Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TIỂU LUẬN TCCT tập trung dân chủ và nâng cao chất lượng thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng ở chi bộ cơ quan phòng nội vụ quận hiện nay (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.37 KB, 21 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

BÀI THU HOẠCH
MƠN LỊCH SỬ ĐẢNG

TẬP TRUNG DÂN CHỦ VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HIỆN
NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ TRONG SINH HOẠT ĐẢNG Ở
CHI BỘ CƠ QUAN PHÒNG NỘI VỤ QUẬN HIỆN NAY

Họ và tên học viên:
Mã số Học viên:
Lớp:
Khóa học:

HÀ NỘI – NĂM 2021


MỤC LỤC
TT

NỘI DUNG

TRANG

Lời mở đầu

2

Cơ sở lý luận, thực tiễn và vị trí, vai trị của ngun tắc
1.


1.1
1.2

2

tập trung dân chủ

3
6

2.

Cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc tập trung dân chủ
Vị trí, vai trị của ngun tắc tập trung dân chủ
Bản chất, nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ

2.1.

Bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ

7

2.2.

Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ

11

7


Một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng thực hiện
3.

nguyên tắc tập trung dân chủ ở chi bộ tại cơ quan

12

Phịng Nội vụ Quận
Tình hình thực hiện ngun tắc tập trung dân chủ ở chi bộ cơ
3.1.

12

quan Phòng Nội vụ Quận
Một số giải pháp đảm bảo giữ vững và thực hiện nguyên tắc

3.2.

tập trung dân chủ trong tổ chức sinh hoạt chi bộ cơ quan

13

Phòng Nội vụ Quận
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo

2

17
18



MỞ ĐẦU
Trong các nguyên lý về xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân,
Đảng ta luôn khẳng định lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản và
thường xuyên quan tâm đến việc thực hiện nguyên tắc đó trong xây dựng tổ chức,
sinh hoạt và hoạt động của Đảng. Cùng với xây dựng Đảng về chính trị và tư
tưởng, nguyên tắc tập trung dân chủ bảo đảm tăng cường sự đồn kết nhất trí trong
nội bộ Đảng, làm cho Đảng trở thành một tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật nghiêm
minh, có sức chiến đấu cao, phát huy tính chủ động, sáng tạo của các tổ chức Đảng
và đảng viên.
Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ vừa phát huy được tính tích cực
chủ động, sáng tạo trách nhiệm cao của mỗi cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng, vừa tập
trung được trí tuệ và sức mạnh vật chất của toàn Đảng. Sức mạnh của Đảng là sự thống
nhất về chính trị, tư tưởng tổ chức. Sự thống nhất về chính trị, tư tưởng, chỉ có thể vững
chắc và biến thành hiện thực khi được bảo đảm bằng sự thống nhất về mặt tổ chức
thông qua thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.
Tuy nhiên, trong Đảng vẫn còn nhiều tổ chức đảng và đảng viên nhận thức
chưa đầy đủ về cơ sở khoa học, vị trí, vai trị, nội dung, bản chất của nguyên tắc tập
trung dân chủ và việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, nhất là ở
cấp chi bộ có lúc vẫn cịn chưa thật sự nghiêm túc, diễn biến phức tạp với những
biểu hiện khác nhau, dưới những hình thức khác nhau. Do vậy, trong cơng tác xây
dựng Đảng ở chi bộ hiện nay, nội dung thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ là
vấn đề cơ bản, cấp thiết, nếu xem nhẹ hay từ bỏ nó sẽ dẫn đến nguy cơ mâu thuẫn
nội bộ, làm giảm sức chiến đấu ở chi bộ và khơng hồn thành được nhiệm vụ
của cơ quan, đơn vị. Với ý nghĩa đó, trong q trình học tập, học viên lựa chọn
3


đề tài: : “Tập trung dân chủ và nâng cao chất lượng thực hiện nguyên tắc tập

trung dân chủ trong sinh hoạt đảng ở chi bộ cơ quan Phòng Nội vụ Quận hiện
nay” làm chủ đề nghiên cứu kết thúc môn học.
NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận, thực tiễn và vị trí, vai trị của ngun tắc tập trung
dân chủ
1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc tập trung dân chủ
Nguyên tắc tập trung dân chủ xuất phát từ nhiều cơ sở lý luận nhưng cốt lõi là
từ bản chất giai cấp công nhân và yêu cầu đấu tranh cách mạng; từ lý luận chủ
nghĩa Mác - Lênin về chính đảng cách mạng của giai cấp cơng nhân và từ sức
mạnh tổng hợp của Đảng. Theo đó, tập trung dân chủ là nguyên lý xây dựng
Đảng kiểu mới về mặt tổ chức của giai cấp công nhân, do C.Mác và Ph.Ăngghen
đặt cơ sở, được V.I.Lênin khái quát, được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta
khẳng định, kế thừa và thực hiện thành công trong xây dựng Đảng Cộng sản
Việt Nam trở thành một Đảng mácxít.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản trong công tác xây dựng
Đảng, nhưng thực hiện nguyên tắc như thế nào cho đúng là một vấn đề không
đơn giản. Nếu chủ thể nhận thức khơng có bản lĩnh chính trị và một động cơ
trong sáng thì nguyên tắc tập trung dân chủ sẽ phản tác dụng, nó sẽ như một con
dao hai lưỡi. Theo V.I.Lênin, tập trung đi liền với dân chủ. Tập trung càng cao
thì dân chủ càng cao. Khơng thể có dân chủ mà thiếu tập trung và ngược lại
khơng thể có tập trung mà thiếu dân chủ. Khi viết về “Chế độ tập trung và chế
độ tự trị”, V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: “Không được quên rằng khi bênh vực chế độ
tập trung, chúng ta chỉ bênh vực chế độ tập trung dân chủ thơi”[4,tr.183], điều
đó có nghĩa: tư tưởng tập trung quan liêu, chuyên quyền, độc đốn, hoặc dân chủ
vơ tổ chức, vơ chính phủ đều xa lạ với tư tưởng của Người. V.I.Lênin đã từng
phê phán rằng: “Ở ta, người ta luôn luôn lẫn lộn chế độ tập trung với chế độ
độc đoán và chế độ quan liêu. Lẽ tự nhiên là lịch sử nước Nga phải đẻ ra một sự
4



lẫn lộn như thế, nhưng dù sao đối với người mácxít, điều đó vẫn là một điều dứt
khốt khơng thể dung thứ được” [4,tr.183].
Là người sáng lập, giáo dục và rèn luyện Đảng ta, Hồ Chí Minh ln trung
thành với tư tưởng của C. Mác - Ph. Ăngghen và V. I. Lênin về nguyên tắc tập
trung dân chủ và sáng tạo, bổ sung, phát triển tư tưởng đó trong tổ chức, sinh hoạt
và hoạt động của Đảng cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Đảng
Cộng sản Việt Nam, trình độ dân trí của Việt Nam.
Trước khi Đảng ta ra đời, trong tác phẩm “Đường cách mệnh” (1927), đề
cập đến cách tổ chức, giải quyết công việc của Cơng hội, Hồ Chí Minh đã giải thích
ngun tắc tập trung dân chủ một cách giản dị và dễ hiểu. Người nói: “Từ tiểu tổ
đến đại hội đều theo cách dân chủ tập trung. Nghĩa là có việc gì ai cũng được bàn,
cũng phải bàn. Khi bàn rồi thì bỏ thăm, ý kiến nào nhiều người theo hơn thì được.
Ấy là dân chủ. Đã bỏ thăm rồi thì giao cho hội uỷ viên làm, khi ấy thì tất cả hội
viên phải theo mệnh lệnh hội ấy. Ấy là tập trung. Ai khơng nghe lời thì uỷ viên có
quyền phạt” [10,tr.306].
Khi Đảng ta ra đời, Hồ Chí Minh đã áp dụng ngay nguyên tắc tập trung dân
chủ trong xây dựng Đảng. Trong các Văn kiện được thông qua tại Hội nghị hợp
nhất (2/1930) do Người soạn thảo làm thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác
định: “Bất cứ về vấn đề nào đảng viên đều phải hết sức thảo luận và phát biểu ý
kiến, khi đa số đã nghị quyết thì tất cả đảng viên phải phục tùng mà thi hành”. Mặc
dù không sử dụng thuật ngữ “tập trung dân chủ” nhưng đây chính là nội dung cốt
lõi nhất của ngun tắc này.
Trong báo cáo Chính trị trình bày tại Đại hội II của Đảng (2/1951), khi
bàn về các vấn đề cơ bản đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng
Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Về tổ chức, Đảng Lao động Việt Nam theo chế
độ dân chủ tập trung”. Nhưng bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ được
Hồ Chí Minh luận giải tồn diện nhất trong cuốn “Thường thức chính trị”
(1953). Tại đó, Người dành một mục để nói về chế độ dân chủ tập trung của
5



Đảng và khẳng định: “Toàn thể đảng viên, toàn thể các cấp, tổ chức thống nhất
lại theo một nguyên tắc nhất định. Nguyên tắc ấy tức là dân chủ tập trung”
[11,tr.240]. Như vậy, tập trung dân chủ là nguyên tắc chỉ đạo tồn bộ cơng tác tổ
chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng, là nguyên tắc cơ bản nhất có ý nghĩa
sống cịn của Đảng.
Ở Hồ Chí Minh, trong tên gọi có sự khác biệt: Có khi là nguyên tắc dân chủ
tập trung, có khi là chế độ dân chủ tập trung; có khi lại là nguyên tắc tập trung dân
chủ, nhưng quan điểm của Người về nội dung và bản chất của nguyên tắc này là
nhất quán, thống nhất, đó là mối liên hệ, tác động chi phối làm tiền đề cho nhau,
thống nhất biện chứng giữa hai mặt tập trung và dân chủ trong một cấu trúc chỉnh
thể thống nhất của nguyên tắc: “Tập trung trên cơ sở dân chủ” và “dân chủ dưới sự
chỉ đạo của tập trung”. Điều đó cũng có nghĩa là trong từng yếu tố “dân chủ” và
“tập trung” đã có một sự hồ quyện, chuyển hố tương ứng, “tập trung” khơng hề
mâu thuẫn với “dân chủ” mà nó thống nhất, tác động qua lại với nhau. Có dân chủ
trong Đảng mới có dân chủ trong xã hội. Người cho rằng bản chất của chế độ ta là
dân chủ, “dân chủ là cái quý nhất của nhân dân” do đó cũng là cái quý nhất của mỗi
đảng viên. Nếu thực hành dân chủ nội bộ tốt sẽ làm cho Đảng phát huy và tập trung
được trí tuệ, tạo nên bầu khơng khí cởi mở, tin tưởng lẫn nhau, làm cho Đảng thốt
khỏi tình trạng thiếu đoàn kết - một nhân tố làm suy yếu sức mạnh của Đảng. Mở
rộng dân chủ còn chống được tệ độc đốn, chun quyền trong Đảng. Hồ Chí Minh
là một hiện thân của dân chủ và gương mẫu thực hành dân chủ. Dân chủ đã thành
nếp hằn sâu trong tư chất, phong cách và đời thường của Người. Từ Người, những
vấn đề về tập trung dân chủ đã trở thành nguyên tắc cơ bản trong xây dựng, sinh
hoạt và hoạt động của Đảng ta. Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam ln đồn kết
thống nhất, trong sạch vững mạnh.
Thực tiễn xây dựng, hoạt động của Đảng ta, của phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế đã khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của nguyên tắc tập
trung dân chủ: Đối với Đảng ta, trải qua hơn 91 năm xây dựng và lãnh đạo cách
mạng Việt Nam, Đảng luôn khẳng định tầm quan trọng của nguyên tắc tập trung

6


dân chủ. Đảng đã kiên trì, vận dụng sáng tạo nguyên tắc này cả trong điều kiện
khi chưa có hoặc khi đã có chính quyền; cả trong điều kiện chiến tranh cũng như
khi xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt trong điều kiện Đảng ta là một đảng cầm
quyền, Đảng đã trung thành, vận dụng đúng đắn, sáng tạo nguyên tắc tập trung
dân chủ. Nhờ vậy trong bất kỳ điều kiện, hồn cảnh nào, Đảng cũng ln ln là
một khối thống nhất về ý chí và hành động, Đảng thực sự là một chỉnh thể thống
nhất, đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Điều này đã khẳng định năng lực, vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu, sức mạnh của
Đảng xuất phát từ nhiều yếu tố, nhiều nguyên nhân, trong đó có ngun nhân đặc
biệt quan trọng chính là do Đảng ta kiên trì và vận dụng đúng đắn, sáng tạo
nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, trước yêu cầu
của nhiệm vụ cách mạng đang đặt ra cho công tác lãnh đạo, tổ chức bộ máy,
phương thức lãnh đạo của Đảng cần được đổi mới, chỉnh đốn. Điều đó càng địi
hỏi Đảng ta phải khơng ngừng coi trọng, cụ thể hoá và vận dụng sáng tạo ngun
tắc tập trung dân chủ.
1.2. Vị trí, vai trị của nguyên tắc tập trung dân chủ
Nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng Đảng, từ lịch sử phát triển của phong trào Cộng sản và công nhân
quốc tế đã khẳng định vai trò to lớn của nguyên tắc tập trung dân chủ đối với việc
xây dựng và hoạt động của Đảng Cộng sản. Nguyên tắc tập trung dân chủ mang
bản chất của giai cấp công nhân. Giữ vững và thực hiện tốt nguyên tắc này là giữ
vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng trên lĩnh vực tổ chức
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản chỉ đạo toàn bộ và xuyên
suốt quá trình xây dựng, tổ chức, sinh hoạt nội bộ và hoạt động lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Sức mạnh tổ chức của Đảng, năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng phụ thuộc quyết định vào nguyên tắc này. Đồng thời, nguyên tắc này
cũng quy định việc xây dựng cơ cấu, hình thức tổ chức của Đảng, thiết lập các cơ

quan lãnh đạo của Đảng, tổ chức bộ máy của Đảng làm cho Đảng trở thành một
7


chỉnh thể đồng bộ, thống nhất có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh, đoàn kết
thống nhất từ Trung ương đến cơ sở.
Nguyên tắc tập trung dân chủ quy định các chế độ để chỉ đạo việc giải
quyết các mối quan hệ trong nội bộ Đảng. Đó là mối quan hệ tập thể lãnh đạo,
cá nhân phụ trách, thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới thực hiện vô điều kiện
nghị quyết của cấp trên. Giữa cá nhân với tổ chức, giữa địa phương với Trung
ương… giải quyết tốt các mối quan hệ đó thì mọi đường lối, chủ trương, chính
sách, chỉ thị của Đảng được thực hiện một cách triệt để, nhanh chóng và chính
xác, tránh được tình trạng “trên phát” nhưng “dưới không động” dưới làm nhưng
trên khơng biết, ỷ lại trơng chờ vào trên hay “khốn trắng” cho cấp dưới, công
việc không biết giao cho ai “nhiều sãi khơng ai đóng cửa chùa”. Như vậy, hiệu
quả lãnh đạo, chỉ đạo sẽ bị hạn chế. Thực hiện tốt tập trung dân chủ sẽ bảo đảm
cho Đảng là một “guồng máy” chặt chẽ, thống nhất, có kỷ luật tự giác, nghiêm
minh.
Nguyên tắc tập trung dân chủ quy định các nguyên tắc, chế độ trong sinh
hoạt Đảng và phương pháp tác phong lãnh đạo của Đảng, bảo đảm cho Đảng vừa
giữ vững được nguyên tắc, vừa phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức Đảng, vừa tập trung được trí tuệ và sức mạnh của
tồn Đảng. Ngun tắc tập trung dân chủ cịn là ngun tắc chỉ đạo tồn bộ công
tác tổ chức, sinh hoạt và mọi hoạt động của Đảng; nó thể hiện bản chất và sự sống
cịn của Đảng. Đồng thời, nó cịn là tiêu chuẩn để phân biệt giữa Đảng Cộng sản
chân chính với các đảng cơ hội, cải lương và là thước đo tính đảng của người đảng
viên cộng sản chân chính với các phần tử tự do, vơ chính phủ, kém tính tổ chức,
tính kỷ luật.
Vai trò của nguyên tắc tập trung dân chủ còn được thể hiện qua kinh nghiệm
thực tiễn của phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế và trong công tác xây

dựng Đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đối với Đảng ta, từ khi ra đời đến nay,
trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành ln vận dụng đúng đắn,
sáng tạo và kiên trì thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong mọi giai đoạn của
8


cách mạng, lúc thuận lợi cũng như lúc khó khăn, thời bình cũng như thời chiến, khi
chưa có chính quyền cũng như khi đã có chính quyền… Trong mọi điều kiện, Đảng
ta ln ln là một khối đồn kết thống nhất về ý chí và hành động, thực sự là một
chỉnh thể có tổ chức, đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành hết thắng lợi này
đến thắng lợi khác.
2. Bản chất, nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ
2.1. Bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ
Bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ phản ánh thuộc tính bản chất
của giai cấp cơng nhân. Ngun tắc tập trung dân chủ là sự thống nhất biện
chứng giữa hai thành tố tập trung và dân chủ. Sự thống nhất đó khơng phải là
ngẫu nhiên, mà nó được quy định bởi những nhân tố khách quan của cuộc đấu
tranh cách mạng của giai cấp công nhân và bởi việc Đảng cộng sản phải lãnh
đạo cuộc đấu tranh đó đến thắng lợi cuối cùng.
Tập trung nhằm tạo sự thống nhất về mục tiêu, lý tưởng, quan điểm, đường
lối, về tổ chức và hành động toàn Đảng làm cho Đảng thống nhất về tư tưởng và
hành động, tạo sự thống nhất từ trên xuống dưới, có sự hiệp đồng, phối hợp chặt
chẽ giữa các tổ chức đảng và đảng viên. Tập trung có nghĩa là Đảng cộng sản phải
có một cương lĩnh cách mạng chung, có một điều lệ thống nhất, thể hiện những
tiêu chuẩn sinh hoạt đảng; tổ chức đảng và toàn thể đảng viên phải tuân theo. Tập
trung còn thể hiện ở việc lãnh đạo các tổ chức đảng, các công tác của Đảng do
một trung tâm thực hiện là Đại hội đại biểu toàn quốc và giữa hai kỳ Đại hội là
Ban chấp hành Trung ương Đảng. Các nghị quyết của Đảng là biểu hiện ý chí của
toàn Đảng, bắt buộc các tổ chức đảng và toàn thể đảng viên phải thi hành. Tuân
thủ nghị quyết của Đảng là tuân thủ ý chí, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên,

tuân thủ quyền dân chủ, kết quả hoạt động dân chủ của Đảng. Tập trung địi hỏi
phải có một kỷ luật thống nhất, tinh thần tuân thủ những tiêu chuẩn sinh hoạt
đảng, ý thức phục tùng nghị quyết của Đảng. Tập trung trong Đảng biểu hiện uy
quyền, sức mạnh về sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, là điều kiện cần thiết cho
9


sự tồn tại, hoạt động và phát triển của Đảng cộng sản. Tập trung theo nguyên tắc
tập trung dân chủ hoàn toàn đối lập với tập trung quan liêu, độc đoán, gia trưởng
của cá nhân người lãnh đạo hoặc cơ quan lãnh đạo cấp trên áp đặt ý kiến của
mình cho cấp dưới. Tập trung quan liêu là tập trung phi dân chủ, là tập trung
không trên cơ sở dân chủ, không phải là bản chất của nguyên tắc tập trung dân
chủ.
Tập trung trên cơ sở dân chủ là tập trung trên cơ sở trí tuệ, sức mạnh của
đa số mà thiểu số phải phục tùng khác với tập trung quyền lực của thiểu số giai
cấp bóc lột bắt quần chúng nhân dân lao động phải thực hiện. Tập trung trên cơ
sở dân chủ nhằm xoá bỏ chế độ áp bức bóc lột, thực hiện và bảo vệ lợi ích của
Đảng, của chế độ và của nhân dân lao động, khác với tập trung nhằm duy trì chế
độ bóc lột, bảo vệ chế độ áp bức bóc lột. Đó là tập trung trên cơ sở chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất, khác với tập trung trên cơ sở chế độ chiếm hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất. Tập trung gắn liền với cấp dưới, với cơ sở, chịu sự kiểm tra,
quyết định của cơ sở, khác với tập trung nhằm trấn áp dưới, thoát ly cơ sở, thốt
ly dân chủ, cản trở bóp nghẹt dân chủ.
Đảng là một tổ chức chính trị tự nguyện, độc lập. Sức mạnh của Đảng là
do tính tích cực tự giác của tồn thể đảng viên. Có thực hiện dân chủ trong Đảng
mới có điều kiện rèn luyện, giáo dục đảng viên, mới phát huy tốt nhất nghị lực,
sự sáng tạo của các cấp uỷ và của mọi cán bộ, đảng viên vào việc đề ra và thực
hiện đường lối chính sách, nghị quyết của Đảng. Mọi quyết định của: “tập
trung” đều phải được hình thành và tổ chức thực hiện thơng qua dân chủ. Như
vậy, dân chủ trong Đảng thực chất là quyền làm chủ của đảng viên, là sự tham

gia gia tích cực của tồn thể đảng viên vào việc quản lý công việc của Đảng một
cách trực tiếp hay thông qua những đại biểu của họ vào việc vạch đường lối,
chính sách, vào việc thành lập các cơ quan lãnh đạo của Đảng.
Dân chủ dưới sự chỉ đạo của tập trung là dân chủ có lãnh đạo, có mục
đích và hướng tới sự tập trung, nó trái với dân chủ cực đoan, dân chủ vơ chính
phủ. Mọi hoạt động lãnh đạo của Đảng phải trên cơ sở tập thể lãnh đạo, cá nhân
10


phụ trách. Hồ Chí Minh đã nói: “tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách
là tập trung, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách tức là dân chủ, tập
trung…”[11,tr.505], nó khác với dân chủ tràn lan, khơng giới hạn, dân chủ hình
thức. Dân chủ có sự bảo đảm của tập trung là dân chủ có tổ chức, trong tổ chức
chứ không phải là vô tổ chức, là dân chủ có tính định hướng rõ ràng. Dân chủ
dựa trên sự bình đẳng, thống nhất mục tiêu, lợi ích khác với dân chủ dựa trên sự
bất công, bất bình đẳng mang bản chất của chế độ áp bức bóc lột. Dân chủ trong
Đảng là dân chủ thuộc về đa số buộc thiểu số phải phục tùng nhằm để xố bỏ
chế độ bóc lột, khác với dân chủ chỉ thực sự với tầng lớp quý tộc, với giai cấp tư
sản chiếm thiểu số trong xã hội còn đối với quần chúng nhân dân lao động thì
chỉ là hình thức. Dân chủ có sự bảo đảm của tập trung nhằm tạo ra sức mạnh
bằng sự đoàn kết, tập trung, thống nhất, hồn tồn khác với dân chủ vơ chính
phủ, vơ tổ chức tạo ra sự chia rẽ, bè phái, bản vị cục bộ địa phương, phá vỡ sự
đoàn kết tập trung, thống nhất trong Đảng.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp hài hoà giữa hai mặt tập trung
và dân chủ. Cả hai mặt tập trung và dân chủ tạo thành chỉnh thể thống nhất của
một nguyên tắc. Dân chủ là điều kiện, là tiên đề của tập trung, cũng như tập
trung là cơ sở, là cái bảo đảm cho dân chủ được thực hiện. Thực hiện và phát
huy dân chủ trong Đảng phải gắn liền với giữ vững, tăng cường tập trung và
ngược lại. Trên cơ sở thống nhất và tác động biện chứng giữa hai yếu tố đó thì
dân chủ ngày càng phát triển, tập trung càng vững chắc. Nhận thức và thực hiện

đúng nguyên tắc tập trung dân chủ sẽ phát huy và làm tăng cường sức mạnh của
Đảng. Khi tập trung trên cơ sở dân chủ thì càng thúc đẩy, cổ vũ cho dân chủ có
chất lượng hơn. Cịn dân chủ hướng tới tập trung, đi tới sự thống nhất thì dân
chủ thực sự có mục đích, có chất lượng. Nếu tập trung cao mà dân chủ bị hạn
chế tức là tập trung không dựa trên cơ sở dân chủ, đó là tập trung quan liêu, hình
thức. Ngược lại, nếu mở rộng dân chủ mà không hướng tới sự tập trung là dân
chủ vô tổ chức, vô kỷ luật, dân chủ phường hội chứ không phải dân chủ theo
nguyên tắc của Đảng, rút cục cũng không bảo đảm dân chủ.
11


Nói đến nguyên tắc tập trung dân chủ là nói đến mối quan hệ giữa thiểu số
và đa số, giữa cấp dưới và cấp trên, giữa cá nhân và tổ chức. Đây là mối quan hệ
biện chứng giữa cái chung và cái riêng, giữa hai mặt của một chỉnh thể thống
nhất, giữa tập trung và dân chủ trong hoạt động của Đảng. Bất kỳ mưu toan nào
muốn tách chúng ra thành những bộ phận riêng biệt khơng có liên hệ với nhau,
cũng đều chỉ có thể làm hại cho Đảng mà thôi. Đồng thời cũng kiên quyết chống
lại bọn xét lại đem đối lập hai khái niệm đó với nhau. Do đó, đối với một Đảng
Macxit – Lêninit, trong tất cả mọi giai đoạn hoạt động, dân chủ và tập trung đều
quan trọng như nhau. Hai mặt đó, nếu đứng riêng một mình, tách rời nhau, cũng
đều khơng thể là cơ sở của việc xây dựng Đảng. Nếu dân chủ mà khơng tập trung
thì nhất định sẽ biến Đảng thành một khối tập hợp mơ hồ, khơng có sự thống nhất
nội bộ và tính tổ chức, và do đó, khơng thể thực hiện vai trị người lãnh đạo giai
cấp vơ sản và nhân dân lao động đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản và giành thắng
lợi trong cuộc đấu tranh đó. Ngược lại, nếu chỉ theo nguyên tắc tập trung thì Đảng
có nguy cơ biến thành một tổ chức bè phái, đóng cửa, xa rời quần chúng, mất khả
năng giáo dục đảng viên thành những chiến sĩ tiên phong, tự giác.
Nguyên tắc tập trung dân chủ chính là điều kiện đảm bảo cho tổ chức
đảng cố kết về mặt tổ chức, thống nhất ý chí, thống nhất hành động; đồng thời
phát huy sáng kiến và tính tích cực sáng tạo của mọi đảng viên, mọi tổ chức

đảng. Nghiên cứu bản chất nguyên tắc tập trung dân chủ chúng ta nghiêm khắc
phê phán quan điểm sai trái cho rằng: nguyên tắc tập trung dân chủ là sự gán
ghép hai nguyên tắc “tập trung” và “dân chủ”, đó là sự gán ghép hai yếu tố có xu
hướng đối lập nhau, từ đó quy kết bản chất của Đảng ta là thiếu tập trung thống
nhất, lẫn lộn giữa tập trung trên cơ sở dân chủ với tập trung quan liêu, giữa dân
chủ có lãnh đạo với dân chủ vơ tổ chức, vơ chính phủ.
2.2. Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ
Nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ, được ghi trong điều 9
chương II, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI của Đảng thông qua ngày 19 tháng 01 năm 2011 xác định cụ thể: “Đảng Cộng
12


sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội dung cơ bản của
nguyên tắc đó là:
1. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
2. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ
quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ
đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là
ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ).
3. Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình
trước đại hội cùng cấp, trước cấp uỷ cấp trên và cấp dưới; định kỳ thơng báo
tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê
bình và phê bình.
4. Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu
số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các
tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành
Trung ương.
5. Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành

khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu
quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến
thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến
Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết,
không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm
quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; khơng phân biệt đối xử với đảng viên có ý
kiến thuộc về thiểu số.
6. Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của
mình, song khơng được trái với ngun tắc, đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên” [9,tr.5].
13


Như vậy, tập trung dân chủ theo quan điểm của Đảng ta có nghĩa là tất cả
các cơ quan Đảng đều phải do bầu cử lập ra và hoạt động theo nguyên tắc tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; thực hiện chế độ thơng báo tình hình hoạt động
của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê
bình và phê bình. Đảng viên được phát biểu ý kiến của mình trước khi biểu
quyết và có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu. Mặt khác, tập trung
dân chủ đặt ra yêu cầu kỷ luật nghiêm ngặt và thống nhất đối với tồn thể đảng
viên, là phục tùng ý chí và nghị quyết của đa số, là việc các cơ quan cấp dưới có
nghĩa vụ phải chấp hành quyết định của các cơ quan có thẩm quyền cấp trên.
Điều đó sẽ bảo đảm cho công tác và sự lãnh đạo của Đảng ln được tập trung,
có tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, tạo nên sức mạnh của toàn
Đảng trong lãnh đạo và hoạt động của Đảng.
3. Một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ ở chi bộ cơ quan Phịng Nội vụ Quận hiện nay.
3.1. Tình hình thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng trong
chi bộ ở cơ quan phòng Nội vụ Quận
Nghị quyết số 04-NQ/TW khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn

Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ” đã nêu một trong
những nguyên nhân của hạn chế, yếu kém về xây dựng Đảng là: “Nguyên tắc
tập trung dân chủ ở nhiều nơi bị bng lỏng; ngun tắc tự phê bình và phê bình
thực hiện khơng nghiêm, chưa có cơ chế để bảo vệ người đấu tranh phê bình”.
Trong những năm qua, quá trình vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ, chi bộ
Phịng Nội vụ có nhiều cố gắng trong việc thực hiện nguyên tắc; tăng cường hơn
chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; chế độ kiểm điểm công tác theo định
kỳ; tiến hành kiểm tra, bảo đảm sự đoàn kết thống nhất trong toàn chi bộ góp phần
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chun mơn cơng tác nội vụ.

14


Tuy nhiên, bên cạnh những chuyển biến tích cực, việc nhận thức và thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ của một số cán bộ, đảng viên trong cơ quan vẫn
cịn chưa thật sự nghiêm túc, có lúc việc bàn bạc cịn mang tính hình thức, việc phê
bình, đấu tranh cịn mang tính cá nhân.
Ngun nhân chủ quan của những khuyết điểm, sai phạm trong nhận thức và
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ biểu hiện: Về mặt lý luận, nhiều cán bộ,
đảng viên chưa làm rõ bản chất, nội dung của nguyên tắc, phê phán các nhận thức
lệch lạc, giản đơn; về nhận thức, cấp uỷ và lãnh đạo cũng như nhiều cán bộ, đảng
viên chưa nắm vững được tinh thần cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ, thiếu
tơn trọng nó...
Như vậy, việc nhận thức và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong chi
bộ Phòng Nội vụ Quận những năm qua mặc dù đã có những chuyển biến tích cực
song chưa thật vững chắc và triệt để. Vì vậy, chi ủy, chi bộ và đội ngũ cán bộ đảng
viên phải nhận diện đúng bản chất và nội dung, đề ra các giải pháp để thực hiện
nguyên tắc này. Đậy là một nội dung trọng yếu trong tồn bộ cơng tác xây dựng chi
bộ ở cơ quan Phòng Nội vụ.

3.2. Một số giải pháp đảm bảo giữ vững và thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ trong tổ chức sinh hoạt chi bộ ở cơ quan Phòng Nội vụ Quận hiện nay
Để thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong giai đoạn hiện nay
chi bộ cần phải quán triệt và thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Một là, Tăng cường giáo dục cho cán bộ, đảng viên nhận thức đúng đắn
và thống nhất về nguyên tắc tập trung dân chủ.
Cần tổ chức nghiên cứu, quán triệt sâu sắc nội dung, bản chất và mối quan
hệ biện chứng giữa tập trung và dân chủ gắn với việc liên hệ, kiểm điểm về nhận
thức và thực hiện nguyên tắc này ở đảng bộ, đơn vị mình; chỉ ra những việc đã làm
đúng, chưa làm đúng; nguyên nhân chủ quan của việc thực hiện chưa tốt hoặc cố
tình vi phạm nguyên tắc để khắc phục, bảo đảm sự thống nhất về ý chí và hành
động trong chi bộ cũng toàn đảng bộ khối các cơ quan của Quận. Đối với những cá
15


nhân vi phạm nghiêm trọng thì phải xử lý kỷ luật nghiêm, trên cơ sở đó nâng cao
trách nhiệm thực hiện nghiêm túc nguyên tắc này, đồng thời có biện pháp để chấn
chỉnh tổ chức.
Hai là, cụ thể hóa nội dung, yêu cầu của nguyên tắc tập trung dân chủ
thành chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn và các mối quan hệ công tác, của từng
cán bộ, đảng viên.
Xây dựng, ban hành các qui định cụ thể hoá nguyên tắc tập thể lãnh đạo
phân công cá nhân phụ trách và mở rộng sinh hoạt dân chủ. Muốn phát huy dân
chủ trong Đảng nói chung, trong chi bộ nói riêng thì cần phải phải nâng cao giác
ngộ xã hội chủ nghĩa, nâng cao tính đảng cho đảng viên. Song, dân chủ khơng chỉ
là vấn đề nhận thức tư tưởng mà trước hết là vấn đề tổ chức, cơ chế, xây dựng hoàn
thiện cơ chế dân chủ dưới sự lãnh đạo của tập trung. Nói cách khác, cơ chế tập
trung trên cơ sở dân chủ trong Đảng là vấn đề rất quan trọng và cấp bách hiện nay.
Cần phải ban hành quy định về chế độ trách nhiệm của người đứng đầu, xác định
rõ chế độ, chức trách của lãnh đạo, chỉ huy các cấp, có quy định cụ thể về nguyên

tắc thiểu số phục tùng đa số. Thực hiện nghiêm chế độ về việc bảo lưu ý kiến và
nghiên cứu các khiếu nại của đảng viên, bổ sung và hoàn thiện quy chế về công tác
cán bộ.
Ba là, giữ vững và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ
Đảng ta luôn xác định cần phải “Thật sự phát huy dân chủ trong sinh hoạt
đảng, từ sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp uỷ ở cơ sở đến sinh hoạt Ban Bí thư, Bộ
Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương; đồng thời giữ nghiêm kỷ luật trong
Đảng. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Chống quan liêu, bè phái,
cục bộ, địa phương, lối làm việc vô nguyên tắc, vi phạm kỷ luật, vi phạm dân
chủ”. Do vậy, Trong quá trình sinh hoạt, cấp ủy, bí thư, phó bí thư chi bộ phải được
cung cấp nhanh chóng, chính xác những thơng tin cần thiết để nắm chắc tình hình,
có điều kiện đóng góp vào q trình ra các quyết định. Các cuộc họp và sinh hoạt
Đảng phải chuẩn bị chu đáo nội dung, mở rộng dân chủ thảo luận thẳng thắn, có
16


kết luận rõ ràng. Phải tôn trọng và tập hợp hết ý kiến đúng đắn của Đảng viên trước
khi quyết định. Khi có ý kiến khác nhau phải thảo luận kỹ, nhất là đối với những
vấn đề quan trọng phải biểu quyết, khi cần thiết có thể cho tiến hành điều tra, khảo
sát, làm thí điểm rồi mới kết luận. Mọi người đều phải nghiêm chỉnh thực hiện nghị
quyết, không ai được quyền tuyên truyền và thực hiện ý kiến riêng của mình đã bị
đa số bác bỏ.
Bốn là, thực hiện nghiêm túc nề nếp, chất lượng chế độ tự phê bình và
phê bình
Tự phê bình và phê bình lúc nào cũng quan trọng, là “phương thuốc hay
nhất” để khắc phục, sửa chữa khuyết điểm. Hiện nay, do những biểu hiện tiêu cực
phát triển khá phổ biến và nghiêm trọng thì càng phải thực hiện nghiêm túc chế độ
này. Trên cơ sở cụ thể hoá quy chế dân chủ ở cơ sở, cần có cơ chế phù hợp để lấy ý
kiến góp ý, phê bình của cán bộ, đảng viên hàng năm, bảo vệ người thẳng thắn phê
bình, đồng thời xử lý nghiêm những hiện tượng lợi dụng phê bình để vu cáo, đả

kích hãm hại đồng chí, đồng đội gây rối nội bộ. Khắc phục cho được tình trạng nể
nang, né tránh, hình thức, chiếu lệ, bao che cho nhau, thấy đúng không kiên quyết
bảo vệ, thấy sai không dám phê phán đấu tranh hoặc khi được phê bình thì tiếp thu
một cách miễn cưỡng và khơng sửa chữa khuyết điểm.
Năm là, đề cao tính Đảng, ý thức trách nhiệm của đảng viên trong xây
dựng, tổ chức và thực hiện nhiệm vụ được giao.
Mở rộng và phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng đi đôi với đề cao kỷ
cương, kỷ luật. Mọi hành vi vô tổ chức, vô kỷ luật, cố tình khơng chấp hành nghị
quyết, chỉ thị của Đảng, gây chia rẽ, bè phái làm suy yếu khối đoàn kết thống nhất
về tư tưởng, tổ chức của Đảng đều phải xử lý nghiêm minh.
Trên cương vị là Bí thư chi bộ, Trưởng phịng nội vụ Quận, bản thân tơi ln
nhận thức sâu sắc rằng, để có thể phát huy được dân chủ trong cơ quan mình thì
trước tiên phải thực hiện đồn kết triệt để, tơi nhận thức và luôn ghi nhớ sâu sắc
lời Bác dạy về thực hiện đoàn kết. Đoàn kết trước hết là đoàn kết trong chi bộ.
17


Bởi lẽ, mọi cán bộ đảng viên đều “đồng tâm, đồng ý, đồng chí, đồng lịng” thì
việc gì khó khăn cũng có thể vượt qua, việc gì phức tạp cũng quyết tâm hồn
thành. Sự đồn kết, đồng lịng trong lãnh đạo có sức lan tỏa mạnh mẽ, tạo nên
tinh thần dân chủ, thống nhất về ý chí hành động cho toàn cơ quan.
Mặt khác, dân chủ đoàn kết ở cơ quan hiện nay, phải được thể hiện cụ thể
qua việc đoàn kết giữa lãnh đạo và chỉ huy, trước tiên là đồn kết giữa cấp
trưởng với cấp phó, cấp trên với cấp dưới, đoàn kết giữa cán bộ với nhân viên.
Mọi công việc của cơ quan đều được đem ra bàn bạc để cùng nhau tạo nên sự
thống nhất. Và mọi mục đích đều hướng vào thực hiện nhiệm vụ của cơ quan. Vì
vậy, trong lãnh đạo, tơi ln quan tâm lắng nghe, trao đổi, bàn bạc với đồng lãnh
đạo phòng để cùng nghiên cứu, đề xuất các chủ trương, giải pháp sát đúng với
tình hình đơn vị
Bản thân tơi luôn nhận thức sâu sắc rằng, việc thực hiện quy chế dân chủ

chỉ có thể thực hiện được từ bởi chính trách nhiệm và lương tâm của người cán
bộ, đảng viên. Có thẳng thắng trung thực, có tâm huyết với cơ quan thì mới có
thể thực hiện đồn kết thống nhất trong lãnh đạo và chỉ huy được. Chính vì thế,
trong chỉ huy điều hành cơ quan, là người cán bộ chủ trì phải phát huy sức mạnh
của tập thể, của đội ngũ cán bộ và các tổ chức. Thực tế, ở cơ quan Phịng Nội vụ
Quận có những lúc, có những thời điểm bất đồng quan điểm, ý kiến khác nhau
trong giải quyết cơng việc. Nếu như đồn kết đồn kết xi chiều sẽ đem đến
việc xuề xịa, cho qua để êm chuyện. Nhưng với tinh thần thẳng thắng trung
thực của người cán bộ, đảng viên. Việc đóng góp ý kiến tự phê bình và phê bình
có ý nghĩa hết sức quan trọng trong đơn vị. Vừa là cơ sở để mỗi người nhận thức
rõ nội dung, công việc, vừa là cơ sở để tạo nên sự thống nhất trong hành động.
Có như vậy, cơ quan mới ngày càng phát triển và vững mạnh, mỗi cán bộ, đảng
viên
KẾT LUẬN

18


Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng. Nội dung của
nguyên tắc rất phong phú, phản ánh sâu sắc bản chất giai cấp công nhân của Đảng.
Tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc là yêu cầu khách quan, bảo đảm cho Đảng luôn
luôn là một khối đồn kết thống nhất, phát huy được trí tuệ, sức mạnh, để Đảng đủ
sức lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi
mới, đưa cách mạnh đi đến thành công. Thực hiện không tốt, hạ thấp, xa rời, từ bỏ
nguyên tắc đều làm suy yếu Đảng, thậm chí rất nguy hại. Chính vì vậy, xây dựng
Đảng phải gắn liền với thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ. Đó là một
quá trình lâu dài, là trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng từ Trung ương đến cơ sở,
trách nhiệm của mọi cán bộ, đảng viên, của mọi cấp, mọi ngành, trong đó có cán
bộ, đảng viên, chiến sĩ trong quân đội. Điều quan trọng là nhận thức phải đi đôi với
hành động, củng cố tổ chức, hoàn thiện cơ chế, chống mọi biểu hiện tập trung quan

liêu, độc đoán dân chủ hình thức, cũng như mọi biểu hiện phân tán, cục bộ, bản vị,
địa phương chủ nghĩa, tự do vô kỷ luật, bè phái và mọi âm mưu và hành động
chống phá của kẻ thù. Mỗi chúng ta cần đề cao trách nhiệm thực hiện tốt nguyên
tắc, góp phần làm cho Đảng bộ quân đội thực sự vững mạnh, lãnh đạo quân đội
hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó./.

19


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. C. Mác - Ph.Ăng ghen, Toàn tập, Tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1970;
2. V.I. Lênin, Toàn tập, tập 8, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1979;
3. V.I. Lênin, Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977;
4. V.I. Lênin, Toàn tập, tập 24, 27. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980;
6. Đảng Cộng sản Việt nam, văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII, Nxb Sự
thật, Hà Nội, 1991.
7. Đảng Cộng sản Việt nam, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
IX, Nxb CTQG, H, 2001.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb CTQG, H.2011.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb CTQG, H.2021.
9. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (thông qua tại Đại hội đại biểu tồn
quốc lần thứ XI của Đảng).
10. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 2. Nxb CTQG, H, 2011;
11. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5. Nxb CTQG, H, 2011;
12. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(Khóa XII).


20


21



×