Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

LUẬN văn tốt NGHIỆP CAO ĐẲNG PHẬT học ý NGHĨA PHẨM dược THẢO dụ TRONG KINH PHÁP HOA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.38 KB, 24 trang )

LỜI TRI ÂN
Chúng con cảm tạ mẹ cha khi được sinh ra trong cõi đời, lại được phước
phần nhờ ơn Tam Bảo để nương náu nơi cửa phật. Trong quá trình tu tập, để có
thêm được những tư lương trên lộ trình chân lý mà mỗi người phật tử, chúng con
xin cảm tạ công ơn của Chư tôn đức đã dạy bảo, quả thật là: "Sinh ra ta là cha
mẹ, tác thành ra ta là thầy bạn, nhờ thầy bạn mà ta trở thành nhân nghĩa" . Chúng
con luôn khắc cốt ghi tâm lời dạy của Chư tôn đức khi nhắn nhủ "người tu học
như hoa soài chứng cá" để ln nhắc nhở bản thân mình rằng, muốn vững vàng
theo con đường phật pháp, phải luôn cần mẫn học tập, con đường cầu đạo cũng
việc đọc một cuốn sách mà khơng có trang cuối cùng.
Thời gian ngồi trên ghế Phật đường của chúng con không dài, nhưng
chúng con được Chư tôn đức truyền thụ nguồn suốt pháp dạt dào, được tắm mình
trong biển phật pháp mà lịng tràn đầy sự biết ơn và kính trọng.
Để có được những kết quả trong quá trình học Phật, chúng con xin cảm tạ
sự hướng dẫn tận tình của Chư tơn đức giảng sư để con đường cử nhân sắp được
hoàn mãn chu viên, chúng con cầu nguyện hồng ân Tam Bảo gia hội cho các
Ngài luôn là "Thạch trụ tùng lâm, đống lương Phật pháp", để lớp lớp hậu côn lại
được thân thừa pháp nhũ.

A. DẪN NHẬP
1. Mục đích nghiên cứu và lý do chọn đề tài
Con người đã biết tìm thức ăn để sinh sống ngay từ khi mới xuất hiện trên
trái đất. Ban đầu họ sống nhờ săn bắn, hái lượm sau đó họ biết chế tạo những
cơng cụ sản x́t đơn giản. Nhờ có sự kế thừa và học hỏi từ thế hệ này qua thế hệ


khác mà con người tiến bộ. Qua quá trình sinh sống, con người biết đoàn kết,
sáng tạo để chống lại ác thú, thiên tai, dịch bệnh và thời tiết.
Nhân loại đã có những thành cơng vượt bậc về mặt đời sống vật chất. Hiện
nay, nền y học hiện đại có thể điều trị được rất nhiều bệnh tật, tuổi thọ cao hơn,
chất lượng cuộc sống phong phú hơn. Bên cạnh đời sống vật chất, cịn có đời


sống tinh thần mà con người cần phải quan tâm biểu hiện qua nhân cách, đạo
đức. Khi đời sống vật chất bị đề cao một cách quá mức, đời sống tinh thần sẽ
chịu ảnh hưởng rất lớn và sẽ dẫn đến hiện tượng "thân" khơng có bệnh mà tâm
lại có "bệnh". Qua thực tế chúng ta thấy rằng cùng với sự phát triển của xã hội là
những bất cập mà nó mang lại gây khổ đau cho con người. Chỉ có “tâm” của
chúng ta tốt mới mang lại sự cân bằng và tốt đẹp cho xã hội.
Để hàn gắn sự đổ vỡ của các trường phái phật giáo thì Kinh Pháp Hoa
đóng một vai trị hết sức quan trọng. Bên cạnh đó, những tư tưởng cốt lõi của
Bát-nhã, Hoa nghiêm, Duy-ma cũng tổng hợp trong Pháp Hoa và mở ra một
chân trời mới cho con người trong xã hội: mọi người ai cũng có Phật tính, ai
cũng có thể thành Phật. Bộ Kinh Pháp Hoa trình bày linh hoạt uyển chuyển như
một vở kịch có nhiều màn, nên nó mang tính đại chúng, mọi người dễ hiểu chứ
khơng cứng nhắc mang tính chân lý theo khía cạnh triết học hoặc chun mơn.
Đó là cách dùng cái bình thường thơng tục để truyền đạt chân lý cao siêu qua và
thơng qua đó chính là loại thảo dược chữa lành mọi vết thương trong tâm hồn
con người, và con người ln bình đẳng trước Phật pháp. Điển hình là Dược
Thảo Dụ trong Kinh Pháp Hoa. Từ đâu đến cuối toàn phẩm ta thấy rằng, những
sự kiện, hiện tượng xảy ra hàng ngày và gắn liền với đời sống tâm thức, tình cảm
của con người đã được đức Thế Tơn dùng hình ảnh thí dụ rất sống động, rất giản
đơn để truyền tải.Trong quá trình học tập và nghiên cứu kinh Pháp hoa, con xin
lựa chọn đề tài " Ý nghĩa Phẩm Dược thảo dụ trong trong Kinh Pháp hoa" làm
luận văn tốt nghiệp
2. Phạm Vi Nghiên Cứu


Phạm vi luận văn nghiên cứu là Phẩm Dược Thảo dụ- một nội dung nhỏ
trong bộ Kinh Pháp Hoa dài và cao thâm. Qua đó chúng ta thấy được phương
pháp đức Phật giáo dục và giác ngộ mà trong kinh ghi chép. Người viết đã sưu
tập những tài liệu có liên quan đến Kinh Pháp Hoa để thực hiện đề tài này,.
3. Phương Pháp Nghiên Cứu

Những ý kinh được chư Tôn Đức giảng giải thông qua học trực tiếp và từ
kinh sách đã được người viết trình bày bằng sự tổng hợp, chọn lọc, trích dẫn,
phân tích trong đê tài này. Bên cạnh đó, những hiểu biết của học Tăng đã được
thêm vào làm cho độc giả phần nào tiếp nhận dễ dàng hơn.
Nhu cầu về học Phật cần được đề cao, được diễn giải và phổ biến khi cuộc
sống nhân sinh vẫn còn khổ đau. Đề tài luận văn mang tính thiết thực vì cần có
thêm những tài liệu tham khảo là thực sự cần thiết khi Bộ Kinh Pháp Hoa được
công chúng ở mọi tầng lớp nghiên cứu và tu tập.
B: NỘI DUNG
CHƯƠNG I. GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ KINH PHÁP HOA
1.1. Xuất xứ
Giáo đoàn bắt đầu phân phái sau khi đức Phật nhập diệt 100 năm. Có sự
khác biệt giữa những quan điểm, những lời giải thích giáo lý, giới luật giữa các
nhóm, các phái và các vùng khác nhau. Có phần lệch lạc trong ghi nhớ và giải
thích của Tinh thần giáo lý Nguyên thủy. Lần lượt xuất hiện những kinh điển Đại
thừa, lý tưởng Đại thừa được phát dương, giáo lý được giải thích mang tính đại
chúng và tích cực hơn. Bộ kinh lớn Bát-nhã xuất hiện khá sớm, tư tưởng Chân
không được triển khai, tích cực đả phá Tiểu thừa, Thanh văn và Duyên giác được
cho rằng không phải là con của Phật.
Kinh Hoa xem Tiểu thừa là thấp kém hạ liệt và nghiêm chủ trương pháp
giới duyên khởi. Tiểu thừa bị chỉ trích thậm tệ ở thời Duy-ma-cật. Phật giáo suy
yếu do sự đả phá chỉ trích lẫn nhau, khơng chấp nhận nhau. Đường lối tu tập
được Đại thừa đưa ra sinh động hơn nhưng đã tạo ra mối mâu thuẫn ngày càng
gay gắt, do đó nhu cầu về con đường hịa giải trở nên cấp thiết. Kinh Pháp hoa
xuất hiện đã tạo sự thống nhất về tư tưởng và đường lối Phật giáo,chủ trương hòa


giải mọi mâu thuẫn gay gắt của các dòng tư tưởng Đại thừa trước đó đối với giáo
lý truyền thống. Theo đa số các nhà nghiên cứu Phật học, công cuộc hàn gắn sự
đổ vỡ của các trường phái Phật giáo khơng thể thiếu vai trị quan trọng của kinh

Pháp hoa. Bên cạnh đó, những tư tưởng cốt lõi của Bát-nhã, Hoa nghiêm, Duyma cũng tổng hợp trong Pháp Hoa và mở ra một chân trời mới cho con người
trong xã hội: mọi người ai cũng có Phật tính, ai cũng có thể thành Phật.
1.2. Phiên dịch và truyền bá
Kinh Pháp hoa có rất nhiều bản dịch khác nhau và được dịch rất sớm.
Trong Tinh Hoa Triết Học Phật Giáo Theo Junjiro Takakusu (bản dịch việt Tuệ
Sỹ) thì “bản Hán dịch sớm nhất do Pháp Hộ (Dharmaraksa) vào năm 286, bản
dịch thứ hai do Cưu-ma-la-thập (Kumàrajìva) năm 406 và bản thứ ba (đầy đủ
nhất) do Xà-na-quật-đa (Jnanagupta) và Đạt-ma-cấp-đa (Dharmagupta) năm 601.
Trong mấy bản dịch này, bản thứ hai có văn chương hay nhất và có thẩm quyền
nhất về Pháp hoa, được các nhà thẩm quyền nhất về Pháp hoa thừa nhận.”1
Từ khi được Cưu-ma-la-thập (Kumàrajìva) dịch và phổ biến thi Diệu pháp
liên hoa kinh trở nên một trong những chủ đề phổ biến nhất trong công cuộc
nghiên cứu Phật học cùng với kinh Bát-nhã và kinh Niết-bàn. Với đường lối
dung hịa và tư tưởng pháp chân khơng siêu thốt nên kinh Pháp hoa đã đạt được
mục đích của mình là “Khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến”. Vì vậy mà
kinh Pháp hoa được tơn thờ, được hành trì và phổ biến sâu rộng nhất.
Theo nghiên cứu thì kinh Pháp hoa phát triển thành như hiện nay. Có thể
chia thành 4 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Kinh Pháp hoa mang tính đại chúng và được viết bằng tiếng
Prakrit, trong đó phần Trùng tụng xuất hiện trước.
Giai đoạn 2: Ở giai đoạn này Pháp hoa Được thêm vào phần văn xuôi
nhằm làm cho phần Kệ tụng được rõ hơn.
Giai đoạn 3: Phần văn xuôi được tiếp tục phát tiển hơn. Nếu chúng ta so
sánh các bản Phạn thì các bản Cổ văn xuôi ngắn hơn và các bản về sau dài hơn.
1Junjiro

Takakusu - Tinh hoa và Triết học Phật giáo - Tuệ Sỹ dịch, Ban tu thư
Phật học, 2004,



Giai đoạn 4: Kinh Pháp hoa được phát triển thêm bản mới. Bản Phạn cũ
chỉ có 27 phẩm, sau này phẩm Đề Bà Đạt Đa được thêm thành 28 phẩm.
Hiện nay có rất nhiều bản Phạn ngữ kinh Pháp hoa được tìm thấy ở Nepal
và Tây Tạng… kinh Đại tạng Hán ngữ nay chỉ còn 3 bản. Riêng bản dịch Pháp
hoa quốc ngữ kinh của Pháp Liên theo như người viết thì nó là một bản kinh giải
âm bằng thơ tiếng Việt dài nhất hiện nay. Trong 28 phẩm, ngoại trừ ba phẩm
Chúc Lụy thứ 22, Dược Vương thứ 23 và Diệu Âm thứ 24 đêu viết bằng thể song
thất lục bát thì 25 phẩm cịn lại đều được diễn âm bằng thể lục bát.
Sự nghiên cứu, truyền bá kinh Pháp hoa vơ cùng sâu rộng, nó nắm giữ vai
trị vô cùng quan trọng ở Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản và các nước theo truyền
thống Đại thừa khác.
1.3. Cấu trúc và nội dung tư tưởng Kinh Pháp Hoa
Kinh Pháp Hoa có 28 phẩm, hình thành từ phẩm thứ nhất đến phẩm 28 trải
qua thời gian 300 – 400 năm. Kết cấu trong bộ Kinh này có mạch lạc, ý tứ, có
kết cấu rất đặc biệt từ dàn bài cho đến chi tiết. Kinh Pháp Hoa được sự tham gia,
thổi vào sinh khí là Ngài Long Thụ, cơ bản là cuốn Trung luận. Trong tác phẩm
của Ngài chúng ta lưu ý đến ý niệm gọi là Nhị đế, Nhị đế gồm chân đế và tục đế,
Đế là sự thật, chính ý niệm này là kết cấu cơ bản của bộ Kinh Pháp Hoa.
Trong 28 phẩm của Kinh Pháp Hoa, phẩm thứ nhất là chân đế, Đức Phật
Thích Ca trong trạng thái thiền định vơ lượng nghĩa xứ khơng nói một lời nào
hết, thân tâm bất động. Phẩm thứ 2 đến phẩm 28 là tục đế, mở đầu phẩm 2 là
phẩm phương tiện Đức Phật từ chỗ ngồi đứng dậy bắt đầu tuyên thuyết. Như
vậy, phẩm thứ nhất Đức Phật im lặng, ở đây có thể dùng hình tượng chân đế là
như mặt trăng, 27 phẩm còn lại Đức Phật thuyết có thể dùng hình tượng tục đế là
như ngón tay.
Hình ảnh ngón tay chỉ mặt trăng, ngón tay khơng phải là mặt trăng nhưng
nhờ ngón tay mình hiểu được mặt trăng và cảm nhận được trực tiếp nó, trong 27
phẩm, mỗi phẩm nói đến một khía cạnh của chân đế, chân lý là cái không thể
diễn tả được.Trong Phật giáo có nhiều vấn đề chân lý khơng thể nào khơng dùng



ngơn ngữ để diễn tả, khi ngơn ngữ đó được dùng thì chính là phương tiện. Đức
Phật có nói: “Pháp của ta giảng ví như chiếc bè để vượt qua, không phải để nắm
lấy”, khi đi qua đến bờ bên kia rồi thì phải để chiếc bè lại. Ở đây cũng vậy, 27
phẩm này chỉ là phương tiện, sau khi thấy mặt trăng rồi thì ngón tay khơng cịn
cần thiết nữa. Mục đích của 27 phẩm này là để chỉ cho học giả hướng đến sự
chứng ngộ này, cũng vậy khi đã chứng ngộ rồi thì 27 phẩm này khơng cần thiết
nữa. Mỗi phẩm đều nói về khía cạnh của chân đế.
Như vậy, nội dung chủ yếu của bộ Kinh Pháp Hoa, Đức Phật nêu lên tri
kiến thanh tịnh sẵn có nơi mỗi chúng sinh.Với Phật nhãn, nhìn qua lăng kính Ma
Ha Bát Nhã Ba La Mật, thì "Tâm Phật và chúng sinh "là tâm không sai biệt, dù
tên gọi, mà thực chất khơng có phạm trù đơn vị riêng rẽ. Qua

đó, Phật dùng

mọi lời lẽ, thí dụ, nhân dun...để khai thị cho chúng sinh ngộ nhập tri kiến
thanh tịnh.
CHƯƠNG II. Ý NGHĨA CỦA PHẨM DƯỢC THẢO DỤ CÓ TRONG
KINH PHÁP HOA.
2.1. Khái quát nội dung Phẩm Dược Thảo dụ trong Kinh Pháp hoa
Dược Thảo dụ là phẩm thứ 5 trong bộ kinh Pháp hoa: Phẩm này tiếp tục
nói lên việc trình kiến giải. Tức là nói lên pháp Đức Phật là bình đẳng. Ví dụ như
một trận mưa xối xuống từ cây lớn cho tới cây nhỏ đều được thấm nhuần mưa
đó. Cây lớn hút nước theo kiểu của cây lớn, cây nhỏ hút nước theo kiểu của cây
nhỏ, tất cả những cây cối đều được hút nước để ni sống bản thân mình.
Cũng như Giáo pháp của Đức Phật là bình đẳng khơng cao thấp nhưng tùy
tâm của từng người tiếp nhận Giáo pháp của Đức Phật mà có cao thấp, cho nên
mới có ra Giáo pháp ba thừa. Thực sự Chư Phật chỉ nói tới Nhất thừa chứ khơng
nói tới ba thừa. Sau khi các vị đại đệ tử trình bày những thấy hiểu của mình như
vậy, được Đức Phật chấp nhận.

Trong Phẩm, Đức Phật bảo Ca diếp cùng các đại đệ tử :“Ca Diếp khéo nói
cơng đức chân thật của Như Lai. Như Lai cịn có vơ lượng cơng đức, các ơng
khơng nói hết được. Như Lai là vua của các pháp, nói khơng hư dối, phương tiện


diễn nói, pháp Phật nói thảy đều đến bực Nhất thiết trí. Như Lai biết chỗ quy
thúcủa tất cả pháp, cũng biết rõ tâm sơ hành của chúng sinh, và ở nơi các pháp
rốt ráo rõ biết hết mà chỉ bày tất cả trí huệ cho Chúng Sanh.”
“Ca Diếp! Ví như trong cõi tam thiên đại thiên, mưa xuống, các giống cây
lớn nhỏ, tuỳ hạng thượng – trung – hạ mà hấp thu khác nhau. Dẫu rằng một cõi
đất sanh, một trận mưa thấm nhuần mà các cỏ, cây đều có sai khác.
Như Lai cũng như thế, xuất hiện ở đời, biết căn cơ lợi độn và tâm tánh của
Chúng Sanh mà thuyết pháp vừa sức, khiến chúng sanh nghe pháp rồi, hiện đời
an ổn, đời sau sanh về chỗ lành, lần lần đều được vào đạo. Như mây lớn kia,
mưa rưới khắp tất cả cỏ cây lùm rừng, và các cỏ thuốc, theo giống của mỗi thứ
đều được đượm nhuần đầy đủ, đều được sanh trưởng.
Như Lai nói pháp một tướng, một vị : Tướng giải thoát – xa lìa – diệt, rốt
ráo đến bực ‘Nhất thiết trí.’ Có chúng sanh nghe pháp, thọ trì, đọc tụng, tu hành,
được cơng đức tự mình khơng hay biết như cỏ cây không biết tánh thượng –
trung – hạ của chúng.
Như Lai nói pháp một tướng, một vị : Tướng giải thốt – xa lìa – diệt – rốt
ráo Niết bàn thường tịch diệt – trọn về nơi không. Phật xem tâm ưa muốn của
chúng sanh mà dắt dìu, khơng vội nói Nhất thiết chủng trí.”
Đức Phật khen các vị Ca Diếp … vì rõ biết Như Lai tuỳ cơ nghi nói pháp.
Kệ kết luận :
“Ta dùng các nhân duyên, thí dụ để chỉ bày đạo Phật, đó là phương tiện.
Các chúng thuộc Thanh văn đều chẳng phải diệt độ, các ông tu đạo Bồ Tát lần
lần đều thành Phật.”
2.3. Giá trị của Phẩm Dược Thảo dụ trong kinh Pháp Hoa
2.3.1. Tư tưởng bình đẳng trong Phật pháp

Đức Phật ví dụ về Dược Thảo. “Như đám mây mưa xuống, tất cả các loại
cây cỏ, nhỏ lớn đều thấm nhuần sinh trưởng tuỳ theo chủng loại của chúng. Mưa
tn xuống một cách bình đẳng khơng có sự phân biệt đối với bất cứ loại cây
nào”. Trong giáo pháp đức Phật viết, không phân biệt giữa thượng căn hay hạ
căn. Phật bình đẳng mà khơng có sự phân biệt, cịn việc có hay khơng là tại


chủng tánh của từng người tiếp nhận. Từ đầu đến cuối giáo pháp ấy duy nhất chỉ
có một vị, đó là vị giải thoát.
Qua ẩn dụ này, một lần nữa chúng ta xác định rằng Phật vì có lịng thương
tưởng chúng sanh nên đã ứng hiện nơi nhân gian để thuyết pháp. Ngài bình đẳng
thuyết giảng để hướng chúng sanh về Tri Kiến Phật hiện có của mình. Để tránh
những tư tưởng lệch lạc khinh trọng đáng tiếc nên cần phải lưu ý trong khi làm
cơng tác Hoằng Pháp. Tính bình đẳng này vơ cung quan trọng trong mọi lĩnh vực
và mọi thời đại.
Một điểm nhấn rất có giá trí nữa là: Về chủng loại có thể có sự biệt nhau
nhưng chúng đều thấm nhuần tuỳ theo đặc tính riêng. Nhằm gửi gắm cho chúng
sanh một niềm tin sâu sắc về giáo pháp của đức Phật đồng thời cũng xoá tan
những mặc cảm tự ty vốn ngăn cản bước tiến của mình. Đây cũng chính là niềm
tin vào tự thân và là niềm tin giác ngộ, vào Phật tánh có sẵn nơi mỗi chúng ta.
Tin rằng: muốn có một kết quả tốt chúng ta luôn phải nỗ lực. Tức là có thể mỗi
người hiểu mỗi cách khác nhau phụ thuộc vào bản chất trí tuệ cũng như hồn
cảnh riêng của mỗi người, nhưng tất cả chúng ta đều nhận được sự an lạc giải
thốt.
Tóm lại: Chúng sanh bình đẳng về chủng trí, Phật bình đẳng nói pháp nhất
thừa. Lợi ích về sự giải thốt cũng bình đẳng nhưng phải tuỳ theo sự hấp thụ của
mỗi loài. Ở đây nên hiểu rằng bình đẳng ở “chất” chứ khơng phải “lượng”.
Phẩm Phương Tiện Phật đã nói về tư tưởng này qua bài kệ sau: “Chư Phật
lưỡng túc tôn; Tri pháp thường vô tánh; Phật chủng tuỳ duyên khởi; Thị cố
thuyết nhất thừa; Thị pháp trụ pháp vị; Thế gian tướng thường trú.”

Dịch là:
“Chư Phật lưỡng túc tơn, Biết pháp thường khơng tính, Giống Phật theo duyên
sanh, Cho nên nói nhất thừa, Là pháp trụ pháp vị, Tướng thế gian thường trụ.”
Nội dung bài kệ khẳng định sự bình đẳng một cách tuyệt đối và trường
tồn.
2.3.2. Những căn cơ của chúng sinh


Đức Phật Thích Ca vì lịng từ bi vơ bờ vơ bến đối với chúng sanh mà x́t
gia tìm đạo, bởi thế cho nên sau khi giác ngộ, là Ngài nghĩ ngay đến sứ mạng cao
cả, đó là: “Thay thế chư Phật đời trước mà tiếp tục chuyển mê khai ngộ cho tất
cả mọi người”.Sứ mạng nầy Ngài biết trước khơng phải là một việc dễ dàng vì
cái đạo của Ngài thì cao thâm huyền diệu, mà chúng sanh căn cơ lại không đều,
và từ muôn kiếp đã lặn hụp trong si mê lầm lạc do đó khó có thể nhận hiểu ngay
ý nghĩa cao thâm của giáo lý Ngài. Chúng sanh từ lâu đời lâu kiếp đã quen sống
trong bóng tối của si mê do đó khi Ngài đem ánh sáng của trí tuệ đến cho họ thì
chắc chắn họ sẽ bị chóang mắt. Nhưng Ngài hiểu rằng mặc dù sống trong tăm
tối, nhưng mỗi chúng sanh đều có mầm Phật tánh, như hoa sen, mặc dù sống
trong bùn tanh hôi, nhưng vẫn luôn luôn tỏa nhụy vàng thơm ngát. Đó là ý chí và
lịng cương quyết của Ngài phải cố gắng thực hiện để hoàn thành trách nhiệm
của mình. Với trí tuệ sáng suốt và lịng từ bi vơ bờ bến cộng với tinh thần bình
đẳng và một ý chí dủng mãnh, Đức Phật đã hồn thành sứ mạng của mình một
cách viên mãn.
Đa số các nhà nghiên cứu cho rằng, cốt tủy của phẩm “Dược Thảo Dụ”
tức là nói về căn cơ của chúng sinh. Bởi lẽ Đức Như Lai thuyết pháp hợp với căn
cơ của chúng sinh, đúng thời, đúng lúc. Nếu thuyết vì Nhị thừa, thì hợp với căn
cơ. Nếu thuyết về nhất thừa thì ứng hợp với chân lý. Các pháp của thế gian nay
dời mai đổi. Nhưng lời của Như Lai nói ra đều rốt ráo, cứu cánh vượt cả không
gian, thời gian, nên gọi là “không hư dối” vậy.
Do vậy, trong phẩm kinh gọi Ngũ thừa chủng tính này là “các cỏ thuốc” và

mỗi thừa đều có sự phát tâm tu hành, chứng quả khác nhau, nên gọi là “Bao
nhiêu chủng loại, tên gọi, màu sắc đều khác nhau”.Đúng lúc “mây mù bủa giăng
khắp cõi tam thiên đại thiên”.
Đó là dụ cho ứng hóa thân của Như Lai, khắp hiện ra 9 cõi pháp giới đều
tùy cơ thuyết pháp. Vầng mây ứng hóa ấy đã bình đẳng và phải thời khắp nơi
thấm nhuần cây cối lùm rừng và các cỏ thuốc. Hoặc có thứ gốc nhỏ, thân nhỏ,


nhánh nhỏ, lá nhỏ. Hoặc có thứ gốc vừa, thân vừa, nhánh vừa, lá vừa. Hoặc có
thứ gốc lớn, thân lớn, nhánh lớn, lá lớn. Các giống cây lớn nhỏ, tùy hạng thượng,
trung, hạ mà hấp thụ khác nhau. Một đám mây tuôn mưa xuống, xứng theo mỗi
giống loại mà cây cỏ đặng sinh trưởng, đơm bơng kết trái.
Đó là đám mây tn mưa đúng lúc, đúng thời. Chính cơn mưa pháp phải
thời, đã làm cho muôn loại cây cỏ thấm nhuần. Nhưng loại cỏ thuốc lại có cơng
năng trị được các chứng bệnh, như tam độc tham, sân, si, dứt trừ phiền não, đã
nhân cơn mưa ấy mà thấm nhuần lý đạo y theo đó mà hành, để “đơm bơng kết
trái” làm lợi ích cho chúng sinh. Nghĩa là sẽ đạt quả vị “diệu giác chân thường”
mà hóa độ mn lồi.
Với loại cỏ thuốc gốc lớn là dụ cho chủng tính Bồ Tát đại thừa.
Với loại cỏ thuốc gốc vừa là dụ cho chủng tính Thanh văn, Duyên giác
thừa.
Với loại cỏ thuốc gốc nhỏ là dụ cho chủng tính Nhân, Thiên thừa.
Thân, nhánh, lá, là dụ cho sự phát tâm tu chứng quả theo từng chủng
tính loại khác nhau.
Trong các loại cây cũng có hai loại lớn nhỏ. Loại cây lớn dụ cho hàng Bồ
Tát từ Bát địa trở lên. Loại cây nhỏ dụ cho hàng Bồ Tát từ Thất địa trở
xuống.Hai loại cây này chia làm ba bậc thượng, trung, hạ phẩm.Bậc hạ
phẩm từ Sơ địa đến Ngũ địa. Bậc trung phẩm từ Ngũ địa đến Bát địa.Bậc thượng
phẩm từ Bát địa trở lên.
Từ khi phát tâm đến khi đạt thành quả vị, mỗi giống loại đều được thấm

nhuần mưa pháp một cách trọn vẹn. “Dầu rằng một cõi đất sinh, một trận
mưa thấm nhuần các cỏ cây đều có sai khác”.
“Ca Diếp nên biết! Đức Như Lai cũng lại như thế, hiện ra nơi đời như vầng mây
lớn nổi lên. Dùng giọng tiếng lớn vang khắp thế giới cả trời, người, A tu ha, như
mây lớn kia trùm khắp cõi tam thiên đại thiên”.
Đức Thế Tơn vì thương xót mn lồi, Ngài có đủ phước huệ trang
nghiêm, biện tài vô ngại. “Người chưa được độ, thời làm cho được độ, người
chưa được tỏ ngộ, thời làm cho được tỏ ngộ, người chưa an, thời làm cho được


an, người chưa chứng Niết bàn, làm cho chứng Niết bàn”.Ngài là bậc có đầy
đủ tam minh, tứ trí, ngũ nhãn, lục thông. Dùng vô số phương tiện tùy duyên ứng
hiện để khai đạo cho chúng sinh trong tam giới.
“Đức Như Lai xem xét các căn lợi độn, tinh tấn, hay giải đãi của chúng
sinh đó, thuận theo vừa sức nó kham được mà vì chúng nói pháp. Chủng loại
nhiều vô lượng, Phật đều khiến vui mừng đặng lợi lành, đã nghe các pháp rồi lìa
khỏi các chướng ngại ở trong các pháp theo sức mình kham lần lần được vào
đạo”.
Đức Như Lai biết rõ từng căn cơ của chúng sinh “cịn nhớ pháp nào, dùng
pháp gì để nhớ, dùng pháp gì để nghĩ, dùng pháp gì để tu, dùng pháp gì để đặng
pháp gì?”
- “Đức Như Lai biết đúng như thật, rõ ràng không bị ngại, nhiều điều Đức Như
Lai biết đó tự chúng sinh trong các chủng loại không thể nào biết một cách rốt
ráo được. Như cây cối lùm rừng các cỏ thuốc kia không tự biết tánh thượng,
trung, hạ của nó”.
“Đức Như Lai biết tướng chân thật của vạn pháp, nhưng chúng sinh vì vơ
minh nhiễm chấp nơi các pháp nên chưa có thể thấu rõ được ngay tướng chân
thật của vạn pháp”. Do đó, Đức Như Lai “thị hiện đồng cư với chúng sinh,
như đám mây lớn bao trùm các cõi, mưa pháp phải thời, phải lúc, làm cho mn
lồi cây cỏ thấm nhuần mát mẻ, từ đó đơm hoa kết trái sum sê. Chính vì chủng

loại quá nhiều và căn cơ hạ liệt”. Vì vậy mà Đức Như Lai ngay lúc đầu tùy
thuận chúng sinh để dìu dắt uốn nắn mà khơng vội thuyết về nhất thiết chủng trí.
“Đức Như Lai biết một pháp, một tướng, một vị, nghĩa là tướng giải thoát,
tướng xa lìa, tướng diệt, tướng rốt ráo Niết bàn, thường tịch diệt trọn về nơi
không. Phật biết như thế rồi, xem xét tâm ưa muốn của chúng sinh mà dìu
dắt chúng, cho nên chẳng liền vì chúng thuyết nhất thiết chủng trí”.
Nếu Pháp hoa là cốt nói Nhất thừa (xác qút ai cũng làm Phật) thì cách
giải thích trọn vẹn nhất phải là sự tổng hợp của tất cả các giải thích trên. Bởi vì
cùng mọc lên từ đất và cùng thấm nước mưa, song mọi cây cỏ nảy mầm, lên cây,


đơm hoa và kết trái đều khác nhau mà chẳng thứ nào tự biết như vậy cả. Nói một
cách khác, qua âm thanh duy nhất của Phật, tất cả đều cùng nghe một Pháp đồng
nhất, nhưng mỗi người tu nhân và được quả đều khác nhau mà không ai tự biết.
Dy nhất chỉ đức Phật là bậc Chánh đẳng giác, với trí tuệ vơ lậu mới hiểu rõ và
thuyết pháp cho.
Ví dụ về cây cỏ này cho thấy Ngũ thừa hay Tam thừa đều được xuất phát
từ Nhất thừa mà vẫn khác nhau.
2.3.3. Ngôn ngữ biểu tượng, đầy màu sắc, gần gũi với đời sống
Nếu như đối với Kinh tạng Ngun thủy, nhất là kinh Pháp cú, ngơn ngữ
thí dụ và ẩn dụ được xem là ngôn ngữ đặc trưng, thì ngược lại, đối với Kinh tạng
Đại thừa, nhất là trong kinh Pháp hoa, thông qua phẩm “Dược Thảo Dụ”, đức
Phật đã sử dụng những loại hình ngơn ngữ rất độc đáo. Ngài đã dùng ngôn ngữ
của biểu tượng, so sánh và ví dụ.
Nói về ngơn ngữ biểu tượng tức là: Dùng ngơn ngữ hình ảnh để nói lên
một vấn đề nào đó muốn nói. Chính vì thế mà ngơn ngữ biểu tượng mang đầy
màu sắc, hình ảnh và làm cho tác phẩm thêm giàu tính văn học, có một vẻ đẹp
lung linh và huyền ảo. Tuy nhiên, ngôn ngữ Biểu tượng lại được xem như là một
thứ ngôn ngữ ngồi ngơn ngữ vậy, có thể ví như một bức thơng điệp khơng lời,
và điều này cũng chính là điểm trở ngại lớn nhất cho người học kinh, khi nghiên

cứu Kinh Tạng Đại thừa
Nói đến ý nghĩa của biểu tượng: Trước tiên chúng ta thấy rằng, biểu tượng
tức là biểu tượng về một cái gì đó khác nó, chứ khơng phải là chính nó, Kinh
Pháp Hoa được coi là vua của các loại kinh trong hệ thống kinh tạng Đại thừa vốn mang biểu tượng là Hoa Sen và hoa sen tượng trưng cho Phật và Phật tính ở
mỗi người. Chúng ta đã biết, Hoa sen là loài hoa chỉ mọc trong đầm lầy, cho dù
vậy thì hoa và hương của nó ln ln tinh khiết và khơng bị cấu nhiễm bởi bùn
nhơ hay nước đục. Điều này đã thấy rõ ý nghĩa biểu tượng của hoa sen là một sự
tồn diện ngay giữa lịng cuộc đời ơ trược, cũng như sự giác ngộ và giải thốt
khơng thể thốt ly ngoài con người trần thế và cuộc đời trần thế mà có được.


Khi chúng ta đọc, tụng qua phẩm “Dược Thảo Dụ” trong kinh Pháp hoa
thì người đọc vẫn có thể cảm nhận được mạch văn một cách trôi chảy và nhẹ
nhàng, những ngôn từ hoa mỹ; nhưng để lãnh hội được các ý kinh thì thiết nghĩ
phải có một q trình chiêm nghiệm từ từ.
Khi đọc đoạn kinh: “... Cùng một đất mọc lên, một mưa thấm xuống,
nhưng các cây cối và cỏ thuốc vẫn có khác nhau”. Ta lại liên tưởng tới cùng một
Đất, phải chăng là “như thật tâm địa”, cùng một mưa chẳng phải là cùng những
lời pháp nhũ của đức Thế Tôn, song các cây cối và cỏ thuốc đều có sự khác nhau
há chăng là do căn cơ hay trình độ của mỗi chúng sinh mỗi khác. Chỉ với một
đoạn kinh ngắn, chúng ta đã nhận thấy được bao nhiêu là thâm nghĩa của kinh
qua các biểu tượng như: “cơn mưa, đất, cây cối và cỏ thuốc”. Cho đến nay thì
cơn mưa hay đất,… đã đi vào truyền thống của Phật giáo bởi những hình ảnh và
biểu tượng của nó. Khi nhắc đến cơn mưa, người học Phật đã nghĩ ngay đến
những lời dạy của đức Thế Tôn, tưởng tượng như một trận mưa xuống làm sạch
bụi bặm, thấm nhuần ni dưỡng cây cỏ.
Cịn ngơn ngữ ví dụ là một ngơn ngữ để diễn đạt về một hình ảnh cụ thể
hay một trường hợp cụ thể nào đó để minh họa cho một vấn đề được nêu ra.
Trong bộ Kinh tạng Phật giáo có rất nhiều hình ảnh thí dụ. Đức Phật trong mỗi
pháp thoại thường dùng những thí dụ cụ thể để minh họa cho giáo lý của Ngài.

Khi xét về loại hình ngơn ngữ “thí dụ” thì kinh Pháp Cú được xem là một bản
kinh nổi bật nhất về hình ảnh thí dụ; hay nói cách khác thì ngơn ngữ của kinh
Pháp cú là ngơn ngữ thí dụ.
Song, trong hầu hết các kinh đều có thí dụ và phẩm “Dược Thảo Dụ”
trong kinh Pháp hoa cũng là một trong những trường hợp điển hình đó. Nếu đọc
xun suốt tồn phẩm chúng ta sẽ nhận ra rằng, đức Thế Tơn đã dùng những
hình ảnh thí dụ rất sống động và giản đơn như những sự kiện hay những hiện
tượng xảy ra hàng ngày, nó gắn liền với đời sống tâm thức và tình cảm của con
người: “Đại-ca-diếp, ví như tồn cõi đại thiên thế giới, núi đồi hang rãnh và


ruộng đất mọc lên cây cối và cỏ thuốc, với bao nhiêu là chủng loại mà tên gọi và
màu sắc không giống với nhau. Nhưng mây dày nổi lên và giăng bủa khắp cả đại
thiên thế giới ấy, mưa xuống một cách đồng thời vày đồng đều, thì nước mưa
thấm khắp tất cả.Tất cả cây cối và cỏ thuốc, rễ nhỏ thân nhỏ nhánh nhỏ lá nhỏ, rễ
vừa thân vừa nhánh vừa lá vừa, rễ lớn thân lớn nhánh lớn lá lớn, cây cối thì tùy
chủng loại lớn nhỏ và cỏ thuốc thì tùy tính chất tốt vừa kém mà hấp thụ đủ
cả.Một loại mây đổ mưa xuống, xứng hết với các mầm, nên thứ nào cũng được
sinh ra, lớn lên, trổ hoa, ra trái và kết hạt. Cùng một đất mọc lên, một mưa thấm
xuống, nhưng các cây cối và cỏ thuốc vẫn có khác nhau”2
Thơng qua đoạn kinh trên đã cho ta thấy, ngơn ngữ “thí dụ” và “ẩn dụ” đã
dung hóa vào nhau; hay nói một cách khác thì ở đây thí dụ tức là ẩn dụ. Với hình
thức liên tưởng so sánh ngầm và đức Phật đã sử dụng ngôn ngữ này một cách
khéo léo để nói đến căn cơ và trình độ của chúng sanh: Dược thảo dụ là nói căn
có lớn nhỏ, trí có chậm mau, cơ có sâu cạn 3.
Cây cối thường có hai loại là nhỏ và loại lớn, cỏ thuốc có ba tính chất:
(kém, vừa, tốt) và chúng được xếp thành ba nhóm. Nhóm thứ nhất: nhóm này nói
riêng về cỏ thuốc (có thể ví dụ cho Ngũ thừa): Nhân đạo và thiên đạo như là cỏ
thuốc kém, Thanh văn và Duyên giác như là cỏ thuốc vừa, Bồ-tát được ví là cỏ
thuốc tốt. Nhóm thứ hai: nói về cây cối (có thể ví dụ cho Bồ-tát thừa): Bồ-tát sơ

phát tâm được coi là cây nhỏ, Bồ-tát khơng cịn thối chuyển được ví là cây lớn.
Nhóm thứ ba: Nhóm này nói chung cho cả cỏ thuốc và cây cối (ví dụ cho Tam
thừa): La-hán và Duyên giác được xem là cỏ thuốc, Bồ-tát tuệ lực vững chắc
được ví như là cây nhỏ cịn Bồ-tát thấu triệt về Khơng, hóa độ vơ số là cây lớn.
Nói về ngơn ngữ “so sánh” thì có lẽ x́t hiện khơng nhiều trong hệ thống
Kinh tạng. Tuy nhiên việc xuất hiện hiếm hoi của nó trong phẩm “Dược Thảo
Dụ” của kinh Pháp Hoa cũng nói lên được, bộ kinh rất giàu tính văn học và các
ngơn ngữ được dùng trong bộ kinh này là rất phong phú. Trong ví dụ về cây cỏ ở
2Tỳ kheo Trí Quang, Kinh Pháp Hoa lược giải,
3Thích Nhật Quang, Pháp Hoa đề cương, NXB

NXB Tôn giáo, 1998, tr.288-289.
TP.HCM, 1999, tr.41.


trên, đức Phật đã dạy: “Đại-ca-diếp, Như Lai cũng vậy. Như Lai xuất hiện ở thế
gian in như mây lớn nổi lên. Rồi in như mây lớn bủa khắp đại thiên thế giới, Như
Lai xuất ra âm thanh rất lớn, vang khắp thế giới chúng sinh…”4.
Bằng những ngôn ngữ “so sánh”, “cũng vậy”, đức Thế Tôn đã rất khéo
léo trong so sánh và thuyết giảng, đưa chúng sanh đi từ thấp lên cao, từ chỗ mơ
hồ đến chỗ thấu suốt vấn đề cũng chỉ bằng một hình ảnh biểu tượng khác. Điều
này đã nói lên được rằng, đức Thế Tơn thực sự không muốn cho chúng sanh bị
mê lầm, mắc kẹt vào mớ ngôn ngữ kia. Điều mà Như Lai muốn là cái thực tại mà
Ngài muốn hiển bày nó nằm ngồi ngơn ngữ tức là chúng sanh hãy nương giáo
lý của Ngài như nương vào ngón tay để nhìn thấy mặt trăng và để nhìn thấy, để
có thể nhập vào cảnh giới Niết-bàn vô tướng của chư Phật.
Khi đọc phẩm Dược Thảo Dụ, ta như được xem một vở kịch với nhiều
màn, vở kịch đó ai xem, ai nghe cũng có thể hiểu. Đó cũng chính là cách truyền
đạt chân lý cao siêu nhất qua cái bình dị. Mà chân lý thì tồn diện, siêu việt, cịn
khi đó, ngơn ngữ thì lại phiến diện và giới hạn, mặc dù sử dụng ngôn ngữ tinh

xảo như thế nào cũng không chuyển tải hết được sự thật, chính vì vậy mà Dược
Thảo Dụ chọn cách sử dụng ngôn ngữ biểu tượng để chuyển tải sự thực đến một
mức tối đa và chân lý nhất, trong phẩm kinh luôn là một chân lý sống động nhất,
một thái độ sống tích cực, một đóa sen vươn lên từ bùn nhơ để tỏa hương thơm
ngát giữa bồng bềnh khói sương cuộc đời, đầy màu sắc, gần gũi với đời sống con
người.
CHƯƠNG III.Ý NGHĨA PHẨM DƯỢC THẢO DỤ ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG
TU TẬP HÀNG NGÀY CỦA TĂNG NI, PHẬT TỬ
Trước khi nghe Đức Phật nói về phẩm “Dược Thảo Dụ”, thì bốn vị đại đệ
tử là: (Ca Diếp, Tu Bồ Đề, Mục Kiền Liên và Ca Chiên Diên) đã nói ví dụ cùng
tử. Bốn vị trên quả thật là những bậc Thánh Tăng họ còn rất khiêm tốn tự nhận

Tỳ kheo Trí Quang, Kinh Pháp Hoa lược giải, NXB Tôn
giáo, 1998, tr.289.
4


mình là cùng tử , chính vì vậy mà chúng ta, những người tu hành cũng phải nhìn
nhận cho thấu đáo về vị trí vai trị của bản thân mình thông qua tư tưởng và ý
nghĩa của “Phẩm Dược thảo dụ” mà kinh “Pháp Hoa” đã chỉ. Trong xã hội hiện
đại thời 4.0 hiện nay, cũng có trường hợp một số người đi tu nhưng không thể
tiến tu đạo hạnh được, vì khơng thơng suốt, khơng hiểu, chưa tốt cứ nghĩ mình
đã đạt đạo, cho nên sẽ dễ bị rơi vào tự mãn. “Được xuất gia; được cúng dường;
cứ tưởng mình là bậc thánh nhân, là thầy của mn người; thọ giới Bồ tát thì
tưởng mình là Bồ tát”. Nếu nghĩ thế sẽ dẫn tới sai lầm to lớn.
Suy ngẫm những lời dạy của đức Phật trong Phẩm Dược thảo dụ, mỗi
người tu hành chúng ta “phải thấy mình là cùng tử được tu học pháp Phật” đó là
điều vinh hạnh nhất trong cuộc đời chúng ta, cho bổn mạng chúng ta. Tưởng
chừng đơn giản nhưng “Phật pháp khó gặp”, “chúng ta đã được những điều quý
báu này và được xuất gia, sống trong nhà Phật, thì cần giữ gìn, trân trọng để có

thể tiến tu theo Phật, từng bước sẽ thăng hoa”.
Phật pháp là vô hạn, nhưng kiếp sống thể xác của mỗi người ở trần gian lại
hữu hạn, chúng ta không nên đề ngày tháng trôi qua vô ích, để rồi đến khi tuổi
cao,sức đã yếu, khi chết rồi thì thật uổng phí cả cuộc đời (Phật đạo dài xa, mà
hạnh Bồ tát còn nhiều, người tu hành khơng thể lãng phí thì giờ, lo đọc kinh, lễ
sám, tham Thiền)
Thiết nghĩ mỗi người tu hành chúng ta luôn ghi nhớ mình là cùng tử.
Trong việc tu hành của chúng ta “chỉ mong chứng được Sơ quả để tâm không
buồn phiền, thân không bệnh hoạn, để dễ dàng phát huy tri thức và đạo hạnh;
Còn sức khỏe kém, chỉ mới thay đổi thời tiết đã bệnh hoạn và gặp việc gì cũng
tác động mình buồn lo, giận dữ, khổ sở, thì việc tu hành chắc chắn cịn chướng
ngại rất nhiều, khó vượt qua”.
Với tư cách một cùng tử, ngày ngày phải luôn quét dọn phân nhơ, tối đến
ở am tranh là chính. Nên trong q trình tĩnh tu học đạo, hãy tự xét “thân và tâm
mình cịn gì nhơ bẩn để mỗi ngày lo dọn dẹp cho sạch”. Làm sao để biết thân


chúng ta cịn ơ uế? Người nhìn thấy khơng q mến mà lại sanh phiền não đó là
tiêu biểu cho nghiệp thân thân ô uế.
Đức Phật dạy trong kinh Hoa Nghiêm rằng: “Các vị Bồ tát thường sanh ra
trong dòng họ cao quý, tướng tốt đều đầy đủ”. Có thể chúng ta sinh ra từ gia đình
nghèo khó, cha mẹ của chúng ta khơng có vị trí cao sang, nên bản thân chúng ta
phải chịu ảnh hưởng khó khăn. Thực tế cho thấy một số bạn bè của chúng ta có
điều kiện tốt hơn, cha mẹ thường xuyên thăm viếng, năng cúng dường chùa, thì
họ được Trụ trì, bạn đồng tu và mọi người quý mến (Đức Phật hiện thân trong
dịng họ Thích Ca là dịng họ cao q, nổi tiếng bảy đời hiền đức. Khi còn là thái
tử, vua Tần Bà Sa La đã kính trọng Ngài, vì vua Tịnh Phạn và vua Tần Bà Sa La
đồng đẳng cấp là vua, dễ chấp nhận nhau. Nghe nói thái tử thành Ca Tỳ La Vệ đi
tu, vua đã nói rằng khi nào Ngài đắc đạo, nhớ độ ông và ông đã dâng cúng Phật
Trúc Lâm tịnh xá ngay khi Ngài trở về giáo hóa độ sanh.Thiết nghĩ x́t thân

dịng họ có nhiều phước đức, việc tu hành có phần dễ dàng hơn, có nhiều
phương tiện tốt đẹp để hành đạo).
Tuy nhiên, khi đọc và ngẫm về Phẩm dược thảo dụ trong kinh Pháp Hoa
chúng ta thấy rằng: “Xét mình là cùng tử, cha mẹ dịng họ khơng giàu sang, vào
đời không bằng ai, nhưng may mắn được xuất gia, hàng ngày cần nỗ lực tu hành
để diệt trừ phiền não, nghiệp của chúng ta; Mới vào Phật học đường, mọi người
giống nhau, nhưng tu học một thời gian, có kết quả khác nhau; nếu biết nỗ lực
dọn dẹp ô uế của thân tâm, hảo tướng sẽ hiện; Người chỉ nghĩ đến tranh chấp,
phiền não, nghiệp tướng hiện; Phước hay nghiệp hiện đều nhìn thấy được qua
hình tướng bên ngồi;Lạy Phật, tụng kinh, tham Thiền, kiểm chứng xem tâm
chúng ta nghĩ gì, thân làm gì, theo chiều hướng tịnh hóa hay nhiễm ơ; Nếu tịnh
hóa thân tâm được, thì khơng buồn giận, lo sợ, thương ghét và đại chúng giao
việc gì, chúng ta làm tốt; Thân tâm khơng thanh tịnh thì cứ nghĩ đến vật thực,
cúng dường; Thời Phật tại thế, ông Ưu Ba Nan Đà phạm sai lầm này, nên bị tổn
phước. Trái lại, Ca Diếp sống khổ hạnh, nổi tiếng là vị đầu đà bậc nhất, nhưng đã


được Phật nhường phân nửa tòa ngồi; khi Phật Niết bàn, Ca Diếp đã trở thành vị
lãnh đạo giáo đoàn. Noi theo hạnh tu của Ưu Ba Ly hay Ca Diếp, có thể chúng ta
an phận với nếp sống nghèo khó, nhưng cái nghèo vật chất sẽ giúp tơi trưởng
thành, vì có nhiều thì giờ để tiến tu, lo thanh tịnh hóa thân tâm, sau này mới có
hành trang tốt đẹp để phục vụ đạo pháp”. Nói cách khác, chúng ta làm được
nhiều công đức, nhưng hạn chế tối đa việc tiêu dùng cho bản thân. Phục vụ Tam
Bảo nhiều thì cơng đức sanh ra, hưởng thụ của Tam Bảo nhiều thì việc tu hành sẽ
kém dần. Người chỉ lo phát triển đời sống vật chất, chắc chắn đời sống tinh thần
càng đi xuống.
Thiết nghĩ phải để tâm lo lắng khi của cải vật chất có nhiều, và khi bị lệ
thuộc, tâm của ta bị phân hóa, khơng thể tập trung được. Khi chúng ta xã giao
quen biết nhiều người, thì phải suy nghĩ đến họ, nghĩ đến làm thế nào cho vừa
lịng họ và để họ có thể làm lợi cho mình, khi được lợi rồi thì lại phải để tâm đến

họ nhiều hơn nữa. Cứ luẩn quẩn trong vòng danh lợi, chiếc áo tu tuy còn, nhưng
kinh Pháp Hoa ví là người làm cơng hèn hạ vì việc làm không thanh tịnh.
Tâm chúng ta được rảnh rang để tiếp nhận pháp Phật nhờ an phận thủ
thường với nếp sống đạm bạc. Trong xã hội hiện đại ngày nay, không hiếm
những gia cảnh tuy cuộc sống thừa thữi vật chất nhưng không được hưởng niềm
vui an lạc hơn cuộc sống tầm thường, giản dị như những người tu hành chúng ta.
Họ có của cải vật chất nhưng gia đình đơi khi khơng hịa thuận, anh em ly tán,
thâm tâm luôn vướng bạn với công danh, bạc tiền.... Hiển nhiên là không thể
sánh bằng ở chùa, quét “lá”, tụng kinh nghĩa là “sống đơn giản, thanh tịnh,
nhưng Phật thọ ký cho cùng tử thành Phật; còn những người khác, Phật không
thọ ký”. Chúng ta cảm nhận được điều này để áp dụng trên bước đường tu khi
đọc phẩm Dược Thảo Dụ. Phật dạy rằng: “sở dĩ Ngài giao gia tài cho cùng tử vì
ơng khơng giống những người làm cơng hèn hạ khác. Không giống họ, nhưng
giống Phật, nên là con Phật. Giống ma thì làm sao được Phật thọ ký”.


Ngài Xá Lợi Phất cũng đồng quan điểm: nương lời Phật dạy, suy tư, thể
nghiệm, từ đó, trí tuệ và đạo đức chúng ta phát sanh và tăng trưởng "Tùng Phật
khẩu sanh, tùng pháp hóa sanh, đắc Phật pháp phần”. Sống với lời dạy của Phật
trí tuệ chúng ta cũng được thăng hoa "Tùng pháp hóa sanh”, tuy được sinh ra
giống mọi người, nhưng sự khác biệt là chúng ta đã được tu tạo, được giới thân
huệ mạng. Chính là có đời sống đạo đức, tri thức theo Phật. Là đệ tử Phật phải có
đạo đức, hiểu biết và việc làm giống Phật, khác so với người sinh ra và hiểu biết
theo thế gian, việc làm theo thế gian.
Việc làm quan trọng của người tu là suy nghĩ và làm giống Phật. Trong
kinh nói rõ rằng: “Cùng tử khơng giống người làm cơng hèn hạ khác, vì ơng
được một phần pháp, tuy chưa là Phật, nhưng đã có thể thay Phật làm việc của
Phật. Phật mới giao cho ông quản lý cơng việc. Người tránh nặng tìm nhẹ, thích
hưởng thụ, lấy công làm riêng, Phật xếp vô người làm công hèn hạ, Ngài không
nhận họ là đệ tử và không giao việc. Trong khi cùng tử gánh vác công việc nặng,

quyền lợi để dành cho đại chúng; cho nên được Phật thừa nhận và giao việc, tức
thọ ký và bổ xứ thì việc Phật sự khó cũng thành tựu”. Thực tế cho thấy rằng, có
một số Thầy rất khơn và giỏi nhưng thường thất bại vì Phật khơng thừa nhận và
không được bổ xứ. Người không giỏi nhưng lại làm được, tự biết họ đã được
được Phật lực gia bị.
Chúng ta xuất gia tu hành có nghĩa làm đem thân "Làm tôi” cho đức Phật
và trong kinh Pháp Hoa: “Cùng tử là người làm tôi cho Phật, được Phật thọ ký và
giao quản lý gia tài sau khi đã nỗ lực dọn sạch phiền não. Chúng ta nhận chân rõ
ý này qua q trình giáo hóa của Đức Phật. Các vị Thánh Tăng từ năm anh em
Kiều Trần Như, cho đến một ngàn vị đệ tử của Ca Diếp và hai trăm đệ tử của Xá
Lợi Phất, Mục Kiền Liên, cùng năm mươi vương tử dòng họ Da Xá. Đối với một
ngàn hai trăm năm mươivị A la hán này đã hồn tồn thanh tịnh, nên Phật đã
khơng đặt ra giới luật nào cho các ngài trong suốt mười hai năm đầu giáo hóa độ
sanh. Sau đó, vì có nhiều người thuộc căn cơ, trình độ thấp kém, nghiệp và phiền


não còn nhiều; cho nên khi lỗi lầm nào của họ phát sanh thì Phật liền quy định
giới luật để cấm ngăn và bảo vệ, nuôi lớn giới thân huệ mạng cho họ”.
Chúng ta đi tu hành là cần nương nhờ pháp Phật để thanh tịnh hóa thân
tâm cũng đồng với A la hán. Sau khi bốn vị đại đệ tử trình bày thí dụ cùng tử thì
Đức Phật xác nhận rằng: “Sự suy nghĩ của các vị này rất đúng, rằng các vị Thanh
văn đã thể hiện đời sống phạm hạnh, khơng cịn lỗi lầm, xứng đáng thay Phật
làm Phật sự”.Tiếp theo đó Đức Phật đưa ra thí dụ ba cỏ hai cây trong phẩm Dược
Thảo dụ:
Các bậc cao Tăng đã giải thích rằng: “Ba cỏ chỉ cho Tam thừa giáo và hai
cây chỉ các vị Bồ tát, Bồ tát mười phương ví như cây nhỏ và Bồ tát Tùng địa
dũng x́t ví cho cây lớn; Cỏ cũng có ba bậc, thượng, trung, hạ ví cho Bồ tát,
Duyên giác và Thanh văn thể nghiệm Tam thừa giáo của Phật”. Và Đức Phật đã
khẳng định rằng: “Tam thừa giáo chỉ là phương tiện của Ngài nhằm dẫn đến chân
lý và chân lý chỉ có một; Nói cách khác, đã tu theo pháp Phật, dứt khoát phải

thành Phật”. Đức Phật dạy rằng: “Sự thật duy nhất có một Phật thừa, tức những
pháp tu theo Phật đều dẫn đến cứu cánh là quả vị Phật, khơng thể khác; Nhưng
Phật nói ba thừa là để thích hợp với trình độ và nghiệp lực của ba hạng người
khác nhau. Đối với người trần lao nghiệp chướng nhiều, sợ sanh già bệnh chết và
muốn ra khỏi sanh tử, đến Niết bàn, Phật nói Đạo đế, dạy họ thực hiện ba mươi
bảy Trợ đạo phẩm. Đó chính là pháp của Thanh văn giúp họ xa rời tâm đam mê,
chấp trước việc thế gian để bước vào cửa giải thốt: Khơng, vơ tác, vơ nguyện.
Làm sao mọi việc trên cuộc đời khơng tác động được, hồn cảnh tốt hay xấu,
hành giả vẫn an trụ pháp Không, tâm được an nhiên tự tại”.
Với hàng Duyên giác thì Phật dạy pháp tu Giả quán nghĩa là: “Quán các
pháp do nhân duyên sanh và diệt, nhưng tâm hành giả an trụ ở bất diệt để quán
sát sanh diệt, nhận chân rõ sanh diệt là giả, vô sanh là thật. Quán chiếu mọi việc
do nhân duyên sanh diệt như vậy, tâm lắng yên, thanh tịnh là đã ra khỏi Nhà lửa
tam giới, đến bãi đất trống thì Duyên giác cũng chứng được Niết bàn;Hạng thứ


ba ví cho cỏ bậc thượng cao hơn hàng Thanh văn, Duyên giác còn ở trong vòng
nhị nguyên; Đối với Bồ tát, Phật dạy Lục độ ba la mật vì đó là những người đã
có điều kiện cứu đời, giúp người, nên mau đến quả vị Phật hơn. Bồ tát quán
Trung đạo đệ nhất nghĩa hay Trung quán, thấy rõ sự thật nên nhìn đời thấy khác,
thấy cuộc đời khơng xấu, không tốt. Nhưng tốt xấu tùy ở tâm, tùy ở nghiệp.
Nghiệp chúng ta thiện thì cuộc đời này đối với chúng ta tốt, trái lại mang nghiệp
ác vào thì cuộc đời sẽ tệ ác với chúng ta. Ý thức như vậy, trên bước đường tu, tự
điều chỉnh tâm mình tốt đẹp, hoàn cảnh tự tốt theo để nhiều người cũng được
theo mình ra khỏi sanh tử. Đó là thực hiện pháp tu Lục độ ba la mật nhằm cứu độ
chúng sanh. Vì chúng sanh khờ dại, cang cường, mà Bồ tát phải kham nhẫn để
cứu độ, không phải thua hay sợ chúng. Khi thốt được sanh tử, nhìn lại, mới
nhận ra rằng ơn của Đức Thế Tôn cứu mạng thực lớn lao vơ cùng”. Câu nói rất
hay và cảm động của Ngài (Xá Lợi Phất): "… Dù có dùng đầu đội, hai vai cõng
vác trải qua trăm ngàn muôn ức kiếp cũng không thể đền đáp được ơn của Đức

Thế Tôn”.
Để cứu giúp người Bồ tát thường dùng pháp bố thí và nhẫn nhục nghĩa là:
“Quyền lợi để cho người hưởng, việc khó Bồ tát gánh vác. Vị Trụ trì có tâm
niệm và sống như vậy, chắc chắn tiếp Tăng độ chúng thành công. Thực tế cho
thấy rõ, đệ tử Phật được nương nhờ phước đức của Ngài quá lớn lao. Bước theo
dấu chân Phật, các vị Bồ tát Tăng xuất hiện trên cuộc đời chỉ chuyên lo cho đại
chúng và tấm gương sáng của các ngài cũng đã soi tỏ được nhiều người thức
tỉnh, giác ngộ”.
Ba cỏ chỉ cho hàng Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát thực hiện Tam thừa
giáo thể hiện phương tiện khéo léo của Đức Phật. Vì vậy Quyền thừa Bồ tát ở
trong tam giới phát tâm Bồ đề, hành Bồ tát đạo, trên cầu Vơ thượng đạo, dưới hạ
hóa chúng sanh là Bồ tát của Tam thừa giáo.
Hai cây chỉ là hàng các vị Bồ tát ở ngoài sanh tử là Bồ tát mười phương và
Bồ tát Tùng địa dũng xuất. Khi mới khai hội Pháp Hoa thì chỉ có hai vạn Bồ tát


đến tham dự nhưng đến khi Phật thuyết phẩm Tùng địa dũng x́t thứ 15 thì có
đến Bát thập vạn ức na do tha Bồ tát, có nghĩa là vơ số Bồ tát mười phương hiện
diện. Vì thế: “Bước theo dấu chân Phật, làm thế nào tiếp nhận được lực Bồ tát
gia bị, thì từ "Khơng” sẽ trở thành "Có” mà kinh thường diễn tả là Chân khơng
Diệu hữu; vì nhận được phước báo của các ngài truyền đến, chúng ta dễ dàng
thành tựu cơng đức vượt ngồi khả năng của con người”. Thật vậy: “Chúng ta
thấy có nhiều người tu sống đơn sơ, nhưng làm được Phật sự phi thường vì nhờ
Phật và Bồ tát hộ niệm, những điều tốt lành tự tìm đến, khơng muốn làm cũng
phải làm: Điển hình như chùa Phổ Quang ở thành phố Hồ Chí Minh do Thành
hội Phật giáo quản lý, khi nhân dun hội đủ, thì chùa này được hồn thành một
cách tốt đẹp và nhanh chóng đến khơng thể ngờ được; Hoặc chùa Vạn Đức, Hịa
thượng Trí Tịnh cho biết xưa kia xây chùa rất cực khổ vì khơng đủ tài chánh.
Nhưng ngày nay, phước đức nhân duyên có đủ, được Phật hộ niệm, khiến các tín
đồ hằng tâm hằng sản phát tâm cúng dường, ngơi chùa trang nghiêm có được dễ

dàng, có lẽ chúng ta thấu hiểu ý sâu mầu nhiệm của Dược Thảo Dụ trong kinh
Pháp Hoa để sử dụng được trong cuộc sống tu hành, thăng hoa tri thức và đạo
hạnh trên bước đường thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh”.
C: KẾT LUẬN
Chúng ta khẳng định, Pháp của Đức Phật là bình đẳng giống như một vầng mây
mưa xuống thuần một vị. Song tùy theo căn cơ của chúng sinh khác nhau như: cỏ
thuốc nhỏ; lùm rừng; cây lớn và cây nhỏ tất cả đều đắc được lợi ích. Ðức Phật
cũng khơng ngoại lệ, x́t hiện ra nơi đời sống giống như vầng mây lớn và che
trùm khắp hết thảy, ngài vì chúng sinh mà diễn nói Phật pháp. Chúng sinh nghe
minh bạch sẽ trừ khử được mao bệnh tập khí và pháp thân trí huệ khai sáng,
quang minh hiện ra mà chẳng tự biết.Ðức Phật không nói rằng: “Ngài tạo tất cả,
mà là cứu độ tất cả”. Nếu ai khơng minh bạch Phật pháp thì sẽ khiến cho họ
minh bạch Phật pháp; Nếu ai không giác ngộ thì khiến cho họ giác ngộ. Chân


chánh bình đẳng ở chỗ tuy Phật độ chúng sinh, song chẳng có một chúng sinh có
thể độ.Phật nói ta rằng: “Chẳng có tham trước, tức chẳng có tâm thương ghét. Vì
có thương thì có chấp, khơng thương thì ghét. Chẳng có tham trước, thì cũng
chẳng có chướng ngại”. Phật ln vì chúng sinh bình đẳng nói pháp, cũng như
nói với một người. “Bình đẳng mà nói pháp’’: Nhiều khơng biết nhiều, ít khơng
biết ít; chẳng nhiều chẳng ít, khơng xa cũng chẳng gần. Dược có nghĩa là thuốc
trị bệnh, thảo là thảo mộc – là loài cỏ, cũng dụ cho chúng sinh thấy được thế tục.
“Nếu có bệnh thì giáo pháp của Như Lai là thuốc, quán sát căn cơ nói pháp, tùy
theo bệnh mà cho thuốc. Cần phải có căn cơ và giáo pháp tương ưng, thì thuốc
chữa trị mới hay. Cho nên phẩm nầy, Ðức Phật dùng cỏ thuốc làm ví dụ, chữa trị
bệnh thân và tâm của chúng sinh”. Có lẽ Dược Thảo Dụ chính là liều thuốc vĩnh
cửu để chữa lành cho mọi vết thương trong thế giới tâm linh, mà ở đó, khi nương
nhờ vào Phật pháp, tự mỗi con người sẽ tìm ra phương thuốc riêng có cho mình
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Junjiro Takakusu - Tinh hoa và Triết học Phật giáo - Tuệ Sỹ dịch, Ban tu thư

Phật học, 2004,
2. Hòa Thượng Thích Thanh Kiểm, Đại Ý Kinh Pháp Hoa, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh 1990.
3. Hịa Thượng Thiện Siêu, Kinh Pháp Hoa Giữa các Kinh Điển đại Thừa, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh 1999.
4. Hịa Thượng Thích Trí Quảng, Tư tưởng Phật Giáo, Nhà xuất bản Tôn Giáo ấn
hành 2001.
5. Kinh Trung Bộ, tập I, Kinh Xà dụ, 260 Hòa Thượng Thích Minh Châu (dịch)
Viện nghiên Cứu Phật Học Việt Nam tại Thành Phố Hồ Chí Minh 2002.
6. Hịa Thượng Thích Thiện Hoa, Phật Học Phổ Thông, Nhà xuất bản Thành phố
Hồ Chí Minh ấn hành 1990.
7. Hịa Thượng Thích Thiện Siêu, Lược giảng Kinh Pháp Hoa, Nhà xuất bản Tôn
Giáo ấn hành 2000.
8. Tỳ kheo Trí Quang, Kinh Pháp Hoa lược giải, NXB Tôn giáo, 1998


Kinh Pháp Hoa trình bày linh hoạt uyển chuyển như một vở kịch có nhiều
màn, nên nó mang tính đại chúng, mọi người dễ hiểu chứ khơng cứng nhắc mang
tính chân lý theo khía cạnh triết học hoặc chun mơn. Đó là cách dùng cái bình
thường thơng tục để truyền đạt chân lý cao siêu.
Cho nên ngôn ngữ Pháp hoa diễn đạt mục tiêu đó khơng phải là sự kiện mà
chính là sự thật ẩn chứa ở bên trong.
cho nên “chân lý trong kinh Pháp hoa không phải là một thứ chân lý chết cứng
vơ hồn; mà đó là lý tưởng; là chân lý bừng sáng, thơm ngát và kết hạt như hoa
sen, là chân lý tích cực, chân lý được hóa thân trong đức Phật, là Pháp thân, là tự
thân Giác ngộ, Năng giác và Sở giác là một” .




×