Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

(Bài thảo luận) Thị trường và vai trò của các chủ thể tham gia thị trường Liên hệ vấn đề này ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.77 KB, 28 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BÀI THẢO LUẬN NHÓM

Học phần: Kinh tế chính trị Mác- Lênin
ĐỀ TÀI

Thị trường và vai trị của các chủ thể tham gia thị trường
Liên hệ vấn đề này ở Việt Nam

 Giảng viên: Ths. Đặng Thị Hồi
 Lớp học phần: 2085RLCP1211
 Nhóm thực hiện: Nhóm 4
Thành viên nhóm:
1.
2.
3.
4.

Lê Thu Hiền
Tơ Thanh Hiền
Nguyễn Thị Hoa
Nguyễn Thị Kim Hồng

5.
6.
7.
8.
9.

Nguyễn Mạnh Hùng
Quản Thanh Hưng


Hoàng Thị Thu Hương
Lê Thị Hằng Hương
Lê Thị Hường

1


MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
CHƯƠNG 2: THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC CHỦ THỂ THAM GIA
THỊ TRƯỜNG
1. Thị trường
1.1. Khái niệm và vai trò của thị trường
1.2. Cơ chế thị trường và nền kinh tế thị trường
2. Vai trò của một số chủ thể tham gia thị trường
CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM
1. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
2. Vai trò của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam
3. Tác động của quy luật kinh tế thị trường đến phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ở nước ta hiện nay
CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN

2


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, các nền kinh tế phát triển ngày càng nhanh và phức tạp hơn, do đó hệ
thống thị trường cũng biến đổi phù hợp với điều kiện, trình độ phát triển của nền kinh tế.

Vì vậy, để tổ chức có hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, đòi hỏi phải hiểu rõ về bản
chất hệ thống thị trường, những quy luật kinh tế cơ bản của thị trường các vấn đề liên
quan khác. Thấy được tính cấp thiết của vấn đề, nhóm em quyết định chọn đề tài thảo
luận: “Thị trường và vai trò của các chủ thể tham gia thị trường, liên hệ với thực tiễn ở
Việt Nam”. Đề tài cho ta thấy được vai trò và tầm quan trọng của thị trường và các chủ
thể tham gia thị trường trong nền kinh tế, từ đó liên hệ với Việt Nam để thấy được những
mặt đã làm được và chưa làm được của thị trường ở Việt Nam.
2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Liên hệ đến thực tiễn trong phạm vi ở Việt Nam
3. Mục tiêu nghiên cứu
Bài thảo luận nhằm làm sáng tỏ các mục tiêu sau:
- Làm sáng tỏ những khái niệm, cơ chế của thị trường và vai trò của các chủ thể
tham gia thị trường.
- Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp mô tả: mơ tả các khái niệm, cơ chế, vai trị của thị trường và các chủ
thể tham gia thị trường.
- Phương pháp chuyên gia: tham khảo, thu thập ý kiến của các nhà khoa học, các
nhà kinh tế, tham khảo đài, sách, báo, internet......
5. Kết cấu đề tài
Gồm 4 chương:
Chương 1: Lời mở đầu
Chương 2: Thị trường và vai trò của các chủ thể tham gia thị trường
3


1. Thị trường
2. Vai trò của chủ thể tham gia thị trường
Chương 3: Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
Chương 4: Kết luận


CHƯƠNG 2: THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC CHỦ THỂ THAM
GIA THỊ TRƯỜNG
1. Thị trường
1.1. Khái niệm và vai trò của thị trường
1.1.1. Khái niệm thị trường
Theo nghĩa hẹp, thị trường là nơi diễn ra hành vi trao đổi, mua bán hàng hóa giữa
các chủ thể kinh tế với nhau. Tại đó, người có nhu cầu về hàng hóa, dịch vụ sẽ nhận được
thứ mình cần và ngược lại, người có hàng hóa, dịch vụ sẽ nhận được một số tiền tương
ứng. Thị trường có biểu hiện dưới hình thái thể là chợ, cửa hàng, quầy hàng lưu động,
văn phòng giao dịch hay siêu thị…
Theo nghĩa rộng, thị trường là tổng hòa các mối quan hệ liên quan đến trao đổi,
mua bán hàng hóa trong xã hội, được hình thành do những điều kiện lịch sử, kinh tế, xã
hội nhất định. Theo nghĩa này, thị trường là tổng thể các mối quan hệ kinh tế gồm cung,
cầu, giá cả; quan hệ hàng - tiền; quan hệ giá trị, giá trị sử dụng; quan hệ hợp tác, cạnh
tranh; quan hệ trong nước, ngồi nước… Cùng với đó là các yếu tố kinh tế như nhu cầu
(người mua hàng); người bán; tiền – hàng; dịch vụ mua bán… Tất cả các quan hệ và yếu
tố kinh tế này được vận động theo quy luật của thị trường.
1.1.2. Vai trị của thị trường
Trong sản xuất, trao đổi hàng hóa nói chung và trong các hoạt động sản xuất kinh
doanh, thị trường có vai trị đặc biệt quan trọng. Vai trị đó thể hiện trên các mặt cơ bản
sau:
Một là, thị trường vừa là điều kiện, vừa là môi trường cho sản xuất phát triển. Thị
trường phát triển cùng với sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Sản xuất hàng
hóa càng phát triển, sản xuất ra càng nhiều hàng hóa và dịch vụ thì thị trường cũng phát
triển và mở rộng theo. Sự mở rông thị trường đến lượt nó lại thúc đẩy trở lại sản xuất
phát triển. Vì vậy, thị trường là mơi trường kinh doanh, là điều kiện khơng thể thiếu được
của q trình sản xuất kinh doanh.
4



Hai là, thị trường kích thích sự sáng tạo của mọi thành viên trong xã hội, tạo ra
cách thức phân bổ nguồn lực hiệu quả trong nền kinh tế.
Thị trường thúc đẩy các quan hệ kinh tế không ngừng phát triển. Do đó, địi hỏi các
thành viên trong xã hội phải khơng ngừng nỗ lực, sáng tạo để thích ứng được với sự phát
triển của thị trường. Sự sáng tạo được thị trường chấp nhận, chủ thể sáng tạo sẽ được thụ
hưởng lợi ích tương xứng. Khi lợi ích được đáp ứng, động lực cho sự sáng tạo được thúc
đẩy. Cứ như vậy, kích thích sự sáng tạo của mỗi thành viên trong xã hội.
Thông qua các quy luật thị trường, các nguồn lực cho sản xuất được điều tiết, phân
bố tới các chủ thể sử dụng hiệu quả nhất, thị trường tạo ra cơ chế để lựa chọn các chủ thể
có năng lực sử dụng nguồn lực hiệu quả trong nền sản xuất.
Ba là, thị trường gắn kết nền kinh tế thành một chỉnh thể, gắn kết nền kinh tế quốc
gia với nền kinh tế thế giới.
Thị trường điều chỉnh sản xuất, gắn sản xuất với tiêu dùng, liên kết nền kinh tế
thành một thể thống nhất, gắn các quá trình kinh tế trong nước với các quá trình kinh tế
thế giới. Để sản xuất hàng hóa, xã hội phải bỏ ra các chi phí sản xuất và chi phí lưu
thơng. Thơng qua hệ thống giá cả thị trường, người sản xuất có thể nhận biết được sự
phân bố các nguồn lực đã hợp lý chưa. Vì vậy, thị trường là nơi kiểm nghiệm các chi phí
và thực hiện yêu cầu quy luật tiết kiệm lao động xã hội. Thị trường phá vỡ ranh giới sản
xuất tự nhiên, tự cấp, tự túc để tạo thành hệ thống nhất định trong nền kinh tế quốc dân,
làm cho nền kinh tế trong nước gắn với nền kinh tế thế giới.
1.2. Cơ chế thị trường và nền kinh tế thị trường
1.2.1. Cơ chế thị trường
Cơ chế thị trường là hệ thống các quan hệ kinh tế mang đặc tính tự điều chỉnh các
cân đối của nền kinh tế theo yêu cầu của các quy luật kinh tế.
Dấu hiệu đặc trưng của cơ chế thị trường là cơ chế hình thành giá cả một cách tự do.
Người bán, người mua thông qua thị trường để xác định giá cả của hàng hóa, dịch vụ.
Cơ chế thị trường là phương thức cơ bản để phân phối và sử dụng các nguồn vốn,
tài nguyên, công nghệ, sức lao động, thơng tin, trí tuệ… Đây là một kiểu cơ chế vận hành
nền kinh tế mang tính khách quan, do bản thân nền sản xuất hàng hóa hình thành. Cơ chế

thị trường được A. Smith ví như là một bàn tay vơ hình có khả năng tự điều chỉnh các
quan hệ kinh tế.
1.2.2. Nền kinh tế thị trường
5


1.2.2.1. Định nghĩa
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là
nền kinh tế hàng hóa phát triển cao, ở đó mọi quan hệ sản xuất và trao đổi đều được
thông qua thị trường, chịu sự tác động, điều tiết của các quy luật thị trường.
1.2.2.2. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường đã phát triển qua nhiều giai đoạn với nhiều mơ hình khác nhau,
song chúng đều có những đặc trưng chung bao gồm:
Thứ nhất, kinh tế thị trường đòi hỏi sự đa dạng của các chủ thể kinh tế, nhiều hình
thức sở hữu. Các chủ thể kinh tế bình đẳng trước pháp luật. Sự đa dạng của các chủ thể
kinh tế như nhà nước, doanh nghiệp, tư nhân (cổ phần, một chủ, hỗn hợp), công cộng,
người bán, người mua, trung gian kinh tế tạo sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
Thứ hai, thị trường đóng vai trị quyết định trong việc phân bố các nguồn lực xã hội
thông qua hoạt động của các thị trường bộ phận như thị trường hàng hóa, thị trường dịch
vụ, thị trường sức lao động, thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường khoa
học cơng nghệ, …
Thứ ba, giá cả được hình thành theo nguyên tắc thị trường; cạnh tranh vừa là môi
trường, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường phát triển, thúc đẩy các chủ
thể cần phải phân bổ các nguồn lực một cách hiệu quả để có thể thu về lợi nhuận tối đa.
Thứ tư, động lực trực tiếp của các chủ thế sản xuất kinh doanh là lợi ích kinh tế - xã
hội.
Thứ năm, nhà nước là chủ thể thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các
quan hệ kinh tế, đồng thời nhà nước thực hiện khắc phục những khuyết tật của thị trường
thông qua luật và các chính sách kinh tế nhằm thúc đẩy những yếu tố tích cực, đảm bảo
sự bình đẳng xã hội và sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế.

Thứ sáu, kinh tế thị trường là nền kinh tế mở, thị trường trong nước gắn liền với thị
trường quốc tế, tăng cường trao đổi, giao lưu kinh tế giữa các vùng, miền; phát triển kinh
tế đối ngoại.
Các đặc trưng trên mang tính phổ biến của mọi nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên,
tùy theo điều kiện lịch sử cụ thể, tùy theo chế độ chính trị xã hội của mỗi quốc gia mà các
đặc trưng đó thể hiện khơng hồn tồn giống nhau, tạo nên tính đặc thù và các mơ hình
kinh tế thị trường khác nhau.
6


1.2.2.3. Ưu thế và hạn chế của nền kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường có nhiều ưu thế, tuy nhiên, nó cũng có những khuyết tật.
Những ưu thế và khuyết tật đó là:
*Ưu thế của nền kinh tế thị trường
Một là, nền kinh tế thị trường luôn tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự hình thành ý
tưởng mới của các chủ thể kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể ln có cơ hội để tìm ra động lực cho sự
sáng tạo của mình. Thơng qua vai trò của thị trường mà nền kinh tế thị trường trở thành
phương thức hữu hiệu kích thích sự sáng tạo trong hoạt động của các chủ thể kinh tế, tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ, quá đó, thúc đẩy tăng năng suất lao động,
tăng hiệu quả sản xuất, làm cho nền kinh tế hoạt động năng động, hiệu quả. Nền kinh tế
thị trường chấp nhận mọi ý tưởng sáng tạo mới trong thực hiện sản xuất kinh doanh và
quản lý. Nền kinh tế thị trường tạo môi trường rộng mở cho các mô hình kinh doanh mới
theo đà phát triển của xã hội.
Hai là, nền kinh tế thị trường luôn thực hiện phát huy tốt nhất tiềm năng của mọi
chủ thể, các vùng miền cũng như lợi thế quốc gia trong quan hệ với thế giới.
Trong nền kinh tế thị trường, mọi tiềm năng, lợi thế đều có thể được phát huy, đều
có thể trở thành lợi ích đóng góp cho xã hội. Thơng qua vai trị gắn kết của thị trường mà
nền kinh tế thị trường trở thành phương thức hiệu quả hơn hẳn so với nền kinh tế tự cấp
tự túc hay nền kinh tế kế hoạch hóa để phát huy tiềm năng, lợi thế của từng thành viên,

từng vùng miền trong quốc gia, của từng quốc gia trong quan hệ kinh tế với phần còn lại
của thế giới.
Ba là, nền kinh tế thị trường luôn tạo ra các phương thức để thảo mãn tối đa nhu
cầu của con người, từ đó thúc đẩy tiến bộ, văn minh xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, các thành viên trong xã hội ln có thể tìm thấy cơ hội
tối đa để thỏa mãn nhu cầu của mình. Nền kinh tế thị trường với sự tác động của các quy
luật thị trường luôn tạo ra sự phù hợp giữa khối lượng, cơ cấu sản xuất với khối lượng, cơ
cấu nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Nhờ đó, nhu cầu tiêu dùng về các loại hàng hóa, dịch
vụ khác nhau được đáp ứng kịp thời; người tiêu dùng được thỏa mãn nhu cầu cũng như
đáp ứng đầy đủ mọi chủng loại hàng hóa, dịch vụ. Thơng qua đó, nền kinh tế thị trường
trở thành phương thức để thúc đẩy văn minh, tiến bộ xã hội.
*Hạn chế của nền kinh tế thị trường
7


Bên cạnh những ưu thế, nền kinh tế thị trường cũng có những khuyết tật vốn có.
Những khuyết tật chủ yếu của kinh tế thị trường bao gồm:
Một là, xét trên phạm vi toàn bộ nền sản xuất xã hội, nền kinh tế thị trường luôn
tiềm ẩn những rủi ro khủng hoảng
Khủng hoảng có thể diễn ra cục bộ, có thể diễn ra trên phạm vi tổng thể. Sự khó
khăn đối với các nền kinh tế thị trường thể hiện ở chỗ, các quốc gia rất khó dự báo chính
xác thời điểm xảy ra khủng hoảng. Nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được
những rủi ro tiềm ẩn này do sự vận động tự phát của các quy luật kinh tế. Tính tự phát
này bên cạnh ý nghĩa tích cực, cịn gây ra các rủi ro tiềm ẩn dẫn đến khủng hoảng. Đây là
thách thức với nền kinh tế thị trường.
Hai là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được xu hướng cạn kiệt tài
nguyên không thể tái tạo, suy thối mơi trường tự nhiên, mơi trường xã hội.
Do phần lớn các chủ thể sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường luôn đặt
mục tiêu tìm kiếm lợi nhận tối đa nên ln tạo ra ảnh hưởng tiềm ẩn đối với nguồn lực tài
nguyên, suy thối mơi trường. Cũng vì động cơ lợi nhuận, các chủ thể sản xuất kinh

doanh có thể vi phạm cả nguyên tắc đạo đức để chạy theo mục tiêu làm giàu thậm chí phi
pháp, góp phần gây ra sự xói mịn đạo đức kinh doanh, thậm chí cả đạo dức xã hội. Đây
là những mặt trái mang tính khuyết tật của bản thân nền kinh tế thị trường. Cũng vì mục
tiêu lợi nhuận, các chủ thể hoạt động sản xuất kinh doanh có thể khơng tham gia vào các
lĩnh vực thiết yếu cho nền kinh tế nhưng có lợi nhuận kỳ vọng thấp, rủi ro cao, quy mô
đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn dài. Tự nền kinh tế thị trường không thể khắc phục được
các khuyết tật này.
Ba là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được hiện tượng phân hóa sâu sắc
trong xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, hiện tượng phân hóa xã hội về thu nhập, về cơ hội là
tất yếu. Bản thân nền kinh tế thị trường không thể tự khắc phục được khía cạnh phân hóa
có xu hướng sâu sắc. Các quy luật thị trường ln phân bổ lợi ích theo mức độ và loại
hình thức hoạt động tham gia thị trường, cộng với tác động của cạnh tranh mà dẫn đến sự
phân hóa như một tất yếu. Đây là khuyết tật của nền kinh tế thị trường cần phải có sự bổ
sung và điều tiết bởi vai trị của nhà nước.
Do những khuyết tật của nền kinh tế thị trường nên trong thực tế không tồn tại một
nền kinh tế thị trường thuần túy, mà thường có sự can thiệp của nhà nước để sửa chữa

8


những thất bại của cơ chế thị trường. Khi đó, nền kinh tế được gọi kinh tế thị trường có
sự điều tiết của nhà nước hay nền kinh tế hỗn hợp.

2. Vai trò của một số chủ thể tham gia thị trường
2.1. Người sản xuất
2.1.1. Khái niệm
Người sản xuất hàng hóa là những người sản xuất và cung cấp hàng hóa, dịch vụ ra
thị trường nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Người sản xuất bao gồm các nhà
sản xuất, đầu tư, kinh doanh hàng hóa dịch vụ… Họ là những người trực tiếp tạo ra của

cải vật chất, sản phẩm cho xã hội để phục vụ tiêu dùng.
2.1.2. Vai trò của người sản xuất trong thị trường
 Người sản xuất là những người sử dụng các yếu tố đầu vào để sản xuất kinh doanh
và thu lợi nhuận.
 Nhiệm vụ của họ không chỉ làm thỏa mãn nhu cầu hiện tại của xã hội, mà còn tạo
ra và phục vụ cho những nhu cầu trong tương lai với mục tiêu đạt lợi nhuận tối đa
trong điều kiện nguồn lực có hạn
 Người sản xuất ln phải quan tâm đến việc lựa chọn sản xuất hàng hóa nào, số
lượng bao nhiêu, sản xuất với các yếu tố nào sao cho có lợi nhất.
 Ngồi mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận, người sản xuất cần phải có trách nhiệm đối
với con người, trách nhiệm cung cấp những hàng hóa dịch vụ khơng làm tổn hại
tới sức khỏe và lợi ích của con người trong xã hội.
2.1.3. Các biện pháp, chính sách của người sản xuất nhằm đẩy mạnh hoạt động tiêu
thụ sản phẩm trong thị trường
2.1.3.1. Nghiên cứu thị trường
Nghiên cứu thị trường là quá trình điều tra, thu thập, xử lý và phân tích các thơng
tin thị trường nhằm phục vụ cơng tác sản xuất. Mục đích của nghiên cứu thị trường là
phục vụ việc ra quyết định kinh doanh. Tuỳ thuộc vào kết quả nghiên cứu, quyết định
kinh doanh có thể là:
- Giữ vững ở mức độ duy trì sản lượng sản xuất tiêu thụ.
- Tăng cường sản xuất tiêu thụ.
- Thâm nhập vào thị trường mới.
- Rời bỏ thị trường hay thay đổi sản phẩm.
2.1.3.2. Xây dựng và triển khai có hiệu quả chiến lược sản phẩm
9


Chiến lược sản phẩm là hệ thống các mục tiêu và biện pháp phát triển sản phẩm,
làm cho sản phẩm ln thích ứng với thị trường. Các mục tiêu về sản phẩm phải bao hàm
cả về mặt chất và mặt lượng.

Mục tiêu và biện pháp phát triển sản phẩm phải đề cập đến 3 nội dung chủ yếu sau:
- Nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Đa dạng hoá chủng loại sản phẩm.
- Phát triển sản phẩm mới.
*Nâng cao chất lượng sản phẩm
Khi chất lượng sản phẩm phù hợp với nhu cầu tiêu dùng, sản phẩm sẽ được chấp
nhận. Nhờ đó doanh nghiệp tăng khả năng chiến thắng trong cạnh tranh, góp phần mở
rộng thị ttrường.
Chất lượng là sự sống cịn cho doanh nghiệp, do đó doanh nghiệp cần chủ động đưa
ra các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm. Các biện pháp đó là:
- Đảm bảo cung ứng nguyên, vật liệu đúng quy cách, chủng loại, số lượng và chất
lượng.
- Không ngừng áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật, đổi mới cơng nghệ, đảm
bảo máy móc hoạt động ổn định và chính xác.
- Đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật, lao động có tay nghề cao, đồng thời với việc sử
dụng địn bẩy kinh tế, khích lệ vật chất đối với người lao động.
- Tăng cường tổ chức hoàn thiện bộ máy quản lý.
- Đầu tư hệ thống kho tàng, bến bãi đảm bảo duy trì chất lượng sản phẩm theo đúng
quy trình kỹ thuật.
*Đa dạng hoá sản phẩm
Đa dạng hoá chủng loại sản phẩm để tránh rủi ro là đòi hỏi khách quan của kinh
doanh trong cơ chế thị trường. Đa dạng hoá sản phẩm có thể thực hiện theo hai hướng:
- Phát triển đa dạng mặt hàng kinh doanh trên cơ sở một mặt hàng chủ lực hoặc phát
triển đa dạng chủng loại sản phẩm trên cơ sở sản phẩm xương sống.
- Hình thức thứ hai thực chất là việc cải tiến, thay đổi mẫu mã sản phẩm trên cơ sở
một sản phẩm gốc nhằm khai thác ở các đoạn thị trường khác nhau.
Để tiến hành đa dạng hoá sản phẩm, doanh nghiệp cần phải thực hiện nhiều các biện
pháp nghiên cứu thị trường, các biện pháp khuyến khích người lao động có sáng kiến cải
tiến kỹ thuật…
*Phát triển sản phẩm mới

10


- Theo quan niệm marketing vể sản phẩm mới, đó có thể là những sản phẩm mới về
nguyên tắc, sản phẩm mới cải tiến từ các sản phẩm hiện có hoặc những nhãn do kết quả
nghiên cứu, thiết kế, thử nghiệm của công ty.
- Thiết kế sản phẩm mới là cần thiết cho doanh nghiệp, sản phẩm mới có thể đạt
được một sự tiến bộ đáng kể về kỹ thuật song chưa hẳn đã đạt được một sự tiến bộ về mặt
kinh tế. Chẳng hạn như thời kỳ nghiên cứu thiết kế, chế thử sản phẩm quá dài, chí phí quá
cao hoặc khi sử dụng phải có điều kiện bổ sung bắt buộc gây tốn kém.
- Vì vậy sản phẩm mới phải nhất quán về phương diện: tiến bộ về mặt kỹ thuật và
tiến bộ về mặt kinh tế.
2.1.3.3. Chính sách giá cả sản phẩm của doanh nghiệp
Chính sách giá đối với mỗi sản phẩm của các đơn vị sản xuất kinh doanh là việc
quy định mức giá bán. Mức giá có thể là giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng hoặc là
cho các chủ thể trung gian.
Tuỳ theo khả năng của doanh nghiệp mà có cách xác định giá khác nhau như một
số cách sau:
- Định giá thấp: cho phép doanh nghiệp thâm nhập và mở rộng thị trường nhanh
chóng, sản lượng tiêu thụ lớn.
- Định giá cao: kết quả có khi ngược với định giá thấp và thường áp dụng khi sản
phẩm có tính ưu việt hơn hẳn so với sản phẩm khác.
- Giá dẫn và tuân theo: khi doanh nghiệp kiểm soát được phần lớn thị trường, họ có
thể ở vị trí dẫn giá, có khả năng áp đặt giá. Cịn khi doanh nghiệp có thị trường nhỏ bé,
yếu thế trong cạnh tranh thì phải tuân theo giá của doanh nghiệp khác.
- Giá phân biệt: là định giá khác nhau cho từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Có thể
phân biệt theo khu vực địa lý, theo mùa vụ, theo đoạn thị trường…
- Giá linh hoạt: doanh nghiệp điều chỉnh giá theo biến động của thị trường phù hợp
với mục tiêu của doanh nghiệp.
Như vậy, tuỳ theo mỗi doanh nghiệp mà có các chính sách giá khác nhau, với từng

mức giá doanh nghiệp phải xác định được lợi nhuận mà mặt hàng đó đem lại và làm sao
cho khách hàng thấy được phần lợi ích của mình khi mua mặt hàng đó.
2.1.3.4. Chính sách phân phối tiêu thụ hàng hố
Có thể hiểu phân phối là những quyết định đưa hàng hoá vào các kênh phân phối,
một hệ thống tổ chức và cơng nghệ điều hồ, cân đối, thực hiện hàng hóa để tiếp cận và
khai thác hợp lý nhất nhu cầu của thị trường, để đưa hàng hoá từ nơi sản xuất đến các
khách hàng cuối cùng và đưa một cách nhanh nhất và đạt lợi nhuận cao.
Hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp thực chất là hoạt động bán hàng cho người
tiêu dùng hoặc thông qua các tổ chức trung gian tiêu thụ. Trong cơ chế thị trường có các
hình thức trung gian sau:
11


- Người bán bn: là những trung gian hàng hố và dịch vụ cho các trung gian khác,
cho người bán lẻ hoặc cho nhà sử dụng công nghiệp khác.
- Người bán lẻ: là những người trung gian bán hàng hoá trực tiếp cho người tiêu
dùng cuối cùng.
- Đại lý và mơi giới: là những nhà trung gian có quyền hành động hợp pháp thay
mặt cho nhà sản xuất.
2.1.3.5. Công tác hỗ trợ và xúc tiến bán hàng
Hoạt động này trong nền kinh tế thị trường đã trở thành một phương tiện thông tin
đại chúng cần thiết, bảo vệ sự gắn bó chặt chẽ giữa sản xuất và tiêu dùng. Cơng tác xúc
tiến bán hàng bao gồm nhiều hoạt động như: quảng cáo, xúc tiến bán, tuyên truyền, bán
hàng cá nhân.
Ngoài ra các doanh nghiệp cịn có các hình thức hỗ trợ khác như hỗ trợ về phương
tiện vận chuyển cho khách, hỗ trợ về phương thức thanh toán (thanh toán ngay, thanh
tốn chậm, bán trả góp....) để khơng ngừng đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm cho
doanh nghiệp.
2.1.4. Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
2.1.4.1. Thị phần của doanh nghiệp.

Khái niệm: Thị phần của doanh nghiệp là tỷ lệ thị trường mà doanh nghiệp chiếm
lĩnh, đây là chỉ tiêu tổng quát nói lên sức mạnh của doanh nghiệp trên thị trường.
- Thị phần tuyệt đối: tỷ trọng phần doanh thu của doanh nghiệp so với toàn bộ sản
phẩm cùng loại được tiêu thụ trên thị trường.
- Thị phần tương đối: xác định trên cơ sở thị phần tuyệt đối của doanh nghiệp so với
thị phần tuyệt đối của đối thủ cạnh tranh mạnh nhất.
2.1.4.2. Thị trường tiêu thụ của doanh nghiệp.
Thông qua sản lượng tiêu thụ để đánh giá xem kết quả tiêu thụ trên các thị trường
của doanh nghiệp đã được mở rộng hay thu hẹp. Việc mở rộng thị trường doanh nghiệp
có thể thực hiện là mở rộng thị trường theo chiều rộng hoặc theo chiều sâu:
- Mở rộng thị trường theo chiều rộng: doanh nghiệp thực hiện xâm nhập vào thị
trường mới, thị trường nước ngoài, thị trường của đối thủ cạnh tranh.
- Mở rộng thị trường theo chiều sâu: doanh nghiệp tiến hành khai thác tốt hơn trên
thị trường hiện có bằng cách cải tiến hệ thống phân phối, thực hiện các chính sách sản
phẩm, giá cả, dịch vụ sau bán hàng…
2.2. Người tiêu dùng
2.2.1. Khái niệm
12


Người tiêu dùng là những người mua hàng hóa, dịch vụ trên thị trường để thỏa mãn
nhu cầu tiêu dùng. Sức mua của người tiêu dùng là yếu tố quyết định sự thành bại của
người sản xuất.
2.2.2. Vai trò của người tiêu dùng trong thị trường
 Sự phát triển đa dạng của người tiêu dùng là động lực quan trọng của sự phát
triển sản xuất, ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất.
 Người tiêu dùng, cùng với các doanh nghiệp, là động lực của nền kinh tế.
Khi họ chi tiêu, các doanh nghiệp gặt hái lợi nhuận và người tiêu dùng có
được một sản phẩm hoặc dịch vụ chất lượng theo một cách nào đó sẽ nâng
cao cuộc sống của họ. Người tiêu dùng đóng một vai trị quan trọng trong xã

hội từ các phương pháp họ sử dụng để nghiên cứu và xem xét các sản phẩm
cho đến quyết định của họ về việc sử dụng nhãn hiệu nào và nơi để mua
hàng.
 Người khởi xướng
Người tiêu dùng xác định các sản phẩm và dịch vụ họ cần, cho dù họ đang mua sắm
cho bản thân, bạn bè, thành viên gia đình hoặc khách hàng doanh nghiệp. Các phương
tiện truyền thông giúp thuyết phục, thông báo và nhắc nhở họ về các sản phẩm và dịch vụ
có sẵn để tiêu thụ. Khi người tiêu dùng quan tâm đến sản phẩm hoặc dịch vụ, bất kể tên
thương hiệu được liên kết với nó, anh ta bắt đầu thu thập thơng tin để xác định xem việc
mua hàng có phải là một quyết định mua hàng hợp lý hay không.
 Người gây ảnh hưởng
Người tiêu dùng chắc chắn tìm đến gia đình, bạn bè và đồng nghiệp để biết ý kiến
khi họ mua hàng. Một lời giới thiệu cho một doanh nghiệp hoặc một trải nghiệm cá nhân
với một sản phẩm có trọng lượng hơn với người tiêu dùng, hơn là một quảng cáo hoặc
quảng cáo in dàn nhạc tốt. Trên thực tế, Business Wire báo cáo rằng phụ nữ thường tìm
đến blog và mạng xã hội để nghiên cứu sản phẩm trước khi họ đưa ra quyết định mua.
Các công ty cung cấp cho khách hàng cơ hội để xem xét các dịch vụ và sản phẩm của họ
trực tuyến và người tiêu dùng sử dụng thông tin này để đánh giá chất lượng, dịch vụ, tính
năng, lợi ích và giá cả.
 Người quyết định
Trẻ em, ví dụ, có thể bắt đầu ý tưởng mua hàng bằng cách đề cập đến một loại ngũ
cốc mới cho cha mẹ. Phụ huynh quyết định có mua hay khơng sau khi nghiên cứu ngũ
cốc để xác định giá của nó, tính sẵn có của nó và mức độ lành mạnh của nó. Người tiêu
dùng đảm nhận vai trị của người quyết định có thẩm quyền tài chính để quyết định xem
hàng hóa hay dịch vụ có thể được mua hay khơng.
 Người mua

Người tiêu dùng mua sản phẩm và dịch vụ bằng tiền của họ, tiền của người phối
ngẫu hoặc bằng cách sử dụng thẻ tín dụng của cơng ty. Cho dù họ trực tiếp đến cửa hàng,
13



mua hàng trực tuyến hoặc đặt hàng qua điện thoại, người mua sẽ thanh tốn và nhận hàng
hóa hoặc dịch vụ trao đổi.
 Người dùng
Người tiêu dùng thường sử dụng các sản phẩm họ mua, trừ khi họ mua cho một
thành viên trong gia đình, bạn bè hoặc đồng nghiệp. Bất kể ai thực hiện mua hàng, người
dùng là người cuối cùng tiêu thụ hàng hóa hoặc dịch vụ mà người mua đã mua.
2.3. Các chủ thể trung gian trong thị trường
Do sự phát triển của sản xuất và trao đổi dưới tác động của phân công lao động xã
hội, làm cho sự tách biệt tương đối giữa sản xuất và trao đổi ngày càng sâu sắc. Trên cơ
sở đó xuất hiện những chủ thể trung gian trong thị trường. Những chủ thể này có vai trị
ngày càng quan trọng để kết nối, thông tin trong các quan hệ mua, bán.
2.3.1. Khái niệm
Có thể hiểu chủ thể tham gia thị trường gồm có người mua, người bán, người mơi
giới và chủ thể quản lý nhà nước đối với thị trường. Trong đó bên mơi giới thực hiện là
bên trung gian, bên trung gian này thực hiện các dịch vụ nhằm tạo điều kiện để bên có
nhu cầu bán hàng, cung ứng dịch vụ thiết lập quan hệ với bên có nhu cầu mua hàng, sử
dụng dịch vụ hoặc thông qua bên này mà hàng hoá, dịch vụ sẽ đến được với bên thứ ba.
2.3.2. Vai trò của các chủ thể tham gia thị trường
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, các chủ thể trung gian trong thị
trường này khơng phải chỉ có các trung gian thương nhân mà còn rất nhiều các chủ thể
trung gian phong phú trên tất cả các quan hệ kinh tế như: trung gian mơi giới chứng
khốn, trung gian mơi giới nhà đất,.... Vai trị của những người mơi giới này thường thực
hiện là tư vấn, định hướng và làm trung gian trong giao dịch giữa người mua và người
bán, đặc biệt là các loại thị trường có tổ chức cao như thị trường chứng khoán, thị trường
tiền tệ, thị trường bất động sản…
Trong các hoạt động giao dịch, mua bán trên các thị trường thì bên trung gian có
vai trị làm cầu nối giữa bên thuê dịch vụ và bên thứ ba. Do đó, các chủ thể trung gian
này là yếu tố quan trọng, họ giúp phát triển những sản phẩm và dịch vụ cho nền kinh tế

và cũng làm phong phú thêm môi trường kinh doanh như:
Trung gian môi giới trong thị trường chứng khoán
Các trung gian này sẽ thực hiện vai trò trung gian giữa người mua và người bán, có
thể nắm bắt nhu cầu của khách hàng và phản ánh với người cung cấp hàng hóa, dịch vụ
những thiết kế sản phẩm theo yêu cầu của khách hàng. Kết quả là sẽ thu hút ngày càng
nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội cho đầu tư và phát triển. Tiếp theo, nhờ có trung
gian mơi giới mà các cơng ty tài chính có thể tiết kiệm được chi phí giao dịch.
Trung gian môi giới bất động sản
14


Với tư cách là bên trung gian cho hai bên thực hiện các giao dịch liên quan đến bất
động sản thì mơi giới bất động sản chính là cầu nối giữa người mua và người bán. Người
bán không phải bao giờ cũng tìm ngay được khách hàng và người mua cũng khơng tự
mình tìm mua được ngay bất động sản mà mình ưng ý nên phải cần đến những người
trung gian môi giới. Sự hiện diện của các tổ chức, cá nhân môi giới bất động sản trung
gian sẽ tiết kiệm được chi phí tìm kiếm đối tác. Sự vận động và phát triển của thị trường
bất động sản cũng đồng thời là kết quả của sự tác động hỗ trợ nhau giữa các yếu tố cung
và cầu, giữa sản xuất và tiêu dùng. Do đó, mơi giới trung gian góp phần làm ổn định thị
trường bất động sản.
Các trung gian trong thị trường không những hoạt động trên phạm vi thị trường
trong nước mà còn phát triển trên phạm vi quốc tế. Bên cạnh những loại hình trung gian
mang lại sự phát triển cho nền kinh tế thị trường thì cũng có nhiều loại hình trung gian
gây ảnh hưởng đến thị trường cần loại trừ như lừa đảo, môi giới bất hợp pháp…
Nhờ vai trò của các trung gian này mà nền kinh tế thị trường trở nên sống động, linh
hoạt hơn. Hoạt động của các trung gian trong thị trường làm tăng cơ hội thực hiện giá trị
của hàng hóa cũng như thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Các chủ thể trung gian
làm tăng sự kết nối giữa sản xuất và tiêu dùng, làm chúng trở nên ăn khớp với nhau và
giao lưu giữa các vùng, các khu vực và giữa khác nước được đẩy mạnh.
2.4. Nhà nước

Trong nền kinh tế thị trường, xét về vai trò kinh tế, nhà nước thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về kinh tế đồng thời thực hiện những biện pháp khắc phục những
khuyết tật của thị trường.
2.4.1. Khái niệm
Chủ thể nhà nước đối với thị trường là các cơ quan được nhà nước giao nhiệm vụ
giám sát, quản lý thị trường, đảm bảo cho hoạt động giao dịch đúng theo nội dung quy
định của pháp luật đối với đối tượng giao dịch đó, chẳng hạn như trong thị trường chứng
khốn thì Uỷ ban chứng khốn là cơ quan quản lý nhà nước đối với thị trường này, trong
thị trường vốn tín dụng thì Ngân hàng nhà nước là cơ quan quản lý nhà nước đối với thị
trường ấy.
2.4.2. Vai trị của chủ thể nhà nước
Thị trường có những khuyết tật và cơ chế thị trường có thể bị thất bại trong việc giải
quyết một số vấn đề phát triển, ví dụ như khủng hoảng, đói nghèo, cơng bằng xã hội, môi
trường,... Để khắc phục chúng và tránh khỏi thất bại thị trường, nhà nước phải tham gia
quản lý, điều tiết sự vận hành nền kinh tế. Nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế
thị trường vừa với tư cách là bộ máy quản lý xã hội, vừa là một yếu tố nội tại của cơ chế
vận hành kinh tế. Nhà nước cần khắc phục các khuyết tật của nền kinh tế thị trường, làm
cho nền kinh tế thị trường hoạt động hiệu quả hơn. Để khắc phục điều đó nhà nước phải
giải quyết các nhiệm vụ sau:

15


- Cung cấp khung khổ pháp lý rõ ràng, nghiêm minh, có hiệu lực và phù hợp với địi
hỏi của cơ chế thị trường.
- Kiến tạo và bảo đảm môi trường vĩ mơ ổn định, có tính khuyến khích kinh doanh.
- Cung cấp kết cấu hạ tầng (hạ tầng - giao thông vận tải, cung cấp điện nước, dịch
vụ thông tin, bưu chính - viễn thơng, tài chính...) cũng như các dịch vụ và hàng hố cơng
cộng (chăm sóc sức khỏe, giáo dục - đào tạo, bảo vệ môi trường...).
- Hỗ trợ nhóm người nghèo các điều kiện tối thiểu để họ cũng có thể tham gia thị

trường bình đẳng.
Với trách nhiệm như vậy, nhà nước cần thực hiện quản trị phát triển nền kinh tế
thông qua việc tạo lập môi trường kinh tế tốt nhất cho các chủ thể kinh tế phát huy sức
mạnh sáng tạo của họ. Trong xu thế tồn cầu hóa hiện nay, sự giao lưu kinh tế, hội nhập
kinh tế quốc tế của các quốc gia chỉ có hiệu quả cao khi có sự tác động hỗ trợ và khuyến
khích từ phía nhà nước. Nhà nước ta cũng đã góp phần tạo cho chủ thể kinh tế của đất
nước có một vị trí lợi thế trong quan hệ kinh tế quốc tế.
Ngoài tạo điều kiện cho các chủ thể kinh tế, nhà nước vẫn còn tạo một số rào cản
với hoạt động sản xuất kinh tế. Việc tạo ra các rào cản đối với hoạt động kinh doanh từ
phía nhà nước sẽ làm kìm hãm sức sáng tạo của các chủ thể sản xuất kinh doanh. Các rào
cản như vậy phải được loại bỏ. Việc này địi hỏi mỗi cá nhân có trách nhiệm trong bộ
máy quản lý nhà nước cần phải nhận thức được trách nhiệm của mình là thúc đẩy và phát
triển, khơng gây cản trở sự phát triển của nền kinh tế thị trường.
Tóm lại, trong nền kinh tế thị trường, mọi quan hệ sản xuất và trao đổi mua bán, các
hoạt động của các chủ thể đều chịu sự tác động của các quy luật kinh tế khách quan của
thị trường, đồng thời chịu sự điều tiết, can thiệp của nhà nước qua việc thực hiện hệ
thống pháp luật và các chính sách kinh tế.

CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM
1. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1.1. Khái niệm và đặc điểm
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin, tham khảo kinh nghiệm của các
quốc gia trên thế giới và từ thực tiễn Việt Nam, Đảng ta đã đề ra đường lối phát triển kinh
tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Đây là bước phát triển về tư duy lý luận, một
sự vận dụng độc lập, sáng tạo của Đảng ta trong quá trình đổi mới trên con đường đi lên
xã hội chủ nghĩa nhờ những chỉ dẫn của Lênin trong chính sách kinh tế mới.
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một trong những
nội dung quan trọng hàng đầu trong đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước ta gần 35
năm qua. Đến nay, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nước ta xây
dựng được xác định là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ,

16


đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời có sự quản lý của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, bảo đảm định hướng
xã hội chủ nghĩa phù hợp với trình độ phát triển đất nước trong từng giai đoạn, hướng tới
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”.
Đó là nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Trong Đại
hội lần thứ X của Đảng – 2006, 5 thành phần kinh tế đã được xác lập bao gồm: kinh tế
nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu
tư nước ngồi; trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các quyền sở hữu, quyền
tài sản, quyền tự do kinh doanh, tự do lưu thông được pháp luật bảo vệ. Doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế đều hoạt động theo cơ chế thị trường, hợp tác và cạnh tranh
bình đẳng theo pháp luật. Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước. Nhà nước quản lý kinh tế bằng luật pháp, chính sách, các tiêu chuẩn, định
mức, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và sử dụng lực lượng kinh tế của mình (gồm các
nguồn lực thuộc sở hữu nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước) để tạo khung khổ pháp
luật, môi trường công khai, minh bạch, thuận lợi cho các chủ thể kinh tế, các thị trường
hoạt động, cho sản xuất và lưu thông; khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường;
đồng thời, thúc đẩy và định hướng phát triển kinh tế, gắn kết phát triển kinh tế với phát
triển văn hóa, xã hội, bảo vệ mơi trường xã hội. Định hướng xã hội chủ nghĩa của nền
kinh tế thị trường được bảo đảm bởi vai trò quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, được thể hiện ở hệ thống luật pháp, chính sách, các
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch để tạo ra môi trường kinh doanh công khai, minh bạch,
thuận lợi, tạo động lực phát triển kinh tế nhanh, bền vững; gắn kết phát triển kinh tế với
phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội phù hợp với trình độ phát triển
kinh tế; thể hiện ở quan hệ phân phối để mọi người đều được hưởng thành quả phát triển
đất nước, hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Đến nay, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta đã có
đầy đủ các yếu tố của nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế theo thông lệ quốc

tế, đồng thời các yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được củng cố, tăng
cường; kinh tế đất nước đạt tốc độ tăng trưởng cao trong một thời gian dài, cơ cấu và
trình độ cơng nghệ thay đổi tích cực theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất
nước thốt khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển trở thành nước đang phát triển có
thu nhập trung bình thấp, đời sống nhân dân dần được cải thiện, uy tín quốc tế của đất
nước dần được khẳng định. Trong điều kiện đó, các quy luật của kinh tế thị trường đã vận
hành đồng bộ: các doanh nghiệp đã phải nỗ lực cạnh tranh để tồn tại và phát triển; giá cả
hàng hóa đã cơ bản do thị trường quyết định; sản xuất và lưu thông đã phải chú ý đến
những tín hiệu giá cả, cung - cầu trên thị trường; thị trường đã đóng vai trị trực tiếp điều
17


tiết sản xuất và lưu thông, điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, huy động và phân bổ các
nguồn lực của sản xuất… Các yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh
tế thị trường gắn liền với vai trò quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo để hạn chế, khắc phục những tác động tiêu cực của cơ
chế thị trường, để giữ vững các cân đối lớn của nền kinh tế, ổn định xã hội, gắn kết phát
triển kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội, bảo vệ mơi
trường.
Ví dụ: Tác động của quy luật kinh tế thị trường đến phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ở nước ta hiện nay:
a. Tác động của quy luật giá trị
Căn cứ vào yêu cầu của quy luật giá trị, trên thị trường sức lao động, nếu ai cung
cấp được chất lượng lao động tốt hơn, phù hợp với yêu cầu của các nhà tuyển dụng sẽ có
thu nhập cao. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, nếu xét một cách tổng thể thì sự ổn
định việc làm chỉ mang tính tương đối. Mặc dù người lao động có nhiều cơ hội lựa chọn
việc làm theo khả năng của mình song họ cũng phải đối mặt với nhiều thách thức, thậm
chí thất nghiệp. Để sức lao động của mình được trả giá cao, trở thành nhân sự khó có thể
thay thế, người lao động cần được đào tạo có trình độ chun mơn tay nghề giỏi, có sức
khoẻ, ngoại ngữ và tác phong làm việc công nghiệp. Q trình đào tạo đó phải tính đến

hiệu quả kinh tế, đào tạo để rèn luyện kĩ năng làm việc chứ khơng phải vì bằng cấp. Đối
với các cơ sở đào tạo, nếu chất lượng đào tạo tốt, giá cả thấp hơn sẽ thu được số lượng
khách hàng (người học và người sử dụng sản phẩm được đào tạo) nhiều hơn. Vì vậy, quy
luật giá trị đặt ra yêu cầu tiên quyết là vấn đề chất lượng lao động. Trong điều kiện khoa
học công nghệ phát triển mạnh mẽ, kinh tế tri thức được coi là chìa khóa cho sự phát triển
thì ai có khả năng cung cấp chất lượng lao động tốt dựa trên hao phí đào tạo thấp sẽ giành
được lợi thế để phát triển và ngược lại. Điều đó được thể hiện ở năng suất, sản phẩm cận
biên của lao động cũng như sự thích ứng của con người sau khi được đào tạo trước đòi
hỏi của kinh tế thị trường. Song trên thực tế yêu cầu này vẫn đang là vấn đề nan giải khi
đến nay ở nước ta lao động đã qua đào tạo theo các loại hình và trình độ khác nhau mới
đạt khoảng trên 31,5%. Năng suất lao động của nước ta đạt thấp khi chỉ đứng thứ 77/125
nước và vùng lãnh thổ, sau cả Indonesia, Philipine và Thái Lan. Hệ thống các trường đại
học, cao đẳng tham gia đào tạo NNLCLC chưa đáp ứng được đòi hỏi của thị trường lao
động trong và ngồi nước. Theo Viện Quản lí nhà nước dân chủ và đổi mới (ASH) của
Trường công Kennedy thuộc Đại học Harvard thì Việt Nam khơng có trường đại học nào
được ghi nhận trên bất kì bảng xếp hạng quen thuộc các đại học hàng đầu châu Á. Vì vậy,
quy luật giá trị đòi hỏi để phát triển NNLCLC, Việt Nam cần cải cách để nâng cao chất
lượng giáo dục đào tạo, thực hiện chủ trương nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
18


dưỡng nhân tài. Đào tạo phải đạt hiệu quả kinh tế, đáp ứng được nhu cầu của xã hội, của
thị trường và doanh nghiệp. Cũng theo ASH thì qua các cuộc khảo sát cho thấy có tới
50% sinh viên Việt Nam tốt nghiệp đại học đã khơng thể tìm được việc làm phù hợp với
chuyên môn của họ. Điều này chứng tỏ có một khoảng cách rất lớn giữa giảng đường và
thị trường sức lao động cũng như có sự lãng phí ghê gớm trong giáo dục và đào tạo nhân
lực ở nước ta.
b. Tác động của quy luật cạnh tranh
Hiện nay, ở nước ta sức lao động được thừa nhận là một loại hàng hố và tất nhiên
nó cũng bị chi phối theo quy luật thị trường. Người làm giỏi được lương cao, người làm

dở chịu lương thấp và có nguy cơ bị sa thải. Sự cạnh tranh trong việc chào bán sức lao
động là một yếu tố thúc đẩy từng cá nhân và toàn xã hội nỗ lực làm việc, tự đào tạo nâng
cao chất lượng lao động của mình. Nhiều chuyên gia trên các lĩnh vực đều thống nhất
quan điểm: nếu muốn tồn tại và phát triển trong một "thế giới phẳng" nhưng cạnh tranh
khốc liệt hiện nay thì vượt lên trên lợi thế về tài nguyên, vị trí địa lí chính là yếu tố chất
lượng nguồn nhân lực và việc sử dụng nó hiệu quả nhất. Thực tế cho thấy, khi kinh tế
tăng trưởng thì cạnh tranh trên thị trường sức lao động biểu hiện rõ nhất ở vị trí, địa bàn
làm việc và thu nhập của các chủ thể tham gia. Nhưng khi kinh tế suy thối, khủng hoảng
thì vấn đề cạnh tranh để khơng bị sa thải là điều người lao động quan tâm nhất. Hiện nay
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế nước ta còn thấp, chủ yếu là do
sức cạnh tranh của lực lượng lao động chưa cao. Lao động giá rẻ chỉ là một lợi thế nhất
định trong một thời gian cụ thể, chúng ta phải hướng tới lao động có kỹ thuật cao nhưng
giá rẻ hơn lao động cùng loại ở các nước khác. Trong bối cảnh hội nhập, lực lượng lao
động trình độ cao của nước ta không chỉ cạnh tranh khi tiến hành xuất khẩu lao động mà
cịn có sự cạnh tranh gay gắt với lao động nước ngoài ngay trên thị trường trong nước.
Theo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, hiện cả nước có hơn 75.000 lao động nước
ngồi đang làm việc ở nhiều trình độ khác nhau. Khơng ít doanh nghiệp cho biết họ phải
sử dụng lao động nước ngồi vì nhiều vị trí khơng thể tìm được lao động Việt Nam thích
hợp. Theo đánh giá mới của Ngân hàng thế giới (WB), chất lượng nguồn nhân lực hiện
nay của Việt Nam mới chỉ đạt 3,19 điểm (thang điểm 10), xếp thứ 11 trong số 12 nước
châu Á tham gia xếp hạng. Một nghiên cứu khác cho thấy lao động Việt Nam chỉ đạt
32/100 điểm. Trong khi đó những nền kinh tế có chất lượng lao động dưới 35 điểm đều
có nguy cơ mất sức cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Ở một số lĩnh vực như: ngân
hàng, y tế, v.v... có tới 40% tổng số lao động có thu nhập từ 14.000 USD/năm trở lên
thuộc người nước ngoài. Năm 2009, Tập đoàn Intel tại TP. Hồ Chí Minh tiến hành một
cuộc thi tuyển với 2000 sinh viên ngành cơng nghệ thơng tin thì chỉ 90 ứng viên (5%) đạt
tiêu chuẩn. Và trong nhóm này chỉ có 40 người vừa hội đủ trình độ ngoại ngữ và đáp ứng
19



kĩ năng, yêu cầu làm việc.
Đối với các cơ sở đào tạo NNL, muốn đứng vững trong cạnh tranh phải để thị
trường đánh giá chất lượng đào tạo. Các nhà trường cần chuyển đổi theo tư duy đào tạo
theo nhu cầu xã hội, tức là dạy những cái người học và doanh nghiệp đang cần chứ khơng
chỉ dạy những gì mà mình có. Tác động của quy luật cạnh tranh trên thị trường sức lao
động là “mệnh lệnh” để mỗi người, mỗi cơ sở đào tạo không ngừng đổi mới và phát triển
theo yêu cầu của thực tiễn. Ở nước ta thời gian gần đây đang xúc tiến việc xây dựng
trường đại học đẳng cấp quốc tế, đây là một chủ trương rất đúng đắn. Tuy nhiên, bên
cạnh đó chúng ta cũng cần triển khai xây dựng trường cao đẳng nghề đạt trình độ quốc tế.
Bởi lẽ, các trường này là một kênh cung cấp lực lượng lao động kỹ thuật cao trên thị
trường trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, cần xây dựng chiến lược cạnh tranh về nhân
lực quốc gia với những tiêu chí cụ thể theo từng lĩnh vực, lấy NNLCLC là lực lượng
nòng cốt, trên cơ sở đó xây dựng được thương hiệu về chất lượng lao động Việt Nam trên
thị trường lao động khu vực và thế giới.
c. Tác động của quy luật cung - cầu
Quan hệ cung - cầu trên thị trường sức lao động là một cân bằng động, vì vậy trong
ngắn hạn và dài hạn nó có thể đạt các trạng thái khác nhau nhưng đối với lao động trình
độ cao vẫn luôn trong trạng thái cung không đủ cầu. Ở nước ta vẫn đang xảy ra tình trạng
các doanh nghiệp rất cần tuyển dụng lao động trình độ cao. Căn nguyên của tình trạng
này chính là sự phát triển của nền kinh tế tri thức, một nền kinh tế đòi hỏi rất cao tỷ trọng
của hàm lượng chất xám kết tinh trong hàng hố. Hiện nay, Việt Nam mới chỉ có thể đáp
ứng được 35 đến 40% nhu cầu nhân sự bậc cao của các doanh nghiệp. Khơng ít doanh
nghiệp sẵn sàng trả mức lương từ 5.000 đến 10.000 USD/tháng kèm theo là nhiều khoản
ưu đãi, phúc lợi khác để chiêu dụ nhân tài nhưng vẫn chưa hẳn tìm được nhân sự phù
hợp. Nhiều doanh nghiệp đã và đang có phương án nhập khẩu lao động chất lượng cao từ
nước ngoài vào Việt Nam. Dự báo khi kinh tế thế giới hồi phục và tăng trưởng trở lại thì
cầu về lao động sẽ tăng mạnh, do vậy người lao động nên tranh thủ thời điểm hiện nay để
đào tạo và đào tạo lại. Bởi lẽ, sau suy thoái việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra rất
mạnh mẽ, xuất hiện những công nghệ, ngành nghề mới và đi cùng với nó là nhu cầu rất
lớn về lao động trình độ cao. Vì vậy, cần chủ động có kế hoạch, phương án chuẩn bị lực

lượng lao động tốt nhất để tham gia có hiệu quả vào thị trường sức lao động trong và
ngoài nước. Đây là đặc điểm nổi bật cũng là cơ hội cần tận dụng để tập trung nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, tạo động lực cho sự phát triển nhanh và bền vững của doanh
nghiệp và đất nước trong tương lai.
1.2. Thuận lợi và khó khăn của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam
20


1.2.1. Thuận lợi
Đặc trưng của kinh tế thị trường là cạnh tranh. Các doanh nghiệp luôn phải cạnh
tranh với nhau để chiếm được các nguồn lực sản xuất (đất đai, tài nguyên, vốn, lao động,
khoa học công nghệ…), các dự án đầu tư, thị trường tiêu thụ sản phẩm. Quy luật cạnh
tranh là mạnh được, yếu thua. Đây là mặt tích cực của cạnh tranh. Nhưng cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp cũng dẫn đến những hậu quả tiêu cực: khai thác tối đa sức lực người
lao động (kéo dài giờ làm, tăng cường độ lao động), giảm chi phí cho lao động (giảm
lương, giảm bảo hộ lao động); khai thác cạn kiệt tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường; sử
dụng các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh, như: làm hàng giả, kém chất lượng, ăn
cắp công nghệ, buôn lậu, trốn thuế, phá hoại đối thủ… Trong nền kinh tế thị trường có
quản lý của nhà nước, nhà nước tạo khung khổ pháp luật cho cạnh tranh; bảo vệ, tôn
trọng, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh; đồng thời, ngăn ngừa, hạn chế độc quyền cản trở
cạnh tranh và chống lại các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh.
Lưu thông hàng hóa trong nền kinh tế thị trường (cả hàng hóa là yếu tố đầu vào của
sản xuất và hàng hóa là sản phẩm do sản xuất tạo ra) được điều tiết bởi quy luật cung cầu. Khi cung lớn hơn cầu, giá cả hàng hóa sẽ giảm xuống; khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả
hàng hóa sẽ tăng lên. Sự tăng lên hay giảm xuống của giá cả hàng hóa là Đặc trưng của
kinh tế thị trường là cạnh tranh. Các doanh nghiệp luôn phải cạnh tranh với nhau để
chiếm được các nguồn lực sản xuất (đất đai, tài nguyên, vốn, lao động, khoa học công
nghệ…), các dự án đầu tư, chiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm. Quy luật cạnh tranh là
mạnh được, yếu thua. Đây là mặt tích cực của cạnh tranh. Nhưng cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp cũng dẫn đến những hậu quả tiêu cực: khai thác tối đa sức lực người lao

động (kéo dài giờ làm, tăng cường độ lao động), giảm chi phí cho lao động (giảm lương,
giảm bảo hộ lao động); khai thác cạn kiệt tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường; sử dụng
các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh, như: làm hàng giả, kém chất lượng, ăn cắp
công nghệ, buôn lậu, trốn thuế, phá hoại đối thủ… Trong nền kinh tế thị trường có quản
lý của nhà nước, nhà nước tạo khung khổ pháp luật cho cạnh tranh; bảo vệ, tôn trọng,
thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh; đồng thời, ngăn ngừa, hạn chế độc quyền cản trở cạnh
tranh và chống lại các hoạt động cạnh tranh khơng lành mạnh.
Lưu thơng hàng hóa trong nền kinh tế thị trường (cả hàng hóa là yếu tố đầu vào của
sản xuất và hàng hóa là sản phẩm do sản xuất tạo ra) được điều tiết bởi quy luật cung cầu. Khi cung lớn hơn cầu, giá cả hàng hóa sẽ giảm xuống; khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả
hàng hóa sẽ tăng lên. Sự tăng lên hay giảm xuống của giá cả hàng hóa là tín hiệu của thị
trường để những người kinh doanh thương mại chuyển hàng hóa từ nơi có giá thấp đến
nơi có giá cao, từ nơi thừa đến nơi thiếu; để các nhà sản xuất thu hẹp hay dừng sản xuất
các hàng hóa thừa, cung lớn hơn cầu, tăng cường, mở rộng sản xuất các hàng hóa thiếu,
21


cung nhỏ hơn cầu. Đây chính là sự điều tiết sản xuất và lưu thông một cách tự động, linh
hoạt, nhanh nhạy của cơ chế thị trường, là mặt tích cực của quy luật cung - cầu. Nhưng,
trong nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, những người sản xuất và lưu thông đều
chạy theo lợi nhuận tối đa, luôn muốn đè bẹp đối thủ, lại không xác định được tổng cầu
của xã hội (từ người sản xuất đến người tiêu dùng phải qua rất nhiều khâu trung gian),
nên thường xuyên sản xuất thừa, dẫn đến những cuộc khủng hoảng chu kỳ, phá hoại nền
kinh tế, gây bất ổn xã hội. Đây là mặt trái của quy luật cung - cầu, của cơ chế tự điều tiết
của thị trường. Trong nền kinh tế thị trường có quản lý của nhà nước, nhà nước có khả
năng thấy rõ hơn từng người sản xuất kinh doanh về tổng cung, tổng cầu của xã hội; sự
can thiệp của nhà nước là để khắc phục khiếm khuyết này, khắc phục những mất cân đối
lớn, những cuộc khủng hoảng chu kỳ do điều tiết tự phát của cơ chế thị trường gây ra.
Quy luật giá trị là quy luật cơ bản, trung tâm của kinh tế thị trường. Trong sản
xuất, người sản xuất năng động, sáng tạo, cải tiến, đổi mới… là để nâng cao năng suất lao
động, giảm chi phí sản xuất, để chi phí sản xuất của họ thấp hơn mức hao phí lao động xã

hội cần thiết, qua đó thu được nhiều giá trị hơn. Đối với người lưu thông hàng hóa cũng
vậy, họ năng động, sáng tạo, nắm bắt kịp thời yêu cầu của thị trường, đưa hàng hóa từ nơi
thừa đến nơi thiếu, từ nơi cung lớn hơn cầu đến nơi cung nhỏ hơn cầu, từ nơi giá thấp đến
nơi giá cao; cải tiến quản lý để giảm chi phí lưu thơng… cũng để thực hiện mục đích này.
Tác động của quy luật giá trị bao gồm những tác động của quy luật cạnh tranh và quy luật
cung cầu, cả những tác động tích cực, như: thúc đẩy năng động, sáng tạo, không ngừng
cải tiến quản lý, đổi mới công nghệ… thúc đẩy kinh tế phát triển; điều tiết sản xuất, lưu
thông một cách nhanh nhạy… và cả những hậu quả tiêu cực, như: khủng hoảng chu kỳ,
phân hóa xã hội, cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường… Trong các nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của nhà nước, sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế là để tạo
khung khổ pháp luật và điều kiện thuận lợi cho quy luật giá trị vận hành, đồng thời hạn
chế, khắc phục những hậu quả tiêu cực này.
1.2.2. Khó khăn
- Q trình xây dựng và hồn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta khơng đơn giản, đó là q trình lâu dài và phát triển qua nhiều giai đoạn
vừa tìm tịi vừa phát triển khơng ngừng trong nhận thức lý luận, vừa phản ứng linh hoạt
sáng tạo trong thực tiễn, ứng phó tốt trước khó khăn, thách thức.
- Để có một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển địi hỏi
phải có mơi trường cơng khai, minh bạch, có bộ máy nhà nước tinh gọn đủ năng lực điều
hành và quản lý kinh tế, đưa nền kinh tế đặt được tốc độ tăng trưởng cao, chất lượng và
hiệu quả.
22


- Nền kinh tế thị trường đơi khi cịn có sự phân biệt đối xử giữa các đối tượng và
các chủ thể kinh tế trên thị trường.

2. Vai trò của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam
2.1. Vai trò của Nhà nước

Nhà nước đảm bảo sự ổn định vĩ mơ cho phát triển và tăng trưởng kinh tế
Tính đúng đắn hợp lí và kịp thời của việc hoạch định và năng lực tổ chức thực hiện
các chính sách phát triển vĩ mô do Nhà nước đảm nhiệm là điều kiện tiên quyết nhất hình
thành sự đồng thuận đó. Là những công cụ tạo ra sự đồng thuận xã hội, từ đó mà có ổn
định xã hội cho phát triển và tăng trưởng kinh tế, các chính sách phát triển của Nhà nước,
một mặt phản ánh đúng nhu cầu chung của xã hội, của mọi chủ thể kinh tế…, mặt khác
phải tơn trọng tính đa dạng về nhu cầu, lợi ích chủ thể của các chủ thể đó.
Bảo đảm gia tăng phúc lợi xã hội
Mục tiêu căn bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam là góp phần thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Các chính sách xã hội hợp lí, bảo đảm phúc lợi ngày một gia tang, hiệu quả tác động của
chính sách kinh tế tiến bộ do Nhà nước hoạch định và tổ chức thực hiện bằng những nỗ
lực của nhiều chủ thể kinh tế khác nhau…là nhân tố có vai trị quyết định trong vấn đề
này.
Đảm bảo công bằng xã hội
Bảo đảm yêu cầu thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội được thể hiện đầy đủ ngay
trong từng bước và từng chính sách phát triển kinh tế. Nhà nước chủ động tham gia kinh
tế thị trường nhằm bảo hộ cho hình thức tổ chức sản xuất chứa đựng các yếu tố của quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và tạo điều kiện cho chúng phát huy ưu thế của mình; tạo vị
thế cho kinh tế Nhà nước có sức mạnh định hướng xây dựng mơ hình kinh tế cho phép
giải phóng con người; ngăn chặn các xu hướng phát triển kinh tế khơng có lợi cho quảng
đại người lao động
Nhà nước góp phần đắc lực vào việc tạo mội trường cho thị trường phát triển, như
tạo lập kết cấu hạ tầng kinh tế cho sản xuất, lưu thông hàng hóa; tạo lập sự phân cơng
theo ngành, nghề, vùng kinh tế qua việc Nhà nước tiến hành quy hoạch phát triển kinh tế
theo lợi thế từng vùng, ngành và nhu cầu xã hội… Là chủ thể trực tiếp sở hữu hoặc quản
lý, khai thác những cơ quan truyền thông mạnh nhất quốc gia, Nhà nước góp phần cung
23



cấp thông tin thị trường cho các chủ thể kinh tế để các chủ thể này chủ động lựa chọn
phương án sản xuất kinh doanh, đối tác kinh tế, thời điểm thực hiện giao dịch kinh tế,
cách thức sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhất trong điều kiện cụ thể của mình.
Nhà nước ta là chủ thể chính của nền giáo dục – đào tạo
Bằng hệ thống chính sách giáo dục, đào tạo của mình, được thực hiện qua hệ thống
giáo dục - đào tạo do Nhà nước thống nhất quản lí, Nhà nước cung cấp nguồn lao động
chính, có chất lượng cho sản xuất kinh doanh, cung cấp cán bộ quản trị doanh nghiệp cho
mọi thành phần, mọi loại kinh tế.
2.2. Vị trí, vai trị của doanh nghiệp
Doanh nghiệp phát triển, đặc biệt là doanh nghiệp công nghiệp tăng nhanh là nhân
tố đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
nâng cao hiệu quả kinh tế, giữ vững ổn định và tạo thế mạnh hơn về năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế trong q trình hội nhập.
Vai trị của doanh nghiệp không chỉ quyết định sự phát triển bền vững về mặt kinh
tế mà còn quyết định sự ổn định và lành mạnh hóa các vấn đề xã hội và lành mạnh hoá
các vấn đề xã hội, thực tế đó đã được phản ảnh qua kết quả hoạt động của doanh nghiệp
sẽ được phân tích ở phần sau.
2.3. Vai trò của kinh tế hộ sản xuất trong nền kinh tế quốc dân
- Hộ sản xuất là cầu nối trung gian để chuyển nền kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng
hóa.
- Hộ sản xuất góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động, giải quyết việc
làm ở nơng thơn.
- Hộ sản xuất có khả năng thích ứng với cơ chế thị trường thúc đẩy sản xuất hàng
hóa.
- Hộ sản xuất thúc đẩy sự phân cơng lao động dần tới chun mơn hóa.
3. Tác động của quy luật kinh tế thị trường đến phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao
a. Tác động của quy luật giá trị
Căn cứ vào yêu cầu của quy luật giá trị, trên thị trường sức lao động, nếu ai cung
cấp được chất lượng lao động tốt hơn, phù hợp với yêu cầu của các nhà tuyển dụng sẽ có

24


thu nhập cao. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, nếu xét một cách tổng thể thì sự ổn
định việc làm chỉ mang tính tương đối. Mặc dù người lao động có nhiều cơ hội lựa chọn
việc làm theo khả năng của mình song họ cũng phải đối mặt với nhiều thách thức, thậm
chí thất nghiệp. Để sức lao động của mình được trả giá cao, trở thành nhân sự khó có thể
thay thế, người lao động cần được đào tạo có trình độ chun mơn tay nghề giỏi, có sức
khoẻ, ngoại ngữ và tác phong làm việc cơng nghiệp. Q trình đào tạo đó phải tính đến
hiệu quả kinh tế, đào tạo để rèn luyện kĩ năng làm việc chứ khơng phải vì bằng cấp. Đối
với các cơ sở đào tạo, nếu chất lượng đào tạo tốt, giá cả thấp hơn sẽ thu được số lượng
khách hàng (người học và người sử dụng sản phẩm được đào tạo) nhiều hơn. Vì vậy, quy
luật giá trị đặt ra yêu cầu tiên quyết là vấn đề chất lượng lao động. Trong điều kiện khoa
học công nghệ phát triển mạnh mẽ, kinh tế tri thức được coi là chìa khóa cho sự phát triển
thì ai có khả năng cung cấp chất lượng lao động tốt dựa trên hao phí đào tạo thấp sẽ giành
được lợi thế để phát triển và ngược lại. Điều đó được thể hiện ở năng suất, sản phẩm cận
biên của lao động cũng như sự thích ứng của con người sau khi được đào tạo trước đòi
hỏi của kinh tế thị trường. Song trên thực tế yêu cầu này vẫn đang là vấn đề nan giải khi
đến nay ở nước ta lao động đã qua đào tạo theo các loại hình và trình độ khác nhau mới
đạt khoảng trên 31,5%. Năng suất lao động của nước ta đạt thấp khi chỉ đứng thứ 77/125
nước và vùng lãnh thổ, sau cả Indonesia, Philipine và Thái Lan. Hệ thống các trường đại
học, cao đẳng tham gia đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được đòi
hỏi của thị trường lao động trong và ngoài nước. Theo Viện Quản lí nhà nước dân chủ và
đổi mới (ASH) của Trường cơng Kennedy thuộc Đại học Harvard thì Việt Nam khơng có
trường đại học nào được ghi nhận trên bất kì bảng xếp hạng quen thuộc các đại học hàng
đầu châu Á. Vì vậy, quy luật giá trị địi hỏi để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao,
Việt Nam cần cải cách để nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, thực hiện chủ trương
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Đào tạo phải đạt hiệu quả kinh tế,
đáp ứng được nhu cầu của xã hội, của thị trường và doanh nghiệp. Cũng theo ASH thì
qua các cuộc khảo sát cho thấy có tới 50% sinh viên Việt Nam tốt nghiệp đại học đã

khơng thể tìm được việc làm phù hợp với chun mơn của họ. Điều này chứng tỏ có một
khoảng cách rất lớn giữa giảng đường và thị trường sức lao động động cũng như có sự
lãng phí ghê gớm trong giáo dục và đào tạo nhân lực ở nước ta.
b. Tác động của quy luật cạnh tranh
Hiện nay, ở nước ta sức lao động được thừa nhận là một loại hàng hố và tất nhiên
nó cũng bị chi phối theo quy luật thị trường. Người làm giỏi được lương cao, người làm
dở chịu lương thấp và có nguy cơ bị sa thải. Sự cạnh tranh trong việc chào bán sức lao
động là một yếu tố thúc đẩy từng cá nhân và toàn xã hội nỗ lực làm việc, tự đào tạo nâng
cao chất lượng lao động của mình. Nhiều chuyên gia trên các lĩnh vực đều thống nhất
25


×