Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

Chiến lược lịch sự trong hội thoại qua khảo sát tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh của nguyễn nhật ánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.59 KB, 64 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA NGỮ VĂN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NIÊN KHÓA 2016 - 2017
CHIẾN LƯỢC LỊCH Sự TRONG HỘI THOẠI
(QUA KHẢO SÁT TÔI THẤY HOA VÀNG TRÊN CỎ XANH CỦA
NGUYỄN NHẬT ÁNH)
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Dương Thanh Trúc
Giáo viên hướng dẫn: Th.S Hồng Thị Thắm
Lớp: D13NV02
Khố: 2013 - 2017
Hệ: Chính quy

—^oơo^—

Bình Dương, ngày 27/04/2017


TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

KHOA NGỮ VĂN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
••••
NIÊN KHỐ: 2016 - 2017

CHIẾN LƯỢC LỊCH Sự TRONG HỘI THOẠI
(QUA KHẢO SÁT TÔI THẤY HOA VÀNG TRÊN CỎ XANH CỦA
NGUYỄN NHẬT ÁNH)



Người hướng dẫn: Th.S Hoàng Thị Thắm
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Dương Thanh Trúc
Lớp: D13NV02
Khóa: 2013 - 2017
Hệ: Chính quy

—^o0o^—

Bình Dương, tháng 04 năm 2017


LỜI CẢM ƠN
Q Thầy, Cơ kính mến!
Mới ngày nào em còn bỡ ngỡ, rụt rè bước chân vào giảng đường đại học mà thấm
thoắt 4 năm đã trôi qua. Em nay đã trưởng thành và sắp sửa chắp cánh bay đi, thực hiện
sự nghiệp cao quý của nghề nhà giáo. 4 năm- một khoảng thời gian tuy không quá dài
nhưng cũng không phải là ngắn, ở mái trường này, các Thầy Cơ ở khoa Ngữ văn đã
bằng tất cả tình u thương và lịng u nghề của mình để quan tâm, giúp đỡ và bảo ban
chúng em, đã ở bên cạnh trong giai đoạn chúng em khó khăn nhất, xa gia đình, thiếu
thốn tình cảm, chập chững nơi đất khách quê người! Chú chim bé nhỏ ngày nào giờ đây
sắp phải xa quý Thầy Cô để bay đến những chân trời mới nhưng sẽ mãi nhớ về các
Thầy Cô và về mái ấm gia đình Khoa Ngữ văn. Với lịng biết ơn của mình, em xin gửi
lời tri ân đến quý Thầy Cô ở Khoa Ngữ văn- Trường Đại học Thủ Dầu Một. Cảm ơn
những người cha, người mẹ kính yêu đã truyền đạt cho chúng em rất nhiều kiến thức
q báu. Đó sẽ là hành trang vơ giá mà chúng em luôn mang theo trên chặng đường sắp
tới.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến Th.S Hồng Thị
Thắm. Cơ là người đã tận tâm hướng dẫn em từng bước trong quá trình thực hiện đề tài
này. Khóa luận khơng chỉ là sản phẩm học tập của cá nhân em mà còn ẩn chứa trong đó

biết bao cơng sức dạy dỗ và tâm huyết của Cô. Em cảm thấy rất vui và vinh dự vì được
học với Cơ. Em cảm ơn Cơ đã ln yêu thương, động viên, bảo ban và giúp đỡ em
trong q trình thực hiện khóa luận. Em hứa sẽ ln ghi nhớ những chia sẻ, những lời
dạy bảo mà Cô dành cho em!
Cuối cùng, em kính chúc q Thầy, Cơ trong khoa Ngữ Văn luôn dồi dào sức
khỏe và thành cơng trong sự nghiệp cao q!
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh nhất, song
chắc chắn khóa luận này khơng thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định mà bản thân


em chưa nhận thấy được. Em rất mong nhận được sự góp ý của q Thầy, Cơ giáo để
khóa luận được hồn chỉnh hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn!
Bình Dương, ngày 27 tháng 04 năm 2017 Sinh
viên

Nguyễn Dương Thanh Trúc


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết quả nêu
trong khóa luận là trung thực và chưa được công bố trong các cơng trình khác.
Sinh viên

Nguyễn Dương Thanh Trúc


MỤC LỤC
••
Trang

LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
PHẦN MỞ ĐẦU
PHẦN NỘI DUNG.................................................................................................... 8
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN...............................................................................8
1.1

Lí thuyết hội thoại.................................................................................... 8

1.1.1

Định nghĩa......................................................................................... 8

1.1.2.

Cấu trúc hội thoại ................................................................................ 9
1.1.2.1. Cuộc thoại ..................................................................................... 9
1.1.2.2. Đoạn thoại ..................................................................................... 9
1.1.2.3 Cặp thoại ....................................................................................... 10
1.2.2.4 Tham thoại ..................................................................................... 11
1.2.2.5 Hành động nói năng ...................................................................... 12

1.1.3 Các quy tắc hội thoại ........................................................................................ 12
1.1.3.1 Quy tắc điều hành luân phiên lượt lời.............................................12
1.1.3.2 Quy tắc điều hành nội dung của hội thoại ......................................13
1.1.3.3 Quy tắc chi phối quan hệ liên cá nhân- phép lịch sự.......................14
1.2 Lí thuyết về lịch sự ....................................................................................14
1.2.1

Định nghĩa ............................................................................................14


1.2.2

Các hướng nghiên cứu lịch sự trong giao tiếp ......................................17
1.2.2.1 Hướng xem xét theo chuẩn mực xã hội ..........................................17
1.2.2.2 Hướng xem xét theo quy tắc hội thoại............................................18
1.2.2.3 Hướng xem xét theo cộng tác hội thoại .........................................19
1.2.2.4 Hướng xem xét theo thể diện .........................................................19
1.3. Giới thuyết về nhà văn Nguyễn Nhật Ánh và tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên
cỏ xanh ..............................................................................................................21


1.3.1. Cuộc đời và sự nghiệp ....................................................................... 21
1.3.2. Tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh ......................................... 23
CHƯƠNG 2:
PHƯƠNG TIỆN NGÔN NGỮ THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC LỊCH SỰ TRONG HỘI
THOẠI Ở TÔI THẤY HOA VÀNG TRÊN CỎ XANH .............................................. 25
2.1 Dùng từ ngữ xưng hô.................................................................................25
2.1.1 Xưng hô chuẩn mực..............................................................................26
2.1.2 Xưng hô thân thiện ..............................................................................28
2.2 Dùng trợ từ..................................................................................................31
2.3 Dùng hô ngữ ..............................................................................................34
2.4 Dùng các yếu tố rào đón ............................................................................35
CHƯƠNG 3: .........................................................................................................39
GIÁ TRỊ CỦA CÁC PHƯƠNG TIỆN NGÔN NGỮ THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC
LỊCH SỰ TRONG HỘI THOẠI Ở TÔI THẤY HOA VÀNG TRÊN CỎ XANH 39
3.1 Phác họa tính cách nhân vật.......................................................................39
3.1.1 Nhân vật Tường....................................................................................39
3.1.2. Nhân vật Thiều ....................................................................................43
3.2 Khắc họa những đặc trưng trong văn hóa giao tiếp của người Việt ...........49

3.2.1 Thông qua cách dùng từ ngữ xưng hô...................................................50
3.2.2 Thơng qua việc sử dụng các hành vi rào đón .......................................53
KẾT LUẬN ..............................................................................................................56
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TƯ LIỆU KHẢO SÁT.......................59


PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
L. Pheurbach đã từng nói: “Con người cá thể khơng chứa bản chất con người ở

trong mình.. .Bản chất con người chỉ bộc lộ ra trong giao tiếp, trong thể thống nhất
giữa con người với con người. Con người để cho mình chỉ là con người theo nghĩa
thơng thường, cịn con người trong giao tiếp với đồng loại, trong sự thống nhất giữa
Tôi với Anh mới chính là Thượng đế”. Đúng như vậy, giao tiếp chính là nhu cầu
khơng thể thiếu trong cuộc sống của con người và cũng là điều kiện để con người bộc
lộ bản thân mình. Đặc điểm của nền văn minh nơng nghiệp lúa nước, tính cố kết cộng
đồng bền vững và bắt rễ sâu vào trong tâm thức lớp lớp các thế hệ nên với người dân
Việt Nam, vấn đề giao tiếp lại càng được coi trọng. Vì coi trọng nên người Việt khơng
chỉ thích giao tiếp, thích tìm hiểu, quan sát mọi người thông qua giao tiếp mà cịn ln
cố gắng để cuộc giao tiếp đạt được hiệu quả như mong muốn. Và lịch sự chính là một
trong những yếu tố được người Việt đặt lên hàng đầu để đảm bảo cho việc giao tiếp
được thuận lợi, tranh thủ được sự hợp tác của người khác. Nói như vậy để thấy được
rằng, tìm hiểu về lịch sự cũng chính là tìm hiểu về một nét đẹp trong văn hóa giao tiếp
của người Việt.
Mặt khác, đứng ở góc cạnh ngôn ngữ học, đặc biệt ở phân ngành Dụng học, lịch
sự trong hội thoại đang là mảnh đất vẫn còn rất mới, rất cần được các nhà ngôn ngữ
học khai phá. Tìm hiểu về lịch sự là một vấn đề rất thú vị nhưng cũng không hề dễ
dàng. Bởi lẽ, lịch sự không phải là một vấn đề thuần túy ngơn ngữ học mà nó cịn chịu

tác động, cịn bị chi phối bởi các yếu tố phi ngôn ngữ như: ngữ cảnh giao tiếp, vai
giao tiếp, văn hóa, phong tục, tập quán,... Chính điều này càng thu hút, thúc đẩy người
viết đi sâu vào tìm hiểu về vấn đề lịch sự trong hội thoại.
Bên cạnh đó, mặc dù đã có một số cơng trình nghiên cứu đưa ra những lí thuyết
về chiến lược lịch sự trong giao tiếp, nhưng những cơng trình vận dụng lí thuyết ấy
vào thực tế hội thoại trong tác phẩm văn học lại rất khan hiếm. Trong giới hạn của
mình, người viết chỉ tìm được một số cơng trình nghiên cứu lịch sự trong giao tiếp
ngơn ngữ, trong hành động cầu khiến tiếng Việt. Số lượng đề tài nghiên cứu về lịch sự
trong hội thoại ở một tác phẩm văn học hầu như khơng có. Nếu có, chỉ là những cơng
Trang 1


trình nghiên cứu hội thoại (có kèm một nội dung nhỏ về lịch sự) trong một số tác
phẩm văn học lớn như: Truyện Kiều, Số đỏ, các tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp
trước năm 2000,...
Trong những năm gần đây, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh của Nguyễn Nhật
Ánh là một trong những tác phẩm văn học đương đại hiếm hoi nhận được sự chú ý
đặc biệt của công chúng. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào nghiên cứu về tác phẩm
này trên phương diện ngôn ngữ. Thế giới nhân vật trong tác phẩm không chỉ là thế
giới trẻ con, mà còn là tổng hòa những mối quan hệ giữa các em với người lớn nên sẽ
xuất hiện rất nhiều mối quan hệ giao tiếp khác nhau. Hơn nữa, các cơng trình tìm hiểu
về lịch sự trong các tác phẩm văn học đương đại dường như ít được các tác giả quan
tâm tìm hiểu. Trong khi đó, theo người viết, chiến lược lịch sự trong những tác phẩm
văn học đương đại sẽ phản ánh cách thức giao tiếp của người Việt trong bối cảnh hiện
nay. Điều này càng thôi thúc người viết thực hiện đề tài liên quan đến tác phẩm trên.
Đó là tất cả những lí do để người viết lựa chọn thực hiện đề tài “Chiến lược lịch
sự trong hội thoại (Qua khảo sát Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh của Nguyễn Nhật
Ánh)”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Lịch sự được câu thúc bởi quan hệ liên cá nhân, là một trong những quy tắc chi

phối hội thoại. Do đó khi nghiên cứu về hội thoại khơng thể không đề cập đến lịch sự.
Điều này đã được minh chứng qua hầu hết các cơng trình nghiên cứu hội thoại. Tuy
nhiên, xem xét hội thoại một cách quy mô, công phu và sâu sắc phải kể đến các tác
giả: Robin Lakoff, Geoffery Leech, George Yule, Penelop Brown & Stephen
Levinson. Đây là những tác giả nổi bật nhất đã đưa ra những cơng trình nghiên cứu
của mình về vấn đề lịch sự trong giao tiếp.
R. Lakoff (1973) là người mở đầu cho việc nghiên cứu lịch sự trong ngôn ngữ.
Kế thừa và phát huy nguyên tắc cộng tác (cooperative principle) trong lí thuyết hội
thoại của Grice, tác giả này đã mở rộng các khái niệm về quy tắc ngữ pháp và khái
niệm về tạo dựng các hình thức phù hợp với ngữ dụng học. Theo Lakoff “lịch sự là
tôn trọng nhau”. Nó là một biện pháp dùng để giảm bớt trở ngại trong tương tác giao
tiếp giữa các cá nhân.
Trang 2


Phép lịch sự của Leech (1983) được xây dựng dựa trên khái niệm “thiệt hại”
(cost) và “lợi ích” (benefit) giữa người nói và người nghe do ngơn từ gây nên. Sự thay
đổi mức độ lợi- thiệt trong một phát ngôn, do đó, sẽ làm thay đổi mức độ lịch sự trong
lời nói. Theo Leech, lịch sự là sự bù đắp những hao tổn, thiệt thịi do hành động của
người nói gây ra cho người đối thoại. Cũng theo Leech, có những hành vi tại lời mang
bản chất cố hữu là không lịch sự, chẳng hạn hành vi ra lệnh, nhưng cũng có những
hành vi tại lời lại mang bản chất cố hữu là lịch sự như sự khen, tặng.
Có thể nói, Penelop Brown & Stephen Levinson (1978- 1987) là hai tác giả lớn
và có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong lĩnh vực nghiên cứu về lịch sự. Dựa trên khái
niệm thể diện (face) của Goffman (1973), Brown và Levinson đã phân biệt hai
phương diện của thể diện, đó là thể diện dương và thể diện âm hay còn gọi là thể diện
tích cực và thể diện tiêu cực. Cũng chính Brown và Levinson là những tác giả đã đưa
ra hai chiến lược lịch sự cơ bản, lịch sự dương tính và lịch sự âm tính nhằm giảm
thiểu mức độ “mất thể diện” cho những đối tượng tham gia giao tiếp. Mặc dù lí thuyết
của Brown và Levinson vẫn chưa hồn toàn thỏa đáng khi cho rằng lịch sự là một

chiến lược giao tiếp của cá nhân mà bỏ qua sự ảnh hưởng của các chuẩn mực xã hội
trong ứng xử bằng ngơn ngữ nhưng lí thuyết này vẫn được xem là có sức giải thích
lớn nhất.
Sau Brown và Levinson, Yule (1996) cũng có thảo luận về vấn đề lịch sự và
tương tác trong Pragmatics. Tuy nhiên, nhìn chung, so với lí thuyết của Brown và
Levinson thì nghiên cứu của Yule cũng khơng có gì mới hơn.
Ở Việt Nam, bắt đầu từ những năm 90, vấn đề lịch sự trong ngôn ngữ cũng bắt
đầu được nghiên cứu. Người mở đầu cho xu hướng này là tác giả Nguyễn Đức Dân
với công trình Ngữ dụng học (1998) khi ơng đề cập đến ngun lí lịch sự thơng qua
việc bàn luận về vấn đề thể diện trong lí thuyết của Brown và Levinson cũng như nêu
ra những điểm chưa thỏa đáng trong lí thuyết của Leech.
Đến năm 2000, trong cuốn Dụng học Việt ngữ, Nguyễn Thiện Giáp cũng điểm qua lí
thuyết về lịch sự và giao tiếp.
Trong Đại cương ngôn ngữ học, tập hai, Ngữ dụng học (2001), tác giả Đỗ Hữu Châu
đã đưa ra các quan điểm về lịch sự tương đối hồn chỉnh bên cạnh việc phân tích
Trang 3


những lí thuyết về lịch sự của Robin Lakoff, Geoffery Leech, George Yule, Penelop
Brown & Stephen Levinson.
Ngoài ba tác giả trên, còn một số bài viết rải rác trên các báo và tạp chí, một số luận
án cũng đề cập các vấn đề liên quan đến phép lịch sự trong giao tiếp ngơn ngữ như: Lê
Thị Kim Đính, Lịch sự trong hành động cầu khiến tiếng Việt, Luận văn thạc sĩ ngành
Ngôn ngữ học, 2006; Lê Thị Thúy Hà, Lịch sự trong hành động ngôn từ phê phán của
người Việt và người Anh, Luận văn tiến sĩ ngành ngôn ngữ học, 2015; Tạ Thị Thanh
Tâm, Lịch sự trong một số nghi thức giao tiếp tiếng Việt, Luận văn tiến sĩ ngành ngôn
ngữ học, 2008...Tuy nhiên, vấn đề ứng dụng những lí thuyết về lịch sự trên để đi sâu
tìm hiểu về chiến lược lịch sự trong hội thoại ở tác phẩm văn học vẫn cịn khá ít ỏi. Số
lượng các cơng trình được cơng bố khơng nhiều. Qua khảo sát, người viết chỉ tìm
được cơng trình của Vũ Thị Minh Nguyệt, Lịch sự trong hành động thỉnh cầu và hành

động hồi đáp trong một số tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại, Luận văn thạc sĩ
ngành Ngôn ngữ học, 2015. Chính vì thế, việc nghiên cứu về vấn đề lịch sự nói chung,
lịch sự trong một tác phẩm văn học nói riêng đang rất cần sự quan tâm tìm hiểu và đầu
tư của các nhà nghiên cứu.
Nguyễn Nhật Ánh là nhà văn tiêu biểu của văn học đương đại. Chính vì vậy, có
khơng ít các cơng trình nghiên cứu các tác phẩm của ơng trên mọi bình diện: văn học,
điện ảnh, sân khấu... Từ bình diện văn học có thể kể đến các cơng trình của: Đỗ Ngọc
Quỳnh Như, Kết cấu cốt truyện "Kính vạn hoa" của Nguyễn Nhật Ánh, 2014; Nguyễn
Thị Thuấn, Nghệ thuật trần thuật trong tác phẩm Ngồi khóc trên cây của Nguyễn
Nhật Ánh, 2014,...Từ bình diện sân khấu có thể kể đến cơng trình của: Lê Anh Tuấn,
Phim truyện chuyển thể từ tác phẩm của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh- Thành công và
hạn chế, 2016. Tuy nhiên, trong chừng mực nghiên cứu của chúng tôi thì chưa có
cơng trình nào nghiên cứu trên bình diện ngôn ngữ các tác phẩm của nhà văn, bao
gồm cả việc nghiên cứu về khía cạnh lịch sự trong hội thoại.
Chính vì vậy, với đề tài “Chiến lược lịch sự trong hội thoại (Qua khảo sát Tôi
thấy hoa vàng trên cỏ xanh của Nguyễn Nhật Ánh)”, người viết hi vọng sẽ mang đến
một cơng trình tìm hiểu hồn tồn mới mẻ, vận dụng được những lí thuyết lịch sự
trong hội thoại để giải quyết, phân tích những tình huống hội thoại hết sức đặc sắc và
Trang 4


thú vị trong bộ truyện dài nổi tiếng đã đem lại cho nhà văn nhiều giải thưởng danh giá
trong 8 năm trở lại đây.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Người viết thực hiện đề tài nghiên cứu này nhằm những mục đích sau đây:
So với một số tác phẩm văn học khác, trong Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh,
mối quan hệ giữa các nhân vật chủ yếu là quan hệ ngang hàng. Hơn thế, đây lại là một
tác phẩm được viết trong khơng gian đương đại. Chính vì vậy, thơng qua khảo sát sẽ
làm sáng rõ những phương tiện ngôn ngữ thường được các nhân vật giao tiếp có vị thế

ngang hàng nhau sử dụng để duy trì việc thực hiện chiến lược lịch sự trong giao tiếp
hiện nay.
Bên cạnh đó, khóa luận này cũng sẽ chỉ ra được giá trị của việc sử dụng những
phương tiện ngơn ngữ duy trì chiến lược lịch sự trong hội thoại đối với việc góp phần
khắc họa tính cách nhân vật cũng như phác họa những đặc trưng văn hóa trong giao
tiếp của người Việt.
3.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Có rất nhiều phương tiện ngơn ngữ góp phần thực hiện chiến lược lịch sự trong hội
thoại. Tuy nhiên, ở khóa luận này, người viết chỉ khảo sát những phương tiện ngôn
ngữ được sử dụng nhiều và có tầm quan trọng đặc biệt trong các cuộc thoại: dùng các
từ ngữ xưng hô, dùng hô ngữ, dùng trợ từ và các yếu tố rào đón.
Phạm vi ngữ liệu khảo sát là các cuộc thoại trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên
cỏ xanh.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1 Phương pháp thống kê
Dựa trên tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh của Nguyễn Nhật Ánh, người
viết sẽ thống kê các cuộc thoại điển hình phục vụ cho mục đích phân tích các phương
tiện ngơn ngữ chủ yếu được nhà văn sử dụng để thực hiện chiến lược lịch sự trong hội
thoại: dùng từ ngữ xưng hô, dùng hô ngữ, dùng trợ từ và các yếu tố rào đón.
4.2 Phương pháp xã hội- dân tộc học
Lịch sự là một chiến lược trong giao tiếp của con người. Sự giao tiếp lại là một
Trang 5


hoạt động mang tính xã hội. Vì thế, những yếu tố liên quan đến con người và xã hội
như tâm lí, phong tục, văn hóa, dân tộc,...là khơng thể bỏ qua trong q trình nghiên
cứu về lịch sự.
Chính vì thế, trong bài nghiên cứu của mình, người viết cũng sử dụng phương pháp
xã hội- dân tộc học để giải thích cách sử dụng những phương tiện ngôn ngữ trong giao
tiếp của người Việt ở Nam Bộ.

4.3 Phương pháp miêu tả và phân tích hội thoại
Người viết sử dụng hai phương pháp này trong q trình mơ tả, phân tích các ngữ
liệu để tìm ra các phương tiện ngơn ngữ thực hiện chiến lược lịch sự trong hội thoại
giữa các nhân vật cũng như đưa ra những giá trị của việc sử dụng các phương tiện
ngơn ngữ đó.
4.4 Phương pháp diễn dịch và quy nạp
Người viết sử dụng phương pháp này trong quá trình dẫn dắt và đưa ra từng kết
luận của khóa luận.
5. Cấu trúc của khóa luận
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phần Nội dung của khóa luận được
chia làm ba chương:
Chương 1. Cơ sở lí luận
1.1 Lí thuyết hội thoại
1.2 Lí thuyết về lịch sự
1.3 Giới thuyết về nhà văn Nguyễn Nhật Ánh và tác phẩm Tôi thấy hoa
vàng trên cỏ xanh
Chương 2. Phương tiện ngôn ngữ thực hiện chiến lược lịch sự trong Tôi thấy hoa
vàng trên cỏ xanh
2.1 Dùng từ ngữ xưng hô
2.2 Dùng trợ từ
2.3 Dùng hô ngữ
2.4 Dùng các yếu tố rào đón
Chương 3. Giá trị của việc sử dụng các phương tiện ngôn ngữ thực hiện chiến lược
lịch sự trong Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh
Trang 6


3.1 Phác họa tính cách nhân vật
3.1.1 Nhân vật Tường
3.1.2 Nhân vật Thiều

3.2

Khắc họa những đặc trưng trong văn hóa giao tiếp của người Việt

3.2.1 Thông qua cách dùng từ ngữ xưng hô
3.2.2 Thông qua việc sử dụng các hành vi rào đón

Trang 7


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1 Lí thuyết hội thoại
1.1.1 Định nghĩa
Trong nghiên cứu Việt ngữ học hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về hội
thoại (conversation). Hầu hết các tác giả đều định nghĩa về hội thoại một cách sơ bộ,
có tính chất giả thiết để nghiên cứu.
Tác giả Đỗ Hữu Châu trong cuốn Đại cương ngôn ngữ học, tập 2 xác lập khái
niệm hội thoại: Hội thoại là hình thức giao tiếp thường xuyên, phổ biến của ngơn ngữ,
và cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ khác. Tác giả cũng chỉ ra
rằng, các cuộc hội thoại thường khác nhau ở những phương diện sau đây: đặc điểm
của thoại trường, số lượng người tham gia hội thoại, cương vị và tư cách của những
người tham gia hội thoại, có đích hay khơng có đích đến, tính có hình thức hay khơng
có hình thức, vấn đề ngữ vực.
Tác giả Nguyễn Đức Dân trong cuốn Ngữ dụng học khẳng định: “Trong giao tiếp
hai chiều, bên này nói, bên kia nghe và phản hồi trở lại. Lúc đó vai trị của hai bên
thay đổi. Bên nghe lại trở thành bên nói và bên nói lại trở thành bên nghe. Đó là hội
thoại” [tr.76]. Tác giả cũng chỉ ra rằng: “Trong các loại hội thoại thì song thoại là quan
trọng nhất”.
Tác giả Đỗ Thị Kim Liên trong cuốn Giáo trình Ngữ dụng học, lại có một cách

định nghĩa khác: “Hội thoại là một trong những hoạt động ngôn ngữ thành lời giữa hai
hay nhiều nhân vật trực tiếp, trong một ngữ cảnh nhất định mà giữa họ có sự tương tác
qua lại về hành vi ngôn ngữ hay hành vi nhận thức nhằm đi đến một đích nhất định”
[tr.18].
Như vậy, có thể nhận thấy mặc dù cách định nghĩa, cách quan niệm có thể khác
nhau nhưng nhìn chung nội hàm của khái niệm hội thoại của các tác giả nêu trên cơ
bản là tương đồng. Người viết cũng đồng tình với các tác giả và cho rằng hội thoại là
hoạt động giao tiếp bằng lời giữa những người tham gia giao tiếp nhằm hướng đến
một mục đích nào đó. Hội thoại diễn ra trong một ngữ cảnh nhất định, mà ở đó giữa
các nhân vật tham gia giao tiếp có sự tương tác lẫn nhau nhằm đạt được mục đích giao


tiếp.
1.1.2. Cấu trúc hội thoại
Các đơn vị tham gia cấu trúc hội thoại gồm có: cuộc thoại, đoạn thoại, cặp thoại,
tham thoại và hành động ngơn trung (cịn gọi là hành vi ngơn ngữ).
1.1.2.1. Cuộc thoại
Cuộc thoại hay cịn gọi là cuộc tương tác (interaction) là đơn vị hội thoại bao
trùm, lớn nhất. Có thể nói tồn bộ hoạt động ngôn ngữ của con người là một chuỗi
dằng dặc những lời đối đáp. Thông thường, để xác định một cuộc thoại có thể dựa vào
các tiêu chí sau đây:
-

Nhân vật hội thoại: có thể có hai, ba hoặc nhiều người tham gia.

-

Tính thống nhất về thời gian và địa điểm diễn ra cuộc hội thoại.

-


Tính thống nhất về đề tài diễn ngôn. Các tham thoại cấu thành cuộc thoại phải có

xu hướng thống nhất về chủ đề.
-

Tiêu chí về các dấu hiệu định ranh giới cuộc thoại. Thơng thường có những dấu

hiệu mở đầu cuộc thoại (như ở cuộc họp, người điều khiển có thể tuyên bố khai mạc
và tuyên bố đề tài) và dấu hiệu kết thúc (lời tuyên bố bế mạc). Trong trị chuyện thơng
thường, giữa những người lạ, dấu hiệu mở đầu có thể là lời chào hỏi, dấu hiệu kết thúc
có thể là những câu hỏi kiểu như: cịn gì nữa khơng nhỉ? hoặc những lời như: thế thôi
nhé v.v...
1.1.2.2. Đoạn thoại
Đoạn thoại là đơn vị gồm một số cặp trao lời, đáp lời có sự liên kết chặt chẽ với
nhau về chủ đề và mục đích. Đoạn thoại thường gồm các phần: mở thoại, thân thoại và
kết thoại.
Phần mở thoại thường là phần có tính đưa đẩy, thăm dò, thương lượng về đề tài,
về số lượng, về thái độ... Trong phần này, người nói thường sử dụng lời chào, lời giới
thiệu mang tính nghi thức nhằm tạo lập quan hệ, hướng người nghe tham gia cuộc
thoại. Ví dụ:
Dùng hành vi hỏi để chào:

- Bà lão chưa đi hàng cơ à? Muộn mấy?...
- Chưa bà ạ. Mời bà vào chơi trong này!


(Ngữ văn 9.T1, Nxb Giáo dục, H., 2007, tr.168)
Dùng hành vi hỏi mang tính thăm dị:


- Khơng biết cháu có làm phiền cơ khơng ạ?
- Cơ đang rỗi mà. Có chuyện gì cháu kể cho cơ xem nào.
Phần thân thoại là phần triển khai nội dung chủ đề hội thoại và mang tính thống nhất
cao.
Phần kết thoại là phần tổng kết, kết luận về chủ đề đã triển khai ở phần thân thoại.
Đó thường là lời cảm ơn, xin lỗi, hứa hẹn, lời chúc hoặc lời tạm biệt,... Ví dụ:
Lời cảm ơn:

- Cảm ơn bác đã dành thời gian tâm sự với cháu.
- Lần sau có chuyện gì cứ kể với chú. Đừng ngại!
Lời tạm biệt:

- Thôi tôi về nhé!
-

Lần sau mình gặp nhé!
Lời chúc:

- Cậu đi cẩn thận nhé!
- Cậu ở lại mạnh khoẻ đấy!
1.1.2.3 Cặp thoại
Cặp thoại là đơn vị cấu thành nên đoạn thoại. Nó được cấu thành từ các tham thoại.
Có thể căn cứ vào số lượng các tham thoại để phân loại các cặp thoại thành: Cặp thoại
một tham thoại, cặp thoại hai tham thoại, cặp thoại ba tham thoại. Cặp thoại là những
lời ứng đáp thể hiện sự tương tác qua lại giữa người nói và người nghe. Nói cách khác,
đó là hai phát ngơn có quan hệ trực tiếp với nhau, chẳng hạn: hỏi - trả lời, chào - chào,
trao - nhận, đề nghị - đáp ứng, xin lỗi - chấp nhận xin lỗi, nhận định - bác bỏ... Các
thành viên của cặp thoại có thể đứng kế cận hoặc bị gián cách, tức là bị các cặp thoại
khác chen vào. Ví dụ:
Câu trao là một câu hỏi, câu đáp là câu trả lời:


-

Con có mấy cái hoa tay hở chú?

Chú Đàn lắc đầu, thất vọng:

- Chẳng có cái nào hết.


(Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, Nguyễn Nhật Ánh)
Câu trao là câu đề nghị, câu đáp là câu chấp nhận:

- Gia đình già có một việc oan uổng muốn kêu quan, nhờ cậu viết giúp cho lá đơn, có
được khơng?
Cao Bá Qt vui vẻ trả lời:

-

Tưởng việc gì khó, chứ việc ấy cháu xin sẵn lòng.
(Tiếng Việt 4.T1 - Nxb Giáo dục, 2006)

1.2.2.4 Tham thoại
Tham thoại là phần đóng góp của từng nhân vật hội thoại vào một cặp thoại nhất
định. Tham thoại có thể trùng, lớn hơn hoặc nhỏ hơn lượt lời.
Ví dụ:
Tham thoại trùng lượt lời:

-


Mày làm nghề gì?

-

Đội viên du kích.

- Ai sai mày làm việc này?
-

Lòng yêu nước
(Ngữ văn 6.T1, Nxb Giáo dục, tr.123)

Tham thoại nhỏ hơn lượt lời:

-

Bố...

-

Làm sao nào? Cô lại muốn xin xỏ chứ gì?

-

Bố... cho con xin 10 ngàn. (Hai lượt lời nhưng chỉ có một tham thoại)

Tham thoại lớn hơn lượt lời:
-

Dạo này thế nào?


- Bình thường. Cảm ơn! Cịn cậu?
Trong ví dụ trên, lượt lời đáp có tới ba tham thoại: một tham thoại đáp, một tham
thoại cảm ơn và một tham thoại hỏi.
1.2.2.5 Hành động nói năng
Hành động nói năng là đơn vị tạo nên tham thoại. Trong một phát ngơn có thể có một
hoặc một số hành động nói năng.
Ví dụ:


- Chồng: Khơng bán chó thì lấy tiền đâu mua gạo? Em hãy dắt nó ra chợ bán đi!
- Vợ: Hay mình nghĩ cách khác được khơng mình?
Trong ví dụ trên, lời trao của người chồng có hai hành động nói năng: hành động
hỏi và hành động đề nghị; lời đáp của người vợ chỉ có một hành động nói năng: hành
động hỏi.
1.1.3

Các quy tắc hội thoại

1.1.3.1 Quy tắc điều hành luân phiên lượt lời
Các quy tắc điều hành sự luân phiên lượt lời gồm một hệ những “điều khoản” mà
Sacks và các đồng tác giả phát biểu như sau:
a) Thứ nhất, vai nói thường xuyên luân phiên trong một cuộc hội thoại.
Theo điều khoản này thì một cuộc hội thoại lí tưởng là một cuộc hội thoại có sự
cân bằng về lượt lời: Thời gian nói của một người nói càng dài thì thời gian anh ta
nghe cũng phải dài. Trong một cuộc hội thoại bình thường, người chiếm độc quyền nói
là người dễ bị lên án.
Ngồi ra, điều khoản cân bằng lượt lời này cũng có tác dụng về mặt nội dung:
người nào nói q nhiều về mình trong một cuộc hội thoại- dù nói theo kiểu tự khen
hay kể khổ- cũng đều bị lên án. Cái tôi là cái đáng ghét (tục ngữ Pháp).

b) Thứ hai, mỗi lần chỉ có một người nói.
c) Thứ ba, lượt lời của mỗi người thường thay đổi về độ dài do đó cần có
những biện pháp để nhận biết khi nào thì một lượt lời chấm dứt.
d) Thứ tư, vị trí ở đó nhiều người cùng nói một lúc tuy thường gặp nhưng
không bao giờ kéo dài.
e) Thứ năm, thông thường lượt lời của đối tác này chuyển tiếp cho đối tác kia
diễn ra không bị ngắt quãng quá dài, cũng không bị dẫm đạp lên nhau.
f) Thứ sáu, trật tự (nói trước, nói sau) của những người nói khơng cố định, trái lại
ln ln thay đổi. Do đó một số phương tiện được dùng để chỉ định và phân phối lượt
lời là cần thiết.
Việc chỉ định và phân phối lượt lời tất nhiên không đặt ra đối với những cuộc song
thoại mặt đối mặt, nó chỉ đặt ra ở những cuộc đa thoại. Trong những trường hợp đó,
khơng phải đợi đến khi lượt lời mình nói kết thúc, mà ngay khi đang nói, người đang


nói phải tính tốn xem ai sẽ là người nói tiếp mình. Thói thường, người đang nói có thể
đưa mắt nhìn người mình định chọn, hoặc đưa ra những gợi ý, những vấn đề... mà chỉ
người mình định chọn mới đáp lại phát triển thêm được. Người đang nói cũng có thể
chỉ định một cách tường minh người nói sau bằng cách đặt câu hỏi, mời đích danh v.v...
1.1.3.2 Quy tắc điều hành nội dung của hội thoại
Ngoài quy tắc điều hành sự luân phiên lượt lời, trong hội thoại, người ta còn đề
cập đến quy tắc điều hành nội dung của hội thoại. Quy tắc này chủ yếu quy định về
quan hệ nội dung giữa các phát ngôn được đưa ra trong quá trình hội thoại. Thuộc các
quy tắc điều hành nội dung hội thoại, theo tác giả Đỗ Hữu Châu gồm 2 nguyên tắc:
Nguyên tắc cộng tác hội thoại (của Grice) và Nguyên tắc quan yếu (của hai nhà ngôn
ngữ Wilson và Sperber). Tuy nhiên, trong giới hạn của một khóa luận tốt nghiệp, dưới
đây người viết chỉ trình bày nguyên tắc cộng tác hội thoại của Grice.
Trước C.K. Orecchioni, ngay từ năm 1967, Grice đã đưa ra những phác thảo đầu
tiên của nguyên tắc cộng tác thông qua những bài giảng của mình tại trường Đại học
Havard. Dần dần, nguyên tắc này được Grice hoàn thiện và có dạng tổng quát như sau:

“Hãy làm cho phần đóng góp của anh, chị (vào cuộc hội thoại) đúng như nó được
địi hỏi ở giai đoạn (của cuộc hội thoại) mà nó xuất hiện phù hợp với đích hay phương
hướng của cuộc hội thoại mà anh, chị đã chấp nhận tham gia vào.”
Nguyên tắc này bao trùm bốn phạm trù mà Grice gọi tên là: phạm trù lượng, phạm
trù chất, phạm trù quan hệ, phạm trù cách thức. Mỗi phạm trù như vậy tương ứng với
một “tiểu nguyên tắc” mà Grice gọi là phương châm, và mỗi phương châm lại bao gồm
một số “tiểu phương châm”. Đó là: phương châm về lượng; phương châm về chất;
phương châm quan hệ và phương châm cách thức.
a) Phương châm về lượng:
Hãy làm cho phần đóng góp của anh có lượng tin đúng như địi hỏi
Đừng làm cho phần đóng góp của anh có lượng tin lớn hơn đòi hỏi
b) Phương châm về chất:
Đừng nói những điều mà anh tin rằng khơng đúng
Đừng nói điều mà anh khơng có bằng chứng xác thực
c) Phương châm quan hệ:


Hãy quan yếu
d) Phương châm cách thức:
Tránh lối nói tối nghĩa
Tránh lối nói mập mờ (có thể hiểu nhiều nghĩa)
Hãy ngắn gọn (tránh dài dịng)
Hãy nói có trật tự
Dù cịn bị chỉ ra khá nhiều hạn chế, nhưng từ năm 1967 đến nay, lí thuyết của Grice
vẫn tiếp tục là cơ sở cho tất cả các cơng trình nghiên cứu về ngữ dụng học. Nguyên tắc
quan yếu, phép lịch sự là những cố gắng lấp đầy những “lỗ hỗng” đó trong lí thuyết
của Grice.
1.1.3.3 Quy tắc chi phối quan hệ liên cá nhân- phép lịch sự
Phép lịch sự là một trong những nội dung trọng tâm của bài nghiên cứu này. Chính
vì thế, người viết sẽ trình bày nó ở một mục riêng. (Mục 1.2)

1.2 Lí thuyết về lịch sự
1.2.1 Định nghĩa
Trong hội thoại, ngồi quan hệ trao đổi thơng tin cịn có quan hệ liên cá nhân
(quan hệ giữa các “vai” trong giao tiếp). Liên quan trực tiếp tới quan hệ liên cá nhân là
vấn đề đảm bảo tính lịch sự trong giao tiếp. Vậy lịch sự được định nghĩa như thế nào?
Theo cách hiểu thông thường, lịch sự là một biểu hiện của quan hệ liên cá nhân
trong tương tác, làm cho cuộc tương tác được hài hòa, các cá nhân tham gia tương tác
cảm thấy dễ chịu, thoải mái, góp phần đưa cuộc hội thoại đến thành cơng. Tuy nhiên, ở
góc độ ngữ dụng học, khái niệm “lịch sự” không chỉ hiểu đơn giản như vậy. Dưới đây,
người viết sẽ đưa ra một số định nghĩa về lịch sự của các nhà ngôn ngữ đi trước trước
khi trình bày định nghĩa mà nghiên cứu này đồng thuận.
Nguyễn Thiện Giáp (2000) trong cuốn Dụng học Việt ngữ khẳng định lịch sự như
một chuẩn mực xã hội, và tác giả lập thức: “Các nhà văn hóa thuộc nhiều dân tộc khác
nhau đã quan niệm lịch sự là hành vi xã hội có lễ độ hay là phép xã giao trong hành vi
văn hoá" [ tr. 100]. Tác giả cho rằng chuẩn mực xã hội trong giao tiếp "không chỉ thể
hiện ở lời nói mà cịn thể hiện ở giọng, ở điệu" [tr.101]. Cùng với việc khẳng định lịch
sự là chuẩn mực xã hội, tác giả cũng xác nhận rằng “... trong giao tiếp còn một kiểu lịch


sự nữa được thực hiện. Để miêu tả kiểu lịch sự này cần biết khái niệm thể diện (face)”
[tr. 104], và thể diện theo hướng phân tích của nhà ngơn ngữ học này, về thực chất là sự
kế thừa quan niệm về chiến lược lịch sự của Brown và Levinson. Lịch sự được tác giả
Nguyễn Thiện Giáp quan niệm là những “nguyên tắc chung trong tương tác xã hội” [tr.
102]. Những nguyên tắc này có thể bao gồm “sự tế nhị, sự khoan dung, sự khiêm tốn,
sự cảm thông đối với người khác” [tr. 102]. Những lời nói, câu thơ, ca dao, tục ngữ..
của người Việt là những ví dụ được đưa ra để minh chứng cho nguyên tắc lịch sự mà tác
giả đã bênh vực. Trong những nguyên tắc đó, ngun tắc nhún nhường và khiêm tốn
khơng những thích hợp với người Việt mà cịn thích hợp với nhiều dân tộc khác, tức là
có tính phổ qt đối với nhiều dân tộc.
Vũ Thị Thanh Hương là một trong những người quan tâm nhiều nhất đến lịch sự

trong giao tiếp bằng tiếng Việt. Qua cơng trình nghiên cứu với nhan đề Politeness in
modern Vietnamese: A sociolinguistic study of a Hanoi speech community (Lịch sự
trong tiếng Việt hiện đại: Một nghiên cứu ngôn ngữ học xã hội ở một cộng đồng ngôn
ngữ của Hà Nội), tác giả đã phác hoạ một mơ hình lịch sự trong tiếng Việt bao gồm các
nội dung: lễ phép, tế nhị, đúng mực, khéo léo [tr. 148], trong đó lễ phép được hiểu là
một kiểu lịch sự của người bề dưới đối với người bề trên.
Kết quả phân tích của tác giả cho thấy rằng xét trong quan hệ với lịch sự, thì lễ
phép và đúng mực nằm ở cùng một bình diện, cịn khéo léo và tế nhị nằm ở một bình
diện khác, mặc dù ranh giới giữa hai bình diện này khơng rành mạch. Điều này cho
phép khẳng định “lịch sự bao gồm hai bình diện cơ bản là lịch sự lễ độ hay lịch sự tối
thiểu (có nội dung chính là lễ phép, đúng mực) và lịch sự chiến lược hay lịch sự xã giao
(khéo léo, tế nhị) là có cơ sở" [tr. 147]. Theo tác giả, các thể hiện của lịch sự là đúng
mực, lễ phép, khéo léo, tế nhị có mối quan hệ đan xen, bao hàm nhau, nhưng không
đồng nhất, vừa bao hàm vừa khác biệt, theo kiểu những tập hợp có bộ phận giao nhau.
Mối tương quan giữa các yếu tố thể hiện khái niệm lịch sự trong tiếng Việt được tác giả
biểu diễn như ở hình dưới đây:


Trần Ngọc Thêm trong cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam cho rằng trong tiếng
Việt, lịch sự gắn với nghi thức lời nói, nghĩa là lịch sự gắn với chuẩn mực xã hội mà ít
gắn với chiến lược cá nhân trong tương tác. Tác giả đã đưa ra những nhận xét có vẻ
thường tình nhưng lại khá thú vị đối với việc so sánh nền văn hoá này với nền văn hoá
khác. Trong tiếng Việt, nghi thức lời nói trong lĩnh vực các cách nói lịch sự cũng rất
phong phú. Chẳng hạn, người Việt Nam khơng có một từ xin lỗi, cảm ơn khái quát có
thể dùng chung cho mọi trường hợp như người phương Tây. Người Việt Nam có nhiều
cách cảm ơn, nhiều cách xin lỗi khá phong phú trong những ngữ huống giao tiếp khác
nhau [tr.315].
Định nghĩa mà người viết sử dụng trong khóa luận này là định nghĩa của C.K.
Orecchioni. Theo đó, C.K. Orecchioni khẳng định: “Phép lịch sự liên quan tới tất cả
các phương diện của diễn ngôn:

1. Bị chi phối bởi các quy tắc (ở đây khơng có nghĩa là những cơng thức hồn tồn
đã trở thành thói quen).
2. Xuất hiện trong địa hạt quan hệ liên cá nhân.
3. Và chúng có chức năng giữ gìn tính chất hài hịa quan hệ đó (ở mức thấp nhất là
giải tỏa những xung đột tiềm tàng, tốt hơn nữa là làm cho người này trở thành
càng dễ chịu đối với người kia thì càng tốt.”
Cũng cần lưu ý rằng, những định nghĩa trên chỉ đề cập đến mặt tích cực của phép lịch
sự. Cũng như mọi phạm trù khác của ngôn ngữ, lịch sự bao gồm cả không lịch sự, như
G.M. Green viết:


“Những người tham gia hội thoại có thể chọn cách xử sự lịch sự, tránh cục cằn, thơ
lỗ. Họ cịn có thể lựa chọn cách xử sự tùy thích, khơng đếm xỉa đến tình cảm và
nguyện vọng của người khác. Họ cịn có thể dựa vào những hiểu biết của mình về các
quy tắc lịch sự để tỏ ra cục cằn, thô lỗ một cách cố ý.
1.2.2 Các hướng nghiên cứu lịch sự trong giao tiếp
Lịch sự là vấn đề nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, và cũng đã
được tìm hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau. Dưới đây, người viết sẽ trình bày bốn
hướng tiếp cận chủ yếu vấn đề này.
1.2.2.1 Hướng xem xét theo chuẩn mực xã hội
Đại diện cho hướng đi này có thể kể đến các tác giả J. S. Locke và N. Boston. Từ
thời xa xưa, nhiều dân tộc, nhiều nhà văn hóa đã đề cập tới phép lịch sự dưới góc độ
một chuẩn mực xã hội (social-norm). Theo J. S. Locke và N. Boston, mỗi xã hội có
một hệ thống những quy tắc ứng xử chung, đòi hỏi các thành viên phải tuân theo. Khi
hành vi chuẩn mực theo đúng quy tắc chung, thì có được lịch sự, ngược lại là mất lịch
sự.
1.2.2.2 Hướng xem xét theo quy tắc hội thoại
Các cơng trình của R. Lakoff (1973, 1989), G. Leech (1983), W. Edmondson
(1981), A. Kasher (1986) đều có điểm chung là tiếp cận phép lịch sự dưới góc độ như
một phương châm hội thoại.

Năm 1975, P.Grice đã đề xuất các quy tắc ứng xử trong hội thoại. Đó là nguyên
tắc cộng tác hội thoại. Nội dung cơ bản của nguyên tắc này là: “làm cho phần đóng góp
của anh đúng như đòi hỏi ở giai đoạn mà cuộc thoại đang diễn ra, bằng cách chấp nhận
mục đích hoặc chiều hướng của sự trao đổi lời mà anh tham dự”. Tuy nhiên, khi phát
biểu về nguyên tắc này, chính Grice cũng thừa nhận là nó q hẹp. Mục đích của
ngun tắc cộng tác là: “tìm kiếm hiệu quả tối ưu của sự trao đổi thông tin.” Trong
Logic và hội thoại, Grice cho rằng “Chắc chắn còn những quy tắc khác (thẩm mĩ, xã hội
hay đạo đức) kiểu như quy tắc “hãy lịch sự” mà những người tham gia hội thoại đều
tuân thủ và chúng có thể làm xuất hiện những hàm ngôn phi quy ước”.
Một trong những người đầu tiên tiếp bước quan điểm của P. Grice và đưa nó lên
một tầm cao mới là R. Lakoff. Tác giả này coi lịch sự là một phương tiện được sử dụng


để giảm bớt trở ngại trong sự tương tác giữa các cá nhân. Lịch sự là tôn trọng nhau. Và
để cụ thể hoá quy tắc lịch sự trong giao tiếp, R. Lakoff đề xuất 3 quy tắc sau: a) Không
áp đặt (trong lễ nghi, ngoại giao); Để ngỏ sự lựa chọn (trong giao tiếp thông thường);
Làm cho người đối thoại cảm thấy thoải mái (trong trò chuyện thân mật).
Một học giả có tên tuổi khác là J.N. Leech đã đề xuất các quy tắc về lịch sự. Các
quy tắc này được xây dựng không dựa trên khái niệm “thể diện” mà dựa trên hai khái
niệm “tổn thất” và “lợi ích”. Và cũng vì Leech quan niệm phép lịch sự liên quan chặt
chẽ tới “lợi ích” hay “tổn thất” gây ra cho người nghe, nên mục tiêu của nó, như một
nguyên tắc, là “tối thiểu hóa những lối nói bất lịch sự (lịch sự tiêu cực) và tối đa hóa
những lời nói lịch sự (lịch sự tích cực)”. Từ đó, tác giả đề ra những phương châm trong
giao tiếp lịch sự là: Khéo léo, hào hiệp, tán đồng, khiêm tốn và thiện cảm. Chẳng hạn,
“Hãy giảm đi những lời chê bai người khác và tăng lên những lời khen ngợi người ta”
(phương châm tán đồng). Có vậy mới giữ được hịa khí. Hay “Hãy giảm đi lợi ích của
mình và sẳn sàng tăng thêm phần tổn thất cho mình” (phương châm hào hiệp).
1.2.2.3 Hướng xem xét theo cộng tác hội thoại
B. Fraser (1975) và Nolen (1981) đã tìm ra cách tiếp cận này. Cùng với việc tán
đồng các quan điểm của các nhà nghiên cứu đi trước, hai tác giả chỉ ra rằng, lịch sự là

sự cộng tác của các bên khi tham gia hội thoại. Nếu sự cộng tác hài hồ thì đảm bảo
được yếu tố lịch sự, nếu sự hài hồ bị phá vỡ thì dẫn đến bất lịch sự.
1.2.2.4 Hướng xem xét theo thể diện
P. Brown và S. Levinson được xem là hai tác giả nổi tiếng nhất trong lĩnh vực
nghiên cứu về lịch sự. Các tác giả đã xây dựng nên lí thuyết về lịch sự của mình năm
1978 trong cuốn Politeness - Some Universals in language Usage. Lí thuyết này được
hai tác giả chỉnh lí và hoàn thiện trong lần xuất bản thứ hai vào năm 1987. Đây là lí
thuyết hiện nay được xem là nhất quán nhất, có ảnh hưởng rộng rãi nhất đối với việc
nghiên cứu về phép lịch sự. Theo các tác giả này, phép lịch sự trong giao tiếp có liên
quan đến thể diện của người nói và người nghe khi họ giao tiếp với nhau. Vậy thể diện
là gì?
Theo J. Thomas, thể diện nên được hiểu là “cảm giác về giá trị cá nhân của mỗi
người, là hình ảnh về ta, về chính mình. Hình ảnh này có thể bị tổn hại, được giữ gìn


×