Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

TIỂU LUẬN tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH tư tưởng triết học hồ chí minh về con người và sự vận dụng của đảng trong xây dựng con người trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.13 KB, 30 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1.
1.1

Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về con người
Nguồn gốc tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về

1.2

con người
Nội dung tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về con

2.

người
Sự vận dụng của Đảng về xây dựng con người

2.1

trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay
Quan điểm của Đảng ta về xây dựng con người

2.2

trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay
Một số giải pháp chủ yếu để góp phần nâng cao
chất lượng xây dựng và phát triển con người ở
nước ta trong thời gian tới


KẾT
LUẬN

MỞ ĐẦU


Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ
nghĩa Mác - Lênin, được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải
phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nội dung tư
tưởng triết học Hồ Chí Minh được thể hiện trong toàn bộ di sản lý luận của
Người mà điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn
liền với giải quyết xã hội và giải phóng con người. Trong đó, vấn đề con
người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và là vấn đề trung tâm, xuyên
suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng triết học của Người.
Đảng Cộng Sản Việt Nam trên cơ sở lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng đã
lãnh đạo đất nước ta vượt qua mn vàn khó khăn, thử thách và đạt được
nhiều thành tựu quan trọng trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Tuy nhiên,
trong q trình đó cũng cịn những hạn chế nhất định. Để tận dụng thời cơ,
vượt qua thách thức, đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước trong thời kỳ
mới, chúng ta cần phải có những con người mới mang phẩm chất đạo đức
cách mạng trong sáng, có tư duy sáng tạo, bản lĩnh chính trị vững vàng, có
lịng u nước, tinh thần xã hội chủ nghĩa.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề: “Tư tưởng triết học Hồ Chí
Minh về con người và sự vận dụng của Đảng trong xây dựng con người
trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay” có ý nghĩa rất thiết thực góp
phần làm rõ thêm tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về con người, làm giàu
thêm giá trị di sản tư tưởng của Người, đồng thời khẳng định sự vận dụng
sáng tạo của Đảng trong chiến lược xây dựng con người mới đáp ứng yêu
cầu của công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.


NỘI DUNG


1. Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về con người
1.1. Nguồn gốc tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về con người
Nguồn gốc lý luận, tư tưởng: Con người từ xưa tới nay luôn là đối
tượng của Triết học. Triết học do bản chất của nó, có nhiệm vụ nghiên cứu
con người với mục đích khám phá ra bản chất của con người. Ngay thời cổ
đại, Xôcrat đã nêu khẩu hiệu “con người hãy khám phá chính bản thân
mình”. Protagore nói một cách hùng hồn rằng “con người là thước đo của
vạn vật”. Trong tư tưởng Trung Quốc cổ xa xưa đã xuất hiện quan niệm
“Thiên - Địa – Nhân” (Trời, Đất và Con người và mối quan hệ giữa chúng
với nhau). Bách gia chu tử mỗi người một vẻ đều bàn đến con người. Ví
như Khổng tử, đề cập đến bản tính con người, cho rằng “Nhân chi sơ tính
bản thiện”, Tuân tử, ngược lại, cho rằng “nhân chi sơ tính bản ác”, các nhà
tư tưởng này đều mong muốn giáo hoá con người. Triết học Phục Hưng kêu
gọi khơi phục những gì tốt đẹp thuộc về con người bị lãng quên, bị chà đạp.
Những tư tưởng của họ tràn đầy tinh thần nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Phơ
Bách, cây đại thụ của nền triết học cổ điển Đức cũng bàn đến con người
nhưng là con người chung chung, phi lịch sử, phi giai cấp. Như vậy, các
triết thuyết trước Mác đều quan tâm nghiên cứu con người nhưng... là con
người nhưng đều khơng tìm ra con đường giải phóng con người khỏi áp
bức bất cơng.
Đỉnh cao trong quan niệm triết học về con người đó là chủ nghĩa Máchọc thuyết này, về thực chất, lấy con người làm điểm xuất phát và con
người cũng là mục đích tối cao mà học thuyết này với tư cách là một khoa
học hướng tới nghiên cứu. Triết học Phương Tây, quan tâm mổ xẻ mặt sinh
học, tâm lý con người, ít chú ý tới mặt xã hội của con người, có lúc đề cao
con người nhân vị, con người cá nhân đến cực đoan. Triết học Mác quan
tâm sâu sắc đến con người, với tính cách là sự kết hợp hài hòa của cái sinh



học và cái xã hội. C.Mác đã chỉ ra rằng: “Trong tính hiện thực của nó, bản
chất con người là tổng hoà của các mối quan hệ xã hội”1.
Truyền thống của dân tộc Việt Nam không trực diện đặt vấn đề con
người rõ ràng như Triết học Phương Tây mà xem xét con người với tư cách
là con người cộng đồng, là người dân, thiên hạ. Từ Lý Công Uẩn, Trần
Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông sau này là Phan Bội Châu, Phan
Chu Trinh đều quan tâm đến con người- cộng đồng, nhân dân.
Những tiền đề tư tưởng triết học về con người trong lịch sử là cơ sở lý
luận hình thành tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về con người mang tính kế
thừa có chọn lọc và sự sáng tạo mới trong thời đại Hồ Chí Minh.
Thực tiễn cuộc sống và hoạt động của Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh
trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình sớm có ý thức về thân phận
con người, con người dân tộc và con người với tư cách là nhân loại, ý thức
về nỗi khổ đau của con người để tìm cách giải phóng con người. Cách nhìn
ấy quy định phương pháp luận của Hồ Chí Minh về con người, điều ấy ta
có thể thấy rõ ở phong cách Hồ Chí Minh. Trong các bài viết, bài nói của
mình, Hồ Chí Minh khơng bàn gì đến lý luận cao siêu, khó hiểu hay lý
thuyết sng xa rời thực tiễn mà ln bàn đến những gì thiết thực mang lại
lợi ích cho nhân dân. Về sau ở cương vị nguyên thủ quốc gia, Hồ Chí Minh
có điều kiện quan tâm đến những vấn đề rất người, rất cụ thể, đó là vấn đề
“ở đời” và “làm người”, phát hiện và biểu dương “người tốt”, “việc tốt”.
Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước với xuất phát điểm đầu tiên là
lòng yêu nước, thương dân với hành trang duy nhất là bàn tay trắng. Người
nói: “Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước chứ chưa phải là chủ nghĩa cộng
sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba...”2.
Người sớm nhận thức được thân phận người dân mất nước, kiếp sống
nô lệ lầm than, từ tủi hổ đến hờn căm và quyết tâm hành động. Ra nước
ngoài tìm con đường cứu nước cứu dân. Chính vì thế, khi “bắt gặp” Luận

1
2

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, NXB CTQG, H.1995, tập 3, tr 11
Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2002, tập 10, tr.28


cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Người đã khóc lên vì sung
sướng: Đây là cái cần thiết cho chúng ta!, đây là con đường giải phóng
chúng ta!. Tán thành Quốc tế thứ ba chỉ vì quốc tế này ủng hộ các dân tộc
thuộc địa để rồi trở thành một chiến sĩ cộng sản, từ đó mối quan tâm của
Hồ Chí Minh về con người trở nên rõ ràng cụ thể. Đây không phải là con
người chung chung mà là con người lao động bị áp bức. Mọi tư tưởng và
hành động của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đều là sự dấn thân để giải
phóng con người. Người lập ra báo “Le Paria” với mục đích tơn chỉ “giải
phóng con người”, thành lập Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa. Người
tham gia viết bài tố cáo bản chất của thực dân...nhằm thức tỉnh lương tri
nhân loại tiến bộ, kêu gọi sự đồng thuận đấu tranh vì hạnh phúc con người.
Là một nhà yêu nước chân chính, Nguyễn Ái Quốc tìm đến chủ nghĩa
Mác - Lênin vì tìm thấy cẩm nang thần kỳ để giải phóng con người. Người
đã rút ra một chân lý ngay từ buổi đầu làm cách mạng “chỉ có giải phóng
giai cấp vơ sản mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này
đều là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và sự nghiệp của cách mạng thế
giới”1. Vì dẫu rằng trong hồn cảnh chủ nghĩa nhiều học thuyết nhiều, học
thuyết nhiều nhưng “chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại
cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình
đẳng, bác ái, đồn kết ấm no trên tồn quả đất, việc làm cho mọi người và
vì mọi người, niềm vui hịa bình và hạnh phúc”2.
Vậy là Người đã lựa chọn chủ nghĩa cộng sản chỉ vì chủ nghĩa ấy quan
tâm đến con người, đến các dân tộc bị áp bức và có khả năng giải quyết

những vấn đề thiết thực thuộc về con người. Hồ Chí Minh đã bàn nhiều đến
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Song
khác với các nhà kinh điển trước đó, Hồ Chí Minh có những ý tưởng về
chủ nghĩa xã hội giản dị và dễ hiểu với cách nói mang đậm phong cách
quần chúng: “Chủ nghĩa xã hội là tất cả mọi người các dân tộc ngày càng
1
2

Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2002, tập 10, tr.28
Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2002, tập 1, tr.416


ấm no, con cháu chúng ngày càng sung sướng” 3; “Nói một cách tóm tắt,
mộc mạc chủ nghĩa xã hội trước hết làm cho nhân dân lao động thoát nạn
bần cùng, làm cho mọi người có cơng ăn việc làm, được ấm no và sống một
đời hạnh phúc”2.
Không chỉ dừng lại ở tư tưởng, Hồ Chí Minh cịn là một nhà “triết học
thực hành” (Trần Văn Giàu). Mọi hành động của Người dù nhỏ nhất đều
mong muốn cải tạo cuộc sống, thực hành tinh thần “tha nhân” của đạo Phật,
tinh thần “Kiêm ái” của Mặc Tử. Có rất nhiều tình tiết cảm động về Người,
trong hồn cảnh khó khăn, sau khi giành chính quyền, Hồ Chí Minh phát
động phong trào cứu đói, kêu gọi mỗi người nhịn ăn một bữa, tự thân
Người cũng nhịn ăn để cứu đói. Một nắm gạo của vị Cha già dân tộc cũng
đủ ấm lòng quốc dân. Làm chủ tịch nước cũng chỉ vì thực hiện nhiệm vụ
của “người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận”, chứ
khơng vì cơng danh lợi lộc. Bởi mối quan tâm lớn lao nhất của Người là
“làm sao cho đất nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn được tự
do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Ở cương vị chủ tịch nước, Người lãnh đạo nhân dân ta, dân tộc ta
chống ngoại xâm giành độc lập chủ quyền, tiến hành cách mạng xã hội chủ

nghĩa cũng vì giá trị cao nhất của con người là “độc lập tự do”. Bởi lẽ hơn
ai hết, với tư cách một người dân của đất nước mất tự do, Hồ Chí Minh
hiểu rằng: mất tự do là nỗi khổ nhục nhất của con người.
“Trên đời ngàn vạn điều cay đắng
Cay đắng chi bằng mất tự do”
Tự do là giá trị cao nhất của con người nhưng làm sao “tự do của mỗi
người là điều kiện cho sự tự do của tất cả mọi người”, đó cũng là tư tưởng
của các vị tiền bối của chủ nghĩa cộng sản. “Khơng có gì q hơn độc lập,
tự do”, chân lý đó của Hồ Chí Minh đã vượt tầm thời đại, và là chân lý
1
2

Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2002, tập 1, tr.416
Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2002, tập 10, tr.317


chung của toàn nhân loại tiến bộ trong cuộc đấu tranh vì chính hạnh phúc
của tộc lồi mình.
Thực tiễn của thời đại và dân tộc, thực tiễn cuộc sống và hoạt động
cách mạng của Hồ Chí Minh là cơ sở hình thành tư tưởng triết học về con
người mang tính hiện thực gắn với những hoạt động thực tiễn và những
điều kiện lịch sử cụ thể.
Nhân cách, phẩm chất Hồ Chí Minh: Nét nổi bật trong nhân cách cao
đẹp của Hồ Chí Minh là những phẩm chất, lý tưởng của một nhà chính trị
thiên tài. Người có lý tưởng mãnh liệt, ý chí kiên cường, trí tuệ sáng suốt
và tầm nhìn xa, có sức hấp dẫn, lơi cuốn mạnh mẽ đối với quần chúng, biết
gần gũi người trí, trọng dụng người tài… Những phẩm chất đó đã giúp Hồ
Chí Minh sáng suốt lựa chọn quyết sách, ứng biến kịp thời trước mọi diễn
biến phức tạp của thời cuộc, đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua
sóng gió, cập bến bờ thắng lợi vẻ vang.

“Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh có đủ cả trí tuệ và dũng khí, nhưng cao hơn
là dũng khí của trí tuệ. Vào những thời điểm lịch sử đang trên đầu ngọn
thác, đòi hỏi ở nhà lãnh tụ một tinh thần quyết đoán, Người đã sáng suốt
quyết đoán và vững tin rằng lịch sử sẽ phán xét mình đúng”. Chủ tịch Hồ
Chí Minh từng nói: Đứng trước tình hình gay go và cấp bách. Đảng khơng
thể do dự. Đảng phải quyết đốn mau chóng để cứu vãn tình thế. Điều này
đã được thế giới bình luận: “Hiếm có một nhà lãnh đạo nào trong những
giờ phút thử thách lại tỏ ra sáng suốt, bình tĩnh, gan dạ, quên mình, kiên
nghị và dũng cảm một cách phi thường như vậy”.
Hồ Chí Minh là hình mẫu lý tưởng về người lãnh tụ chân chính của
nhân dân, là hình ảnh tuyệt đẹp về mối liên hệ mật thiết giữa lãnh tụ với
quần chúng, hết lòng thương yêu, quý trọng nhân dân, coi dân là chủ, dân
là gốc của nước. Dù thế nước lâm vào tình cảnh khó khăn nhất, Người vẫn
tin vào sức mạnh vô địch của nhân dân. Người giáo dục cán bộ phải nêu
cao tinh thần phục vụ, tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, phải chăm lo


đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nếu nước độc lập mà nhân
dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng khơng có nghĩa lý
gì”.
Hồ Chí Minh là biểu tượng của chủ nghĩa nhân văn Việt Nam: nhân ái,
khoan dung, nhà yêu nước nhiệt thành và nhà quốc tế chủ nghĩa trong sáng,
cả đời phấn đấu vì độc lập cho dân tộc mình và độc lập cho tất cả các dân
tộc. Đi đến đâu, Người cũng thể hiện rõ lịng u thương vơ hạn đối với
con người, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Như vậy, những tiền đề về lý luận và thực tiễn cùng với phẩm chất
nhân cách của Hồ Chí Minh hợp thành điều kiện khách quan và nhân tố
chủ quan của sự hình thành tư tưởng triết học của Người về con người
mang những nét đặc sắc.
1.2. Nội dung tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về con người

1.2.1. Quan niệm về con người trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh
Đối với Hồ Chí Minh, con người vừa tồn tại vừa tư cách cá nhân, vừa
là thành viên của gia đình và của cộng đồng, có cuộc sống tập thể và cuộc
sống cá nhân hài hịa, phong phú. Theo Hồ Chí Minh: “Chữ người, nghĩa
hẹp là gia đình, anh em, họ hàng bầu bạn, nghĩa rộng là đồng bào, rộng hơn
là cả loài người”1, song Hồ Chí Minh khơng bàn đến con người trừu tượng
mà gắn con người với từng hoàn cảnh cụ thể, từng thời điểm lịch sử cụ thể
để xem xét nghiên cứu, giải quyết vấn đề con người.
Quan điểm đó thể hiện ở chỗ Người chưa bao giờ nhìn nhận con
người một cách chung chung, trừu tượng. Khi bàn về chính sách xã hội,
cũng như ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hồn cảnh, Người ln quan tâm
đến nhu cầu, lợi ích của con người với tư cách nhu cầu chính đáng. Đem lại
lợi ích cho con người chính là tạo ra động lực vơ cùng lớn lao cho sự
nghiệp chung, vì nếu như những nhu cầu, lợi ích của mỗi cá nhân khơng
được quan tâm thỏa đáng thì tính tích cực của họ sẽ khơng thể phát huy
1

Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2002, tập 5, tr.644


được. Trong khi phê phán một cách nghiêm khắc chủ nghĩa cá nhân, Người
viết: “Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân khơng phải là giày xéo lên lợi ích
cá nhân. Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng
của bản thân và của gia đình mình”. Trong quan điểm về thực hiện một nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, theo Người, phải là một nền dân chủ chân chính,
khơng hình thức, khơng cực đoan, trong đó mỗi con người cụ thể phải được
đảm bảo những quyền lợi và nghĩa vụ của mình theo hiến pháp và pháp
luật. Con người, với tư cách là những cá nhân, không tồn tại biệt lập mà tồn
tại trong mối quan hệ biện chứng với cộng đồng dân tộc và với các loài
người trên toàn thế giới.

Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh khơng tồn tại như một phạm
trù bản thể luận có tính trừu tượng hóa và khái qt hóa, mà được đề cập
đến một cách cụ thể, đó là nhân dân Việt Nam, những con người lao động
nghèo khổ bị áp bức cùng cực dưới ách thống trị của phong kiến, đế quốc;
là dân tộc Việt Nam đang bị đô hộ bởi chủ nghĩa thực dân; và mở rộng hơn
nữa là những “người nô lệ mất nước” và “người cùng khổ”. Lơgíc phát
triển tư tưởng của Người là xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước để đến với chủ
nghĩa Mác - Lênin, đến với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Theo lơgíc phát
triển tư tưởng ấy, khái niệm “con người” của Hồ Chí Minh tiếp cận với
khái niệm “giai cấp vô sản cách mạng”. Người đề cập đến giai cấp vô sản
cách mạng và sự thống nhất về lợi ích căn bản của giai cấp đó với các tầng
lớp nhân dân lao động khác (đặc biệt là nông dân). Người nhận thức một
cách sâu sắc rằng, chỉ có cuộc cách mạng duy nhất và tất yếu đạt tới được
mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và tồn thể nhân loại khỏi
mọi sự nơ dịch, áp bức. Toàn bộ các tư tưởng, lý luận (chiếm một khối
lượng lớn trong các tác phẩm của Người) bàn về cách mạng (chiến lược
giải pháp; bàn về người cách mạng và đạo đức cách mạng, về hoạch định
và thực hiện các chính sách xã hội; về rèn luyện và giáo dục con người


v.v...) về thực chất chỉ là sự cụ thể hóa bằng thực tiễn tư tưởng về con
người của Hồ Chí Minh.
Có thể thấy ở Hồ Chí Minh khơng có con người chung chung, trừu
tượng mà luôn xem xét con người như một chỉnh thể thống nhất về tâm lực,
thể lực và các hoạt động của nó; xem xét con người trong sự thống nhất của
hai mặt đối lập: thiện – ác, hay – dở, tốt – xấu, hiền – dữ…Là con người
thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội. Theo Hồ Chí Minh con người
có tốt, có xấu nhưng “dù là xấu, tốt, văn minh hay dã man đều có tình
người”1. Hồ chí minh xem xét con người được xác định bởi điều kiện hoàn
cảnh lịch sử cụ thể và con người trong tính đa dạng của nó trong các quan

hệ xã hội, các quan hệ giai cấp, tầng lớp, đồng chí đồng bào, quan hệ nghề
nghệp, giới tính, lứa tuổi…Và quan hệ trong khối thống nhất của cộng
đồng dân tộc và quan hệ quốc tế. Con người của dân tộc Việt Nam trong tư
tưởng Hồ Chí Minh đó là tồn thể nhân dân lao động, tồn thể dân tộc Việt
Nam, là con người hiện thực, cụ thể gắn với điều kiện lịch sử Việt Nam.
Hồ Chí Minh xem xét bản chất con người mang bản chất xã hội. Để
sinh tồn con người phải lao động sản xuất. Thơng qua q trình lao động
sản xuất, con người xác lập và hình thành các mối quan hệ xã hội, đặc
trưng nhất là quan hệ giữa con người với con người. Hồ Chí Minh quan
niệm con người là sản phẩm của xã hội, con người là tổng hòa của các mối
quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng và chủ yếu là các quan hệ: anh – em, họ hàng, bầu – bạn, đồng bào – loài người. Người chỉ dùng khái niệm “con
người” trong một số trường hợp hạn hữu, như trong Tuyên ngôn của Hội
liên hiệp thuộc địa Người dùng “phẩm giá con người”, trong lời kêu gọi ở
báo Người cùng khổ Người viết sứ mệnh của tờ báo này là “giải phóng con
người”, hay như trong bản bổ sung cho Di chúc Người viết “Đầu tiên là
công việc đối với con người”.

1

Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2002, tập 7, tr.60


Khi được soi sáng bằng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, quan niệm
của Hồ Chí Minh về con người đã vượt lên tư duy của các bậc nho sĩ, đó là
“con người được quy định bởi hồn cảnh sống của họ, do họ tạo ra trong
thực tiễn: Cho nên giải quyết mọi việc xã hội của con người là phải đặt
trong mối quan hệ con người với hoàn cảnh đó mà phát huy tính tự giác,
năng động của con người giải quyết. Mọi việc tu dưỡng đạo đức cá nhân
cũng như đấu tranh giành lại chủ quyền hay quản lý đất nước đều không
đặt trong mối quan hệ với lực lượng siêu nhiên hoặc phụ thuộc tuyệt đối

vào tự nhiên”1.
Với thế giới quan mácxít, tuân thủ quyết định luận duy vật, con người
trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là con người chung chung, trừu
tượng, phi lịch sử, mà là con người hiện thực, cụ thể, sinh động, trước hết
là nhân dân lao động và quần chúng bị áp bức ở khắp mọi nơi, không phân
biệt dân tộc và màu da. Hồ Chí Minh Người cũng ý thức sâu sắc về sự
tương tác biện chứng giữa con người và hồn cảnh sống của chính con
người tạo ra trong quá trình phát triển của lịch sử xã hội.
1.2.2. Tư tưởng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách
mạng
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác
- Lênin, được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc
và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ
Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với giải quyết xã hội và giải phóng
con người. Trong đó, vấn đề con người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu
và là vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng của
Người. Tin ở dân, dựa vào dân, tổ chức và phát huy sức mạnh đoàn kết toàn
dân, bồi dưỡng, đào tạo và phát huy mọi năng lực của dân (ở từng cá nhân
riêng lẻ và của cả cộng đồng), đó là tư tưởng được Hồ Chí Minh vận dụng
và phát triển trong tồn bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng giành độc lập
1

Hồ Kiếm Việt (2004), Góp phần tìm hiểu đặc sắc tư duy triết học Hồ Chí Minh, NXB CTQG, tr111


dân tộc cũng như xây dựng đất nước. Tư tưởng đó cũng chính là nội dung
cơ bản của tồn bộ tư tưởng về con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của cách mạng của Hồ Chí Minh.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người được khái niệm vừa là mục
tiêu của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, vừa là động lực

của chính sự nghiệp đó. Tư tưởng đó được thể hiện rất triệt để và cụ thể
trong lý luận chỉ đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
Trong lý luận về xây dựng chế độ mới, Hồ Chủ tịch đã khẳng định
xây dựng chế độ dân chủ nhân dân gắn liền với việc thực hiện bước tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Trong kháng chiến giải phóng dân tộc cần xây dựng chế
độ dân chủ nhân dân để đẩy mạnh công cuộc kháng chiến, đồng thời tạo ra
những tiền đề cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội; trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội cần phải thực hiện chế độ dân chủ nhân dân, vì như Người
nói: “Đây là cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại những cái gì đã cũ kỹ, hư
hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Cuộc chiến đấu ấy sẽ không đi
đến thắng lợi, nếu không “dựa vào lực lượng của toàn dân”. Về chủ nghĩa
xã hội, Hồ Chí Minh khơng bao giờ quan niệm hình thái xã hội đó như một
mơ hình hồn chỉnh, một cơng thức bất biến. Bao giờ Người cũng coi trọng
những điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa khách quan. Người chỉ
đề ra những mục tiêu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội với những
bước đi thiết thực và những nội dung cơ bản nhất. Theo Người: “Nói một
cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết là làm cho nhân dân lao
động thoát khỏi bần cùng, làm cho mọi người có cơng ăn việc làm, được
ấm no và được sống đời hạnh phúc”; “Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao
đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân” xây dựng chủ nghĩa xã hội tức là
làm cho nhân dân ta có một đời sống thật sung sướng, tốt đẹp. Người dạy
xây dựng chủ nghĩa xã hội phải thiết thực, phù hợp với điều kiện khách


quan, phải nắm được quy luật và phải biết vận dụng quy luật một cách sáng
tạo trên cơ sở nắm vững tính đặc thù, tránh giáo điều, rập khn máy móc.
Sự sáng tạo đó gần gũi, tương đồng, nhất quán với luận điểm của Ăngghen:
“Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là trạng thái cần phải
sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo.

Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ
trạng thái hiện nay”. Vì vậy, khơng chỉ trong lý luận về đấu tranh giành độc
lập dân tộc mà cả trong lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội khi định ra
những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, trước hết, “cần có con người xã hội
chủ nghĩa”, Hồ Chí Minh đã thể hiện nhất quán quan điểm về con người:
con người là mục tiêu, đồng thời vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng
xã hội và giải phóng chính bản thân con người.
Tấm lịng Hồ Chí Minh ln hướng về con người. Người yêu thương
con người, tin tưởng con người, tin và thương yêu nhân dân, trước hết là
người lao động, nhân dân mình và nhân dân các nước. Với Hồ Chí Minh,
“lịng thương u nhân dân, thương u nhân loại” là “khơng bao giờ thay
đổi”. Người có một niềm tin lớn ở sức mạnh sáng tạo của con người. Lòng
tin mãnh liệt và vơ tận của Hồ Chí Minh vào nhân dân, vào những con
người bình thường đã được hình thành rất sớm. Từ những năm tháng
Người bơn ba tìm đường cứu nước, thâm nhập, lăn lộn, tìm hiểu thực tế
cuộc sống và tâm tư của những người dân lao động trong nước và nước
ngoài. Người đã khẳng định: “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông
Dương ẩn giấu một cái gì đang sơi sục, đang gào thét, và sẽ bùng nổ một
cách ghê gớm khi thời cơ đến”. Tin vào quần chúng, theo quan điểm của Hồ
Chí Minh, đó là một trong những phẩm chất cơ bản của người cộng sản. Và
đây cũng chính là chỗ khác căn bản, khác về chất, giữa quan điểm của Hồ
Chí Minh với quan điểm của các nhà Nho yêu nước xưa kia (kể cả các bậc
sĩ phu tiền bối gần thời với Hồ Chí Minh) về con người. Nếu như quan
điểm của Hồ Chí Minh: “Trong bầu trời khơng có gì quý bằng nhân dân.


Trong thế giới khơng có gì mạnh bằng lực lượng đồn kết tồn dân”, thì
các nhà Nho phong kiến xưa kia mặc dù có những tư tưởng tích cực “lấy
dân làm gốc”, mặc dù cũng chủ trương khoan thư sức dân, nhưng quan
điểm của họ mới chỉ dừng lại ở chỗ coi việc dựa vào dân cũng như một kế

sách, một phương tiện để thực hiện mục đích “trị nước”, “bình thiên hạ”.
Ngay cả những bậc sĩ phu tiền bối của Hồ Chí Minh, tuy là những người
yêu nước một cách nhiệt thành, nhưng họ chưa có một quan điểm đúng đắn
và đầy đủ về nhân dân, chưa có đủ niềm tin vào sức mạnh của quần chúng
nhân dân. Quan điểm tin vào dân, vào nhân tố con người của Người thống
nhất với quan điểm của Mác, Ăngghen, Lênin: “Quần chúng nhân dân là
người sáng tạo chân chính ra lịch sử”.
Tin dân, đồng thời lại hết lịng thương dân, tình thương u nhân dân
của Hồ Chí Minh có nguồn gốc sâu xa từ trong truyền thống dân tộc, truyền
thống nhân ái ngàn đời của người Việt Nam. Cũng như bao nhà Nho yêu
nước khác có cùng quan điểm “ái quốc là ái dân”, nhưng điểm khác cơ bản
trong tư tưởng “ái dân” của Người là tình thương ấy khơng bao giờ dừng
lại ở ý thức, tư tưởng mà đã trở thành ý chí, quyết tâm thực hiện đến cùng
sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại cần
lao, xóa bỏ đau khổ, áp bức bất công giành lại tự do, nhân phẩm và giá trị
làm người cho con người. ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa u nước gắn bó
khơng tách rời với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Tình thương u cũng
như tồn bộ tư tưởng về nhân dân của Người không bị giới hạn trong chủ
nghĩa dân tộc hẹp hịi mà nó tồn tại trong mối quan hệ khăng khít giữa các
vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia với quốc tế. Yêu thương nhân dân Việt
Nam, Người đồng thời yêu thương nhân dân các dân tộc bị áp bức trên toàn
thế giới. Trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh ln coi trọng
sức mạnh đồn kết tồn dân và sự đồng tình ủng hộ to lớn của bè bạn khắp
năm châu, của cả nhân loại tiến bộ. Người cũng xác định sự nghiệp cách


mạng của nước ta là một bộ phận không thể tách rời trong tồn bộ sự
nghiệp đấu tranh giải phóng nhân loại trên phạm vi toàn thế giới.
Để phát huy vai trị động lực của con người, Hồ Chí Minh đã đề cập
đến một hệ thống nội dung và biện pháp (vật chất và tinh thần) nhằm tác

động vào cái động cơ thúc đẩy tính tích cực hoạt động của con người. Đồng
thời, cũng chỉ ra những nội dung và biện pháp làm triệt tiêu các trở lực
nhằm thúc đẩy sự phát triển theo hướng tiến bộ.
Trong hệ thống các động lực chính trị - tinh thần, Hồ Chí Minh chú
trọng trước hết đến giáo dục chủ nghĩa yêu nước, lý tưởng xã hội chủ
nghĩa, đạo đức cách mạng... đồng thời khơng coi nhẹ vai trị tác động của
các nhân tố tinh thần khác, như văn hoá, khoa học, pháp luật... đặc biệt,
Người chú trọng phát huy quyền làm chủ của nhân dân, coi “thực hành dân
chủ là cái chìa khố vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”.
Là nhà duy vật macxít, Hồ Chí Minh hiểu hành động của con người
luôn gắn liền với nhu cầu và lợi ích của họ, vì vậy, đi đơi với các biện pháp
chính trị - tinh thần, Hồ Chí Minh khơng coi nhẹ hay bỏ qua các động lực
vật chất, khéo léo kết hợp các loại động lực với nhau, tạo sức mạnh tổng
hợp, thúc đẩy tính năng động cách mạng của con người. Người tơn trọng và
khuyến khích lợi ích cá nhân chính đáng của người lao động, chủ trương
kết hợp hài hồ ba lợi ích, sao cho “Nhà nước, hợp tác xã và xã viên cùng
có lợi”. Nhưng muốn khai thơng động lực thì phải khắc phục trở lực kìm
hãm sự phát triển của con người, trong đó “căn bệnh mẹ” cực kỳ nguy hiểm
là chủ nghĩa cá nhân phải được phê phán mạnh mẽ, kiên quyết tẩy trừ.
1.2.3. Tư tưởng về xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa
Suốt cuộc đời hoạt động của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt
quan tâm đến sự nghiệp “trồng người” – xây dựng con người mới xã hội
chủ nghĩa. Bác là một tấm gương tự học và là nhà giáo dục lớn trong lịch
sử Việt Nam. Người đã có cơng đào tạo nên nhiều thế hệ cách mạng Việt
Nam, những lãnh tụ xuất sắc của Đảng, trong sự nghiệp giải phóng dân tộc,


giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Trước khi đi xa, trong Di chúc,
Người căn dặn “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất
quan trọng và rất cần thiết”. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ

Chí Minh, chúng ta quyết tâm thực hiện thật tốt lời dạy của Người “Vì lợi
ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng
người”.Từ quan điểm về con người đến quan điểm về chiến lược “trồng
người” là một bước phát triển hợp lơgic của tư tưởng triết học Hồ Chí
Minh. Để thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội thì chiến lược con người
phải đi trước một bước. Từ rất sớm, Người đã nêu ra một luận điểm nổi
tiếng: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì trước hết cần có những con
người xã hội chủ nghĩa”. Do đó, “vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì
lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho
đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết” (Di chúc). Quan điểm
“trồng người” của Hồ Chí Minh rất tồn diện và phong phú, ở mỗi thời kỳ
cách mạng, Người nêu ra những yêu cầu khác nhau. Ngay sau khi giành
được chính quyền, trước yêu cầu phải kiến thiết nước nhà, trong điều kiện
đất nước hơn 90% dân Việt Nam mù chữ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác
định: “Nay chúng ta đã giành được quyền độc lập. Một trong những công
việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí”. Bởi “Một dân
tộc dốt là một dân tộc yếu”. Bước vào thời kỳ xây dựng, kiến tạo đất nước,
Người chỉ rõ: “Bây giờ xây dựng kinh tế khơng có cán bộ khơng làm được.
Khơng có giáo dục, khơng có cán bộ thì cũng khơng nói gì đến kinh tế văn
hóa. Trong việc đào tạo cán bộ, giáo dục là bước đầu”.
Trong Di chúc, Bác viết về trách nhiệm của Đảng đối với thế hệ trẻ:
Đảng ta cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ
trở thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa
"chuyên". Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định quan điểm này.
Trong thư gửi ngành giáo dục đào tạo ngày 15-10-1968, Người nhấn mạnh
“Giáo dục nhằm đào tạo những người kế tục sự nghiệp cách mạng to lớn


của Đảng và nhân dân ta, do đó các ngành, các cấp Đảng ủy và chính
quyền địa phương phải thực sự quan tâm hơn nữa đến sự nghiệp này, phải

chăm sóc nhà trường về mọi mặt, đẩy sự nghiệp giáo dục của ta lên những
bước phát triển mới”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa là một hệ thống chặt chẽ, phong phú, vừa khoa học, vừa cách mạng,
là một bộ phận hợp thành của tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, một đóng
góp quan trọng vào việc làm phong phú triết học về con người của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng cứu dân, cứu nước,
tìm một con đường phát triển mới để canh tân đất nước, Hồ Chí Minh đã
tìm đến nhiều học thuyết Đơng - Tây, trên hết là chủ nghĩa Mác - Lênin, đã
học hỏi, tiếp thu, dung hợp, tích hợp, hình thành cho mình một thế giới
quan duy vật và phương pháp biện chứng macxít, tạo nền tảng triết học để
xây dựng lý luận, đường lối và phương pháp cho cách mạng Việt Nam.
2. Sự vận dụng của Đảng về xây dựng con người trong thời kỳ đổi
mới ở nước ta hiện nay
1.2. Quan điểm của Đảng ta về xây dựng con người trong thời kỳ
đổi mới ở nước ta hiện nay
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho hành động. Tư tưởng về con người của Đảng Cộng sản Việt
Nam nhất quán với tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh. Sự nhất quán
ấy được thể hiện qua đường lối lãnh đạo cách mạng và qua các chủ trương
chính sách của Đảng trong suốt q trình Đảng lãnh đạo cơng cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong sự
nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, tư tưởng đó tiếp tục được Đảng ta quán
triệt vận dụng và phát triển. Con người Việt Nam đang là trung tâm trong
“chiến lược phát triển toàn diện”; đang là động lực của công cuộc xây dựng


xã hội mới với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Từ khi bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta tập trung vào đổi mới kinh
tế, đồng thời đã nhấn mạnh tới việc phát triển kinh tế phải chú ý đến hiệu
quả văn hóa và xã hội, quan tâm tới việc xây dựng con người. Văn kiện Đại
hội VI đã khẳng định: “Sự quan tâm đến con người và thái độ tôn trọng lẫn
nhau phải trở thành một tiêu chuẩn đạo đức trong mọi hoạt động kinh tế,
văn hóa, xã hội, nhất là trong các dịch vụ phục vụ nhân dân”.
Việc xây dựng con người được Đảng ta xem xét từ nhiều khía cạnh
khác nhau, trước hết là tiền đề kinh tế để xây dựng con người. Vì vậy, Đại
hội VI đã xác định “Tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính sách kinh
tế là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng,
tiềm năng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát
triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa”. Ba chương trình mục tiêu về lương thực - thực
phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu là những chương trình có ý nghĩa
đột phá để tháo gỡ khó khăn về kinh tế, góp phần cải thiện đời sống cho
nhân dân.
Đại hội VII của Đảng đã khẳng định: “Mục tiêu của chính sách xã hội
thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế, đều nhằm phát huy sức mạnh
của nhân tố con người và vì con người. Kết hợp hài hòa giữa phát triển
kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ
xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân. Coi phát
triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, thực
hiện tốt các chính sách xã hội là động lực để thúc đẩy phát triển kinh tế”.
Khi xác định mục tiêu của sự nghiệp giáo dục - đào tạo, trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ta đã nêu rõ: “Mục tiêu giáo
dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài,
hình thành đội ngũ lao động có tri thức và có tay nghề, có năng lực thực


hành, tự chủ, năng động và sáng tạo, có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu

nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Nhà trường đào tạo thế hệ trẻ theo hướng tồn
diện và có năng lực chun mơn sâu, có ý thức và khả năng tự tạo việc làm
trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần”.
Vấn đề xây dựng con người phục vụ u cầu của sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước được Đảng ta đặt trên bình diện rộng lớn
gắn liền với trách nhiệm của từng lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội,
từ lĩnh vực phát triển kinh tế, tạo nền tảng vật chất để xây dựng con người
tới phát triển về thể lực, trí lực, kỹ năng lao động, bồi dưỡng tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, chăm sóc sức khỏe cho con người gắn liền với
trách nhiệm xã hội của các ngành y tế, giáo dục, văn hóa, thơng tin đại
chúng, dân số và kế hoạch hóa gia đình.
Càng bước vào quá trình đổi mới, phát triển kinh tế thị trường, đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, vấn đề xây dựng và phát triển con
người càng được Đảng và Nhà nước ta quan tâm hơn bao giờ hết.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tư khóa VII (tháng
1/1993) đã tập trung vào chủ đề xây dựng con người trong thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tại Hội nghị này, Ban Chấp hành
Trung ương khóa VII đã ban hành hàng loạt nghị quyết quan trọng nhằm
xây dựng con người phục vụ sự nghiệp đổi mới. Đó là Nghị quyết “Về một
số nhiệm vụ văn hóa văn nghệ những năm trước mắt”; Nghị quyết “Về
những vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân
dân’; Nghị quyết ‘Về chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình”; Nghị
quyết “Về sự nghiệp giáo dục và đào tạo”; Nghị quyết “Về công tác thanh
niên trong thời kỳ mới”. Vấn đề con người ở đây được đặt trong bối cảnh
mới, với những yêu cầu và nhiệm vụ mới mà các ngành, các cấp, các đồn
thể chính trị xã hội phải quan tâm đúng mức.
Mục tiêu của sự nghiệp giáo dục trong thời kỳ này mà Đảng ta nhấn
mạnh là nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào



tạo những con người có kiến thức văn hóa, khoa học, có kỹ năng nghề
nghiệp, lao động tự chủ, sáng tạo và có kỷ luật, giàu lịng nhân ái, u
nước, yêu chủ nghĩa xã hội, sống lành mạnh, đáp ứng nhu cầu phát triển đất
nước và chuẩn bị cho tương lai. Quá trình đổi mới giáo dục theo hướng vừa
gắn chặt với yêu cầu phát triển đất nước, vừa phù hợp với xu thế tiến bộ
của thời đại, thực hiện một nền giáo dục thường xuyên cho mọi người, xác
định học tập suốt đời là quyền lợi và trách nhiệm của mỗi người dân đã tạo
ra những chuyển biến mới để xây dựng con người, đào tạo nguồn nhân lực
cho q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Để nâng cao thể lực và chăm sóc sức khỏe nhân dân trong tình hình
mới, Đảng ta đã nhấn mạnh “sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi con người
và toàn xã hội, là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Vì vậy, chúng ta phấn đấu để mọi người được quan tâm chăm sóc
sức khỏe”.
Vấn đề xây dựng con người phải gắn liền với việc nâng cao chất lượng
cuộc sống của con người và đảm bảo sự phát triển dân số hợp lý, phù hợp
với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Sự gia tăng dân số
quá nhanh là một trong những nguyên nhân quan trọng cản trở tốc độ phát
triển kinh tế - xã hội, gây khó khăn lớn cho việc cải thiện đời sống, hạn chế
điều kiện phát triển về trí tuệ, văn hóa và thể lực của giống nịi. Vì vậy,
Đảng ta đã ban hành Nghị quyết “Về chính sách dân số và kế hoạch hóa gia
đình” nhằm làm tốt cơng tác kế hoạch hóa gia đình, thực hiện gia đình ít
con, giảm nhanh tỷ lệ phát triển dân số, tiến tới ổn định quy mô dân số, góp
phần nâng cao chất lượng dân số, chất lượng xây dựng con người. Hàng
loạt các chính sách của Đảng và Nhà nước đã được ban hành góp phần
kiểm soát tốc độ gia tăng dân số và ổn định quy mơ dân số, góp phần nâng
cao chất lượng cuộc sống của con người và tạo điều kiện cho kinh tế - xã
hội phát triển bền vững.



Trong đường lối chính sách xây dựng và phát triển con người ở thời kỳ
đổi mới, kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng ta đặc biệt chú trọng quan tâm tới công tác thanh thiếu niên,
tương lai của đất nước. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tư
khóa VII (1/1993) đã ban hành Nghị quyết: “Về công tác thanh niên trong
thời kỳ mới”. Hội nghị Trung ương lần thứ bẩy khóa X (7/2008) đã ra Nghị
quyết “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Đánh giá về vai trò thanh
niên, Đảng ta đã xác định thanh niên một trong những nhân tố quan trọng
quyết định tương lai, vận mệnh dân tộc, là lực lượng chủ yếu trên nhiều
lĩnh vực, đảm nhiệm những cơng việc địi hỏi hy sinh, gian khổ, sức khỏe
và sáng tạo, là lực lượng xã hội to lớn. Kế thừa tinh hoa truyền thống của
dân tộc và những thành quả của cách mạng, qua mở rộng giao lưu quốc tế,
thanh niên ta ngày nay có mặt mạnh cơ bản là trình độ học vấn cao hơn
trước, tầm nhìn rộng, nhạy cảm với thời cuộc, giàu lịng u nước, có khát
vọng mau chóng đưa đất nước vượt qua nghèo nàn lạc hậu, thực hiện mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh. Thanh niên đồng tình, ủng hộ
và hăng hái tham gia sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa. Đã và đang xuất hiện nhiều tài năng trẻ, nhiều tấm gương
trong sản xuất, kinh doanh, bảo vệ chủ quyền và an ninh đất nước, trong
học tập, hoạt động khoa học kỹ thuật, văn hóa nghệ thuật và thể thao, trong
công tác xã hội. Tuy nhiên, đứng trước tình hình khó khăn về kinh tế - xã
hội của đất nước và sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và
Đông Âu, một bộ phận thanh niên đang gặp nhiều khó khăn về định hướng
chính trị. Hàng triệu thanh niên chưa có hoặc thiếu việc làm, thu nhập thấp.
Tình trạng thất học, mù chữ tăng lên, nhất là ở nông thôn, miền núi. Sức
khỏe của thanh niên và trẻ em có chiều hướng giảm sút, số trẻ lang thang
còn nhiều.



Một bộ phận thanh niên ít quan tâm sinh hoạt chính trị, coi thường
truyền thống cách mạng, trốn tránh nghĩa vụ quân sự. Một số dao động,
thiếu niềm tin ở chủ nghĩa xã hội.
Một bộ phận thanh niên có xu hướng chạy theo lối sống không lành
mạnh, coi thường giá trị nhân văn, kỷ cương, đạo lý. Tình trạng tội phạm
và tệ nạn xã hội trong thành niên gia tăng và ngày càng diễn biến phức tạp.
Tỷ lệ thanh niên nhiễm HIV/AIDS cịn cao.
Khơng ít thanh niên vẫn mang tâm lý thụ động, ỷ lại từ thời kỳ bao
cấp; tâm lý lao động và khả năng nghề nghiệp chưa chuyển kịp với kinh tế
thị trường và hội nhập quốc tế.
Đứng trước tình hình đó, Đảng ta đã xác định phương hướng, quan
điểm, nhiệm vụ và giải pháp để nâng cao chất lượng và hiệu quả của công
tác thanh niên trong thời kỳ mới, xây dựng Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ
Chí Minh vững mạnh và mở rộng mặt trận đồn kết thanh niên, giải phóng
tiềm năng trong thanh niên, đẩy mạnh cơng tác giáo dục, tư tưởng, chính trị
xây dựng mơi trường xã hội lành lạnh, nêu cao vai trị của tổ chức Đảng,
các đồn thể chính trị - xã hội và nhân dân đối với công tác thanh niên.
Như vậy, sự sáng tạo của Đảng ta thể hiện rõ rệt ở việc tiếp cận vấn đề
xây dựng con người từ nhiều bình diện khác nhau, tạo thành sức mạnh tổng
hợp để phát triển con người một cách toàn diện, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới.
Những quan điểm trên tiếp tục được Đảng ta triển khai và nhấn mạnh
trong các văn kiện của Đảng ở các giai đoạn sau này, tạo nên một sự
chuyển biến mạnh mẽ trong vấn đề xây dựng con người.
Xây dựng và phát triển toàn diện con người là một nội dung quan
trọng trong tư tưởng giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã
hội và giải phóng con người của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và của Đảng, Nhà nước ta. Xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp “dân



giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh” là điều kiện cơ
bản để thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện con người.
Cương lĩnh (Bổ sung và phát triển 2011): “Con người là trung tâm của
chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ
quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc,
đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Chăm lo xây dựng con người
Việt Nam giàu lịng u nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm cơng dân; có
tri thức, sức khỏe, lao động giỏi; sống có văn hóa, tình nghĩa; có tinh thần
quốc tế chân chính”.
Luật Giáo dục được Quốc hội thông qua ngày 11-12-1998 đã ghi rõ:
Mục tiêu của giáo dục là đào tạo con người phát triển toàn diện, có đạo
đức, trí tuệ, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách,
phẩm chất, năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Như vậy, đứng trước yêu cầu của việc xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa và hội nhập kinh
tế quốc tế, vấn đề quan trọng là phải đặt con người và vấn đề xây dựng con
người trong môi trường kinh tế - xã hội mới, thấy rõ được các nhân tố bên
ngoài và bên trong tác động vào đời sống của con người để xác định những
yêu cầu cụ thể đối với việc xây dựng con người. Vấn đề bao trùm của việc
xây dựng con người là hình thành lý tưởng chính trị xã hội của mỗi công
dân. Đứng trước diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế hiện nay, vấn đề
giáo dục lòng yêu nước, tinh thần tự cường dân tộc, phấn đấu vì mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí và nghị lực đưa đất nước thoát
khỏi nghèo nàn lạc hậu, phấn đấu đưa nước ta đến năm 2020 cơ bản thành
một nước công nghiệp là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Chúng ta phải đào tạo những con người phát triển toàn diện cả về đức
và tài, phát triển về thể lực, trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ, nhân cách, có kỹ



năng lao động giỏi, có ý chí và bản lĩnh trong lao động và bảo vệ Tổ quốc.
Điều đặc biệt quan tâm ở đây là vấn đề giáo dục lý tưởng chính trị, đạo đức
phẩm chất và ý thức cơng dân của đội ngũ lao động mới, tạo điều kiện
thuận lợi để họ thực hiện đầy đủ quyền lợi, trách nhiệm, nghĩa vụ của mình
đối với Tổ quốc, nhân dân, dân tộc và thời đại. Đảng ta cũng nhấn mạnh
đến việc kế thừa và phát huy những giá trị tích cực và tiến bộ của con
người Việt Nam trong truyền thống lịch sử của dân tộc, phê phán những
yếu tố lạc hậu, tiêu cực, tạo môi trường thuận lợi để xây dựng và phát triển
con người.
Muốn phát triển nhanh và bền vững, bài học kinh nghiệm rút ra từ
thực tiễn 5 năm thực hiện Nghị quyết của Đại hội IX đã cho thấy “phải gắn
tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển tồn diện con người,
thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm, cải
thiện đời sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đơi với xóa đói, giảm
nghèo. Phát triển kinh tế phải đi đôi với việc đảm bảo ổn định chính trị - xã
hội, coi đây là tiền đề, điều kiện đã phát triển nhanh và bền vững”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã đặc biệt nhấn mạnh
tới việc “xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam,
bảo vệ và phát huy bản sắc dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh
niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí
tuệ, đạo đức, bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam” . Vấn đề xây dựng con
người đã được Đảng ta quan tâm trên bình diện mới là xây dựng và hoàn
thiện về nhân cách, chú trọng bồi dưỡng tư tưởng sống, lối sống, năng lực
trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh, bản sắc của con người Việt Nam trong giao lưu
và hợp tác quốc tế. Đây là những nội dung cốt lõi phản ánh chất lượng cao
của việc xây dựng con người, gắn liền với yêu cầu của q trình đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Trong quá trình
đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, những



tác động tiêu cực từ mặt trái của quá trình này vào đời sống xã hội, làm suy
thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống của con người và xã hội có chiều hướng
gia tăng. Vì vậy, bên cạnh việc ngăn chặn sự suy thoái này, Đảng ta đề cao
nhiệm vụ xây dựng tư tưởng đạo đức, lối sống trong xã hội, trước hết là
trong đội ngũ cán bộ, đảng viên; trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, các
đồn thể chính trị xã hội, trong từng gia đình, tạo lập mơi trường văn hóa
lành mạnh để ni dưỡng đời sống tinh thần của con người. Sự đan xen
giữa yếu tố tích cực và tiêu cực trong quá trình vận động và phát triển của
nền kinh tế ở thời kỳ chuyển đổi đã tạo nên sự phức tạp trong vấn đề xây
dựng và hồn thiện nhân cách con người. Vì vậy qn triệt quan điểm duy
vật lịch sử về xây dựng con người, Đảng ta luôn luôn chú trọng khẳng định
những mặt tích cực, chỉ rõ những mặt tiêu cực cần khắc phục để hướng tới
xây dựng và hoàn thiện con người, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách
mạng đề ra. Kết luận của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ
mười khóa IX đã thẳng thắn nêu rõ: “Sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức,
lối sống tiếp tục diễn biến phức tạp, có một số mặt nghiêm trọng hơn, tổn
hại khơng nhỏ đến uy tín của Đảng và Nhà nước, niềm tin của nhân dân”.
Vì vậy, trong vấn đề xây dựng con người, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ
đặt lên hàng đầu là nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời
sống lành mạnh trong xã hội, trước hết là trong các tổ chức Đảng, Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và trong từng cá nhân, gia
đình, thơn xóm, đơn vị, tổ chức cơ sở... Để khắc phục khuynh hướng giản
đơn, chủ quan nóng vội, duy ý chí trong vấn đề này, Đảng ta nhấn mạnh
rằng: “Cần xác định đây là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên, vừa cấp
bách, vừa cơ bản, lâu dài”.
Đại hội XI của Đảng đã yêu cầu: “Sớm có chiến lực quốc gia về xây
dựng gia đình Việt Nam, góp phần giữ gìn và phát triển những giá trị truyền
thống của văn hóa, con người Việt Nam, ni dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ.

Đồn kết và xây dựng hệ giá trị chung của con người Việt Nam trong thời


×