Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

Cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết bến không chồng của dương hướng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (394.6 KB, 55 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA NGỮ VĂN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NIÊN KHÓA 2012 - 2016

Cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết “Bến không chồng”
của Dương Hướng
Sinh viên thực hiện: Từ Văn Việt
Lớp: D12NV03
Khố: 2012 - 2016
Hệ: Chính quy

—^o0o<^—
Bình Dương, tháng 04 năm 2016


TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

KHOA NGỮ VĂN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
••••
NIÊN KHỐ: 2012 - 2016

Cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết “Bến không chồng”
của Dương Hướng
Người hướng dẫn: Th.s Ngô Thị Kiều Oanh
Sinh viên thực hiện: Từ Văn Việt
Lớp: D12NV03


Khóa: 2012 - 2016
Hệ: Chính quy
—^o0o<^—

Bình Dương, tháng 04 năm 2016


LỜI CẢM ƠN
Thành công của một con người thường được tạo nên bởi nhiều yếu tố như sự hỗ
trợ, giúp đỡ dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp của người khác. Trong suốt thời
gian từ khi bắt đầu học tập tại trường đến nay, tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm,
giúp đỡ của quý Thầy Cơ, gia đình và bạn bè. Với lịng biết ơn sâu sắc nhất, tôi xin gửi
đến quý Thầy Cô ở Khoa Ngữ Văn - Trường Đại học Thủ Dầu Một đã cùng với tri thức
và tâm huyết của mình để truyền đạt vốn kiến thức quý báu cho chúng em trong suốt
thời gian học tập tại trường.
Được sự cho phép của Khoa Ngữ Văn trường Đại học Thủ Dầu Một, và được sự
đồng ý hướng dẫn của giảng viên Th.S Ngơ Thị Kiều Oanh tơi tiến hành thực hiện tìm
hiểu đề tài “Cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết “Bến khơng chồng”” của nhà văn
Dương Hướng.
Để hồn thành khóa luận này, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô đã tận tình
hướng dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và rèn luyện ở trường
Đại học Thủ Dầu Một.
Xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn Th.S Ngơ Thị Kiều Oanh đã tận tình,
chu đáo hướng dẫn tơi hồn thành khóa luận này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh nhất. Song do
buổi đầu làm quen với công tác nghiên cứu khoa học và thời gian nghiên cứu khơng
nhiều nên khơng tránh khỏi những thiếu xót nhất định mà bản thân chưa thấy được. Tôi
rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của q Thầy, Cơ giáo để tơi có thể lấy đó làm
kinh nghiệm cho bản thân nhằm phục vụ tốt cho việc nghiên cứu sau này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết quả nêu
trong khóa luận là trung thực và chưa được công bố trong các cơng trình khác.
Sinh viên

Từ Văn Việt


1. Lý do chọn đề tài
Đặc điểm nổi bật của văn học giai đoạn 1945 - 1975 là các nhà văn tập trung sáng
tác theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Đây là giai đoạn văn học phục vụ
cách mạng, lúc này văn học ngoài nhiệm vụ tun truyền thì cịn là một vũ khí lợi hại
tấn cơng vào bọn giặc xâm lược. Vì thế ở giai đoạn này nhân vật trung tâm của văn học
là những con người anh hùng mang phẩm chất tốt đẹp đại diện cho cộng đồng, xã hội.
Văn học giai đoạn này thường nói đến cái chung mà ít đề cập đến cái riêng, kể cả tình
u đơi lứa cũng được đặt trong tình yêu chung - tình yêu Tổ Quốc. Các nhân vật gắn bó
số phận mình với số phận của đất nước, của dân tộc. Đề tài chiến trận đã trở thành đề tài
thời sự được xuất hiện nhiều trong các sáng tác của các văn nghệ sĩ. Những tác phẩm ấy
đã thể hiện được tinh thần đoàn kết, cùng nhau ra trận của nhân dân ta với một niềm tin
vào tương lai tươi sáng cho đất nước.
Qua rồi giai đoạn văn học ngợi ca những chiến công hào hùng của dân tộc. Con
người và văn học không thể mãi ngủ quên trong chiến thắng. Chúng ta, những con người
hiện đại nhìn nhận lại cuộc chiến hào hùng của dân tộc ở nhiều khía cạnh, nhiều góc độ.
Hình ảnh con người mang tính sử thi, tập thể của văn học giai đoạn trước được thay thế
bằng hình ảnh con người mang tính thế sự và đời tư của cuộc sống thường nhật hằng
ngày. Bên cạnh việc miêu tả cuộc chiến đấu đầy đau thương và mất mát thì văn học còn
tập trung đi sâu vào phản ánh đời sống nội tâm, số phận con người thông qua các mối
quan hệ của họ trong đời sống thường ngày. Tác giả chú trọng hơn ở góc khuất tâm hồn,

những khát khao hạnh phúc mà mỗi con người đều phải có.
Hưởng ứng sự kêu gọi đổi mới văn học, Dương Hướng đã cho ra đời tiểu thuyết
“Bến không chồng” vào năm 1990. Tác phẩm là một cái nhìn nhạy bén và đầy tinh tế
trong việc khắc họa bức tranh hiện thực ở nông thôn miền Bắc một cách sinh động. Nhà
văn Dương Hướng đã tập trung ngòi bút vào con người cá nhân với những nỗi niềm
riêng. Đó là người lính với những chiến cơng và nỗi khát khao hạnh phúc. Đó là người
phụ nữ với những khát khao hạnh phúc từ tận đáy sâu tâm hồn. Thế nhưng cuộc đời của
họ lại đi vào “ngõ cụt” bởi những ngang trái của nghịch cảnh, bởi ý thức dòng họ và
những định kiến lạc hậu của xã hội. Điều này đã gây nên biết bao nỗi bi kịch, thống khổ
trong cuộc đời của các nhân vật, thế nhưng họ vẫn cố gắng tìm ra lối thốt cho chính bản
thân mình dù đó là là một kết cuộc đầy bi thương. Tất cả làm nên bi kịch cho các nhân


vật trong tiểu thuyết “Bến khơng chồng”.
Tìm hiểu cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết “Bến không chồng” tức là phát hiện
một kho tàng giá trị cảm xúc và thẩm mỹ trong thế giới nghệ thuật của tiểu thuyết
Dương Hướng. Đồng thời cũng thấy được đóng góp của nhà văn trong việc mạnh dạn
mở ra nhiều hướng tiếp cận hiện thực đời sống với cái nhìn đi sâu vào những vấn đề của
thân phận con người, mà trước đó văn học chưa có dịp hoặc cịn ít đề cập đến.
Tuy cảm hứng bi kịch trong tác phẩm “Bến không chồng” là một góc nhìn khơng
hồn tồn mới. Nhưng với sự mê nghiên cứu và tìm tịi, chúng tơi sẽ tiến hành khai thác
tác phẩm trong những góc khuất tâm hồn con người để từ đó khẳng định một lần nữa
tính nhân văn trong việc biểu hiện bi kịch của những số phận con người rất riêng làm
nên một tiểu thuyết “Bến khơng chồng” độc đáo. Với tất cả lí do trên, tơi quyết định
thực hiện tìm hiểu đề tài “cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết “Bến không chồng” của
nhà văn Dương Hướng”.
2. Lịch sử vấn đề
Đầu tiên, điểm qua một số cơng trình nghiên cứu về tác giả Dương Hướng, Nguyễn
Văn Long đã nhận định về tác phẩm Bến khơng chồng: “Sức hấp dẫn của cuốn tiểu
thuyết chính là ở sự chân thực, ở vốn hiểu biết đời sống nơng thơn và một cách nhìn cảm

thơng, nhân đạo với số phận con người...”. Chúng ta có thể thấy được nhận định trên
của Nguyễn Văn Long đã phần nào khẳng định được giá trị của tác phẩm cũng như vị
thế của Dương Hương trên con đường hướng tới một nền văn học phát triển và hội nhập,
mang đậm dấu ấn cá nhân đầy chân thật nhưng giàu tính nghệ thuật.
Tác giả Trần Thị Phương Thảo với bài viết “Dương Hướng sau Bến khơng chồng”
đăng trên tạp chí Văn Nghệ Qn đội số 7 - 2008 đã khẳng định sự thành công của tiểu
thuyết “Bến không chồng”. Bằng nội dung, nghệ thuật lẫn góc nhìn mới mẽ của nhà văn
về thân phận của con người đặc biệt là người phụ nữ sau thời chiến. tác giả đánh giá
điểm nổi bật của “Bến khơng chồng” là cái nhìn mới trong một đề tài chiến tranh vốn
quen thuộc xưa nay.
Nguyễn Duy Liễm có bài nhận xét “Tản mạn về Dương Hướng với Bến khơng
chồng” trên Blog duonghuongqn, ngày đăng 22/01/2008, , Ơng viết “Mở cuốn tiểu
thuyết Bến không chồng của Dương Hướng đọc và bị lôi cuốn. Không chỉ tiếng tăm đồn
đại về tác phẩm mà tài dẫn chuyện lôi cuốn người đọc, những cách nói tung tang khơng


cần để ý để tứ lại đặc sệt nhà quê, trong cách khắc họa sinh động của tác giả với chi tiết
đầu tiên nhân vật Nguyễn Vạn ngực đầy Huân chương tấp tểnh về làng đứng trên con đê
lộng gió vén quần “đái cái đã”....thế mới sướng, thế mới là anh nơng dân chính hiệu”.
Từ nhận xét này của tác giả, ta có thể thấy được tài năng sử dụng ngôn ngữ một cách
điêu luyện, đặc sắc của nhà văn Dương Hướng khi viết nên tiểu thuyết “Bến khơng
chồng” đó là mộc mạc, chân thành đầy gần gủi. Và thông qua nhận xét trên ta cịn nhìn
nhận được một điều rằng Dương Hướng đã có một cái nhìn về hiện thực một cách cụ
thể, rõ ràng thông qua các nhân vật mà ơng xây dựng nên.
Nguyễn Văn Long có bài phê bình trên Báo văn nghệ: “Tác phẩm cho thấy một
phương diện của thực trạng đời sống tinh thần trong nông thôn (.). Trong Bến không
chồng, Dương Hướng cho thấy là trong nhiều trường hợp, con người vừa là nạn nhân
mà cũng là thủ phạm của bi kịch đời mình, họ phải chịu trách nhiệm một phần về số
phận của mình. Cách nhìn của anh, theo tơi là đúng mực, bình tĩnh và khách quan mà
vẫn tốt lên niềm tin và nỗi xót xa về con người.” . Theo tác giả, nông thôn trong tác

phẩm của Dương Hướng không được khai thác sâu ở phương diện các phong trào cách
mạng, các vấn đề của đời sống chính trị - xã hội mà ông tập trung làm rõ ý thức và tập
quán về họ tộc tới số phận con người. Đó là yếu tố làm nên cái mới và sức hấp dẫn ở
cuốn tiểu thuyết này: “Bến khơng chồng khơng có những tìm tịi mới lạ về nghệ thuật.
Cách trần thuật và miêu tả của Dương Hướng mộc mạc tự nhiên.Có những chỗ cịn đơn
giản và thơ vụng nữa. Sức hấp dẫn của cuốn tiểu thuyết chính là ở sự chân thực, ở vốn
hiểu biết đời sống nông thôn và một cách nhìn cảm thơng, nhân đạo với số phận con
người.” .
Hiền Hương viết trên báo Dân trí, ngày 29/07/1012, “Bến không chồng” - Bức
tranh thê lương thời hậu chiến, từ tiểu thuyết của Dương Hướng những Nguyễn Vạn,
Nghĩa, Thành. Đã bước lên màn ảnh với đủ cơ cực, đắng cay của số phận người lính
bước ra từ cuộc chiến. Họ cơ độc trên chính mảnh đất, với chính những con người mà
họ đã từng đổ máu để bảo vệ. Ở đó, đã khơng có sự bù đắp nào, khơng có hạnh phúc
nào dành cho những người lính trở về sau cuộc chiến.”
Qua các bài viết của các nhà phê bình nghiên cứu văn học, của các tác giả về tác
phẩm “Bến khơng chồng”, tơi nhận thấy rằng đó đều là những tìm hiểu, khám phá đáng
quý, đáng trân trọng. Luận văn sẽ thừa hưởng và tiếp thu các ý kiến từ các cơng trình


trước. Từ đó tạo điều kiện thuận lợi để đi sâu hơn, phát hiện những điều mới mẻ khi
nghiên cứu về cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết “Bến không chồng”.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận tập trung vào nghiên cứu tiểu thuyết “Bến không chồng” của nhà văn
Dương Hướng. Người viết xem đây là nguồn tài liệu cơ sở để đi vào phân tích giá trị tác
phẩm.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận chủ yếu tập trung phân tích và làm nổi bật “Cảm hứng bi kịch” trong tiểu
thuyết của Dương Hướng qua hai bình diện nội dung tư tưởng và nghệ thuật biểu hiện.
4. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu luận văn tôi sẽ sử dụng và phối hợp các phương pháp sau
đây:
Phương pháp so sánh: Tôi tiến hành so sánh bi kịch của các nhân vật trong tiểu
thuyết “Bến không chồng” với tiểu thuyết “Thời xa vắng”của Lê Lựu, “Nỗi buồn chiến
tranh” của Bảo Ninh và “Mảnh đất lắm rừng nhiều ma” của Nguyễn Khắc Trường.
Đồng thời tôi cũng so sánh tài năng nghệ thuật và đặc sắc nghệ thuật của “Bến không
chồng” với các tiểu thuyết vừa kể trên.
Phương pháp thống kê: Tôi tiến hành thống kê những dẫn chứng từ các tiểu thuyết để
trích dẫn vào bài làm. Nhằm tăng sức thuyết phục, sức hấp dẫn cho khóa luận.
Phương pháp phân tích, tổng hợp.v..v: Tơi tiến hành phân tích và tổng hợp các nội
dung quan trọng, cần thiết cho khóa luận. Cụ thể là phân tích các bi kịch mà các nhân
vật, xã hội đương thời phải gánh lấy, đồng thời phân tích các giá trị nghệ thuật mà nhà
văn đã xây dựng nên, cuối cùng tôi tổng hợp chúng thành những ý logic, liên kết chặt
chẽ với nhau, nhăm tạo nên một bài khóa luận hồn chỉnh.
Ngồi những phương pháp chính trên tơi cịn xử dụng một số phướng pháp khác như:
phương pháp thống kê, xử lí tài liệu, nhận định và đánh giá.
5. Cấu trúc khóa luận


Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần tài liệu tham khảo thì nội dung chính gồm 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề chung
1.1. Khái quát đặc điểm văn học Việt Nam sau 1975
1.1.1. Văn học giai đoạn 1975 - 1985
1.1.2. Văn học Việt Nam giai đoạn 1986 - 1991
1.1.3. Văn học Việt Nam từ 1992 đến nay
1.2. Đôi nét về nhà văn Dương Hướng
1.2.1. Cuộc đời
1.2.2. Sự nghiệp
1.3. Cảm hứng bi kịch trong văn học

1.3.1. Khái niệm bi kịch
1.3.2. Cảm hứng bi kịch
Chương 2: Bi kịch của người lính và người phụ nữ trong tiểu
thuyết “Bến không chồng”
2.1. Bi kịch của người lính
2.1.1. Bi kịch của nhân vật Nguyễn Vạn
2.1.2. Bi kịch của nhân vật Nghĩa và thành
2.1.2.1. Nhân vật Nghĩa
2.1.2.2. Nhân vật Thành
2.2. Bi kịch của người phụ nữ
2.2.1. Bi kịch của nhân vật bà Nhân
2.2.2. Bi kịch của nhân vật Hạnh
2.2.3. Bi kịch của các nhân vật nữ: Thủy, Dâu, Thắm, Cúc, Thao...
2.2.3.1. Nhân vật Thủy
2.2.3.2. Các nhân vật: Dâu, Thắm Cúc, Thao,.
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện tình huống bi kịch trong tiểu thuyết “Bến
khơng chồng”
3.1. Cốt truyện
3.2. Nhân Vật
3.3. Không gian và thời gian nghệ thuật


3.3.1. Không gian bi kịch
3.3.1.1. Không gian riêng tư, nhỏ hẹp
3.3.1.2. Không gian xã hội rộng lớn
3.3.1.3. Không gian thiên thiên
3.3.2. Thời gian bi kịch
3.4. Giọng điệu bi kịch
3.4.1. Giọng điệu buồn thương, xót xa
3.4.2. Giọng điệu tự nhiên, suồng sả, hài hước

3.4.3. Giọng triết lý


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1.

Khái quát đặc điểm văn học Việt Nam sau 1975
Ba mươi năm đất nước ngừng tiếng súng, con người vẫn chưa thể quên những ám

ảnh từ cuộc chiến tranh để lại. Sau ngày hịa bình, đất nước phải phục hồi nền kinh tế
cũng như chấn chỉnh, thay đổi và sắp xếp lại nền văn nghệ nước nhà. Trước nhu cầu và
đòi hỏi của đời sống, văn học cũng bước vào thời kì chuyển biến và đổi mới đó là: vận
động theo khuynh hướng dân chủ hóa, mang tính chất nhân bản nhân văn sâu sắc, đổi
mới quan niệm về văn học, nhà văn và quan niệm nghệ thuật vì con người (hay cịn gọi
là nghệ thuật vị nhân sinh) nhằm phát huy tính sáng tạo và phong cách nghệ thuật của
nhà văn với những tìm tịi, thể nghiệm mới trong cảm hứng thế sự về con người.
1.1.1.

Văn học Việt Nam giai đoạn 1975 - 1985
Lịch sử văn học có hai giai đoạn chuyển tiếp đáng ghi nhớ, năm 1946 là giai đoạn

văn nghệ sĩ đang “nhận đường” để đổi mới tư duy từ cái tôi cá nhân chuyển sang cái ta
của đời sống cộng đồng. Mười năm đầu sau năm 1975, khi đất nước vừa yên tiếng súng,
văn nghệ sĩ lúc bấy giờ tạm rời xa những bản hùng ca chiến trận vẻ vang và đầy tự hào
của văn học trước 1975 để thực hiện một cuộc đổi mới tư duy về văn học. Mặc dù mười
năm đầu đổi mới, các tác giả vẫn còn chịu ảnh hưởng của khuynh hướng sử thi và anh
hùng ca.
Là giai đoạn văn học chuyển tiếp, chuyển tiếp từ nền văn học mang đề tài ngợi ca
người lính, cổ vũ chiến đấu để giành độc lập cho dân tộc sang một đề tài mới là con

người và xã hội thời hậu chiến. Nếu tìm hiểu văn học giai đoạn những năm 1975 chúng
ta sẽ thấy được văn học giai đoạn này chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng
lãng mạn, văn học mang nhiệm vụ cổ vũ chính trị, phục vụ chiến đấu. Tố Hữu là tác giả
có nhiều vần thơ chuyển tải khơng khí hân hoan ngày ra trận:
“ Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai! ”
“Lạ kì thay ta sống thật đầy gian khổ đêm ngày
Mà cứ tưởng bay trong mơ ước...”
(Tố Hữu) qua bốn câu thơ
ta thấy được nhà thơ Tố
Hữu đã truyền cho thanh


niên Việt Nam thời bấy giờ
một niềm tin ở tương lai,
để những thanh niến ấy có
thêm sức mạnh tinh thần to
lớn để họ có thể vượt lên
trên mọi thử thách, gian lao
và rồi tạo nên những chiến
cơng phi thường góp phần
làm cho đất nước hịa bình,
độc lập, đó là một trong
những nhiệm vụ của văn
chương thời kì trước 1975.
Cịn đến với văn học sau
năm 1975 thì các nhà văn
vẫn viết về đề tài chiến
tranh, người lính, nhưng họ
lại đi khai thác ở một khía

cạnh khác đó là những bi
kịch, những đau khổ,
những ước muốn khát khao
của cá nhân,... Như
Nguyễn Trọng Tạo trong
“Tản mạn thời tơi sống” đã
viết:
“Thời tơi sống có bao nhiêu câu hỏi
Câu trả lời thật chẳng dễ dàng chi”.
Hai câu thơ bộc lộ rõ ý thức cá nhân của nhà thơ, thể hiện sự quanh quẩn, ngẩn ngơ
của con người trong cuộc đời cịn nhiều khó khăn, bế tắc này.
Hay:
“Nó và tơi, hai đứa ở hai nơi.
Nó Nghệ An, tơi Hà Nội.
Nó trước, tơi sau cùng chung một sư đoàn.


Nó chết rồi - Tơi chẳng muốn tin dù đó là sự thật.
Nó chết rồi - Để bữa cơm trưa nơi ở mới.
Cả tiểu đội tôi ngồi ăn trong im lặng.
Vì tất cả chúng tơi cùng nhớ tới một người Đồng Đội. ”
những câu thơ nói về tình cảm của người lính dành cho đồng đội của mình đã hy sinh,
nó thể hiện một khơng khí buồn tẻ, hiu quạnh khi người bạn, người đồng đội của mình
phải nằm lại nơi chiến trường. Đây là điều mà văn học thời chiến rất ít xuất hiện.
Giai đoạn đầu đổi mới, văn học chưa thay đổi rõ rệt về đề tài. Theo Lã Nguyên thì:
“đây là giai đoạn khởi động của văn học thời kì đổi mới. Gọi đó là giai đoạn “khởi
động” bởi vì, nếu chỉ nhìn ở bề ngồi thì sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, đất nước thống
nhất, lịch sử Việt Nam chuyển qua một thời đại mới, nhưng văn học nghệ thuật thì hình
như vẫn vận động theo quán tính của văn học thời chiến. Đề tài về chiến tranh và người
lính vẫn là đề tài cơ bản của nhiều sáng tác văn học. Các sáng tác ấy vẫn thể hiện nhãn

quan giá trị và nguyên tắc tư duy nghệ thuật của nền văn học sử thi viết theo phương
pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa.” [27]. Văn học những năm đầu hịa bình cịn ảnh
hưởng chủ đề, đề tài của văn học giai đoạn trước 1975. Văn học khởi động với nhà văn
tiên phong như Nguyễn Minh Châu với “Lửa từ những ngôi nhà”, “Miền cháy”; Ma
Văn Kháng với “Mùa lá rụng trong vườn”; Lê Lựu với “Mở rừng” và Chu Lai với
“Nắng đồng bằng”. Các tác giả này là những nhà văn đã từng sáng tác trước năm 1975,
đến giai đoạn sau này họ là những con người tiên phong đổi mới văn học, mặc dù sự đổi
mới ấy chưa toàn diện nhưng chúng ta khơng thể phủ nhận cơng lao của các nhà văn.
Chính các nhà văn và các sáng tác của họ là nền tảng cho việc đi sâu vào tiến hành đổi
mới sau này.
1.1.2. Văn học Việt Nam giai đoạn 1986 - 1991
Thời kì đổi mới trong văn học Việt Nam được tính từ năm 1986. Năm diễn ra Đại
hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trên diễn đàn của Đại hội này, Tổng Bí thư
Nguyễn Văn Linh tuyên bố “cởi trói”, “đổi mới tư duy”, với rất nhiều “việc cần làm
ngay” cho văn học. Văn nghệ sĩ phải đổi mới quan điểm sáng tác, đổi mới tư duy nhìn
vào “thẳng sự thật”. Nhà văn cần thể hiện hiện thực như nó vốn có, khơng ngợi ca theo
hướng rập khn, một chiều.
Giai đoạn này, có thể nói là giai đoạn sơi nổi nhất của đời sốíng văn nghệ ở Việt Nam,
trong mọi lĩnh vực từ âm nhạc, hội họa, sân khấu điện ảnh cho đến văn học đều cần có


một sự đổi mới và sự đổi mới ấy diễn ra vô cùng quyết liệt. Đổi mới văn học suy cho
cùng là đổi mới về quan niệm: quan niệm về con người, về đời sống và quan niệm về
bản thân văn học nghệ thuật.
Với đời sống xã hội, văn học giai đoạn 1986 - 1991 tập trung phản ánh hiện cuộc
sống vốn có của nó. Các nhà văn, nhà thơ không che khuất đi các mặc hạn chế, yếu kém
của xã hội mà họ nhìn thẳng vào hiện thực và phản ánh một cách chân thực. Các nhà
văn, nhà thơ đưa hiện thực cuộc sống ấy vào những trang viết của mình, khi đi vào tác
phẩm văn chương các tác giả đã bằng chính những tài hoa của bản thân trong việc sử
dụng hiệu quả các biện pháp nghệ thuật, để rồi hiện thực cuộc sống khắc nghiệt ấy được

con người nhìn nhận lại một cách tỉ mỉ hơn. Xong, việc nhìn nhận ấy khơng phải để con
người chê chán, phê phán cuộc sống này mà thơng qua đó con người rút ra được bài học
kinh nghiệm quý báu cho bản thân mình thơng qua cuộc sống, để rồi cải tiến đưa đất
nước đi lên, hướng tới một tầm cao mới.
về con người, văn học giai đoạn này quan tâm, đề cập nhiều hơn đến con người
cùng với sự thức tỉnh của ý thức cá nhân. Nếu văn học thời chiến đề cập đến những con
người mang tính hình mẫu chung, những con người có lí tưởng cao cả, thì đến giai đoạn
này những mong muốn, khát khao cá nhân được đưa lên vị trí hàng đầu. Các nhà văn,
nhà thơ bộc lộ những tâm tư tình cảm, những khát vọng, những nhu cầu cá nhân của con
người thông qua các nhân vật một cách cụ thể và sinh động. Các nhà văn, nhà thơ đã để
cho các nhân vật của mình tự do thỏa sức thể hiện khát vọng sống để từ đó bạn đọc có
thể thấu hiểu, đồng cảm và yêu mến nhân vật.
Trên tờ Văn nghệ, cơ quan ngôn luận của Hội nhà văn Việt Nam, số ra ngày 05
tháng 12 năm 1987, Nguyễn Minh Châu cho in bài phát biểu nổi tiếng “Hãy đọc lời ai
điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh ho ạ” Bài viết ra đời như là lời tuyên ngôn thể
hiện tinh thần đổi mới văn chương nói chung và của các nhà văn nói riêng. Lúc này khi
bàn về văn chương, thì ta thường xốy vào hai đề tài, thứ nhất là mối quan hệ giữa văn
nghệ và chính trị và thứ hai là văn học phản ánh hiện thực. Lúc này những câu hỏi như:
Văn học cần phản ánh hiện thực như thế nào?, Văn học phục vụ chính trị là như thế nào?
Đặc trưng của văn học là gì? Vì sao văn học cần đổi mới? được xới lên bàn bạc, phân
tích và giải quyết. Để rồi từ đó con người có cái nhìn đúng hơn, cụ thể hơn về sự đổi mới
văn học.
Một trong những đặc điểm mới cho tư duy của văn nghệ sĩ là sự tự do trong sáng


tác, người nghệ sĩ được vui buồn trong chính trang viết của mình Họ được tự do ngơn
luận, bình phẩm, lên án những hành vi tiêu cực trong xã hội. Mục tiêu của cơng cuộc đổi
mới này là vì con người. Nhà văn khai thác nhân vật trong những khía cạnh rất đời
thường: sự thức tỉnh quyền sống cá nhân và những khao khát bản năng của con người
trong “Bến không chồng” của Dương Hướng, số phận con người, đặc biệt là hình ảnh

người lính thời hậu chiến trong “Thân phận tình yêu” của Bảo Ninh; “Tướng về hưu”
của Nguyễn Huy Thiệp,..
Văn học Việt Nam giai đoạn 1886 - 1991 có nhiều khởi sắc tốt đẹp hướng tới một
tầm cao mới. Những tư duy mới mẻ, đã mang đến hàng loạt bài viết có nhiều giá trị tạo
nên một bầu khơng khí “trong lành”, “mát mẻ” và dân chủ cho văn học. Các nhà văn,
nhà thơ được sống thật, viết thật với những tâm tư tình cảm của mình. Một số tác phẩm
để lại tiếng vang và có giá trị to lớn: “Thời xa vắng” của Lê Lựu; "Đám cưới khơng có
giấy giá thú” của Ma Văn Kháng; “Ăn mày dĩ vãng” của Chu Lai; “Mảnh đất lắm rừng
nhiều ma” của Nguyễn Khắc Trường; “Bến không chồng” của Dương Hướng. Các sáng
tác của họ đã tạo nên một diện mạo mới cho nền văn học nước nhà.
1.1.3. Văn học giai đoạn 1992 đến nay
Từ những năm 1992 trở lại đây, nền văn học Việt Nam vẫn đang từng bước phát
triển mạnh mẽ và vững chắc. Bên cạnh những cây bút có sức ảnh hưởng to lớn đến văn
học thời đại mới như Chu Lai, Dương Hướng, Nguyễn Khắc Trường, Bảo Ninh, Nguyễn
Huy Thiệp,... thì lực lượng sáng tác cịn xuất hiện những tên tuổi mới đang từng ngày cố
gắng thúc đẩy văn học vươn lên tầm cao mới. Ta có thể kể đến một vài cây bút trẻ tiêu
biểu như Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Ngọc Tư, Vi Thùy Linh,... được giới nhà văn
đánh giá cao về tài năng cũng như lòng nhiệt huyết phục vụ cho văn học nghệ thuật.
Khi đất nước tràn ngập niềm vui mừng ngày thống nhất, nhân dân Việt Nam tích
cực lao động, phấn đấu thúc đẩy sự phát triển của kinh tế nước nhà. Thì lúc ấy, văn học
cũng loay hoay tìm cho mình một con đường mới để đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào hiện
thực đời sống. Con người được thể hiện ở những góc cạnh tâm hồn, tiếng nói cá nhân
được đề cao. Văn học nhìn lại con người ở những số phận rất chân thật. Con người được
sống với chính mình.
Trong mười năm đầu đổi mới văn học, từ năm 1975 đến 1985 được xem là giai
đoạn “khởi động”. Ta nói như thế vì trong những năm ấy văn học mặc dầu có sự đổi mới
nhưng chưa sâu sắc và toàn diện. Văn học chỉ đổi mới một cách triệt để sau khi Đại hội


Đảng lần thứ VI diễn ra vào năm 1986, lúc này ta thấy được một khơng khí tưng bừng,

sơi nổi đang diễn ra trong văn học Việt Nam. Các nhà thơ, nhà văn cho ra đời hàng loạt
các tác phẩm về đề tài về chiến tranh và chiến tranh thời hậu chiến, một cái nhìn mới,
một tư duy mới đối với đời sống, với con người như: “Đãi cát tìm vàng” của Nguyễn
Duy, “Hoa cỏ may” của Xuân Quỳnh, “Ta gửi cho mình” của Chế Lan Viên, “Quảng
đời đánh mất” của Dương Thu Hương, “Thời xa vắng” của Lê Lựu, “Bến không
chồng” của Dương Hướng,. Văn học giai đoạn từ 1992 đến nay văn học có nhiều bước
tiến mới, ngày càng khẳng định vị thế của bản thân trên trường quốc tế, với những cái
tên tiêu biểu như Nguyễn Ngọc Tư, Vi Thùy Linh, Nguyễn Việt Hà,.
Văn học Việt Nam thời kì đổi mới là một bước tiến lớn trong lịch sử văn học. Đánh
dấu sự tiến bộ văn học nghệ thuật, mà nó cịn là một đóng góp to lớn cho sự nghiệp phát
triển kinh tế nước nhà. Thông qua văn chương con người có thể rút ra cho mình một
kinh nghiệm sống, một triết lí sống. Vẻ đẹp của văn chương là vẻ đẹp mà con người luôn
mong muốn khám phá.
1.2. Đôi nét về nhà văn Dương Hướng
Vùng đất Thái Bình là quê hương của nhiều nhân tài như Thái úy Tô Hiến Thành;
nhà bác học lỗi lạc Lê Quý Đôn; linh từ quốc mẫu Trần Thị Dung;... đây là những nhân
vật có nhiều đóng góp trong sự nghiệp dựng nước, giữ nước và phát triển kinh tế trong
thời kì phong kiến. Và đến giai đoạn sau này vùng đất ven biển có khí hậu hài hịa này
cũng là nơi “chôn nhau cắt rốn” của nhà Văn Dương Hướng, một người lính, một nhà
văn tài hoa.
1.2.1. Cuộc đời
Nhà văn Dương Hướng sinh ngày 08 tháng 07 năm 1949, ông sinh ra tại thôn An
Lệnh, xã Thụy Liên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Dương Hướng là người được sinh
ra và lớn trên một vùng đất giàu truyền thống u nước, thương dân, chính vì thế từ lâu
trong ơng đã ý thức được trách nhiệm của bản thân là phải xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Điều này đã được chứng minh khi ơng tình nguyện đi cơng nhân quốc phịng làm nhiệm
vụ vận chuyển hàng hố lương thực trên tuyến Khu 4 phục vụ cho chiến trường miền
Nam vào tháng 09 năm 1965. Khơng dừng lại ở đó năm 1971, ông vào bộ đội chiến đấu
tại chiến trường Quân khu 5. Đến năm 1976, ông ra quân chuyển ngành về Cục Hải quan
Quảng Ninh và đã nghỉ hưu năm 2008. Và hiện nay, ông đang làm biên tập báo Hạ Long

tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Thành phố trẻ, đẹp, văn minh Hạ Long này


cũng là nơi dừng chân của Dương Hướng và gia đình.
1.2.2. Sự nghiệp
Nhà văn Dương Hướng bắt đầu viết văn từ năm 1985, bằng việc say sưa sáng tác
và bằng những cống hiến đầy giá trị của bản thân cho nền văn học nước nhà nên ông đã
sớm trở thành thành viên của hội nhà văn Việt Nam và ông được đánh giá là một trong
những gương mặt tiêu biểu của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Trong sự nghiệp sáng tác của mình Dương Hướng đã cho ra đời nhiều tác phẩm có
giá trị cao như tập truyện ngắn “Gót son” (1989); tiểu thuyết “Trần gian đời người”
(1991); tập truyện ngắn “Người đàn bà trên bãi tắm”; “Tuyển tập Dương Hướng”
(1997); và gần đây nhất là tiểu thuyết “Dưới chín tầng trời” (2007). Nhưng khi nhắc đến
các tác phẩm đặc sắc nhất, thành công nhất của nhà văn Dương Hướng thì chúng ta
khơng thể nào khơng nói đến cuốn tiểu thuyết “Bến không chồng” được nhà văn sáng
tác vào năm 1990. Tác phẩm này đã đạt được giải thưởng của hội nhà văn Việt Nam vào
năm 1991, và cũng chính tác phẩm này đã được dịch ra nhiều thứ tiếng như tiếng Ý,
tiếng Pháp, tác phẩm còn được chuyển thể thành phim nhựa dự liên hoan phim quốc tế
“Thái bình dương” và lên hoan phim Đức.
Với sự nỗ lực của bản thân, cùng với tài năng nghệ thuật và sự tâm huyết với nghề,
Dương Hướng đã đạt nhiều thành cơng trên con đường sự nghiệp văn chương. Ngồi
giải thưởng của hội nhà văn năm 1991 với tác phẩm “Bến khơng chồng” thì nhà văn cịn
đạt được một số giải thưởng danh giá khác như Giải thưởng Tạp chí Văn Nghệ Quân
Đội với truyện ngắn “Đêm trăng”. Giải A văn nghệ Hạ Long với tập truyện “Người đàn
bà trên bãi tắm”. Ơng cịn được tặng thưởng truyện ngắn hay tạp chí Đất Quảng với
truyện ngắn “Qng đời cịn lại” năm 1987; truyện ngắn hay Tạp chí Văn Nghệ Quân
Đội với tác phẩm “Người mắc bệnh tâm thần” năm 1989; truyện ngắn hay Tạp chí Văn
Nghệ Quân Đội với tác phẩm “Bến khách” năm 2007. Giải thưởng văn học Hạ Long với
tiểu thuyết “Dưới chín tầng trời” năm 2012.
Dương Hướng sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước và nhân dân phải gồng

mình gánh chịu sự áp lực của quân xâm lược. Thực dân Pháp, đế quốc Mĩ tranh nhau
khai thác tài nguyên để làm giàu cho chính quốc và với dã tâm lớn hơn là chúng muốn
cướp nước ta để mở rộng lãnh thổ. Dương Hướng biết rõ đời sống chiến trường gắn liền
với sự mất mác, đau thương. Với ý thức của một con người đất Việt luôn mang truyền
thống yêu nước nồng nàn và tinh thần trách nhiệm cao, nhà văn đã anh dũng đứng lên và


xung phong bước ra chiến trường để góp phần vào công cuộc giành lại độc lập tự do cho
dân tộc, cho non sông đất nước. Văn chương cũng là mối quan tâm của nhà văn, để rồi
họ cho ra đời nhiều tác phẩm có giá trị cao mang đầy tính hiện thực và đầy tính nhân
văn. Mặc dù Dương Hướng tham gia sáng tác văn chương có phần hơi muộn so với
nhiều nhà văn có tên tuổi trên thi đàn văn học lúc bấy giờ, nhưng ông đã bằng sự thơng
minh, bằng tài ba và lịng nhiệt huyết với nghề cũng như có cái nhìn hiện thực đầy tính
nhân văn cao cả mà ông đã cho xuất bản hàng loạt tác phẩm đạt giá trị cao được hội văn
học Việt Nam cơng nhận.
Khi tìm hiểu về nhà văn Dương Hướng, chúng ta sẽ thấy được ông là một người
rất xem trọng “cái nghiệp” văn chương. Tuy nó chỉ là một “nghề tay trái” nhưng tác giả
vẫn ln từng ngày tìm tòi, sáng tạo, nâng niu chúng như những “đứa con” của chính
bản thân mình. Ơng ln tận tụy với nghề, với cuộc sống và ơng đã đóng góp cho nền
văn học Việt Nam nhiều tác phẩm mang những giá trị hiện thực và nhân văn cao cả. Từ
những lí do trên, chúng ta có thể tin rằng Dương Hướng là một trong những cây bút trụ
cột trong văn học Việt Nam giai đoạn đổi mới.
1.3. Cảm hứng bi kịch trong văn học
1.3.1. Khái niệm bi kịch
Có nhiều định nghĩa viết về bi kịch, mỗi tác giả điều có một cái nhìn riêng, ở một
góc độ, một khía cạnh khác nhau.
Bi kịch (tiếng anh là tragedy) theo từ điển Bách khoa tồn thư Wikipedia là: “một
hình thức kịch dựa trên sự đau khổ của con người, khiến cho khán giả cảm thấy bị thu
hút hoặc hứng thú khi xem. Thể loại bi kịch thường được vận dụng vào các loại hình hư
cấu khác như phim ảnh, tiểu thuyết, truyện tranh, v.v nhằm tạo cho người xem những

mối đồng cảm với hoàn cảnh của nhân vật và đạt đến mức độ xúc động sâu sắc. Bi kịch
có thể là yếu tố chủ đề của tác phẩm, hoặc ám chỉ đến một kết thúc mà sự mất mát to lớn
về nhiều nghĩa là tâm điểm. ” [21]
Từ ý kiến này, chúng tôi nhận thấy văn học đổi mới đã được các tác giả hướng sự
quan tâm của mình đến cuộc sống thế sự, đời tư. Cảm hứng bi kịch khi con người không
thể đạt đến những điều mà mình mong muốn.
Với tác giả Adrian Poole: “Bi kịch là một từ cao quý, chúng ta dùng từ này để
mang lại cho bạo lực, tai ương, nỗi thống khổ, và sự mất mát cái kích thước phẩm giá
và giá trị. Bi kịch tuyên bố rằng cái chết này là khác thường. ” [23]


Từ hai khái niệm trên, chúng ta có thể rút ra nhận xét rằng bi kịch một hình thức
kịch, mà thơng qua nó nhà văn có thể thể hiện sự đau khổ, sự mất mác của con người và
bi kịch ở đây còn là sự đau buồn của con người khi những ước mơ, những khát vọng
sống, những nhu cầu riêng tư của bản thân không được thức hiện, không được giãi bày.
Đến với mỹ học thì tác giả định nghĩa bi kịch một cách hoa mỹ hơn, dùng từ mang
tính thẩm mỹ cao. Nhưng nội dung mà tác giả muốn người đọc nắm bắt cũng tương tự
với hai định nghĩa trên. Với mỹ học, cái bi chỉ xuất hiện khi cái đẹp sau bao đấu tranh
với lực lượng đối lập thì nó chết đi, khơng cịn tồn tại nữa, thì đó là bi kịch. Và bi kịch
cũng là sự tổn thất, là hậu quả mà con người phải gánh chịu.
Tóm lại, khi con người phải gánh chịu sự mất mát, hy sinh, sự tổn thất. Hay họ
phải đối đầu với những sầu muộn, những khát vọng cá nhân không ai giãi bày tâm sự và
những khát khao ấy họ không thực hiện được, con người trở nên bế tắc, tuyệt vọng, thì ta
gọi đó là bi kịch. Và từ những bi kịch ấy, ta thấy được sự đồng cảm, cảm thông giữa con
người với con người.
1.3.2. Cảm hứng bi kịch
Cảm hứng bi kịch ra đời từ rất sớm và nhanh chóng được cơng chúng đón nhận.
Từ thế kỉ thứ V trước công nguyên bi kịch cổ đại Hi Lạp đã ra đời. Và từ thế kỉ XVI XVII ở Châu Âu bắt đầu bùng nổ, phát triển bi kịch cổ điển, với các nhà văn có tên tuổi
như: Sêchpia, Raxin, Corney,... Lúc này cảm hứng bi kịch trong văn học được xem là
“một trạng thái tình cảm mãnh liệt” đồng hành cùng văn chương ở giai đoạn ban sơ, khi

con người có nhu cầu mượn văn chương để kí thác những nỗi niềm, những tâm trạng
cùng những giãi bày buồn vui đau khổ của bản thân.
Để ngiên cứu cảm hứng bi kịch chúng ta cần đặt nó trong mối quan hệ với cảm
hứng chủ đạo. Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần
Đình Sử và Nguyễn Khắc Phi đã đưa ra ra định nghĩa cảm hứng chủ đạo như sau: “Cảm
hứng chủ đạo là trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm xuyên suốt trong tác phẩm nghệ
thuật, gắn với một tư tưởng ác định, một sự đánh giá nhất định gây tác động đến cảm
xúc của những người tiếp nhận tác phẩm. (...) Về sau lí luận văn học xem cảm hứng chủ
đạo là một yếu tố của bản thân nội dung nghệ thuật, của thái độ tư tưởng và cảm xúc ở
nghệ sĩ đối với thế giới được miêu tả”. Cũng theo nhóm nghiên cứu này “Trong nghiên
cứu văn học hiện đại có người phân loại cảm hứng chủ đạo bi kịch, chính kịch, anh
hùng, cảm thương, lãng mạn, ...” [8; tr. 29]- hay còn gọi là cảm hứng bi kịch, chính


kịch, cảm thương, lãng mạn
Để hiểu cặn kẽ về “bi kịch” và “cảm hứng bi kịch” thì chúng ta cần đặt hai khái
niệm này trong sự đối sánh giữa hai khái niệm “cái bi” và “bi kịch”. Ở đây chúng ta có
thể thấy một điều khá rõ rằng nếu cảm hứng bi kịch mang tính chủ quan của nhà văn thì
bi kịch lại mang tính khách quan hơn, trong vai trò là một thể loại văn học với những
quy định, khuôn mẫu thể loại riêng buộc người viết phải tuân thủ. Chúng ta không được
đồng nhất “cảm hứng bi kịch” và “bi kịch” mặc dù giữa hai khái niệm này có sự gặp gỡ
nhau ở trạng thái buồn thảm, cảm xúc thương đau, có tính thống nhất.
Bên cạnh sự tương đồng với bi kịch thì cảm hứng bi kịch có nhiều nhiều mối liên
hệ tương giao với khái niệm cái bi, nhưng chúng cũng khơng bao giờ trùng khít hồn
tồn với nhau. Theo nhóm nghiên cứu Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi thì
cái bi là: “phạm trù mĩ học phản ánh một hiện tượng có tính quy luật của thực tế đời
sống xã hội thường diễn ra trong cuộc đấu tranh không ngang sức giữa cái thiện với cái
ác, cái mới với cái cũ, cái tiến bộ với cái phản độ)Hg... trong điều kiện những cái sau
còn mạnh hơn những cái trước. Đó là sự trả giá tự nguyện cho những chiến thắng và sự
bất tử về tinh thần bằng nỗi đau và cái chết của nhân vật chính diện. Cái bi tạo một cảm

xúc thẩm mỹ phức hợp bao hàm cả nỗi đau xót, niềm hân hoan lẫn nỗi sợ hãi khủng
khiếp. Cái bi thường đi liền với nỗi đau và cái chết, song bản thân nỗi đau và cái chết
chưa phải là cái bi. Chúng chỉ trở thành cái bi khi hướng tới và khẳng định cái bất tử về
mặt tinh thần của con người”[8; tr. 32].
Nhìn lại những chặn đường đổi mới của văn học sau năm 1975, cùng với chủ
trương của Đảng là: “Đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật” thì
văn học đã có những bước chuyển mình rõ rệt. Trong văn học nói chung và trong tiểu
thuyết giai đoạn sau 1975 nói riêng, mặc dù vẫn còn mang dư âm của cảm hứng lãng
mạn, anh hùng ca nhưng văn nghệ sĩ đã dần hướng ngòi bút vào những sáng tác mang
đầy cảm hứng thế sự. Trong đó họ đau đớn, trăn trở cùng nhân vật trong những cảm
hứng bi kịch đơi khi khơng lối thốt. Chúng ta có thể kể đến những đóng góp đáng kể
như: “Năm 1975 họ sống như thế nào ”, “Chim én bay” của Nguyễn Trí Hn; “Ăn
mày dĩ vãng”, “Vịng tròn đen bạc”, “Ba lần và một lần” của Chu Lai; “Thời xa vắng”
của Lê Lựu....
Bi kịch là một cảm hứng sáng tác trong văn học. Cảm hứng này chưa từng hoặc có
thì cũng rất ít và mờ nhạt trong văn học giai đoạn trước những năm 1975, đến khi hòa


bình lập lại non sơng được thu về một mối thì khi ấy cảm hứng bi kịch mới bắt đầu
khẳng định mình trên văn đàn Việt Nam. Nó xuất hiện như một luồng gió mới để con
người có thể nhìn thẳng vào hiện thưc, nhìn thẳng vào từng “ngõ ngách” của cuộc sống,
để rồi từ đó con người đề ra cho bản thân mình những hướng đi mới, định hướng cho
mình cho đất nước một tương lai sáng người để dần có thể sánh vai cùng các cường quốc
trên thế giới.
Cảm hứng bi kịch không phải xuất hiện để phơi bày những hiện thực tàn khốc, để
rồi con người phải chùng bước trước mọi khó khăn, huy hiểm. Mà nó xuất hiện với một
xứ mệnh cao cả hơn, đó là giúp con người nhận ra những thiếu xót, những khó khăn của
bản thân để cố vươn lên tìm cho mình một lối thốt. Ngồi ra cảm hứng bi kịch xuất hiện
cịn một tác dụng quan trọng hơn đó là giúp con người giãy bày những khát vọng, những
bế tắc của bản thân. Từ đó họ tìm được sự đồng cảm, chia sẻ của độc giả.


CHƯƠNG 2
BI KỊCH CỦA NGƯỜI LÍNH VÀ NGƯỜI PHỤ NỮ
TRONG TIỂU THUYẾT “BẾN KHÔNG CHỒNG”
2.1. Bi kịch của người lính
Đến với tác phẩm văn chương viết về đề tài chiến tranh, người đọc được tiếp cận
với hiện thực cuộc chiến và hình ảnh người lính ở những khía cạnh đa chiều. Sau năm
1975, mốc son đánh dấu Một thời đại khổ nhục nhưng vĩ đại của dân tộc đã đi qua. Đất
nước sau những năm tháng mưa bom bão đạn đang dần dần hồi phục. Con người trở về
từ cuộc chiến mang theo niềm tự hào, niềm vui chiến thắng của một thời “đất nước hát
đồng ca”. Thời chiến, người lính được miêu tả là những người dũng cảm, kiên trung với
niềm tin tưởng vào một tương lai tốt đẹp cho đất nước dù có phải hy sinh bản thân:
“Đồn giải phóng qn một lần ra đi / Nào có sá chi đâu ngày trở về /Ra đi ra đi bảo
tồn sông núi / Ra đi ra đi thà chết cho vinh. ”. Người lính của thời bình được các tác giả
miêu tả ở góc nhìn đời thường, góc nhìn thế sự.
Dương Hướng là nhà văn có tâm huyết với nghề. Ơng cũng hịa nhịp vào dòng
chảy của văn học giai đoạn đổi mới bằng nhiều tác phẩm phản ánh những bi kịch của
con người, trong đó có bi kịch của người lính: Dưới chín tầng trời, Trần gian đời người,
Bến không chồng... Nổi bật và tiêu biểu hơn cả là tiểu thuyết Bến không chồng. Trong
tác phẩm, chúng ta thấy được hai dòng cảm xúc phát triển song hành cùng nhau khá rõ
ràng, cảm xúc vinh dự, tự hào khi người lính Nguyễn Vạn trở về từ chiến trường với tên


gọi lính cụ Hồ. Những cống hiến của họ trong cuộc chiến được mọi người ngợi ca, khâm
phục. Sự chào đón nhiệt tình đầy trân trọng của những người thân quen mang đến cho
nhân vật cảm giác hân hoan khó tả. Dòng cảm xúc còn lại là những điều va vấp đến tội
nghiệp cho những con người đã quen cuộc sống đạn bom, nay trở về với cuộc sống
thường ngày, đơi khi họ khơng thể thích nghi, khơng thể hịa nhập được. Từ những khát
vọng, mong ước không thể thành, con người làng Đông rơi vào những bi kịch không lối
thốt. Đó là Nguyễn Vạn, là Nghĩa, là Thành, những con người đã từng vẫy vùng khơng

quản khó nhọc, chết chóc khi đối đầu với quân thù nhưng họ lại khơng đủ can đảm vượt
qua những định kiến về dịng họ, những quan niệm cổ hủ trong cách sống. Đó là Hạnh,
là bà Nhân, là Dâu, Thắm, Cúc, Nhài ... Những người phụ nữ kém may mắn soi cuộc đời
mình ở Bến không chồng. Họ cũng nhận những cay đắng bẽ bàng khi vùng vẫy để được
sống trọn vẹn với bản năng.
2.1.1. Bi kịch của nhân vật Nguyễn Vạn
Chiến tranh bao hàm những sự khốc liệt, hy sinh và mất mát. Một cuộc chiến dù là
chính nghĩa hay phi nghĩa thì người chịu khổ vẫn là nhân dân. Văn học giai đoạn 1945 1975 tập trung chủ đề về cuộc chiến hào hùng của dân tộc và người lính trong tâm thế
sẵn sàng ra trận, sẵn sàng hy sinh bản thân để đánh đổi nền hịa bình. Người lính của giai
đoạn văn học này thường dồn hết mọi tâm tư cho cuộc chiến, cho cách mạng. Những
riêng tư cá nhân thường bị gạt bỏ, phớt lờ hoặc giấu vào trong ít biểu hiện ra ngoài. Giai
đoạn văn học này lấy người lính làm nhân vật trung tâm. Sau đổi mới, văn học vẫn tiếp
tục chủ đề chiến tranh với cảm hứng sử thi và anh hùng ca. Văn nghệ sĩ khai thác hình
ảnh người lính với những nét tâm hồn khơng cịn đồng điệu của những năm "đất nước
có cùng một khuôn mặt". Mỗi con người là một tâm trạng rất riêng, khơng lẫn vào nhau.
Niềm vui ngày hịa bình được trở về đồn tụ với gia đình chưa hẳn là một niềm vui trọn
vẹn. Họ phải gánh chịu nỗi đau mà chiến tranh để lại hằn vết trên cơ thể. Nỗi đau ấy
ln giày vị, ám ảnh họ trong suốt qng đời cịn lại.
Bằng sự cảm thơng, đồng cảm sâu sắc với những người chiến sĩ nơi chiến trận,
Dương Hướng đã tái hiện lại bức tranh cuộc sống đời thường với những bi kịch của
người lính thời hậu chiến trong tiểu thuyết “Bến không chồng”. Ở những trang đầu của
tác phẩm, nhà văn đã miêu tả nhân vật “Nguyễn Vạn tập tễnh bước" về ngôi làng Đông.
Dáng đi của nhân vật bước trở về mảnh đất nơi mình sinh ra và lớn lên đầy thiêng liêng
và xúc động. Mỗi bước chân anh đi đến đâu đều gợi nhớ cho anh những ngày tháng mà


anh sống tại mảnh đất này. Thời ấy, cuộc sống của anh có cơ cực, có vất vả '"quanh năm
Vạn mặc quần cộc phơi tấm lưng trần trên lưng trâu" [29; tr.14]. Anh cũng có tuổi thơ
vui vẻ trên '"bãi chiến trường thời thơ ấu'" [29; tr.14]. Anh vẫn còn nhận ra nấm mộ bố
mình giữa một cánh mả Rốt dày đặc những ngơi mộ. Hồn thành nghĩa vụ với đất nước,

anh trở về và quỳ sụp trước mộ người đã sinh thành ra mình. Sự xa cách, niềm tiếc
thương bố đã khiến Nguyễn Vạn bật khóc. Trong phút chốc, bất giác anh "hoảng sợ
đứng dậy'" như lo lắng sẽ có người phát hiện ra người anh hùng chiến trận đang rơi lệ.
Từ dáng đi của anh cho thấy rằng chiến tranh đã tàn phá và cướp đi của con người quá
nhiều “trên cơ thể chú bây giờ đầy những vết sẹo” những vết sẹo mà anh phải mang
theo cả đời.
Người lính Nguyễn Vạn ngày trở về khơng chỉ có nỗi đau trên cơ thể, mà anh còn
phải chịu nhiều những nỗi đau từ ki kịch của cuộc đời. Nguyễn Vạn sống trong cảnh cơ
độc khơng người chăm sóc. Khi từ chiến trường ác liệt trở về, tài sản quý nhất của
Nguyễn Vạn lúc bấy giờ là những “những tấm huân chương rung rinh lấp lánh trên
ngực” [29; tr. 1]. Ngồi chúng ra thì hầu như Nguyễn Vạn khơng cịn tài sản gì có giá trị
đối với anh. Chính vì thế, ngồi việc chăm lo cơng việc của làng thì anh vẫn phải lao
động để tìm chén cơm manh áo như bao người nông dân khác. Một phần là do lao động
và ngun nhân chính là do mơi trường ở chiến trận đã đúc lại thành một Nguyễn Vạn
già nua, héo úa. Lúc Nguyễn Vạn ra đi vì sự nghiệp giải phóng dân tộc thì anh vẫn là
một thanh niên trai tráng, khỏe mạnh, nhưng chiến tranh khốc liệt đã bào mòn anh thành
một con người đầy những vết thương đau đớn. Nguyễn Vạn là một trong những số ít
người được quay trở về sau khi chiến tranh kết thúc. Ngày anh từ chiến trường trở về
anh khơng có được niềm vui đồn tụ gia đình. Tuổi xn cống hiến cho cuộc chiến
trường kì, gia đình cũng khơng, vợ con cũng khơng. Người có gia đình có con cái như
chồng bà Nhân thì phải nằm xuống nơi chiến trường. Cịn người được sống sót trở về thì
chẳng biết đồn tụ cùng ai. Ngoài việc hàn huyên cùng bà con làng xóm và thân tộc,
Nguyễn Vạn trở về ngơi nhà của mình trong cảnh lẻ loi, cơ đơn. Những khi tối lửa tắt
đèn khơng có ai kề bên chia ngọt sẻ bùi.
Mạch cảm xúc trong văn học trước 1975, các nhà văn thường xây dựng nhân vật ở
sự lãng mạn. Súng đạn nơi chiến trường không buông tha cho bất cứ ai. Vì vậy, đơi lúc
người tiền tuyến khơng muốn để nhớ để thương cho người ở lại còn người hậu phương
cũng không muốn làm gánh nặng cho người ra đi vì sự nghiệp lớn. Con người với những



tình cảm, tình yêu riêng tư lại phải nén lại, không thể giãi bày cho nhau. Họ dồn mọi tâm
tư cho con đường giải phóng dân tộc. Nhưng sâu thẳm trong họ vẫn khát khao hạnh phúc
gia đình. Những dịng thơ ấm áp tình đồng chí, đồng đội xen lẫn những suy nghĩ về một
hạnh phúc nhỏ nhoi của người chiến sĩ trong bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên là tiếng
nói rất chân thật của một thế hệ trẻ:
“Kì hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng.
Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa.
- Đằng nớ vợ chưa?
- Đằng nớ?
- Tớ còn chờ độc lập
Cả lũ cười vang bên ruộng bắp, Nhìn o thơn nữ cuối nương
dâu. ”
Những người lính trong thơ Hồng Nguyên đã biểu hiện nỗi niềm thầm kín. Với họ,
chỉ có thể xây dựng hạnh phúc riêng khi hạnh phúc chung được trọn vẹn. Không ai bảo
ai, tự bản thân họ, những người lính trẻ đều tự căn dặn mình dồn nén tình cảm riêng tư
để dành một tình yêu lớn cho đất nước.
Người lính Nguyễn Vạn trong “Bến không chồng” trở về quê khi tuổi đã xế chiều.
Cởi bỏ chiếc áo lính, anh quay về với hiện thực cuộc sống nhiều gian nan. Anh cũng
khát khao một mái ấm gia, muốn tìm cho mình một người để bầu bạn, quan tâm, chăm
sóc. Trong tâm trí anh cũng muốn có một gia đình để u thương. Anh muốn thổ lộ với
chị Nhân rằng “tôiyêu chị đấy, từ lâu rồi!”. Nhưng Nguyễn Vạn khơng thể thổ lộ tình
cảm với chị Nhân. Bởi giây phút này, Nguyễn Vạn mặc dù đã thốt ra khỏi hình ảnh của
người lính lo sự nghiệp chung cho dân tộc. Nhưng chính tại ngơi làng Đơng này, Nguyễn
Vạn không thể mở lời với người anh yêu thương vì “trên đời này cịn bao nhiêu chuyện
ràng buộc nào danh dự, uy lin...”. Tình cảm ấy bị ngăn cách bởi một bức tường thành vơ
hình nhưng có sức ảnh hưởng ghê ghớm. Đó là ý thức dịng họ, là ý nghĩ cổ hủ, lạc hậu
của Vạn. Anh cứ đắn đo giữa tình cảm và lý trí, một bên anh muốn cùng bà Nhân đi hết
quãng đường còn lại của cuộc đời, một bên anh lại nghĩ đến mối thù truyền kiếp của
dòng họ Nguyễn - Vũ, nghĩ đến việc bà Nhân là vợ của bạn mình nên khơng thể sánh
duyên, mặc dù tình cảm anh dành cho chị Nhân là rất nghiêm túc.

Nguyễn Vạn chọn cuộc sống lặng lẽ, cô đơn. Trong mối quan hệ với mọi người,
anh lấy sự lãnh đạm, khô khan, cứng nhắc để che giấu những nỗi niềm, khao khát riêng


tư, khơng dám “bước qua lời nguyền” giữa hai dịng họ để có được chút hạnh phúc
muộn mằn sưởi ấm quãng đời còn lại. Nếp sống thời chiến, lối tư duy thời chiến ngấm
sâu vào Vạn, biến anh thành một khối ý chí rắn đanh. Anh xa lạ với những buồn vui
thường tình của cõi người: “Điều dáng sợ nhất với Vạn là để mất lòng tin với với Đảng.
Từ một việc nhỏ Vạn cũng phải cân nhắc xem có phải đấy là lòng dân ý Đảng. Lâu nay
Vạn xét lại lịng mình và thấy rằng Vạn đã u thương chị Nhân. Đấy là do những giây
phút yếu hèn không kìm nén được. Lí trí khơng cho phép Vạn làm điều ấy. Điều ấy là lỗi
lầm đáng tiếc không xứng đáng với người chiến sĩ cách mạng, không xứng đáng với
lòng ngưỡng mộ của dân, làng họ mạc. Thời trai trẻ của vạn đã qua, Vạn sống với niềm
kiêu hãnh Vạn đã có ” [29; tr. 64]. Anh khơng muốn làm sụp đổ hình ảnh về một
Nguyễn Vạn có chiến tích lẫy lừng trong chiến đấu. Một con người cách mạng dù sống
trong hồn cảnh chiến tranh hay hịa bình cũng phải giữ bản thân sao cho xứng đáng với
sự tin tưởng của nhân dân.
Con người bản năng với những nhu cầu sinh lí là một điều tất yếu của bất kì ai.
Nhu cầu này khơng có gì để phải chê cười. Nhưng với Nguyễn Vạn, anh muốn trở thành
một tấm gương cho người dân làng Đông. Anh cố cất giấu, cố chối bỏ những ham muốn
mà đáng lẽ ra mình phải có. Chị Nhân là người mà Nguyễn Vạn dành cho sự yêu thương
chân thành. Trong một đêm mưa gió, Nguyễn Vạn và chị Nhân tưởng như đã tìm thấy
nhau. Chị Nhân là người chủ động trong châu chuyện này. Giây phút ở bên chị, Nguyễn
Vạn đã được sống với chính mình “chị thấy hai bàn tay chú Vạn lướt nhẹ trên khắp cơ
thể chị”. Hai con người như được sống trọn cảm giác ái ân. Nhưng bất chợt, họ tự thức
tỉnh lẫn nhau “chị thở hổn hển thoát khỏi vòng tay chú Vạn. Bất chợt cả hai đều vùng
dậy hoảng hốt nhảy ra khỏi giường”. Cả hai ngượng nghịu, khỏa lấp câu chuyện này
bằng một câu chuyện khác:
“- Chú bắt được ở đâu mà nhiều cá rô thế
- Ở ngồi bờ sơng... mưa đầu mùa cá rơ lóc nhiều vô kể”.

Con người bản năng ẩn nấp trong vẻ bề ngoài rắn chắc của Nguyễn Vạn thật đáng
tội nghiệp. Với mụ Hơn, Nguyễn Vạn cảm thấy khơng có chút tình cảm gì “cái con mụ
Hơn đến là dơ. Dơ khơng chịu được. Trong hai con mắt nó cứ rừng rực”. Sự kiện quan
trọng ảnh hưởng đến cả cuộc đời Nguyễn Vạn là lần anh phải đối mặt với con người bản
năng trong cơn say rượu. Lúc ấy “cánh cửa bỗng mở toang, bóng một người đàn bà ào
vào lao tới giường ghì lấy Vạn”. Nguyễn Vạn đã thất bại hồn tồn “Vạn bng thả cho


×