Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

báo cáo thực tập vi phạm pháp luật ở trẻ vị thành niên trên địa bàn thành phố vinh tỉnh nghệ an thực trạng và giải pháp (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (332.61 KB, 80 trang )

1

QUY ƯỚC VỀ CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CỦA KHOÁ LUẬN

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

DS/KHHGĐ:

Dân số/kế hoạch hố gia đình

PTTH:

Phổ thơng trung học

Nxb:

Nhà xuất bản


2

LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành khố luận tốt nghiệp cuối khố, ngồi sự cố gắng, nỗ lực
của bản thân em đã nhận được sự giúp đỡ của Hội đồng khoa học Luật, các
thầy giáo, cô giáo trong tổ bộ môn Luật Hành chính – Nhà nước, các cán bộ
ở Cơng an nhân dân thành phố Vinh – Nghệ An. Đặc biệt là sự hướng dẫn,
giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo ThS. Đinh Ngọc Thắng.
Trân trọng cảm ơn thầy giáo ThS. Đinh Ngọc Thắng – người trực tiếp


hướng dẫn khoá luận, cảm ơn Hội đồng khoa học Luật, các thầy giáo, cơ giáo
trong tổ bộ mơn Luật Hành chính – Nhà nước, các cán bộ ở Công an nhân
dân thành phố Vinh – Nghệ An đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong q
trình triển khai đề tài khố luận.
Với năng lực và kinh nghiệm còn hạn chế, đề tài sẽ khơng tránh khỏi
những thiếu sót nhất định. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của
Hội đồng khoa học Luật, các thầy giáo, cô giáo cũng như những người quan
tâm đến vấn đề này.
Xin chân thành cảm ơn!


3

MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU...............................................................................................
1. Tính cấp thiết của đề tài .........................................................................
2. Tình hình nghiên cứu .............................................................................
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài ..........................................
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................
5. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài ............................................................
6. Ý nghĩa của đề tài ...................................................................................
7. Kết cấu của đề tài ...................................................................................
B. NỘI DUNG............................................................................................
CHƯƠNG1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ VI PHẠM PHÁP
LUẬT Ở TRẺ EM VỊ THÀNH NIÊN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT HIỆN NAY................................................................................................
1.1. Khái quát về vi phạm pháp luật ở trẻ em vị thành niên........................
1.1.1. Vi phạm pháp luật ............................................................................
1.2. Một số quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề trẻ em vị thành

niên vi phạm pháp luật. ......................................................................................
1.2.1. Quy định của Hiến pháp .................................................................
1.2.2. Quy định của pháp luật hành chính ................................................
1.2.3. Quy định của luật dân sự ...............................................................
1.2.4. Quy định của luật hơn nhân và gia đình .........................................
1.2.5. Quy định của luật hình sự ..............................................................
1.2.6. Quy định của luật tố tụng hình sự ..................................................

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VI PHẠM PHÁP LUẬT CỦA TRẺ EM VỊ
THÀNH NIÊN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ VINH - TỈNH NGHỆ AN TRONG


4

NHỮNG NĂM QUA VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM HẠN CHẾ
TÌNH TRẠNG VI PHẠM PHÁP LUẬT CỦA TRẺ VỊ THÀNH NIÊN.....................
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của thành phố
Vinh - tỉnh Nghệ An ...........................................................................................
2.1.1. Điều kiện tự nhiên...........................................................................
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội ...............................................................
2.2. Thực trạng của tình hình vi phạm pháp luật do trẻ em vị thành niên
thực hiện ở thành phố Vinh - tỉnh Nghệ An trong thời gian qua (2000 - 2010). .......
2.2.1. Diễn biến của tình hình vi phạm pháp luật do trẻ em vị thành
niên thực hiện ở thành phố Vinh - tỉnh Nghệ An từ 2000 - 2010 .......................
2.2.2. Cơ cấu của tình hình vi phạm pháp luật do trẻ em vị thành niên
thực hiện ở thành phố Vinh - tỉnh Nghệ An từ 2000 - 2010. .............................
2.2.3. Tính chất của hành vi vi phạm pháp luật của trẻ vị thành niên ......
2.3. Nguyên nhân - điều kiện của tình hình vi phạm pháp luật do trẻ vị
thành niên thực hiện ..........................................................................................
2.3.1. Nguyên nhân - điều kiện xét dưới góc độ gia đình ........................

2.3.2. Nguyên nhân - điều kiện xét dưới góc độ nhà trường ....................
2.3.3. Nguyên nhân, điều kiện xét dưới góc độ xã hội..............................
2.4. Một số giải pháp cơ bản nhằm hạn chế tình trạng vi phạm pháp luật của
trẻ em vị thành niên ở thành phố Vinh- tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay..........
2.4.1. Dự báo về tình hình vi phạm pháp luật của trẻ em vị thành niên ở
thành phố Vinh - tỉnh Nghệ An trong thời gian tới .............................................
2.4.2. Các biện pháp đấu tranh, phòng ngừa người chưa thành niên vi
phạm pháp luật ...................................................................................................
C. KẾT LUẬN ........................................................................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


5

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt nam luôn đặt chiến lược phát triển con người trong chiến lược phát
triển kinh tế xã hội của đất nước, câu "trẻ em là tương lai của đất nước" được
toàn xã hội biết đến như là sự khẳng định một chính sách đúng đắn của Đảng
và Nhà nước trong thời kì cơng ngiệp hố, hiện đại hố đất nước. Đảng cộng
sản Việt Nam luôn luôn cho rằng: việc giáo dục, rèn luyện thanh tiếu niên
thành những con người mới phát triển một cách toàn diện, kế tục trung thành
và xuất sắc sự nghiệp Cách mạng của Đảng và của dân tộc có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng. Làm tốt cơng tác này khơng những chỉ nhằm đáp ứng u cầu
hồn thành nhiệm vụ trước mắt, mà còn bảo đảm sự kế tục và phát triển
không ngừng của chế độ ta, bảo đảm tương lai tươi sáng của dân tộc. Bác Hồ
kính u đã từng dạy: "Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người".
Việt Nam là nước đầu tiên của châu Á và là nước đầu tiên trên thế giới
tham gia Công ước về quyền trẻ em, nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong
nước được ban hành quy định về các vấn đề liên quan đến trẻ em như vấn đề

ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục, lao động... Tuy nhiên, có một thực tế đáng
buồn là đất nước đang trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố, sự phát
triển của nền kinh tế thị trường với những mặt trái của nó đã làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sự phát triển của trẻ, đặc biệt là trẻ vị thành niên, tình trạng
trẻ em vi phạm pháp luật đã trở thành mối lo ngại của tồn xã hội. Vì vậy,
việc đề ra những chính sách cũng như những biện pháp nhằm hạn chế tình
trạng vi phạm pháp luật ở trẻ vị thành niên hiện đang là vấn đề hiện đang
được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội hết sức quan tâm. Thành phố Vinh - tỉnh
Nghệ An là một trong những địa phương có tỉ lệ trẻ vị thành niên vi phạm
pháp luật tương đối cao. Để góp phần cùng với địa phương hạn chế tình trạng


6

vi phạm pháp luật ở trẻ vị thành niên trên địa bàn, tác giả đã mạnh dạn chọn
đề tài: "Vi phạm pháp luật ở trẻ vị thành niên trên địa bàn thành phố Vinh tỉnh Nghệ An. Thực trạng và giải pháp".
2. Tình hình nghiên cứu
Trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật là vấn đề rất được nhiều người
quan tâm, khơng chỉ riêng ở Việt Nam mà cịn ở nhiều nước khác trên thế
giới. Liên quan đến vấn đề này ở nước ta đã có rất nhiều hội nghị, hội thảo và
các bài viết trên các sách, báo, tạp chí... của khơng ít tác giả nghiên cứu với
nhiều khía cạnh khác nhau, có những tác giả nghiên cứu về mặt lý luận nhưng
cũng có những tác giả nghiên cứu về mặt thực tiễn như Đặng Thanh Xuân:
“Đặc điểm tâm lý của người chưa thành niên và ảnh hưởng của nó tới hành
vi làm trái pháp luật của các em”; Vũ Ngọc Bình: "Tư pháp với người chưa
thành niên và quyền trẻ em"; Vũ Đức Khiển: "Phòng ngừa người thành niên
phạm tội". Để góp phần vào việc nghiên cứu về vấn đề vi phạm pháp luật ở
trẻ em vị thành niên, tác giả sẽ đi sâu phân tích thực trạng trẻ em vị thành niên
vi phạm pháp luật ở thành phố Vinh - tỉnh Nghệ An trong thời gian gần đây.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về vấn đề vi phạm pháp luật ở lứa tuổi trẻ em vị
thành niên
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Do thời gian có hạn tác giả chỉ xin nghiên cứu vấn đề trên địa bàn
thành phố Vinh - tỉnh Nghệ An.
4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề tài bao gồm: duy
vật lịch sử, phép biện chứng duy vật, phương pháp điều tra, khảo sát, phân


7

tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, xử lý số liệu, khái qt hố... Trong đó,
phương pháp điều tra, phân tích, tổng hợp, so sánh là chủ đạo.
5. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
5.1. Mục tiêu
Đề tài sẽ đi sâu tìm hiểu thực trạng và nguyên nhân của vi phạm pháp
luật ở trẻ vị thành niên trên địa bàn thành phố Vinh - tỉnh Nghệ An, từ đó đưa
ra các kiến nghị và giải pháp nhằm hạn chế tình trạng đó.
5.2. Nhiệm vụ
- Đề tài nêu lên thực trạng vi phạm pháp luật ở trẻ vị thành niên trên địa
bàn thành phố Vinh - tỉnh Nghệ An;
- Đề tài chỉ ra ngun nhân của tình trạng đó;
- Đề tài xác định các giải pháp nhằm giúp các cơ quan chức năng thành
phố Vinh - tỉnh Nghệ An hạn chế tình trạng vi phạm pháp luật của trẻ vị thành
niên trên địa bàn.
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài góp phần tạo nên những cái nhìn rõ hơn về bức tranh thực trạng
vi phạm pháp luật của trẻ em vị thành niên. Từ đó đưa ra các giải pháp góp

phần hạn chế hành vi vi phạm pháp luật của trẻ vị thành niên.
Những nghiên cứu của đề tài cũng có thể làm tài liệu cho việc giảng
dạy, nghiên cứu, học tập và có thể làm tài liệu tham khảo cho những người
muốn tìm hiểu về vấn đề này.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
gồm hai chương :
Chương 1: Cơ sở lí luận về vấn đề vi phạm pháp luật ở trẻ em vị thành
niên theo quy định của pháp luật hiện nay.


8

Chương 2: Thực trạng của tình hình vi phạm pháp luật của trẻ em vị
thành niên ở thành phố Vinh – tỉnh Nghệ An trong những năm qua và những
giải pháp cơ bản nhằm hạn chế tình trạng vi phạm pháp luật của trẻ em vị
thành niên.

B. NỘI DUNG
CHƯƠNG1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ VI PHẠM
PHÁP LUẬT Ở TRẺ EM VỊ THÀNH NIÊN THEO QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT HIỆN NAY.
1.1. Khái quát về vi phạm pháp luật ở trẻ em vị thành niên
1.1.1. Vi phạm pháp luật
1.1.1.1. Khái niệm
Nhà nước nào cũng mong muốn là pháp luật do mình ban hành phải
được tơn trọng và thực hiện nghiêm minh, vì vậy nhà nước nào cũng đấu
tranh phịng và chống vi phạm pháp luật, đặc biệt là tội phạm. Để xoá bỏ hiện
tượng vi phạm pháp luật trước hết cần tìm hiểu bản chất, những đặc điểm
(dấu hiệu) của chúng để rồi tìm cách loại bỏ những nguyên nhân, điều kiện đã

sinh ra chúng. Do vậy, nghiên cứu vấn đề vi phạm pháp luật có ý nghĩa rất lớn
trong việc đề ra những biện pháp hữu hiệu để đấu tranh phịng và chống vi
phạm pháp luật trong xã hội.
Khơng giống với các cuộc cách mạng là sự đấu tranh của cả một giai
cấp hay một dân tộc nhằm lật đổ cả một chế độ xã hội cũ để xây dựng một
chế độ xã hội mới, mang tính tiến bộ vì sự phát triển đi lên của xã hội, vi
phạm pháp luật chỉ là một hiện tượng xã hội mang tính tiêu cực, một tệ nạn
trong xã hội. Vi phạm pháp luật chỉ là những hành vi phản ứng tiêu cực của
một số cá nhân hoặc tổ chức đi ngược lại với ý chí nhà nước được thể hiện


9

trong các quy phạm pháp luật. Những phản ứng có tính chất tiêu cực đó ln
gây hại cho nhà nước, xã hội và công dân, do vậy chúng luôn bị nhà nước, xã
hội và công dân lên án, đấu tranh đòi hỏi phải loại bỏ chúng ra khỏi đời sống
xã hội.
Vi phạm pháp luật là một hiện tượng xã hội có những dấu hiệu cơ bản
sau: là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật, có lỗi và chủ thể thực
hiện phải có năng lực trách nhiệm pháp lý.
+ Thứ nhất, vi phạm pháp luật là hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Như ta đã biết các quy định của pháp luật được đặt ra là để điều chỉnh
hành vi của con người. Cho nên vi phạm pháp luật trước hết phải là hành vi
của con người hoặc là hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã
hội… (các chủ thể pháp luật) nguy hiểm hoặc có khả năng gây nguy hiểm cho
xã hội. Khi xác định vi phạm pháp luật thì dấu hiệu hành vi là khơng thể thiếu
được, nói cách khác, khơng có hành vi nguy hiểm của con người thì khơng có
vi phạm pháp luật. Hành vi đó có thể biểu hiện bằng hành động hoặc không
hành động của các chủ thể pháp luật. Pháp luật không điều chỉnh những suy
nghĩ hoặc những đặc tính cá nhân khác của con người nếu như những đặc tính

đó khơng biểu hiện thành các hành vi cụ thể của họ. Vì thế, suy nghĩ, tình
cảm, những đặc tính cá nhân khác của con người và cả sự biến cho dù có
nguy hiểm cho xã hội cũng không bị coi là vi phạm pháp luật.
+ Thứ hai, vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật xâm hại tới các
quan hệ xã hội được pháp luật xác lập và bảo vệ.
Vi phạm pháp luật không những phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội
của các chủ thể pháp luật, mà hành vi đó cịn phải trái với pháp luật, xâm hại
tới các quan hệ xã hội được pháp luật xác lập và bảo vệ. Vì vậy, những hành
vi hợp pháp hay hành vi trái với các quy định của các tổ chức xã hội, trái với
quy tắc tập qn, đạo đức tín điều tơn giáo… mà khơng trái pháp luật thì


10

không bị coi là vi phạm pháp luật. Hành vi trái pháp luật ở những mức độ
khác nhau đều xâm hại tới những quan hệ xã hội mà mỗi nhà nước xác lập và
bảo vệ. Một cách khái quát, những gì mà pháp luật khơng cấm, khơng xác lập
và bảo vệ thì dù có làm trái, có xâm hại cũng khơng bị coi là vi phạm pháp
luật. Như vậy, tính trái pháp luật là dấu hiệu không thể thiếu của hành vi bị
coi là vi phạm pháp luật.
+ Thứ ba, có lỗi của chủ thể.
Dấu hiệu trái pháp luật mới chỉ là biểu hiện bên ngoài của hành vi, để
xác định vi phạm pháp luật cần xem xét cả mặt chủ quan của hành vi, nghĩa là
xác định lỗi (xác định trạng thái tâm lý) của chủ thể khi thực hiện hành vi trái
pháp luật đó. Lỗi là yếu tố chủ quan thể hiện thái độ của chủ thể đối với hành
vi trái pháp luật của mình. Nếu một hành vi trái pháp luật được thực hiện do
những điều kiện và hồn cảnh khách quan, chủ thể hành vi đó không cố ý và
cũng không vô ý thực hiện hoặc khơng thể ý thức (nhận thức) được, từ đó
khơng thể lựa chọn được cách xử sự theo yêu cầu của pháp luật thì chủ thể
hành vi đó khơng bị coi là có lỗi và hành vi đó khơng bị coi là vi phạm pháp

luật. Kể cả những hành vi trái pháp luật mà chủ thể bị buộc phải thực hiện
trong những điều kiện bất khả kháng cũng có thể khơng bị coi là vi phạm
pháp luật. Như vậy, những hành vi trái pháp luật mang tính khách quan,
khơng có lỗi của chủ thể thực hiện hành vi đó (chủ thể khơng cố ý và cũng
khơng vơ ý thực hiện) thì khơng bị coi là vi phạm pháp luật. Từ đó có thể
khẳng định là tất cả mọi vi phạm pháp luật trước hết phải là hành vi trái pháp
luật, nhưng ngược lại, không phải tất cả mọi hành vi trái pháp luật đều bị coi
là vi phạm pháp luật. Chỉ những hành vi trái pháp luật nào có lỗi (được chủ
thể thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý) mới có thể bị coi là vi phạm pháp luật.
+ Thứ tư, chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý.


11

Năng lực trách nhiệm pháp lý là khả năng phải chịu trách nhiệm pháp
lý của chủ thể do nhà nước quy định. Thông thường, nhà nước chỉ quy định
sự độc lập phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình đối với những người có
khả năng tự lựa chọn được cách xử sự cho mình và chịu trách nhiệm độc lập
về hành vi của mình. Do vậy, pháp luật chỉ quy định năng lực trách nhiệm
pháp lý cho những người đã đạt được một độ tuổi nhất định, có khả năng lý trí
và có tự do ý chí. Đối với trẻ em ít tuổi có thể nhận thức và điều khiển được
hành vi của mình, nhưng do chưa phát triển đầy đủ về thể lực, trí lực và tâm
sinh lý nên chúng chưa có khả năng nhận thức và đánh giá được hết những
hậu quả do hành vi của chúng gây ra cho xã hội nên nhà nước không bắt
chúng không phải chịu trách nhiệm pháp lý về hành vi của mình, khơng quy
định năng lực phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với chúng. Độ tuổi phải chịu
trách nhiệm pháp lý của con người được pháp luật quy định khác nhau trong
mỗi loại quan hệ xã hội khác nhau hoặc phụ thuộc vào tầm quan trọng, tính
chất của quan hệ xã hội đó. Đối với những người do mất khả năng nhận thức
hoặc khả năng lựa chọn, điều khiển hành vi của mình ở thời điểm khi thực

hiện hành vi đó thì pháp luật cũng quy định họ khơng có năng lực trách nhiệm
pháp lý, do vậy họ khơng phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với trường hợp
đó. Chẳng hạn, Điều 12, Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 quy định:
“Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm
thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi của mình, thì khơng phải chịu trách nhiệm hình sự”. Mỗi nhà
nước khác nhau thì có quy định khác nhau về năng lực trách nhiệm pháp lý.
Như vậy, những hành vi trái pháp luật nhưng khi thực hiện các chủ thể khơng
có hoặc chưa có năng lực trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật thì
khơng bị coi là vi phạm pháp luật.


12

Tóm lại, vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi, do chủ thể
có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được
pháp luật bảo vệ.
1.1.1.2. Cấu thành vi phạm pháp luật
Là một sự kiện pháp lý, vi phạm pháp luật được cấu thành bởi: mặt
khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể vi phạm pháp luật.
+ Mặt khách quan của vi phạm pháp luật: là những biểu hiện ra bên
ngồi của vi phạm pháp luật. Nó gồm những yếu tố sau:
- Hành vi trái pháp luật: Bất kỳ một vi phạm pháp luật nào cũng được
cấu thành bởi hành vi trái pháp luật, nghĩa là, nếu trong thực tế không tồn tại
hành vi trái pháp luật của cá nhân hoặc hoạt động trái pháp luật của tổ chức cụ
thể nào đó thì khơng có vi phạm pháp luật xảy ra.
- Hậu quả (sự thiệt hại) do hành vi trái pháp luật gây ra cho xã hội:
Hành vi trái pháp luật ở những mức độ khác nhau đều nguy hiểm và gây hại
cho xã hội. Tính nguy hiểm của hành vi trái pháp luật thể hiện ở chỗ nó đã
hoặc có nguy cơ gây ra những thiệt hại về vật chất, về tinh thần và những thiệt

hại khác cho xã hội. Mức độ nguy hiểm của hành vi trái pháp luật được xác
định phụ thuộc vào tính chất và mức độ thiệt hại thực tế hoặc nguy cơ gây hại
cho xã hội mà hành vi trái pháp luật đó gây ra.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với hậu quả (sự thiệt
hại) mà nó gây ra cho xã hội. Mối quan hệ này thể hiện ở chỗ sự thiệt hại của
xã hội là do chính hành vi trái pháp luật đó trực tiếp gây ra, nói cách khác, sự
thiệt hại của xã hội xảy ra là hậu quả tất yếu của hành vi trái pháp luật. Nếu
giữa hành vi trái pháp luật và sự thiệt hại của xã hội khơng có mối quan hệ
nhân quả thì sự thiệt hại của xã hội khơng phải do hành vi trái pháp luật đó
trực tiếp gây ra mà có thể do những nguyên nhân khác.


13

Ngoài ra, trong mặt khách quan của vi phạm pháp luật cịn có các yếu
tố khác như thời gian, địa điểm và cách thức vi phạm,…
+ Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật: là những biểu hiện tâm lý bên
trong của chủ thể vi phạm pháp luật. Nó gồm những yếu tố sau:
- Lỗi của chủ thể vi phạm pháp luật. Lỗi là trạng thái tâm lý của chủ thể
đối với hành vi vi phạm của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra. Lỗi thể
hiện thái độ tiêu cực của chủ thể đối với xã hội. Phụ thuộc vào mức độ tiêu
cực trong thái độ của chủ thể, khoa học pháp lý chia lỗi ra thành hai loại: lỗi
cố ý và lỗi vô ý.
Lỗi cố ý có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp.
Lỗi cố ý trực tiếp : chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi
của mình gây ra và mong muốn điều đó xảy ra.
Lỗi cố ý gián tiếp: chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi
của mình gây ra, nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.

Lỗi vơ ý có thể là vơ ý vì quá tự tin hoặc vô ý do cẩu thả.
Lỗi vô ý vì quá tự tin: chủ thể vi phạm nhận thấy trước hậu quả nguy
hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra nhưng hy vọng, tin tưởng hậu quả
đó sẽ khơng xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Lỗi vô ý do cẩu thả: chủ thể vi phạm đã không nhận thấy trước được
hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra, mặc dù có thể
hoặc cần phải nhận thấy trước hậu quả đó.
- Động cơ vi phạm: động cơ được hiểu là cái (động lực) thúc đẩy chủ
thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Thông thường khi thực hiện vi phạm
pháp luật, chủ thể thường được thúc đẩy bởi một động cơ nhất định nào đó.
Động cơ đó có thể là vụ lợi, trả thù, đê hèn,…


14

- Mục đích vi phạm: mục đích là kết quả cuối cùng mà trong suy nghĩ
của mình chủ thể mong muốn đạt được khi thực hiện hành vi vi phạm pháp
luật. Mục đích vi phạm của chủ thể cũng thể hiện tính chất nguy hiểm của
hành vi. Tuy nhiên, cần chú ý là không phải khi nào kết quả mà chủ thể vi
phạm đạt được trong thực tế cũng trùng hợp với mục đích mà chủ thể vi phạm
mong muốn đạt được. Chẳng hạn, A chỉ muốn làm B đau (mục đích gây
thương tích) nhưng kết quả thực tế B chết (cái chết của B nằm ngoài mong
muốn của A).
+ Chủ thể vi phạm pháp luật: chủ thể vi phạm pháp luật là cá nhân hoặc
tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lý, nghĩa là theo quy định của pháp luật
thì họ phải chịu trách nhiệm đối với hành vi trái pháp luật của mình trong
trường hợp đó. Ở mỗi loại vi phạm pháp luật đều có cơ cấu chủ thể riêng và
chúng được xem xét tỉ mỉ ở các ngành khoa học pháp lý cụ thể.
+ Khách thể vi phạm pháp luật: là những quan hệ xã hội được pháp luật
bảo vệ, nhưng bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại. Những quan hệ xã hội

khác nhau thì có tính chất và tầm quan trọng khác nhau, do vậy, tính chất và
tầm quan trọng của khách thể cũng là những yếu tố để xác định mức độ nguy
hiểm của hành vi vi phạm pháp luật.
1.1.1.3. Phân loại vi phạm pháp luật
Hiện tượng vi phạm pháp luật trong xã hội rất đa dạng, do vậy cũng có
rất nhiều cách để phân loại chúng.
+ Căn cứ vào các loại quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ bị xâm hại có
thể phân loại vi phạm pháp luật thành vi phạm pháp luật về tài chính, vi phạm
pháp luật về lao động, vi phạm pháp luật về đất đai,…
+ Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi có thể phân
loại vi phạm pháp luật thành tội phạm và các vi phạm pháp luật khác. Tội
phạm là hành vi nguy hiểm cao độ cho xã hội (về nội dung thể hiện ở tính


15

chất của các quan hệ xã hội mà nó xâm hại, tính chất và mức độ thiệt hại mà
nó gây ra cho xã hội…; về hình thức thể hiện ở chỗ chúng được quy định
trong luật hình sự). Các vi phạm pháp luật khác khơng phải là tội phạm thì
mức độ nguy hiểm không cao bằng tội phạm và được quy định trong các
ngành luật khác.
+ Thông thường, vi phạm pháp luật được phân chia thành bốn nhóm cơ
bản sau:
- Tội phạm: là hành vi nguy hiểm cho xã hội được pháp luật hình sự
quy định, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thốn nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ
quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hố, quốc phịng, an
ninh, trật tự an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích
hợp pháp khác của cơng dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp

luật.
- Vi phạm hành chính: là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà không phải
là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành
chính.
- Vi phạm dân sự: là những hành vi trái pháp luật, có lỗi xâm hại tới các
quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân có liên quan tới tài sản, quan hệ phi tài
sản…
- Vi phạm kỷ luật nhà nước: là những hành vi có lỗi trái với những quy
chế, quy tắc xác lập trật tự trong nội bộ một cơ quan, xí nghiệp, trường học…,
nói cách khác là khơng thực hiện đúng kỷ luật lao động, học tập, phục vụ
được đề ra trong cơ quan, xí nghiệp, trường học đó… Cần chú ý là chủ thể vi
phạm kỷ luật chỉ có thể là cá nhân, tập thể (cán bộ, công nhân, công chức, học


16

sinh,…) có quan hệ ràng buộc (phụ thuộc) với cơ quan, xí nghiệp, trường
học… nào đó.
Vi phạm pháp luật là sự kiện pháp lý và là cơ sở để truy cứu trách
nhiệm pháp lý.
1.1.2. Trẻ em vị thành niên vi phạm pháp luật
1.1.2.1. Khái niệm trẻ em vị thành niên
Trẻ vị thành niên (người chưa thành niên) là những người chưa hoàn
toàn phát triển đầy đủ về nhân cách, chưa có đủ quyền lợi và nghĩa vụ của
một cơng dân. Pháp luật ở mỗi quốc gia quy định độ tuổi cụ thể của người
chưa thành niên.
Điều 1, Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng liên hợp
quốc thơng qua ngày 20/11/1989 có ghi: "Trong phạm vi Cơng ước này, trẻ
em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với

trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn".
Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất
trong Hiến pháp 1992, Bộ luật hình sự năm 1999, Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003, Bộ luật lao động năm 1994 sửa đổi bổ sung 2002, 2006, 2007, Bộ luật
dân sự 2005 và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Tất cả văn bản pháp
luật đó đều quy định tuổi người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi và quy
định riêng những chế định pháp luật đối với người chưa thành niên trong từng
lĩnh vực cụ thể (chẳng hạn: Điều 18, Bộ luật dân sự 2005 quy định: "Người từ
đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên, người chưa đủ 18 tuổi là người chưa
thành niên").
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: Trong pháp luật hình sự và dân sự,
vị thành niên được hiểu là người chưa đủ 18 tuổi.
Khái niệm trẻ em vị thành niên (người chưa thành niên) được xây
dựng dựa trên sự phát triển về mặt thể chất và tinh thần của con người và


17

được cụ thể hoá bằng giới hạn độ tuổi trong các văn bản pháp luật của từng
quốc gia. Theo đó, người ta quy định quyền và nghĩa vụ cụ thể của người
chưa thành niên.
Như vậy, có thể khái niệm: Trẻ em vị thành niên (người chưa thành
niên) là người dưới 18 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về mặt thể chất và
tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành
niên.
1.1.2.2. Trẻ em vị thành niên vi phạm pháp luật
Trẻ em vị thành niên (người chưa thành niên) vi phạm pháp luật là một
khái niệm dùng để chỉ tất cả các hành vi vi phạm pháp luật như: hành chính,
dân sự, lao động, kinh tế, hình sự,... do người chưa thành niên thực hiện.
1.1.2.3. Đặc điểm tâm lý của trẻ em vị thành niên

Tâm lý của con người luôn vận động và phát triển. Mỗi lứa tuổi có
những đặc điểm tâm lý đặc trưng. Khi chuyển từ giai đoạn lứa tuổi này sang
giai đoạn lứa tuổi khác, bao giờ cũng gắn với sự xuất hiện những cấu tạo tâm
lý mới về chất.
Căn cứ vào những thay đổi cơ bản trong điều kiện sống và hoạt động
của người chưa thành niên, căn cứ vào những cấu trúc tâm lý và sự trưởng
thành có thể của các em, người ta chỉ ra một số giai đoạn phát triển tâm lý
của người chưa thành niên:
- Giai đoạn trước tuổi học sinh: từ tuổi sơ sinh đến dưới 6 tuổi (mẫu
giáo).
- Giai đoạn tuổi học sinh: từ 6 đến 18 tuổi, trong đó:
+ Thời kì từ 6 tuổi đến 11 tuổi: học sinh tiểu học.
+ Thời kì từ 11 tuổi đến 14, 15 tuổi: học sinh trung học cơ sở.
+ Thời kì từ 14, 15 tuổi đến 17, 18 tuổi: học sinh trung học phổ
thông.


18

Nhìn chung, người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về
thể chất cũng như tâm sinh lý và họ cịn đang trong giai đoạn "phát triển" hình
thành nhân cách, trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống còn hạn chế, thiếu
điều kiện và bản lĩnh tự làm chủ mình, khả năng tự kiềm chế cịn thấp, thích
chơi trội, muốn tự khẳng định mình, được đánh giá, được tôn trọng, dễ tự ái,
tự ti, hiếu thắng, thiếu kiên nhẫn, thiếu hồi bão, thiếu thực tế, dễ bị kích
động, bị dụ dỗ, bị lôi kéo vào những hoạt động phiêu lưu, mạo hiểm, dễ bị tổn
thương, dễ thay đổi thích nghi, dễ uốn nắn. Ví dụ: trong thực tế có những
người muốn tự khẳng định mình trước bạn bè nên đã thực hiện việc đua xe
trái phép dẫn đến hậu quả gây tai nạn chết người.
Đặc biệt, ở độ tuổi thiếu niên (11 đến 14, 15 tuổi), có những biến động

nhanh, mạnh, đột ngột, có những thay đổi cơ bản về sinh lý dẫn đến sự thay
đổi về tâm lý. Do đó, dễ có những suy nghĩ về hành vi theo hướng "bùng nổ"
dễ đi đến "cực đoan", "quá trớn". Ở lứa tuổi này có tổ chức "quá độ", khơng
cịn là trẻ con nữa, nhưng chưa phải là người lớn, các em nghĩ rằng mình đã là
người lớn và địi hỏi mọi người đối xử với mình như người lớn. Các em ln
muốn tự khẳng định mình, thích được tự lập, dễ tự ái, thậm chí nhiều khi thái
quá. Ví dụ, khi giao cho các em việc gì, nếu chúng ta nửa chừng can thiệp
vào, các em thường phản ứng và cố làm bằng được. Vì vậy các em ghét người
lớn "sai vặt", can thiệp thô bạo vào việc làm của mình, hoặc soi mói, chê bai
các em... Trong những trường hợp đó, các em thường cãi lại. Vì lịng tự ái và
tự trọng phát triển, có khi đến mức quá trớn nên các em thường có những
phản ứng quyết liệt đối với người lớn, kể cả thầy cô giáo hay bố mẹ, do vơ
tình hay cố ý có những lời nói mà các em cho là xúc phạm đến danh dự của
mình. Từ đó gây nên tâm trạng bực tức và chống đối mãnh liệt ở các em. Phản
ứng này có thể bộc lộ ra, nhưng cũng có thể ngấm ngầm và tích luỹ lại để một
lúc nào đó "bùng nổ" đưa đến những hậu quả nghiêm trọng. Các em có xu


19

hướng nắm lấy những biểu hiện bề ngồi mà khơng nắm bản chất của sự vật,
hiện tượng, điều đó ảnh hưởng rất lớn đến quá trình nhận thức và hành vi của
các em, nhiều khi để bắt chước một người lớn nào đó, các em rập khn máy
móc, bắt chước cả những nét tiêu cực của họ (hút thuốc, nói tục, gây gổ...).
Do đó, trong nhiều trường hợp, các em bị các phần tử xấu lôi kéo, dụ dỗ, mua
chuộc vì trong mắt các em, họ là những người hùng.
Khác với quá trình nhận thức của lứa tuổi thiếu niên, các em ở lứa tuổi
đầu thanh niên (15 - 18 tuổi) quá trình nhận thức đã đi vào bản chất của hiện
tượng: phân biệt được tính bảo thủ với kiên trì, liều mạng với can đảm, dũng
cảm. Ở lứa tuổi này, sự tự trọng của các em rất cao, khát vọng được tự lập

khơng thích người lớn quan tâm tới mình, khơng thích bị áp đặt (ăn mặc, đầu
tóc), vì vậy chỉ cần thiếu tế nhị một chút của người lớn cũng khiến thế giới
nội tâm của các em khép kín lại trước cha mẹ; nhu cầu giao tiếp của các em
phát triển cao, thường "thần tượng hoá" người để lại ấn tượng cho mình; nhu
cầu về tình bạn phát triển, muốn được chia sẻ, đặc biệt là bạn khác giới, một
số em có nhu cầu về tình u, tình cảm thầm kín,...
1.1.2.4. Đặc điểm tâm lý của trẻ em vị thành niên có hành vi vi phạm
pháp luật
Trẻ em vị thành niên có hành vi vi phạm pháp luật có những đặc điểm
tâm lý đặc trưng như:
+ Về trí tuệ: nhìn chung phát triển chậm, thực dụng, khơng thích học, tỏ
ra khơng ngoan, mưu trí trong hành vi trái pháp luật (kĩ xảo ăn cắp, móc túi,
che dấu, đối phó với nhà chức trách).
+ Về hứng thú: ham muốn vật chất tầm thường, thích kết bạn cùng cảnh
ngộ, cùng sở thích, thích chơi với bạn hơn là trị chuyện với người trong gia
đình, thích đua địi ăn chơi (80% người chưa thành niên làm trái pháp luật


20

nghiện thuốc lá, 70% thích uống rượu bia, thích xem phim ảnh không lành
mạnh, phim chưởng, phim bạo lực).
+ Về tình cảm: thiếu bền vững, dễ bị kích động, bồng bột.
+ Về tính cách: muốn vươn lên làm người lớn, có tính độc lập và muốn
tự khẳng định mình, thích mạo hiểm liều lĩnh, đôi lúc tỏ ra thô lỗ, tục tằn,
thiếu tôn trọng cha mẹ và người khác, nếu bị xúc phạm thường có phản ứng
quyết liệt, nảy sinh tiêu cực, bất cần đời.
Do đặc điểm lứa tuổi của người chưa thành niên dưới 18 tuổi, đây là
giai đoạn trong quá trình hình thành nhân cách, nên về đặc điểm tâm sinh lý
cịn có những điều chưa ổn định. Vì vậy, người chưa thành niên chịu ảnh

hưởng sâu sắc của gia đình, trong đó phương pháp giáo dục sai lầm của cha
mẹ là nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc người chưa thành niên thực hiện
hành vi vi phạm pháp luật.
Người chưa thành niên chịu tác động của môi trường xung quanh, chịu
ảnh hưởng xấu của sách báo, phim ảnh đồi truỵ, kích động bạo lực.
Nhà trường chưa kết hợp giáo dưỡng với giáo dục, chưa làm tốt chức
năng với học sinh cá biệt, thiếu kiên trì, có định kiến gây cho các học sinh có
mặc cảm, chán nản, bỏ học, phản ứng tiêu cực.
1.2. Một số quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề trẻ em vị
thành niên vi phạm pháp luật.
1.2.1. Quy định của Hiến pháp
Hiến pháp năm 1992, sửa đổi bổ sung 2001 quy định: "Trẻ em được
gia đình, Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục" (Điều 65);
"thanh niên được gia đình, Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập, lao
động và giải trí phát triển thể lực và trí tuệ, bồi dưỡng về đạo đức, truyền
thống đân tộc, ý thức công dân và lý tưởng XHCN, đi đầu trong công cuộc
lao động sáng tạo và bảo vệ Tổ quốc" (Điều 66). Tuy nhiên, đối với mọi công


21

dân nói chung, người chưa thành niên nói riêng nếu có hành vi vi phạm pháp
luật thì đều bị xử lý nghiêm minh bằng pháp luật, Hiến pháp quy định:
"nghiêm trị mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân; xây
dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội"(Điều 3). Như vậy,
Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thể hiện rõ quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta là chăm sóc, bảo vệ, giáo dục trẻ em vị thành
niên, đồng thời xử lý nghiêm đối với những trẻ vị thành niên phạm pháp để
tăng cường giáo dục, phòng ngừa người chưa thành niên vi phạm pháp luật.
1.2.2. Quy định của pháp luật hành chính

Xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên là việc áp
dụng những chế tài của quy phạm pháp luật hành chính đối với những đối
tượng cụ thể bằng những biện pháp xử phạt hành chính hoặc biện pháp xử lý
khác theo quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và các văn bản
hướng dẫn thi hành. Khi áp dụng hình thức xử lý hành chính đối với người
chưa thành niên, phải tiến hành theo nguyên tắc quy định tại Điều 7 của Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Điều 5 của Nghị định 135/NĐCP ngày 17/11/2003 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh.
Theo đó, "Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi vi phạm hành chính thì bị
phạt cảnh cáo. Người từ đủ 16 tuổi vi phạm hành chính có thể bị áp dụng hình
thức xử phạt theo quy định tại Điều 12 của Pháp lệnh. Khi phạt tiền đối với họ
thì mức phạt tiền khơng được q một phần hai so với vi phạm của người đã
thành niên"; còn " người chưa thành niên vi phạm hành chính mà gây thiệt hại
thì trách nhiệm bồi thường được thực hiện theo quy định tại Điều 40 Luật hôn
nhân gia đình và Điều 621 của Bộ luật dân sự". Khơng xử phạt hành chính đối
với hành vi có dấu hiệu tội phạm khi phải chuyển hồ sơ đề nghị truy cứu trách
nhiệm hình sự; khơng xử phạt hành chính trong các trường hợp tình thế cấp


22

thiết, phịng vệ chính đáng hoặc sự kiện bất ngờ theo quy định tại Khoản 6
Điều 3 Pháp lệnh.
1.2.3. Quy định của luật dân sự
Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong trường hợp người nào đó do lỗi cố ý hoặc vơ ý xâm phạm đến tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc các
chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Luật pháp hầu hết các nước đều thừa nhận nguyên tắc: "người gây thiệt
hại thì phải bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại". Tuy nhiên pháp luật

cũng quy định năng lực trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân không
giống nhau. Bộ luật dân sự năm 2005 (Điều 621) quy định:
- Khi người chưa thành niên dưới 15 tuổi gây thiệt hại mà cịn cha mẹ
thì cha mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, nếu tài sản của cha mẹ khơng đủ
để bồi thường mà con chưa thành niên có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi
thường phần còn thiếu. Đối với những người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi
thì áp dụng ngược lại: lấy tài sản của con để bồi thường, nếu không đủ để bồi
thường thì cha mẹ phải bổ sung phần cịn thiếu.
- Khi người chưa thành niên gây thiệt hại mà có người giám hộ thì
trước hết dùng tài sản của người chưa thành niên đó để bồi thường. Nếu người
chưa thành niên đó khơng có tài sản hoặc tài sản có khơng đủ để bồi thường
thiệt hại thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình, trừ trường
hợp người giám hộ chứng minh được mình khơng có lỗi trong việc giám hộ.
- Ngoài ra, pháp luật dân sự còn quy định người chưa thành niên dưới
15 tuổi gây thiệt hại trong thời gian ở trường học, bệnh viện, các tổ chức khác
trực tiếp quản lý thì phải liên đới cùng với cha mẹ bồi thường cho người bị


23

thiệt hại. Nếu trường học, bệnh viện, các tổ chức khác khơng có lỗi thì cha
mẹ, người giám hộ của người dưới 15 tuổi phải bồi thường.
1.2.4. Quy định của luật hơn nhân và gia đình
Theo quy định tại Điều 40 Luật hơn nhân và gia đình năm 2000:
+ Người chưa thành niên dưới 15 tuổi gây thiệt hại mà cịn cha mẹ thì
cha mẹ phải bồi thường tồn bộ thiệt hại.
+ Người chưa thành niên đủ 15 tuổi trở lên đến dưới 18 tuổi gây thiệt
hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình (nếu có). Trường hợp tài sản
riêng của con không đủ để bồi thường thiệt hại thì cha mẹ phải bồi thường
phần cịn thiếu.

1.2.5. Quy định của luật hình sự
Bộ luật hình sự năm 1999 đã dành riêng một chương (Chương X) quy
định về chính sách xử lý người chưa thành niên phạm tội, chính sách này
được xây dựng dựa trên đặc điểm đặc thù của người chưa thành niên là sự hạn
chế về nhận thức, do vậy việc xét xử họ chủ yếu nhằm giáo dục, qua đó giúp
các em nhận thức được sai lầm và tuân thủ quy định của pháp luật. Điều 12,
Bộ luật Hình sự quy định: "Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm
hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi
phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng". Nguyên tắc xử lý người chưa thành niên vi
phạm pháp luật được quy định tại Điều 69, Bộ luật Hình sự 1999 như sau:
trong trường hợp điều tra, xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành niên,
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của
họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và
điều kiện gây ra tội phạm. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa
thành niên phạm tội áp dụng hình phạt đối với họ chỉ trong trường hợp cần
thiết và phải căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội, vào đặc điểm về nhân


24

thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Khi xét xử nếu thấy khơng cần
thiết áp dụng hình phạt thì tịa án có thể áp dụng một trong các biện pháp tư
pháp thay thế. Đặc biệt luật hình sự Việt Nam quy định khơng áp dụng hình
phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội, khi
xử phạt tù có thời hạn tịa án cho người chưa thành niên phạm tội hưởng mức
án tù nhẹ hơn mức án tù áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội tương
đương; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm
tội, đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khơng áp dụng hình phạt tiền
và án đã tun đối với người chưa đủ 16 tuổi thì khơng tính để xác định tái

phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
Bộ luật hình sự quy định hai biện pháp tư pháp mang tính răn đe giáo
dục và phịng ngừa là giáo dục tại xã phường, thị trấn hoặc đưa vào trường
giáo dưỡng (Điều 70). Hai biện pháp này áp dụng trong trường hợp người
chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng, tính chất nguy hiểm cho xã hội
khơng lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ như phạm tội lần đầu, thành khẩn khai
báo,... Hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội được Bộ
luật hình sự quy định bao gồm: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và
tù có thời hạn.
Chính sách giảm mức hình phạt đã tuyên được áp dụng cả đối với
người chưa thành niên phạm tội và người đã thành niên phạm tội, tuy nhiên
đối với người chưa thành niên phạm tội thì chính sách này có nhiều ưu ái hơn
nhằm động viên các em thi hành án tốt và tạo điều kiện để các em được sớm
trở lại với cuộc sống bình thường. Điều 76 Bộ luật hình sự 1999 quy định
người chưa thành niên bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu có
nhiều tiến bộ và đã chấp hành được một phần tư thời hạn thì được tịa án xét
giảm, riêng đối với hình phạt tù, mỗi lần có thể giảm đến bốn năm nhưng phải
bảo đảm đã chấp hành ít nhất hai phân năm nức hình phạt đã tuyên, trong


25

trường hợp có lập cơng hoặc bị mắc bệnh hiểm nghèo thì được xét giảm ngay
và có thể được xem xét miễn chấp hành hình phạt cịn lại.
1.2.6. Quy định của luật tố tụng hình sự
Bộ luật tố tụng hình sự cũng dành riêng một chương quy định về tố
tụng hình sự và chính sách xử lý đặc biệt với người chưa thành niên phạm tội
(Chương XXXII). Trong đó quy định rõ điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm
phán tiến hành tố tụng với người chưa thành niên phạm tội phải là người có
những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt

động đấu tranh phòng, chống tội phạm của người chưa thành niên. Khi áp
dụng các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên,
ngoài điều kiện về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và loại tội phạm còn phải
đảm bảo đủ các căn cứ nêu tại các Điều 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật tố
tụng hình sự, đó là các điều kiện về bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt
người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã, tạm giữ, tạm giam, thời hạn
tạm giam để điều tra. Đặc biệt, không được áp dụng chế độ giam giữ người
chưa thành niên như đối với người đã thành niên mà họ phải được giam giữ
riêng, các chế độ đối với người chưa thành niên được ưu ái hơn, pháp luật quy
định về chế độ học văn hóa, tạo dựng nghề nghiệp,... để giúp các em khi ra
trường có một nghề ổn định, điều này cũng có ý nghĩa trong cơng tác phịng
chống tội phạm ở tuổi vị thành niên.
Như vậy, xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý của người chưa thành niên
là cịn rất "non nớt", mục đích của việc xử lý người chưa thành niên có hành
vi vi phạm pháp luật là nhằm giáo dục, cải tạo, giúp đỡ họ sửa chữa những sai
lầm, phát triển lành mạnh, trở thành cơng dân có ích cho xã hội mà pháp luật
Việt Nam đã có những quy định riêng hợp lý đối với người chưa thành niên vi
phạm pháp luật. Đây cũng chính là nguyên tắc bao trùm, mang tính chỉ đạo
thể hiện chính sách pháp luật đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta.


×