Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

Hình phạt tử hình trong luật hình sự việt nam những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (379.08 KB, 42 trang )

TRƯỜNG
TRƯỜNG ĐẠI
ĐẠI HỌC
HỌCTHỦ
THỦ DẦU
DẦU MỘT
MỘT
KHOALUẬT
KHOALUẬT

bl

|L

[
ĩ

BAO CÁO TỔNG KET

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN THAM GIA
CUỘC THI SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC
2015- 2016

XÉT TẶNG GIẢI THƯỞNG “ TÀI NĂNG KHOA HỌC TRẺ ĐẠI
HỌCTHỦ DẦU MỘT” LẦN IV NĂM 2016

A

X

X



V,X

_

_



X

I

ĐỀ TÀI: HÌNH PHẠT TỬ HÌNH TRONG LUẬT HÌNH


SỰ VIỆT NAM - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN
Thuộc nhóm ngành khoa học: Khoa học Xã hội và Nhân văn


c?





Năm 2016





TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA LUẬT

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN THAM GIA CUỘC THI SINH
VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC
2015-2016

Ị.................................................................. VÀ

.

XÉT TẶNG GIẢI THƯỞNG “ TÀI NĂNG KHOA HỌC TRẺ ĐẠI HỌCTHỦ DẦU
MỘT” LẦN IV NĂM 2016
ĐỀ TÀI: HÌNH PHẠT TỬ HÌNH TRONG LUẬT HÌNH Sự VIỆT NAM - NHỮNG
V VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THựC TIỄN
V

A

A

A Thuộc nhóm ngành khoa học: Khoa học Xã hội và Nhân văn

Sinh viên thực hiện: Trần Thị Mỹ Phương (sinh viên chiu trách nhiệm chính) I
Trần Thanh Trang
Lê Thị Mỹ Tiên


Giới tính: Nữ
Dân tộc: Kinh

Lớp: D13LU06
Khoa: Luật
Năm thứ: 3/4
Ngành học: Luật học Người
hướng dẫn: Đào Thị
Nguyệt
UBND TỈNH BÌNH DƯƠNG
CỘNG HỊA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM


TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

THÔNG TIN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1. Thơng tin chung:
- Tên đề tài: Hình phạt tử hình trong Luật Hình sự Việt Nam - những vấn đề lý luận và
thực tiễn.
-

Sinh viên thực hiện:
Trần Thị Mỹ Phương Trần Thanh Trang
Lê Thị Mỹ Tiên
Giới tính: Nữ
Dân tộc: Kinh


Lớp:D13LU06
Khoa: Luật
Năm thứ: 3/4
Ngành học: Luật học
Người hướng dẫn: Đào Thị Nguyệt

2.Mụctiêu đề tài:
Xác định và làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận và thực tiễn về hình phạt tử hình. Đưa ra
quan điểm của nhóm Nghiên Cứu về vấn đề “duy trì hay loại bỏ hình phạt tử hình”
Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng hình phạt tử hình.
3. Tính mới và sáng tạo
Bài nghiên cứu về “Hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam - những vấn đề lý luận và
thực tiễn” của chúng tôi dựa trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận về hình phạt tử hình,
từ đó đưa ra ý kiến về việc sửa đổi, bổ sung về điều kiện, phạm vi, đối tượng áp dụng hình
phạt tử hình, đồng thời kiến nghị về việc loại bỏ hình phạt tử hình trong một số điều luật cụ
thể.
4. Kết quả nghiên cứu:
Sau khi nghiên cứu về đề tài “Hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam - những vấn đề
lý luận và thực tiễn” nhóm nghiên cứu đã làm rõ được khái niệm, bản chất, đặc điểm của
hình phạt tử hình làm cơ sở để chúng ta có thể hiểu rõ hơn về hình phạt này. Việc phân tích
về hình phạt tử hình có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi ích của người phạm
tội, thể hiện được tính nhân đạo của Nhà nước trong xử phạt người phạm tội, phù hợp với xu
thế của Thế giới.


Trong q trình nghiên cứu phân tích, nhóm cũng thấy cũng một vấn đề bất cập trong việc
quy định về hình phạt tử hình, từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hồn thiện hơn hình phạt
này.
5. Đóng góp về mặt kinh tế - xã hội,giáo dục và đào tạo, an ninh, quốc phòng và
khả năng áp dụng của đề tài:

Thơng qua bài nghiên cứu về “Hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam - những vấn đề
lý luận và thực tiễn”, nhóm nghiên cứu chúng tơi có đưa ra một số đóng góp nhằm hồn
chỉnh hơn về hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam và làm tài liệu tham khảo cho
những người quan tâm đến vấn đề này như việc:
Bổ sung quy định phạm vi đối tượng không áp dụng hoặc không thi hành hình phạt tử hình
trong Bộ Luật Hình sự Việt Nam.
Loại bỏ hình phạt tử hình trong một số tội phạm cụ thể trong Bộ luật Hình sự Việt Nam.
Cần có văn bản hướng dẫn vấn đề người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng trong trường hợp
nào sẽ áp dụng hình phạt tử hình.
6. Cơng bố khoa học của sinh viên từ kết quả nghiên cứu của đề tài (ghi rõ họ tên
tác giả, nhan đề và các yếu tố về xuất bản nếu có) hoặc nhận xét, đánh giá của cơ sở
đã áp dụng các kết quả nghiên cứu (nếu có):
Bình Dương, ngày tháng năm 2016
Sinh viên chịu trách nhiệm chính
thực hiện đề tài


Nhận xét của người hướng dẫn về những đóng góp khoa học của sinh viên thực hiện đề
tài:

Ngày tháng năm Người
Xác nhận của lãnh đạo khoa
(ký, họ và tên)

hướng dẫn (ký, họ và
tên)


UBND TỈNH BÌNH DƯƠNG


CỘNG HỊA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

THƠNG TIN VỀ SINH VIÊN
CHỊU TRÁCH NHIỆM CHÍNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
I. SƠ LƯỢC VỀ SINH VIÊN:
Ảnh 4x6

Họ và tên: Trần Thị Mỹ Phương
Sinh ngày: 10 tháng 04 năm 1995
Nơi sinh: Thị trấn Di Lăng, huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi.
Lớp:

D13LU06

Khóa: 1

Khoa: Luật
Địa chỉ liên hệ: tổ dân phố Làng Dầu, thị trấn Di Lăng, huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi.
Điện thoại: 01677759949 Email:
II. QUÁ TRÌNH HỌC TẬP
* Năm thứ 1:
Ngành học: 2013 - 2014

Khoa: Luật

Kết quả xếp loại học tập: Khá

Sơ lược thành tích: Trong quá trình học tập có nhiều cố gắng, sơi nổi trong các hoạt động của
trường, lớp.
* Năm thứ 2:
Ngành học: 2014-2015

Khoa: Luật

Kết quả xếp loại học tập: Khá
Sơ lược thành tích: Có cố gắng trong q trình học tập.
* Năm thứ 3:
Ngành học: 2015-2016

Khoa: Luật

Kết quả xếp loại học tập: Học kỳ 1: Khá
Sơ lược thành tích: Có cố gắng trong quá trình học tập
Ngày.....tháng...........năm 2016
Xác nhận của lãnh đạo khoa
(ký, họ và tên)

Sinh viên chịu trách nhiệm chính
thực hiện đề tài
(ký, họ và tên)


CÁC THÀNH VIÊN THAM GIA ĐỀ TÀI
TT

Họ và tên


Lớp, Khóa

1

Trần Thị Mỹ Phương

D13LU06

2

Trần Thanh Trang
Lê Thị Mỹ Tiên

D13LU06
D13LU06

3

Chữ ký


LỜI CẢM ƠN
Tuy đã có nhiều cố gắng nhưng do trình độ cịn hạn chế nên đề tài nghiên cứu này
khơng thể tránh khỏi những thiếu xót. Vì vậy, chúng em mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý
của thầy cơ để có thể hồn thành tốt hơn.
Trước tiên chúng em, xin được nói lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến các thầy cô khoa
Luật của Trường Đại Học Thủ Dầu Một. Cảm ơn thầy cô đã truyền đạt kiến thức cần thiết,
giúp chúng em hoàn thành đề tài nghiên cứu này. Chúng em xin gởi lời cảm ơn chân thành đến
cô Đào Thị Nguyệt đã hướng dẫn về nội dung lẫn hình thức trình bày trong suốt quá trình
chúng em làm bài nghiên cứu.

Cuối cùng chúng em xin chúc thầy cô dồi dào sức khỏe, thành công trong công tác giảng
dạy và nghiên cứu.


MỤC LỤC
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ HÌNH PHẠT TỬ


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT


BLHS

Bộ Luật Hình Sự


MỞ ĐẦU
Lý do lựa chọn đề tài
Hiện nay nền kinh tế nước ta đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
hội nhập cùng với nền kinh tế quốc tế, đi cùng với sự phát triển ấy lại nảy sinh nhiều
vấn đề tha hóa về mặt đạo đức trong xã hội, tình hình tội phạm diễn biến ngày càng
phức tạp ảnh hưởng đến trật tự xã hội, an ninh quốc gia. Cụ thể như: giết người, cướp
tài sản, hiếp dâm, bn lậu, các nhóm tội phạm về ma túy..., xảy ra nhiều với tính chất
và mức độ nghiêm trọng, khơng những xâm hại tính mạng, sức khỏe của người dân, lợi
ích hợp pháp của Nhà Nước, tổ chức mà còn làm thiệt hại đến nền kinh tế đất nước.
Trước tình hình trên, các cơ quan bảo vệ pháp luật đã áp dụng các biện pháp có hiệu
quả trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, xử lý kịp thời, nghiêm minh mọi hành vi
phạm tội và người phạm tội. Trong đó phạt tử hình là loại chế tài mang tính chất
nghiêm khắc nhất được các cơ quan thực thi pháp luật áp dụng đối với loại tội phạm rất
nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, hiện nay việc quy định về chế tài

hình phạt tử hình cũng đặt ra nhiều vấn đề vướng mắc gây tranh cãi, đòi hỏi khoa học
luật hình sự phải nghiên cứu giải quyết như: phạm vi áp dụng hình phạt tử hình cịn
rộng, khái quát, chưa đưa ra nhiều tiêu chí quan trọng khác để xác định có áp dụng hình
phạt tử hình, vấn đề duy trì hay hủy bỏ hình phạt tử hình trong Luật Hình Sự Việt Nam.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài "Hình phạt trong Luật Hình Sự Việt Nam", mang
tính cấp thiết, khơng những về lý luận, mà còn là đòi hỏi thực tiễn nhằm nâng cao hiệu
quả của việc áp dụng chế tài hình phạt tử hình ở Việt Nam.


Mục tiêu đề tài:
Xác định và làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận và thực tiễn về hình phạt tử
hình. Đưa ra quan điểm của nhóm Nghiên Cứu về vấn đề “duy trì hay loại bỏ hình phạt
tử hình”
Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng hình phạt tử hình.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu:
Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của đề tài lànhững vấn đề lý luận về hình phạt tử hình.
Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trong phạm vi Bộ Luật Hình Sự năm 2015.
Cách tiếp cận
Thơng qua sách, báo, Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành và các văn bản hướng
dẫn có liên quan, các tài liệu tham khảo như trên mạng và các cơ sở chức năng của Nhà
nước Việt Nam (Viện kiểm sát nhân dân, Tịa án nhân dân, Cơng an nhân dân ...)
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận là quan điểm của chủ nghĩa Mác
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, quan điểm, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước về đấu tranh phịng chống tội phạm. Bài nghiên cứu không
những sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật đề tài còn sử dụng các phương
pháp so sánh, logic, phân tích, chứng minh, tổng hợp, so sánh kết hợp lý luận với thực
tiễn và một số phương pháp khác mà chúng tôi đã vận dụng để hoàn thành bài nghiên

cứu này.


15

Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ HÌNH PHẠT
TỬ HÌNH TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1 Khái niệm tử hình
Trong lịch sử lập pháp hình sự của nước ta từ trước tới nay, khái niệm hình phạt
lần đầu tiên được quy định tại Điều 26 Bộ luật Hình sự 1999. Theo đó: “Hình phạt là
biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền,
lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong Bộ Luật Hình Sự Việt Nam
năm 1999 và do Tòa án quyết định”.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam được chia làm hai loại là hình phạt chính và
hình phạt bổ sung. Hình phạt chính bao gồm cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo khơng giam giữ,
trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình. Hình phạt bổ sung bao gồm cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cư trú; quản chế; tước
một số quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt tiền khi không áp dụng là hình phạt chính;
trục xuất khi khơng áp dụng là hình phạt chính. Tử hình là một trong những hình phạt
chính được quy định trong Bộ Luật Hình Sự Việt Nam hiện hành. Hiện nay có nhiều
quan điểm khác nhau về hình phạt tử hình. Theo từ điển Tiếng Việt thì tử hình được hiểu
là “tử” nghĩa là “chết”, “hình” là hình thức trừng trị người phạm tội. Tử hình là hình thức
trừng trị người phạm tội bằng cái chết.12
Tương tự như vậy, từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Tử hình là hình phạt phải chịu tội
chết”1 2 .
Sau khi tìm hiểu một số khái niệm hiện có, chúng tơi theo quan điểm : “Tử hình
là hình phạt đặc biệt, có nội dung cưỡng chế nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt
vì đã tước bỏ quyền sống của người bị kết án, tử hình chỉ áp dụng đối với người phạm tội
đặc biệt nghiêm trọng”3
Điều 35 Bộ Luật Hình sự quy định: “Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với

người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
1.2 Bản chất, đặc điểm, điều kiện áp dụng của hình phạt tử hình trong pháp luật
hình sự Việt Nam
1.2.1

Bản chất của hình phạt tử hình

Bản chất của pháp luật nói chung và hệ thống hình phạt nói riêng ở mỗi một quốc
11Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nhà xuất bản TP.HCM, 2001, Tr 1964
2 Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - Viện ngôn ngữ học (1992), Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm Từ điển Ngôn ngữ,
Hà Nội, tr.1053
3 Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần chung - Trường đại học Luật TP.HCM


16

gia sẽ tương ứng với hình thái kinh tế - xã hội của quốc gia đó
Bản chất của hình phạt thể hiện tính giai cấp, tính xã hội.Bởi nó phụ thuộc vào sự
thay đổi của các hình thái kinh tế xã hội, sự thay đồi trong quan điểm, chính sách hình sự
của giai cấp thống trị. Ngồi ra, hình phạt cũng do các điều kiện xã hội, quyền và lợi ích
kinh tế, chính trị và các lợi ích khác của giai cấp thống trị quyết định, đồng thời phải phù
hợp với các lợi ích đó.
Nằm trong hệ thống hình phạt, tử hình thể hiện tính giai cấp ở chỗ nó là sự phản
ánh ý chí nhà nước, quan điểm của giai cấp thống trị. Nhờ nắm trong tay quyền lực nhà
nước, giai cấp thống trị đã thông qua nhà nước để thể hiện ý chí của giai cấp mình một
cách tập trung, thống nhất và hợp pháp hóa thành ý chí của nhà nước, ý chí đó được cụ
thể hóa trong các văn bản pháp luật nói chung và hình phạt tứ hình cũng nằm trong sổ
những quy định đó. Nó bao giờ cũng xuất phát từ các quan điểm thống trị cơ bản trong
xã hội và phải phù hợp với các quyền và lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội của giai cấp
thống trị.Hình phạt tử hình là một trong những biện pháp mà giai cấp thống trị dùng để

đấu tranh với tội phạm.
1.2.2

Đặc điểm của hình phạt tử hình

Từ khái niệm của hình phạt quy định tại Điều 26 Bộ luật Hình sự 1999 ta có thể
đưa ra một số đặc điểm chung như sau:
Thứ nhất, hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước.Hình phạt
ln là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước.đặc điểm này xuất phát từ
mối quan hệ tương xứng giữa tính nguy hiểm cho xã hội cửa vi phạm pháp luật với tính
nghiêm khắc của biện pháp cưỡng chế cần áp dụng đối với vi phạm đó.
Tính nghiêm khắc của hình phạt thể hiện ở chổ hình phạt luôn là biện pháp cưỡng
chế của Nhà nước tước bỏ hoặc hạn chế một số quyền, lợi ích của người phạm tội như
quyền tự do thân thể, quyền tài sản, quyền tự do đi lại và cư trú, một số quyền chính trị,
thậm chí cả quyền sống. Tuy nhiên không đồng nghĩa với việc hạ thấp nhân cách hoặc
đày đọa thể chất đối với người phạm tội.
Thứ hai, hình phạt là biện pháp cưỡng chế được quy định trong luật hình sự.Hình
phạt là biện pháp cưỡng chế hình sự được quy định trong Bộ luật Hình sự. Việc quy định
hình phạt trong pháp luật hình sự là một bảo đảm quan trọng để việc áp dụng hình phạt
đối với người phạm tội phải trong giới hạn cần thiết theo đúng sự chỉ định chặt chẽ của
pháp luật


17

Hình phạt được quy định trong Phần Chung và Phần Các tội phạm của Bộ luật Hình sự.
Phần Chung quy định những vấn đề chung về hình phạt. Phần Các tội phạm quy định về
loại và mức hình phạt đối với các tội phạm cụ thể dưới hình thức chế tài.
Thứ ba, hình phạt là biện pháp cưỡng chế do Tịa án áp dụngHình phạt do Tịa án
áp dụng xuất phát từ chính tính chất của quan hệ pháp luật hình sự. Quan hệ pháp luật

hình sự là quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội. Người phạm tội có hành vi phá
hoại điều kiện tồn tại của giai cấp thống trị thì họ phải chịu sự trừng phạt của Nhà nước.
Tịa án áp dụng hình phạt đối với người phạm tội theo một trình tự tố tụng đặc
biệt được quy định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự và bằng một bản án kết tội. Quyền của
chủ tịch nước xét đơn ân giảm án tử hình của tử tù khơng phải là hoạt động áp dụng hình
phạt.
Thứ tư, hình phạt chỉ áp dụng đối với cá nhân người phạm tội.Hình phạt phải là
cơng cụ quyền lục của Nhà nước để đấu tranh chống tội phạm.Với ý nghĩa đó, hình phạt
chỉ thực sự phát huy hết khả năng khi nó được hướng đến trực tiếp chính người phạm
tội.Điều này rất quan trọng trong việc xác định đúng đối tượng có thể bị áp dụng hình
phạt.Hình phạt chỉ có thể áp dụng đối với người phạm tội không phụ thuộc vào việc họ là
người thực hành hay các đồng phạm khác, họ phạm tội vì lợi ích cá nhân hay vì lợi ích
của cơ quan, doanh nghiệp.Tuy nhiên khơng thể áp dụng hình phạt đối với người khơng
thực hiện phạm tội dù họ là người than thích, ruột thịt của người phạm tội.
Tử hình là một trong những loại hình phạt được quy định trong Bộ Luật Hình Sự
Việt Nam với tư cách là một hình phạt đặc biệt, hình phạt tử hình khơng chỉ có những
đặc điểm chung của hình phạt mà cịn có một số đặc điểm riêng sau:
Thứ nhất, tử hình là một loại hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình
phạt, nó tước đi quyền sống của người bị kết án.Tính nghiêm khắc của hình phạt này thể
hiện ở sự tước bỏ quyền được sống của người phạm tội nhằm loại trừ họ ra khỏi đời sống
xã hội vì xét thấy người phạm tội khơng cịn khả năng cải tạo, giáo dục và vì sự cần thiết
của việc phịng ngừa chung.
Tính nghiêm khắc của hình phạt tử hình cịn được thể hiện ở việc: các loại hình
phạt khác, khi đã được áp dụng, nếu người phạm tội có sự cải tạo tốt chúng ta có thể
giảm hình phạt cho họ hoặc nếu có sai sót xảy ra, chúng ta có thể sửa chữa được sai lầm;
đối với hình phạt tử hình, khi đã thi hành người phạm tội khơng có cơ hội sửa chữa sai
lầm để được giảm hình phạt, nếu có sai sót chúng ta khơng có cách nào khắc phục được


18


hậu quả.
Thứ hai, hình phạt tử hình chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng và trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Trong Bộ luật hình sự, tuỳ thuộc vào
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, nhà làm luật có sự phân hố các
loại hình phạt áp dụng đối với từng loại tội như: hình phạt cảnh cáo và hình phạt tiền
(với tư cách là hình phạt chính) chỉ áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng; hình
phạt tù có thời hạn có thể áp dụng cho mọi loại tội phạm... thì hình phạt tử hình chỉ được
áp dụng đối với người phạm tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Chỉ khi hành vi phạm tội
gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội, người phạm tội ở vào các trường hợp được Bộ Luật
Hình Sự dự liệu trước, cùng với bản án có hiệu lực của Tịa án, việc áp dụng tử hình mới
có giá trị pháp lý thực tế. Và chỉ Tịa án có thẩm quyền mới có quyền quyết định áp dụng
hình phạt tử hình. Đây cũng chính là địi hỏi của ngun tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa,
phản ánh tính nghiêm minh của pháp luật trong việc phòng ngừa tội phạm chung.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự: tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt
đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Như vậy, không phải tất cả các tội phạm đặc biệt nghiêm trọngtrong Bộ luật hình
sự đều quy định hình phạt tử hình. Hình phạt tử hình chỉ áp dụng đối với người phạm tội
đặc biệt nghiêm trọng và trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng - trường hợp hành vi
phạm tội có tính nguy hiểm đặc biệt cao cho xã hội, người phạm tội khơng cịn khả năng
cải tạo, giáo dục, nếu họ tồn tại sẽ tiếp tục là nguồn nguy hiểm cho xã hội; và việc áp
dụng các loại hình phạt khác đối với họ khơng phù hợp với tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi và khơng đảm bảo được mục đích của hình phạt.
Tuy nhiên, quan điểm hiện nay của nhà nước ta là hạn chế áp dụng hình phạt tử
hình, ngay cả khi có đủ điều kiện để áp dụng hình phạt tử hình, thì việc lựa chọn hình
phạt tử hình phải là khả năng cuối cùng khi tòa án xét thấy khơng thể áp dụng loại hình
phạt khác được quy định trong chế tài vì tính chất đặc biệt nghiêm trọng của tội phạm.
Trong chế của các tội phạm, hình phạt tử hình ln được quy định trong chế tài lựa chọn
với hình phạt tù có thời hạn và tù chung thân.

Thứ ba, hình phạt tử hình được áp dụng và thi hành theo một thủ tục tố tụng chặt
chẽ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003, chỉ có Tồ án nhân dân cấp tỉnh và
Tồ án quân sự cấp quân khu mới có quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự quy định


19

hình phạt tử hình (Điều 170). Khi bản án tử hình đã có hiệu lực pháp luật, hình phạt tử
hình chưa được phép thi hành mà phải gửi hồ sơ vụ án lên Chánh án Tòa án nhân dân
Tối cao, gửi bản án lên Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Tối cao để xem xét việc ra
quyết định kháng nghị hoặc quyết định không kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Nếu Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Tối cao
không kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm; hoặc tuy có kháng nghị
nhưng Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm Tòa án nhân dân Tối cao quyết định
không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án tử hình thì người bị kết án có quyền
gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước. Trong trường hợp này, bản án tử hình chỉ được
thi hành sau khi Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm (Điều 258 Bộ luật tố tụng hình sự).
1.2.3

Điều kiện áp dụng của hình phạt tử hình

Điều 35 Bộ Luật Hình Sự hiện hành có quy định: “ Tử hình là hình phạt đặc biệt
chỉ áp dụng đối với người phạm tội dặc biệt nghiêm trọng. Khơng áp dụng hình phạt tử
hình đối với người chưa thành niên phạm tội, đối với người phụ nữ có thai hoặc phụ nữ
đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Trong trường hợp người bị kết án tử hình được ân
giảm, thì hình phạt tử hình chuyển thành tù chung thân”.
Điều 52 Bộ Luật Hình Sự hiện hành có quy định: “ Đối với trường hợp chuẩn bị
phạm tội, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất được áp dụng là
không quá hai mươi năm tù, nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt khơng q một phần
hai mức phạt tù mà điều luật quy định”.

Từ hai điều luật trên chúng ta có thể rút ra kết luận về điều kiện áp dụng của hình
phạt tử hình là:
Thứ nhất: Hình phạt tử hình chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng.
Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tôi phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội
mà mức cao nhất của khung hình phạt đới với tội ấy là trên 15 năm tù, tù chung thân
hoặc tử hình.
Thứ hai: Khơng áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên, phụ nữ
có thai hoặc phụ nữ đang ni con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi xét xử.
Thứ ba: Khơng thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang ni con
dưới 36 tháng tuổi.


20

1.3 Mục đích, ý nghĩa của hình phạt tử hình
1.3.1

Mục đích của hình phạt tử hình

Mục đích của hình phạt là kết quả thực tế cuối cùng mà nhà nước đặt ra và mong
muốn đạt được khi quy định hình phạt đối với tội phạm và áp dụng hình phạt đối với cá
nhân người phạm tội đó.
Theo quy định Điều 27 Bộ luật hình sự Việt Nam: “Hình phạt khơng chỉ nhằm
trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức
tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm
tội mới. Hình phạt cịn nhằm giáo dục người khác tơn trọng pháp luật, đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm”.
Theo quan điểm của nhóm nghiên cứu, riêng đối với hình phạt tử hình, trừng trị là
mục đích chính.Trừng trị người phạm tội “là bản chất, là nội dung, là thuộc tính tất yếu”,

là phương thức để thực hiện hình phạt.
Trừng trị phản ánh tính nghiêm khắc của hình phạt tử hình và là phương tiện để
đạt được mục đích phịng ngừa riêng và phịng ngừa chung của hình phạt. Với ý nghĩa
đó, “trừng trị” nên được hiểu ở khía cạnh tước đoạt tính mạng của cá nhân người bị kết
án tử hình, răn đe, ngăn ngừa người khác phạm tội . Khi quy định và áp dụng hình phạt
đối với người phạm tội, nó khơng chỉ tác động lên bản thân người phạm tội mà còn tác
động mạnh lên các thành viên khác trong xã hội, nhất là những người khơng “vững
vàng” trong cuộc sống, đang có ý định phạm tội để răn đe, ngăn ngừa họ phạm tội. Hình
phạt tử hình có tác dụng cảnh báo cho những người đang hoặc đã có ý định phạm tội về
hậu quả pháp lý mà họ phải gánh chịu nếu thực hiện tội phạm, từ đó họ cần từ bỏ ý định
phạm tội hoặc phải thận trọng hơn trong xử sự để tránh sự trừng phạt của nhà nước; buộc
họ phải đứng trước sự lựa chọn: hoặc là tôn trọng và tuân thủ pháp luật; hoặc là phạm tội
và có nhiều khả năng phải trả giá đắt bằng chính mạng sống của mình.
Ngồi ra, hình phạt tử hình cũng có mục đích giáo dục các thành viên khác trong
xã hội (chưa có ý định phạm tội) ý thức tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm. Đánh giá về hiệu quả phịng ngừa chung của hình phạt tử hình, một số
nghiên cứu gần đây cho thấy: “một trường hợp bị xử tử hình sẽ ngăn chặn được 5 - 18 kẻ
sát nhân tiềm năng gây án”. Nhưng Hình phạt tử hình khơng có mục đích “cải tạo, giáo
dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và
các quy tắc của cuộc sống”. Bởi vì, hình phạt tử hình chỉ áp dụng đối với người phạm tội


21

mà nhà nước cho rằng họ không thể cải tạo, giáo dục được, tử hình là một loại hình phạt
đặc biệt, loại trừ vĩnh viễn người phạm tội ra khỏi đời sống xã hội, nên nhà nước không
thể đặt ra mục tiêu “cải tạo, giáo dục” một người đã chết.
Có thể nói, trong tất cả các loại hình phạt được áp dụng, chỉ hình phạt tử hình có
hiệu quả ngăn ngừa người bị kết án phạm tội mới cao nhất, mang tính tuyệt đối. Bởi vì
một người đã chết khơng thể tiếp tục thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.

1.3.2

Ý nghĩa của hình phạt tử hình

Trong tình hình diễn biến phức tạp của các loại tội phạm có tính chất nguy hiểm
cao cho xã hội hiện nay, việc quy định hình phạt tử hình có một ý nghĩa đặc biệt quan
trọng.Trong lĩnh vực luật hình sự, khi xem xét quyết định một loại hình phạt với người
phạm tội phải đảm bảo tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm. Có
một số người phạm tội mà tính lưu manh, cơn đồ, ngoan cố đã trở thành bản chất, sẵn
sàng phạm tội khi có điều kiện thì khả năng cải tạo, giáo dục họ là khơng thề. Đối với
những tội phạm này, các loại hình phạt khác không đủ khả năng đảm bảo được công lý,
lập lại công bằng trong xã hội. Để đảm bảo trật tự an tồn xã hội, trong những trường
hợp đó chỉ có hình phạt tử hình, loại hình phạt nghiêm khắc nhất mới có khả năng đạt
được mục đích phịng ngừa riêng và phịng ngừa chung. Việc quy định hình phạt tử hình
trong luật hình sự góp phần tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ sự an toàn,
vững mạnh của chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, tài sản cùa cơng dân.
Bên cạnh đó, trong điều kiện trình độ dân trí, ý thức pháp luật, thói quen, tập qn
pháp luật trong xã hội ta chưa cao, nếu khơng có những biện pháp răn đe đủ mạnh thỉ rất
khó có thể ngăn ngừa, dập tắt những ý đồ phạm tội của một số phần tử thối hóa, biến
chất. Nó góp phần nâng cao nhận thức của người dân nói chung, cán bộ các cơ quan bảo
vệ pháp luật nói riêng về sự cần thiết phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc nhất trong
hoạt động điều tra, truy tổ, xét xử những vụ án phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
Hơn nữa, tuy là hình phạt nghiêm khắc nhất tước bỏ quyền sống của người phạm
tội nhưng khơng có nghĩa là hình phạt tử hình mâu thuẫn với nguyên tắc nhân đạo. Khía
cạnh nhân đạo được thể hiện ở chỗ nó có tác dụng rất lớn trong việc phòng ngừa, răn đe
phạm tội, đàm bảo trật tự an toàn xã hội.


22


1.4 Các quy định về hình phạt tử hình trong pháp luật Hình Sự của một số nước
hiện nay
1.4.1

Các quy định về hình phạt tử hình phạt tử hình trong pháp luật Hình

Sự Việt Nam qua các thời kỳ
1.4.1.1

Các quy định về hình phạt tử hình trước năm 1945

Từ trước năm 1945 pháp luật phong kiến cũng đã có những quy định tiến bộ về
thi hành hình phạt tử hình, như quy định hỗn “hành hình” đối với phụ nữ có thai hoặc
đang ni con nhỏ dưới 100 ngày; khơng được thi hành hình phạt tử hình vào những dịp
lễ tết... Tuy nhiên, vấn đề thi hành hình phạt tử hình lại khơng được pháp luật phong kiến
quy định cụ thể, rõ ràng. Vì vậy, việc thi hành hình phạt tử hình trên thực tế phụ thuộc rất
nhiều vào các quan lại xét xử.Phần lớn, sau khi xét xử, hình phạt sẽ được thi hành ngay.
Thậm chí, sau khi tuyên án tử hình bằng miệng thì hình phạt tử hình đã được thi hành.
Đơi khi, thi hành án tử hình được thực hiện do một câu nói của nhà vua mà không cần
trải qua thủ tục điều tra, xét hỏi. Do đó, việc thi hành hình phạt tử hình oan xảy ra rất
nhiều. Việc thi hành hình phạt tử hình được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau,
nhưng đa số đều rất tàn khốc, dã man, gây sự đau đớn về thể chất và tinh thần khi thi
hành đối với phạm nhân (như hoả thiêu, bỏ vạc dầu, lăng trì, voi dày - ngựa xé, chém
đầu, chém ngang lưng...). Như vậy, thi hành hình phạt tử hình ở giai đoạn này cịn tuỳ
tiện và thiếu khách quan.
Hình phạt tử hình trong luật hình sự thời kỳ nhà Lý (1010 —1225)
Trong thời kỳ phong kiến, hình phạt được quy định một cách phổ biến đối với các
hành vi vi phạm pháp luật dù đó là hình sự, dân sự, hành chính hay hơn nhân gia đình.
Thời Lý Thái Tơng để củng cố quyền lực của mình, ổn định tình hình xã hội, năm 1042,

Lý Thái Tông sai trung thư sảnh san định luật lệnh lập ra Hình thư - đây là bộ luật thành
văn đầu tiên của nước ta. Hiện nay, bộ luật này khơng cịn vì khi nhà Minh đô hộ nước ta
(1407 - 1427) đã thu nhiều sách q, trong đó có bộ Hình thư đem về Kim Lăng, Trung
Quốc tiêu huỷ. Tuy nhiên, qua một số chiếu chỉ do các vua Lý ban hành vào thời kỳ này
chúng ta có thể thấy được một số quy định của triều đại này về hình phạt tử hình: Nhà Lý
xử nghiêm đối với các hành vi ảnh hưởng đến uy quyền và sự tồn vong của Hoàng tộc
như cấm bọn hoạn quan tự tiện vào trong cung, ai phạm thì bị tội chết; nếu canh giữ
khơng cẩn thận để cho người khác vào trong cung cũng bị tội chết; kẻ nào vào trong
hành lang chứa khí giới của đơ phụng quốc vệ thì bị xử tử; lính phụng quốc vệ trong


23

hành lang ấy khơng có chiếu chỉ mà tự tiện mang khí giới đi q ra ngồi phía đầu hành
lang thì bị xử tử. Cách thức thi hành hình phạt tử hình của nhà Lý cũng tàn khốc: người
phạm tội bị cắt thịt, róc xương ở chợ, hoặc bị đưa lên “ngựa gồ” - tức là bị đóng vào một
tấm ván đưa đi bêu chợ, sau đó mới đem đi tùng xẻo hoặc bị chặt hết chân tay
Hình phạt tử hình trong luật hình sự thời kỳ nhà Trần (1225 —1400)

Thờiđời
Trần
Thái
Tơng

bộ
“Quốc
triều
thơng
chế”
gồm

20
quyển,
đến
chiếu
dohình
vua
các
Trần
vua
Dụ
Trần
Tơng
ban

hành
bộ
“Hình
chúng
Thư”.
ta
thấy
Tuy
hình
nhiên,
luật
qua
triều
các
Trần
thậpác,

nghiêm
khắc
luật
hơn
triều
hình
Trần
luật
quy
triều
định
Lý.
tội
Trong
mưu
phản
số
các
phải
tội
chịu
hình
phạt
nặng
nhất

bị
giết
hết
thân

tộc.


24

Hình phạt tử hình trong luật hình sự thời kỳ nhà Hồ (1400 -1407)
Đến triều đại nhà Hồ, pháp luật hình sự hà khắc, nặng nề hơn các triều đại trước
đó rất nhiều. Để khơi phục kỷ cương và củng cố uy quyền, bảo vệ tiền giấy mới được
phát hành, nhà Hồ quy định: kẻ làm tiền giả bị tội chết, ruộng đất, tài sản bị tịch thu; cấm
tuyệt tiền đồng, không được chứa lén, tiêu vụng, kẻ nào vi phạm cũng bị trị tội như làm
tiền giả... Mặc dù chỉ tồn tại một thời gian ngắn, nhưng nhà Hồ đã thi hành chính sách
hình sự vơ cùng khắc nghiệt, hình phạt tử hình được áp dụng tràn lan, mang tính trấn áp,
“thị uy”, làm cho lịng dân ốn hận.
Hình phạt tử hình trong luật hình sự thời kỳ nhà Lê (1428 - 1788)
Bộ luật quan trọng và sáng giá nhất của nhà Lê là “Quốc triều hình luật” được
biên soạn và ban hành dưới triều vua Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức (năm 14701497), vì vậy cịn gọi là Bộ luật Hồng Đức. Đây là bộ luật được phỏng theo bộ luật nhà
Đường, nhưng có nhiều điểm độc đáo, tiến bộ hơn.
Trong Bộ luật Hồng Đức, Ngũ hình được quy định tại Điều 1 nhằm đề cao tính
răn đe. Ngũ hình là 5 hình phạt được sắp xếp theo thứ tự nặng dần bao gồm: hình phạt
xuy (đánh roi), hình phạt trượng (đánh bàng gậy), hình phạt đồ, hình phạt lưu (lưu đày
phạm nhân đi nơi xa) và nặng nhất là hình phạt tử (giết chết). Trong đó hình phạt tử hình
được chia làm ba loại từ nhẹ đến nặng là: giảo (thắt cổ) hay trảm (chém đầu); trảm khiêu
(chém bêu đầu) và lăng trì (tùng xẻo).
Hình phạt tử hình thường được quy định đối với các tội trong nhóm “thập ác” - đó
là các tội xâm phạm đến các quan hệ xã hội quan trọng nhất của chế độ phong kiến như:
1. Mưu phản (mưu mô làm nguy đến xã tắc); 2. Mưu đại nghịch (mưu phá huỷ tông
miếu, lăng tẩm, cung điện của nhà vua); 3. Mưu chống đối (mưu phản nước theo giặc); 4.
Ác nghịch; 5.Bất đạo; 6.Đại bất kính; 7.Bất hiếu; 8.Bất mục; 9.Bất nghĩa; 10.Nội
loạn.Qua đó ta thấy, bên cạnh việc bảo vệ nghiêm ngặt quyền thống trị của nhà nước
phong kiến tập quyền, pháp luật hình sự triều Lê cũng rất coi trọng việc bảo vệ trật tự xã

hội phong kiến và hệ tư tưởng Nho giáo.
Hình phạt tử cùng với đồ và lưu ln được coi là những hình phạt chính. Nó có
tác dụng vừa trừng trị tội phạm, vừa răn đe những kẻ khác. Theo quy định của Bộ luật
Hồng Đức, hình phạt tử có mục đích tước đoạt mạng sống của tội nhân đồng thời đánh
vào đời sổng tinh thần và tâm linh của con người ở những mức độ khác nhau.
Hình phạt tử hình trong luật hình sự thời kỳ nhà Nguyễn (1802-1883)


25

Sau khi lên ngơi hồng đế, vua Gia Long đã điển chế lập pháp.Năm 1812, Bộ
“Hoàng Việt luật lệ” (hay còn gọi là Bộ luật Gia Long) được ban hành. Bộ Hoàng Việt
luật lệ gồm 398 Điều, chia thành 22 quyển vẫn quy định hệ thống hình phạt “ngũ hình”.
Đối với hình phạt tử hình , Bộ luật Gia Long vẫn giữ ba hình thức tử hình là chém hay
thắt cổ, chém bêu đầu và lăng trì nhưng xử lý nghiêm khắc hơn so với hình luật triều Lê.
Ví như tội mưu phản, luật Hồng Đức chỉ quy định chém bêu đầu, trong khi luật Gia Long
quy định hình phạt lăng trì. So với Quốc triều hình luật thì Bộ luật Gia Long mang tính
khái quát cao hơn, mang tính trừng trị cao hơn so với Bộ luật Hồng Đức.
Trong số 353 điều quy định về các tội phạm cụ thể, Hồng việt luật lệ có 122 điều
quy định hình phạt cao nhất là tử hình.Như vậy số điều luật quy định có hình phạt tử
hình chiếm tới 35% tổng số điều luật quy định về tội phạm.
Hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam thời kỳ Thuộc địa (1883 —1945)
Ngày 01.09.1858, Pháp tấn công bán đảo Sơn Trà, mở đầu thời kỳ chiếm đóng
Việt Nam Trong giai đoạn này, thực dân Pháp thực hiện chính sách “chia để trị”, chia đất
nước ta ra làm ba kỳ với ba chế độ chính trị, pháp luật khác nhau:
Nam Kỳ: Để bảo vệ chế độ thực dân và đàn áp phong trào cách mạng của nhân
dân Việt Nam, miền Nam áp dụng pháp luật hình sự của Pháp (Hình luật Canh cải) quy
định hình phạt tử hình và thi hành bằng cách chém đầu đối với tất cả các hành vi chống
lại thực dân Pháp (Điều 75 Bộ luật này quy định: những người thuộc địa của Pháp quốc
hay người bảo hộ của Pháp quốc mà cầm khí giới làm nghịch chống Pháp quốc thì sẽ bị

xử tử).
Bắc Kỳ: áp dụng Luật hình An Nam. Về hình phạt tử hình, Hình luật An Nam
ngồi việc quy định mọi hành vi chống lại thực dân Pháp đều bị xử tử hình cịn quy định
thêm: mọi sự biểu lộ ý định lơi kéo nhân dân hay xâm phạm tính mạng nhà vua đều bị xử
tử.
Trung Kỳ: Áp dụng Hồng Việt Hình Luật, Bộ Hình Luật này được soạn thảo trên
cơ sở Bộ Luật Gia Long có sửa đổi bổ sung cho phù hợp với hồn cảnh mới được áp
dụng cho các tịa Nam án xét xử người bản xứ trên địa hạt Trung Kỳ. Ngay trong Điều 1
của Bộ Hồng Việt hình luật tự nhận rằng: “các thể lệ trong luật này đều là trích lấy
trong luật Gia Long và giữ theo những điều lưu truyền của nước Nam, chỉ châm chước
sửa lại”, nhưng nội dung thực chất sao chép lại Hình luật Canh cải.
Hình phạt tử hình được quy định trong hệ thống hình phạt chính, áp dụng đối với các tội


×