Thalassiosira weissflogii được bao bọc trong lớp vỏ hình hộp
có thành tế bào rất cứng tạo thành chủ yếu từ silic đioxit. Mặt vỏ hình chữ
nhật và có đường kính dài hơn trục vỏ tế bào. Đai vỏ không đều, mép đai
có 2 - 28 mấu nhỏ, một mấu có dạng hình mơi để liên kết với tế bào bên
cạnh Thể sắc tố nhiều, nhỏ, hình hạt (Cleve. PT, 1873). Tế bào có một nhân
hình cầu
Thalassiosira weissflogii là tảo cát lớn được sử dụng trong ngành công
nghiệp tôm và larviculture động vật có vỏ. tảo này là xem xét một số trại sản
xuất là tốt nhất đơn tảo cho tôm ấu trùng. Kích thước tế bào lớn (16 X sinh
khối Chaetoceros và 3 X sinh khối Tetraselmis) kéo dài thời gian cho ăn tảo
cho đến cuối giai đoạn PL. Trong suốt mùa đông các loại tảo này là khoảng
15 micron, nhưng giảm xuống khoảng 5 micron trong mùa hè.
Màu sắc của TW thay đổi từ màu nâu đến màu xanh sang màu vàng,
tùy thuộc vào lượng chất diệp lục trong nền văn hóa. Sự thay đổi màu sắc
khơng trong bất kỳ cách nào ảnh hưởng đến chất lượng của tảo.
1.1.4. Đặc điểm sinh sản
Theo Hoàng Thị Sản (2007) tất cả các lồi tảo silic đều có 2 hình thức
sinh sản:

4


- Sinh sản bằng cach phân đôi tế bào: Mỗi tế bào con nhận 1 mảnh vỏ
của tế bào mẹ và tự tạo 1 mảnh vỏ mới bé hơn lồng vào mảnh vỏ cũ . Do đó
sau nhiều lần phân chia kích thước tế bào giảm dần .

- Sinh sản bằng bào tử:
• Hình thành bào tử nghỉ (bào tử bảo vệ ): Trong điều kiện mơi trường
ngồi bất lợi chất nguyên sinh co lại tích trữ chất dự trữ, mất nước và hình
thành 1 vỏ mới dày cứng gồm 2 mảnh, đơi khiu có thêm nhiều gai .
• Hình thành bào tử sinh trưởng: Sau nhiều lần phân chia kích thước
tế bào bị nhỏ đi , tảo silic dùng hình thức này để khơi phục kích thước tế bào
bằng cách nội chất tế bào thoát ra, lớn lên và hình thành vỏ mới.
• Sinh sản vơ tinh bằng động bào tử:
• Sinh sản hữu tính theo kiểu tiếp hợp: Hai cá thể ở gần nhau tách nắp
ra chaats nguyên sinh kết hợp với nhau tạo thành hợp tử. Sau đó phân chia
giảm nhiểm tảo vỏ mới bao bọc bên ngoài và tành cơ thể mới .
1.1.5. Đặc điểm sinh trưởng
Theo Coutteau (1996) cho rằng sự phát triển của tảo nuôi trong điều
kiện vô trùng cũng đặc trưng bỡi 5 pha:
Pha đầu tiên ông gọi là pha chậm hay cảm ứng (pha thích nghi):Ở pha
này mật độ tế bào tăng ít do sự thích nghi sinh lí của sự chuyển hóa tế bào để
phát triển như: tăng các mức enzyme, các mức chuyển hóa liên quan đến sự
phân chia tế bào và cố định cacbon
Pha thứ hai ông gọi là pha sinh trưởng theo hàm mũ: pha này mật độ tế
bào tăng như hàm số của thời gian theo hàm logarit
Ct = C0 . e mt
Trong đó
Ct , C0: mật độ tế bào tại t và o tương ứng
m: tốc độ tăng trưởng đặc thù (phụ thuộc vào loài tảo, cường độ ánh
sáng, nhiệt độ
5


Pha thứ ba là pha giảm tốc độ sinh trưởng: pha này sự phân chia tế bào
sẽ chậm lai khi các chất dinh dưỡng, ánh sáng, độ pH, CO 2 , hoặc yếu tố sinh

hóa khác bắt đầu hạn chế sự sinh trưởng
Pha thứ tư là pha ổn định: sinh khối tảo không tăng và đạt mật độ cực
đại. Quá trình quang hợp và phân chia tế bào vẫn xảy ra trong suốt pha này,
nhưng số lượng tế bào mới sinh ra gần ngang bằng với số lượng tế bào chết
đi. Do đó, ở pha này khơng có sự tăng trưởng về số lượng tế bào.
Pha thứ năm là pha tàn lụi: Trong pha cuối cùng, chất lượng nước xấu
đi và các chất dinh dưỡng cạn kiệt tới mức không thể duy trì được sự sinh
trưởng. Mật độ giảm nhanh và cuối cung công việc nuôi bị dừng lại.

Pha gia tốc dương
Pha logarit
Pha gia tốc âm
Pha cân bằng
Pha tàn lụi

Hình 1.2. Các pha phát triển của tảo nuôi
Trong thực tế, công việc nuôi dừng lại do một số nguyên nhân khác
nhau gây ra, bao gồm sự cạn kiệt các chất dinh dưỡng, thiếu oxy, nhiệt độ quá
cao, pH thay đổi hoặc nhiểm bẩn. Mấu chốt của thành công trong sản xuất tảo
là duy trì tảo ở pha sinh trưởng theo hàm mũ.Khi thời gian ni vượt q 3
pha thì giá trị dinh dưỡng của của tảo sản xuất sẽ thấp do tính tiêu hóa giảm,
thiếu các thành phần dinh dưỡng và có thể sản sinh ra các chất chuyển hóa
độc hại.
6


Nhiều tác giả khác như: Đặng Ngọc Thanh (1974); Fulks và Main
(1991); Sato (1991); Chen và Long (1991); Lavens và Sogeloos (1996) cũng
chia sự phát triển của tảo thành 5 pha nhưng tên gọi khác bao gồm Pha gia
tốc dương; pha logarit ; pha gia tốc âm ; pha cân bằng ; pha tàn lụi

Theo O’Meley va Daintith (1993), sinh trưởng của tảo ni chỉ có 4
pha. Đó là: pha tăng trưởng châm (lag phase); pha hàm mũ (exponential
phase); pha cân bằng (stationary phase); pha chết (death phase)
Còn theo Lee và Shen (2004), trong ni thu hoạch tồn bộ tảo trải qua
3 pha khác nhau phản ánh sự thay đổi về sinh khối và mơi trường của nó .Đó
là: pha tăng trưởng chậm (lag phase); pha hàm mũ (exponential phase); pha
tăng trưởng tuyến tính (linear growth phase). Trong pha tăng trưởng tuyến
tính một khi mật độ đạt cực đại, sinh khối sẽ tích lũy ở mộ tốc độ khơng đổi
cho đến khi một số chất trong môi trường nuôi hoặc chất ức chế trở thành yếu
tố hạn chế.
Như vậy sự phát triển của tảo chia thành nhiêu pha khác nhau như phân
tích ở trên. Trong các pha phát triển khác nhau, tốc độ sinh trưởng của tảo của
tảo cũng khác nhau. Ngồi ra, tốc độ phát triển của tảo cịn phụ thuộc vào
từng lồi tảo ni và sự thay đổi của các yếu tố môi trường như: cường độ và
chế độ chiếu sáng, nhiệt độ, độ mặn, pH, mùa vụ, các yếu tố dinh dưỡng, kích
thước và hình dạng của thiết bị ni, các hình thức ni, mức độ xáo trộn
hoặc sục khí mơi trường ni…
1.1.5. Đặc điểm sinh thái
- Môi trường dinh dưỡng
Dinh dưỡng của môi trường ảnh hưởng trên cả hai phương diện là chất
lượng và số lượng. Các chất dinh dưỡng đặc biệt cần thiết cho sự phát triển của
tảo bao gồm: các thành phần dinh dưỡng đa lượng như nitrate, phosphate (với
tỷ lệ xấp xỉ 6:1) và silicate (đối với tảo silic); các thành phần vi lượng gồm một
số kim loại (Fe, Cu, Mg, Mn, Mo, Zn, Co) và vitamine B1, B12, Biotin. Hai loại

7


môi trường nuôi cấy được dùng rộng rãi và phù hợp cho hầu hết các lồi tảo là
mơi trường Walne và Guillard F/2 (dẫn theo Tôn Nữ Mỹ Nga 2006). Ở Thái

Lan môi trường được sử dụng phổ biến nuôi tảo thuần trong phịng thí nghiệm
gồm: mơi trường Sato và Serikawa, Conway, Modified F và TMRL. Các cách
pha môi trường nuôi cấy tảo khác nhau đã được mô tả bởi Vonska (1986) (Tài
liệu kỹ thuật nghề cá của FAO Số 361, Rome, FAO, 1996).
Nhu cầu nitơ của tảo lục là cao nhất, sau đó đến tảo lam. Tảo kh
khơng phù hợp với hàm lượng nitơ cao (De Pauw và ctv, 1993).
Phốt pho được coi như là yếu tố giới hạn cho sự phát triển của các loài
tảo. Hàm lượng phốt pho cần không lớn nhưng là yếu tố không thể thiếu được
trong q trình ni tảo (Huckison,1957, trích dẫn bởi Trần Văn Vỹ,1995).
Phốt pho có tác dụng lên hệ keo dưới dạng các ion, phốt pho ở dạng vô cơ
liên kết với các kim loại tạo nên hệ đệm đảm bảo cho pH của tế bào luôn xê
dịch trong phạm vi nhất định (6 - 8), là điều kiện tốt nhất cho các hệ men hoạt
động. Ngoài ra,Phốt pho tham gia vào cấu trúc tế bào, có vai trị quan trọng
trong khâu chuyển hố trung gian và có ý nghĩa then chốt trong trao đổi năng
lượng, phốt pho ảnh hưởng đến hàm lượng lipid và thành phần acid béo có
trong tảo. Theo Zyceb, 1952 (trích dẫn bởi Hồng Thị Bích Mai, 1995), tảo
Silic, tảo Lục và tảo Lam phát triển mạnh ở hàm lượng P từ 0,1- 0,8 mg/l, ở
hàm lượng 0,05 mg/l tảo phát triển yếu.
Đối với tảo Silic thì silic đóng vai trị rất quan trọng vì nó tham gia vào
cấu tạo màng tế bào. Nhiều cơng trình nghiên cứu cho thấy khi thiếu silic thì
sự phát triển tế bào tảo không bị ngừng trệ nhưng màng tế bào bị thay đổi cấu
trúc nên khó xác định được lồi. Theo Gusep (1952) (trích dẫn bởi Hồng Thị
Bích Mai, 1995), tảo Silic phát triển tốt nhất ở hàm lượng 1-3 mg/l.
Các nguyên tố vi lượng gồm các muối kim loại với nồng độ thấp như:
CuSO4, ZnSO4, FeCl3,... tác động đến quá trình trao đổi chất của tảo. Sắt là

8


yếu tố vi lượng được bổ sung nhiều nhất so với các muối kim loại khác. Sắt

không phải là chất tham gia vào cấu tạo chất diệp lục nhưng nó là tác nhân bổ
trợ hoặc là thành phần tham gia vào cấu trúc các hệ men và chủ yếu là các
men oxy hố khử, tham gia tích cực vào dây chuyền sinh tổng hợp các chất
quan trọng. Sắt có vai trị quan trọng trong q trình vận chuyển điện tử, phân
ly nước và q trình phosphoryl hóa quang hợp. Vì vậy, sắt cần cho quá trình
sinh trưởng và phát triển của tảo. Tuy nhiên, nếu hàm lượng sắt quá cao có thể
gây độc cho tảo. Theo Chiu Liao (1958) (trích dẫn bởi Hồng Thị Bích Mai,
1995), tảo Silic phát triển tốt ở hàm lượng sắt từ 2 - 3 mg/l.
- Ảnh hưởng của ánh sáng
Hầu hết vi tảo ở biển sống trong mơi trường ánh sáng yếu, có bước
sóng thường là xanh da trời đến xanh lục và theo chu kỳ ngày đêm. ánh sáng
là yếu tố ảnh hưởng rất mạnh đến sự sinh trưởng và phát triển của vi tảo. Đây
là nguồn năng lượng chính cho q trình quang hợp của tảo. ảnh hưởng của
ánh sáng được thể hiện trên các khía cạnh: Chất lượng ánh sáng (phổ màu),
cường độ ánh sáng và thời gian chiếu sáng (chu kỳ quang) .
Theo Lương Văn Thịnh (1999), hầu hết các loài vi tảo sử dụng trong
ni trồng thuỷ sản đều thích ứng với cường độ ánh sáng thấp từ 50 - 300 —
µEm-2s-1. Vì vậy, trong điều kiện cường độ ánh sáng cao (ánh sáng trực tiếp
của mặt trời khoảng 2400 µEm -2s-1) cần phải có mái che để giảm cường độ
ánh sáng. Chu kỳ chiếu sáng ngày - đêm 14:10 hoặc 16:8 là thích hợp cho sự
sinh trưởng và phát triển của tảo. Nguồn ánh sáng cung cấp có thể là ánh sáng
tự nhiên hoặc ánh sáng của đèn huỳnh quang. Cường độ ánh sáng quá lớn (thí
dụ ánh sáng trực tiếp của mặt trời hoặc các thùng chứa nhỏ để gần ánh sáng
nhân tạo) có thể làm ức chế sự quang hợp. Tuy nhiên, dù là chiếu sáng tự
nhiên hay chiếu sáng nhân tạo cũng cần tránh làm nóng quá mức.
Ánh sáng ban ngày đủ cung cấp cho tảo quang hợp, song các bình tảo
giống chỉ phát triển tốt trong điều kiện ánh sáng khuyếch tán chứ không phải
9



ánh sáng mặt trời trực tiếp. Tảo chỉ có thể chịu được ánh sáng mặt trời trực
tiếp khi mật độ tảo nuôi đã đạt khá cao. Tốt nhất nên dùng các đèn huỳnh
quang phát sáng ở phổ ánh sáng xanh da trời hoặc đỏ vì đó là những phần tích
cực nhất của phổ ánh sáng đối với sự quang hợp. Trong phịng thí nghiệm
nguồn ánh sáng phổ biến được dùng để nuôi tảo là ánh sáng của đèn huỳnh
quang chiếu sáng liên tục.
Cường độ ánh sáng và thời gian chiếu sáng lâu có thể làm tăng nhiêt độ
của mơi trường ni tảo. Như vậy, ánh sáng cịn kết hợp với nhiệt độ tác động
lên sự phát triển của tảo.
- Ảnh hưởng của nhiệt độ
Trong môi trường sống tương đối ổn định về các điều kiện dinh dưỡng,
ánh sáng, độ muối... thì nhiệt độ có vai trị nhất định đối với sự sinh trưởng
của tảo. Mỗi lồi tảo đều có ngưỡng nhiệt độ thích hợp cho sự sinh trưởng,
nhưng mức chung nhất là 20 - 240C và khả năng chịu đựng là 16 - 270C. Nhiệt
độ dưới 160C sẽ làm chậm quá trình sinh trưởng và nhiệt độ trên 35 0C sẽ làm
chết tảo.
Theo Lương Văn thịnh (1999), mỗi một loài tảo thích ứng với khoảng
nhiệt độ khác nhau và được chia thành 4 nhóm sau:
- Nhóm rộng nhiệt: Gồm các lồi thích ứng với khoảng nhiệt độ từ
100C đến 300C như: Tetraselmis suecia, T. chuii, Dunaliella tertiolecta,
Nannochloris atomus, Chaetoceros calcitrans.
- Nhóm nhiệt đới và cận nhiệt đới: Gồm những lồi tảo phát triển tốt ở
nhiệt độ từ 15 - 300C như: Isochrysis sp, Chaetoceros gracilis và Pavlova salina.
- Nhóm các loài chỉ phát triển tốt ở khoảng nhiệt độ từ 10 - 250C, ngừng
phát triển ở 300C như: Pavlova lutheri.
- Nhóm các lồi tảo chỉ phát triển tốt ở nhiệt độ 10 - 200C như:
Thalassiosira psenudonana, Skeletonema costatum và Chrodomonas salina.

10



Mỗi một lồi tảo trong khoảng thích hợp về nhiệt độ của mình thì quá
trình sinh trưởng hợp chất hữu cơ nhanh, mật độ quần thể tăng nhanh nhưng
nó cũng nhanh chóng tàn lụi về mật độ. Chính điều này gây khó khăn cho các
trại sản xuất giống. Mặt khác, Việt Nam thuộc khu vực nhiệt đới gió mùa cho
nên nhiệt độ trung bình trong năm khá cao, đặc biệt vào các tháng mùa hè
nhiệt độ khơng khí trong ngày là (28 - 37 0C). Vì vậy các trại sản xuất cần
chọn lồi tảo ni cho phù hợp từng vùng, từng mùa. Bởi vì, mỗi một lồi tảo
thích hợp với ngưỡng nhiệt độ nhất định.
- Ảnh hưởng của độ mặn
Độ mặn có ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng và phát triển của vi tảo.
Điều này có thể thấy rõ trong thực tế sản xuất. Khi độ mặn biến đổi đột ngột
sẽ dẫn đến sự thay đổi thành phần vi tảo trong thuỷ vực. Theo Coutteau
(1996), thực vật phù du biển có khả năng chịu đựng rất lớn những thay đổi về
độ mặn. Hầu hết các loài đều phát triển rất tốt ở độ mặn hơi thấp hơn độ mặn
của mơi trường sống và điều này có thể thực hiện bằng cách dùng nước ngọt
làm loãng nước biển. Theo Ukeles 1976; also see Duerr and Mitsui 1982 , độ
mặn thích hợp để ương nuôi các loại vi tảo là 12 ÷ 40‰, tối ưu là 20 ÷ 24‰.
Theo Lê Viễn Chí (1996), độ mặn thay đổi làm biến đổi áp suất thẩm thấu của
tế bào, hạn chế quá trình quang hợp, hô hấp, tốc độ sinh trưởng của tế bào bị
hạn chế và giảm sự tích luỹ glucose (khi độ mặn giảm đột ngột 4,8‰). Ngồi
ra, độ mặn cịn ảnh hưởng đến thành phần sinh hoá và thành phần acid béo
của tảo.
- Ảnh hưởng của pH
Theo Lê Viễn Chí (1996), pH được coi là yếu tố biến đổi nội tại. Sự thay
đổi nhiệt độ, cường độ ánh sáng đều có tác động đến giá trị pH thơng qua q
trình quang hợp của tảo. Mức pH thuận lợi cho sự phát triển của hầu hết các lồi
tảo ni vào khoảng từ 7÷9, tối ưu nhất ở 8,2÷8,7 (Couttaeu,1997). Tuy nhiên

11



cũng có những lồi chịu được khoảng pH rộng hơn như: Isochrysis galbana có
thể chịu được pH ≤ 5 hay P. lutheri có thể chịu được giá trị pH là 9,8.
Trong quá trình quang hợp tảo hấp thụ CO 2 rất mạnh nên làm pH tăng
lên rất cao. Biện pháp khắc phục bằng cách sục khí có bổ sung CO 2 hoặc bổ
sung NaHCO3 vào môi trường.
- Ảnh hưởng của sục khí (xáo trợn nước)
Trong mơi trường ni tảo pH có thể được duy trì tương đối ổn định
nhờ sục khí liên tục. khơng khí có 0,03% thể tích là CO 2 góp phần giữ thăng
bằng giữa ion bicacbonat với CO2 và ion hydroxit (HCO3- <-> CO2 + OH-)
tạo ra hệ đệm chống lại sự biến động pH. Nhu cầu bổ sung CO 2 sẽ phụ thuộc
vào mật độ tảo, pH, cường độ ánh sáng và tốc độ sinh trưởng của tảo.
Việc sục khí giữ cho chất dinh dưỡng và các tế bào luôn phân bố đều,
tăng khả năng hấp thụ dinh dưỡng và ánh sáng thúc đẩy quá trình sinh trưởng.
dùng kiểu xáo trộn bằng sục khí thích hợp khi nuôi ở quy mô nhỏ hơn khi
nuôi ở quy mô lớn và đối với mỗi kiểu dụng cụ nuôi phải xác định chế độ sục
khí cần thiết để tảo đạt chất lượng cao nhất.
Sự xáo trộn nước là ngăn ngừa tảo không bị lắng nhằm đảm bảo các tế
bào tảo được tiếp xúc với ánh sáng và chất dinh dưỡng như nhau, tránh phân
tầng nhiệt, tăng sự trao đổi khí giữa mơi trương ni và khơng khí ( (Trích
Lavens, P; Sorgeloos, P. eds.)
Việc bổ sung CO2 sẽ đảm bảo đủ CO2 cho quang hợp và điều chỉnh pH.
1.2. Tình hình sản xuất và ứng dụng tảo làm thức ăn cho động vật thủy
sản trên thế giới
Đối với tảo, hai loài Isochrisys galbana và Pyramimonas grossii đầu
tiên được Bruce và ctv báo cáo đã phân lập và nuôi đơn chúng dùng làm thức
ăn trong nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là dùng cho ni ấu trùng trai, hầu. Tiếp
theo đó, là kết quả nuôi thành công tảo khuê cho nhiều lồi động vật khơng
12



xương sống khác nhau của Allen và Nelson, 1910 (Ryther và Golman, 1975).
Đến năm 1941, khi Matsue tìm ra phương pháp phân lập và ni cấy tảo
thuần lồi Skeletonema costatum thì lồi tảo này đã được Hudinaga dùng làm
thức ăn cho ấu trùng tôm Penaeus japonicus và đã tăng tỉ lệ sống của ấu trùng
ở giai đoạn lên 30%, thay vì 1% so với các kết quả trước đây (Liao, 1983).
Phương pháp nuôi tảo khuê cho ấu trùng tôm của Hudinaga được gọi là
“phương pháp nuôi cùng bể” và sau đó phương pháp này được Loosanoff áp
dụng trong ương ni ấu trùng hai mảnh vỏ.
Từ những năm 1940, người ta rất quan tâm đến nuôi sinh khối tảo, không
chỉ dùng cho nghề ni thủy sản mà cịn vì nhiều mục đích khác, như: cải tạo
đát, lọc nước thải, nguồn thực phẩm cho con người hay thức ăn tươi sống.
Beijerinck đã nghiên cứu nuôi tảo Chlorella vulgaris lần đầu tiên trong ống
nghiệm và đĩa petri. Nhiều nghiên cứu tiếp theo được tiến hành và cho đến
năm 1948-1950, một cơng trình đầu tiên chuyển phương pháp ni cấy trong
phịng thí nghiệm ra qui mô sản xuất lớn đã được thực hiện bởi nhà khoa học
Litter, của Cambridge (Soeder, 1986). Tuy nhiên, về sau nuôi đại trà tảo
Chlorella phát triển chủ yếu là ở Đông Nam Châu Á, đặc biệt là ở Nhật, Trung
Quốc, Đài Loan (Richmon, 1986). Ví dụ: Ở Đài Loan, ni sản xuất tảo được
hình thành vào năm 1964, đến năm 1977, đã có 30 trại sản xuất với cơng suất
200 tấn/tháng, sản xuất khoảng 1.000 tấn/năm. Các loài tảo khác như
Dunadiella, Scenedesmus, Spirulina.. . cũng được nghiên cứu và phổ biến ra
qui mô sản xuất. Số liệu thống kê cho thấy, tổng sản lượng hàng năm của tảo
Spirulina trên thế giới là 850 tấn, trong đó, Mexicơ đóng góp 300 tấn, Đài
Loan: 300 tấn, Hoa Kỳ: 90 tấn, Thái Lan 60 tấn, Nhật Bản :40 tấn và Israel:
30 tấn (Richmon, 1986).
Để phục vụ cho mục đích ni thủy sản, nhiều lồi tảo khác cũng được
nghiên cứu ni trong điều kiện phịng thí nghiệm hoặc ở qui mơ sản xuất.


13


Wendy và Kevan, 1991, đã tổng kết: ở Hoa kỳ, các loài Thalasiossira
weisssflogii, Skeletonema, Chaetoceros calcitrans, Chaetoceros mulleri,
Nannochloropsis ocula, Cchlorella minutissima... được nuôi để làm thức ăn
cho luân trùng, ấu trùng hai mảnh vỏ, ấu trùng tôm và cá theo hương pháp
từng đợt hoặc bán liên tục trong những bể composite 2.000-25.000 lít. Ở
Washington, năng suất tảo lồi Thalasiossira weisssflogii có thể đạt 720 kg
khơ/24.000 tấn/8 tháng ; cịn ở Hawaii, năng suất lồi Nanochlopsis đạt
khoảng 2,2 triệu lít/năm.
Trung Quốc bắt đầu nghiên cứu nuôi tảo từ những năm 1940. Nhưng mãi
đến 1980, chỉ có hai lồi Phaeodactylum triconutum và Tetraselmis
subcordiformis là đối tượng nuôi dùng trong ương ấu trùng tơm. Về sau, có
nhiều lồi đã được phân lập để ni cấy. Song, những lồi ni chính bao
gồm

Isochrisys

galbana,

Pavlova

viridi,

Chaetoceros

muelleri,

Phaeodactylum triconutum, Tetraselmis dùng cho ấu trùng tôm Penaeus

chinensis và Argopecten. Chúng được nuôi bằng phương pháp thu từng đợt.
Năng suất nuôi của Isochrisys galbana có thể đạt 4,8 x 1015 tế bào/năm.
Ở Đài Loan, các đối tượng ni chính là Nannochloropsis oculata,
Tetraselmis, Chlorella sp., dùng cho ương nuôi ấu trùng họ tôm he (Penaeus),
loài Isochrysis galbana trong ương nghêu.. .Riêng loài Skeletonema costatum,
sản lượng ni có thể đạt tới 9.000 tấn/năm.
Ni tảo ở Nhật cũng rất quan trọng với nhiều đối tượng nuôi và bằng
phương pháp thu từng đợt hoặc bán liên tục: Chaetoceros sp., Penaeus
japonicus và Metapenaues ensis, Isochrysis sp. và Pavlova lutheri dùng cho
hai mảnh vỏ, Tetraselmis sp., Nanochloropsis oculata, Chlammydomonas sp.
cho luân trùng Brachionus plicatilis.
Nuôi tảo khuê cũng rất phổ biến ở Thái Lan, nhất là loài Skeletonema
costatum và Chaetoceros calcitrans dùng cho ấu trùng tôm. Bể nuôi thường là

14


bể composite có thể tích 1.000 lít hay bể ximăng 4.000 lít. Ước đốn năng
suất đạt được khoảng 3 x 1012 tế bào/tháng.
Ở nước ta, hiện nay đã có nhiều cơ quan nghiên cứu đã nhập giống, phân
lập, lưu giữa và ni sinh khối các lồi tảo thuần cho mục đích nghiên cứu và
sản xuất thực nghiệm. Song, thực tế, các trại sản xuất vẫn còn sử dụng chủ
yếu là các loại tảo tự nhiên do chưa có điều kiện phịng thí nghiệm lưu giống
thuần tại trại và cơng việc này cũng khá phức tạo đối với trại sản xuất kinh
doanh.
1.3. Tình hình sản xuất và ứng dụng tảo làm thức ăn cho động vật thủy
sản tại công ty CP
Ở Việt Nam, các cơng trình nghiên cứu ni vi tảo biển làm thức ăn
cho các động vật thủy sản mới chỉ được tiến hành gần đây cùng với sự phát
triển của nghề ni biển, mục đích cung cấp nguồn thức ăn cho nhu cầu sản

xuất con giống của một số đối tượng như: Tôm Sú, Tôm Bạc, Điệp Quạt, Bào
Ngư, Trai Ngọc, Cá Ngựa, Ốc Hương…
Từ những năm 2001, tập đồn CP Việt Nam đã đưa lồi tảo này ni
thử nghiệm làm thức ăn tươi sống cho ấu trùng tôm Sú tại Chi nhánh Ninh
Thuận - Chi nhánh chuyên về sản xuất tôm giống. Nhận thấy chúng phát
triển rất tốt, rất phù hợp với điều kiện nhiệt độ và độ mặn của vùng biển
Ninh Thuận nên từ đó đến nay chúng được nuôi rộng rãi trong tất cả các
trại sản xuất giống của Cơng ty. Cùng

với các lồi tảo khác như

Chaetoceros sp, Skeletonema costatum, thì tảo Thalassiosira weissflogii là
một trong những loại thức ăn tươi sống không thể thay thế cho ấu trùng
zoae tôm thẻ Chân trắng.
Theo kết quả nghiên cứu của Trần Thị Thảo (2007) về ảnh hưởng của
các yếu tố sinh thái lên sự phát triển của quần thể tảo Thalassiosira
weissflogii tại Ninh Thuận cho thấy chúng phát triển tốt ở độ mặn 30ppt. Ở độ

15


mặn 35ppt tuy nó lên màu đẹp hơn nhưng lại nhanh tàn hơn và hàm lượng
dinh dưỡng thấp hơn (Trần Thị Thảo, 2007)
Hiện nay, tảo Cát Thalassiosira đang được ứng dụng rộng rãi trong việc
sản xuất giống tôm thẻ chân trắng ở công ty. Riêng ở chi nhánh ninh thuận
trung bình hàng tháng cung cấp khoảng 1500- 2000 tấn tảo Thalassiosira
weissflogii làm thức ăn tươi sống cho ấu trùng tôm thẻ chân trắng dưới cả 2
hình thức ni tảo trong ống và sinh khối ngồi trời .
Cơng ty xác định rằng nuôi tảo là một trong những công việc quan
trọng nhất để dẫn đến sự thành công trong sản xuất giống tơm thẻ chân trắng.

Vì vậy hiện nay cơng ty đang nghiên cứu và áp dụng rất nhiều công nghệ, kỹ
thuật sản xuất tảo mới. Ngoài ra việc kiểm tra và theo dõi các yếu tố có thể
làm giảm năng suất của tảo cũng rất chặt chẽ.Tuy nhiên, vẫn còn xuất hiện
phylamentoot, protozoa làm ảnh hưởng đến chất lượng của tảo cung như của
tôm giống rất nhiều. Đây cũng là vấn đề mà công ty đang cố gắng hạn chế đến
mức ít nhất có thể

16


Chương 2

ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, vật liệu, thời gian và địa điểm nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Tảo Thalassiosira wessflogii
2.2.2. Vật liệu nghiên cứu
- Tảo Thalassiosira wessflogii được lấy từ phòng lưu trữ giống tảo của
Công ty đã được phân lập. Tảo giống dùng trong thí nghiệm được lấy ở pha
sinh trưởng logarit (hàm số mũ).
- Chai 2lít để thí nghiệm, Thùng 500l để ni sinh khối
- Hệ thống máy nén khí, ống dẫn khí, dây khí, nút cao su
- Hệ thống máy bơm nước, các bể chứa nước và đường ống cấp nước.
- Kính hiển vi OPTIMA PT/PD.MCO1/2011, buồng đếm hồng cầu,
pipet nhựa và các lọ đựng mẫu.
- Máy đo môi trường: nhiệt kế thủy ngân, khúc xạ kế, máy đo pH.
2.1.3. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 2 năm 2012 đến tháng 5 năm 2012.
2.1.4. Địa điểm nghiên cứu

Trại Tôm Giống Ninh Thuận- Cty Cổ Phần Chăn Nuôi CP Việt Nam
2.2. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường dinh dưỡng đến sự phát triển
của thảo Thalassiosira wessflogii
- Nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ nuôi cấy ban đầu đến sự phát triển
của tảo Thalassiosira wessflogii
- Nghiên cứu ảnh hưởng của độ mặn đến sự phát triển của tảo
Thalassiosira wessflogii
17


2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp bớ trí thí nghiệm
Các thí nghiệm nghiên cứu ảnh hưởng của mơi trường nuôi cấy, mật độ
ban đầu, độ mặn, cường độ ánh sáng đến sự phát triển của quần thể tảo
Thalassiosira wessflogii đều được bố trí trong bình thuỷ tinh có thể tích 2lít
và được lặp lại 3 lần.
* Thí nghiệm 1: Ảnh hưởng của môi trường dinh dưỡng đến sự
phát triển của tảo Thalassiosira wessflogii
- Thí nghiệm được bố trí với 3 nghiệm thức tương ứng với 3 môi

trường dinh dưỡng Conway, F2, TMRL
- Mật độ tảo ban đầu: 10x104 tế bào/ml
- Độ mặn: 30 o/oo
- Cường độ ánh sáng: 3000-4000 lux
- Nhiệt độ: trong phịng (có máy điều hịa)
* Thí nghiệm 2: Ảnh hưởng của mật độ ban đầu đến sự phát triển
của tảo Thalassiosira wessflogii
Môi trường nuôi cấy: là mơi trường đã được chọn ở thí nghiện 1
- Các mật độ tảo ban đầu thí nghiệm: 5; 10; 15; 20 x 104 tế bào/ml.

- Cường độ ánh sáng: 3000-4000 lux
- Độ mặn: 30 o/oo
- Nhiệt độ: trong phịng (có máy điều hịa)
* Thí nghiệm 3: Ảnh hưởng của độ mặn đến sự phát triển của tảo
Thalassiosira wessflogii
Các mức độ mặn thí nghiệm: 20; 25; 30; 35 ppt
- Mơi trường ni cấy: là mơi trường đã được chọn ở thí nghiện 1.
- Cường độ ánh sáng: 3000-4000 lux
- Nhiệt độ: trong phịng (có máy điều hịa)

Mật đợ tảo ban đầu: 10x104 tế bào/ml
18


Tảo Thalassiosira wessflogii
Thí nghiệm 1: Mật độ ban đầu
5, 10, 15, 20 x 104 tb/ml
Mật độ ban đầu thích hợp
Thí nghiệm 2: độ mặn
(20‰,25‰,30‰,35‰)
Độ mặn thích hợp
Thí nghiệm 3: Mơi trường dinh dưỡng
(TMRL, F2, Conway)
Môi trường phù hợp
Ứng dụng các kết quả trên để ni thu
sinh khối Thalassiosira wessflogii

Hình 2.1. Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu
2.3.2. Phương pháp xác định các chỉ tiêu nghiên cứu
* Phương pháp xác định sinh trưởng của vi tảo

- Bằng phương pháp đếm mật độ:
Việc xác định số lượng tế bào tảo được tiến hành bằng cách đếm tế bào
trên buồng đếm hồng cầu Neubacur’s Hemacytometer, buồng đếm có 25 ơ
vng lớn, mỗi ơ vng lớn có 16 ơ vng nhỏ, mỗi ơ vơng nhỏ có diện tích
0.0025mm2 và độ sâu buồng đếm là 0.1mm.
- Cơng thức tính mật độ tế bào tảo:
Nếu mật độ tảo thưa (dưới 5.106 tb/ml) thì:
Mật độ tế bào (tb/ml) = số tế bào đếm được trong 4 ô lớn/4 x 104
Nếu mật độ tế bào dày (trên 5.106 tb/ml) thì:

19


Mật độ tế bào (tb/ml) = (số tế bào đếm được trong 5 ô lớn/5) x 25 x 104
* Phương pháp xác định một số yếu tố môi trường
- Đo cường độ ánh sáng: dùng máy đo Ana-F1 của Nhật
- Đo độ mặn: dùng khúc xạ kế (refractometer)
- Đo nhiệt độ: dùng nhiệt kế rượu
2.4. Phương pháp thu thập và xử lý số liệu
- Số liệu thu trực tiếp qua q trình thí nghiệm
- Số liệu được xử lý trên chương trình thống kê sinh kê sinh học trên phần mềm
EXCELL 2003 và SPSS 16.0

20


Chương 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN


3.1. Ảnh hưởng của môi trường dinh dưỡng đến sự phát triển của tảo
Thalassiosira wessflogii :
Trong q trình bố trí thí nghiệm, các yếu tố nhiệt độ và ánh sáng, pH
được khống chế phù hợp. Nhiệt độ từ 27-28 oC, ánh sáng đèn huỳnh quang,
pH ở mỗi cơng thức thí nghiệm đều dao động từ 7,5 - 8,7, pH tăng cao vào
những ngày mật độ đạt cực đại tuy nhiên vẫn nằm trong giới hạn pH tối thích
hợp cho sự phát triển của tảo.
Mơi trường dinh dưỡng và tảo có mối quan hệ chặt chẽ không thể tách
rời. Trong nuôi tảo, môi trường ni cấy phải có đầy đủ các thành phần, hàm
lượng dinh dưỡng và tương đồng với môi trường sống tự nhiên của tảo, tạo
điều kiện thuận lợi cho tảo phát triển tốt nhất cả về số lượng và chất lượng.
Môi trường dinh dưỡng có vai trị rất lớn làm tăng cường quá trình trao đổi
chất, thúc đẩy sinh trưởng, phát triển của tảo Thalassiosira wessflogii
Qua bố trí thí nghiệm về ảnh hưởng của môi trường dinh dưỡng đến sự
phát triển của tảo Thalassiosira wessflogii thu được kết quả ở hình 3.1 và
bảng 3.1.

21


Bảng 3.1. Ảnh hưởng của các môi trường dinh dưỡng khác nhau tới sự
phát triển của tảoThalassiosira wessflogii
Đơn vị: vạn tb/ml
Ngày nuôi

F2

TMRL

Conway


0
1
2
3
4

10,00
23,33±3,05a
46,67±4,16a
79,33±3,51a
89,67±2,51b

10,00
23,00±3,00a
44,00±3,60a
64,00±4,35b
82,67±2,51c

10,00
20,33±4,16a
43,30±3,51a
63,67±3,21b
95,67±3,21a

5
6

120±10,00a
127,67±15,53a


73,00±3,00b
73,00±3,00b

81,67±1,53b
73,00±2,64b

7

114,33±5,51a

62,33±3,51b

64,33±1,53b

8

92,67±3,05a

54,33±2,08b

47,00±2,00c

MĐCĐ

127,67±15,53a

82,67±2,51c

95,67±3,21a


(Ghi chú: Các số liệu ở cùng một hàng có ký hiệu số mũ khác nhau thể hiện
sự sai khác có ý nghĩa thống kê P< 0,05).

Hình 3.1. Sự phát triển của tảo Thalassiosira wessflogii
ở các môi trường dinh dưỡng khác nhau
22


Qua kết quả được trình bày ở bảng 3.1 và hình 3.1 trên ta thấy hai ngày
ni đầu sự phát triển của tảo khơng có sự sai khác nhau giữa các cơng thức
thí nghiệm (P>0,05). Bắt đầu từ ngày ni thứ 3 trở đi, đã xuất hiện sự sai
khác có ý nghĩa thống kê (p<0.05) về quá trình sinh trưởng của tảo trong 3
cơng thức thí nghiệm. Thời gian để đạt mật độ cực đại của các CT là khác
nhau. Cụ thể ở môi trường F2 đến ngày thứ 6 tảo đạt mật độ cực đại, cịn ở
mơi trường TMRL, Conway thì đến ngày thứ 4 tảo đã đạt mật độ cực đại. Sự
sai khác này được thể hiện rất rõ ở hình 3.1. Vì vậy, trong ni sinh khối cần
thời gian cực đại ngắn, ta có thể sử dụng mơi trường TMRL, Conway. Cịn
khi để lưu giữ, nhân giống trong phịng thí nghiệm ta dùng mơi trường F2.

Hình 3.2. Mật độ cực đại của tảo Thalassiosira wessflogii
ở các môi trường dinh dưỡng khác nhau
Môi trường TMRL tảo phát triển kém, sinh khối tảo đạt MĐCĐ thấp
82,67 ± 2,51 vạn tb/ml trong thời gian 4ngày. Cịn mơi trường F2, mơi trường

23


Conway


phát triển tốt hơn với sinh khối tảo đạt MĐCĐ lần lượt là

127,67±15,53 và 95,67±3,21 vạn tb/ml có sự sai khác thống kê ( P < 0.05).
Trong 3 môi trường thí nghiệm thì tảo Thalassiosira wessflogii sinh
trưởng tốt nhất, đạt mật độ cực đại cao nhất là môi trường F/2. Trong suốt q
trình thí nghiệm với cùng mật độ ban đầu thì mật độ tảo Thalassiosira
wessflogii trong mơi trường F/2 ln ln cao nhất ở các ngày ni (bảng 3.1).
Có thể giải thích sự khác nhau trên là do thành phần của từng môi trường khác
nhau. Ở môi trường F2 MĐCĐ lớn hơn và thời gian tàn lụi chậm hơn.
Cả ba mơi trường đều có các thành phần dinh dưỡng chính giống nhau
như: NaNO3, NaH2PO4, EDTA, FeCl3. Tuy nhiên, giữa các mơi trường vẫn có
những sự khác nhau. Khi so sánh môi trường F2 và môi trường TMRL ta
thấy: Môi trường TMRL có thành phần dinh dưỡng đơn giản, thiếu các
nguyên tố vi lượng như: Cu, Zn, Co, Mn, Mo và một số vitamin như: B 1, B6,
B12. Đây có thể là nguyên nhân dẫn đến môi trường TMRL không thích hợp
cho tảo Thalassiosira wessflogii phát triển bằng mơi trường F2. Mặt khác, khi
so sánh môi trường F2 và môi trường Conway ta thấy: Về cơ bản, thành phần
dinh dưỡng của hai môi trường này tương đối đầy đủ và tương tự nhau nhưng
hàm lượng đạm, lân, EDTA, Cu, Mn, Vitamin B 12 của môi trường F2 lớn hơn
môi trường Conway. Đó có thể là nguyên nhân dẫn đến tảo phát triển trong
môi trường F2 tốt hơn trong môi trường Conway. Qua đây ta thấy, môi trường
dinh dưỡng ảnh hưởng trực tiếp đến sinh khối và chất lượng của vi tảo. Vì
vậy, mơi trường ni cấy tảo khơng chỉ địi hỏi phải có thành phần dinh
dưỡng đầy đủ mà hàm lượng các chất dinh dưỡng cũng phải đảm bảo (đặc
biệt là hàm lượng đạm và lân) để tảo có chất lượng và sinh khối cao nhất.
Kết quả này phù hợp với nhận xét của Coutteau P. (1996) là môi trường
làm giàu được sử dụng rộng rãi và thích hợp cho sinh trưởng của hầu hết các
lồi tảo là mơi trường F2 của Guilard.
24



Theo kết quả nghiên cứu của Chu Văn Ninh (2011), thí nghiệm được
tiến hành với 3 mơi trường khác nhau là F 2, TMRL, tổng hợp, bố trí ni sinh
khối thùng 20l trong các nhà tảo, mật độ cấy ban đầu là 80 vạn tb/ml thì kết
quả cho thấy tại môi trường F2 mật độ cực đại đạt 250,50 vạn tb/ml qua 7
ngày ni cịn TMRL và mơi trường tổng hợp lần lượt đạt 244,08 vạn tb/ml
và 225,92 vạn tb/ml. Còn với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Thảo
(2007)[11], thí nghiệm được tiến hành với 3 mơi trường khác nhau là F 2 (có
bổ sung thêm Thianin (B1) 0.1mg/l, Biotin (B6 ) 0.0005mg/l, Riboflavin(B12)
0.0005mg/l), môi trường TT3 và môi trường HBM – 95, điều kiện mơi
trường là phịng thí nghiệm, mật độ cấy ban đầu là 10 vạn tb/ml thì kết quả
cho thấy tại mơi trường F2 mật độ cực đại đạt 120,6 vạn tb/ml qua 6 ngày ni
cịn TT3 và HBM-95 lần lượt đạt 83,2 vạn tb/ml và 97,4 vạn tb/ml.
So với kết quả nghiên cứu của Chu Văn Ninh và Nguyễn Thị Thảo thì
thí nghiệm của chúng tơi sinh trưởng tốt hơn. Qua đó cho thấy tầm quan trọng
của các vitamin đối với sự sinh trưởng của tảo Thalassiosira wessflogii.
Kết quả nghiên cứu của Phạm Mỹ Dung 2009 cho thấy tốc độ sinh
trưởng của tảo C. Muelleri sau 22 ngày nuôi cấy đạt cao nhất trên môi trường
Erd, F2 là tốt nhất tương ứng với giá trị OD 680 lần lượt là 1,298 ± 0,048,
0,923 ± 0,07 tại ngày ni 22. So với kết quả trên thì trong mơi trường này tốt
hơn
Qua kết quả phân tích ANOVA một nhân tố và so sánh LSD 0.05 ta thấy
môi trường F2 và mơi trường Conway có sự sai khác có ý nghĩa thống kê
(p<0.05). Vì vậy chúng tơi chọn mơi trường F2 là mơi trường dinh dưỡng cho
thí nghiệm tiếp theo. Để thu sinh khối tảo lớn nhất và chất lượng tốt nhất nên
thu sinh khối tảo trước khi tảo đạt MĐCĐ (thu vào ngày thứ 4 hoặc thứ 5) vì

25



×