Tải bản đầy đủ (.docx) (141 trang)

Sự chuyển nghĩa và thay đổi cách sử dụng của nhóm từ ghép hán việt so với từ gốc hán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 141 trang )

V*

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU
MỘT
0

KHOA NGỮ VĂN

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN THAM GIA
XÉT GIẢI THƯỞNG “TÀI NĂNG KHOA HỌC TRẺ ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT”
NĂM 2014-2015

ĐỀ TÀI

SỰ CHUYỂN NGHĨA VÀ THAY ĐỔI
CÁCH SỬ DỤNG CỦA NHÓM TỪ GHÉP
HÁN VIỆT SO VỚI TỪ GỐC HÁN
Thuộc nhóm ngành khoa học: Khoa học Xã hội và Nhân Văn

Bình Dương, tháng 5 năm 2015

ojk


0

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU
MỘT
KHOA NGỮ VĂN


o
l

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN THAM GIA
XÉT GIẢI THƯỞNG “TÀI NĂNG KHOA HỌC TRẺ ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT”
NĂM 2014-2015

ĐỀ TÀI

SỰ CHUYỂN NGHĨA VÀ THAY ĐỔI
CÁCH SỬ DỤNG CỦA NHÓM TỪ GHÉP
HÁN VIỆT SO VỚI TỪ GỐC HÁN
Người hướng dẫn: Thạc sĩ Trần Duy Khương
SVTH: Phạm Thị Diễm Thúy Nam, Nữ: Nữ
Dân tộc: Kinh
Lớp: D12NV03, Khoa: Ngữ Văn Năm thứ: 3 /Số năm đào tạo: 4
Ngành học: Sư phạm Ngữ Văn

'


UBND TỈNH BÌNH DƯƠNG

CỘNG HỊA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc


THÔNG TIN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1. Thông tin chung
- Tên đề tài: Sự chuyển nghĩa và thay đổi cách sử dụng của nhóm từ ghép Hán Việt so
với từ gốc Hán
- Sinh viên thực hiện: Phạm Thị Diễm Thúy
- Lớp: D12NV03 Khoa: Ngữ Văn Năm thứ: 3/ Số năm đào tạo: 4
- Người hướng dẫn: Thạc sĩ Trần Duy Khương
2. Mục tiêu đề tài
Thông qua việc xác định những từ Hán Việt có sự thay đổi cách sử dụng, chúng tơi
muốn tìm hiểu những từ Hán Việt được sử dụng trong đời sống hằng ngày có nghĩa gốc là gì
và việc sử dụng nghĩa từ Hán Việt của người Việt như thế có hợp lý hay khơng. Từ đó, chúng
tơi cố gắng chỉ ra những cách dùng từ chưa thoả đáng để không làm mất đi sự trong sáng của
tiếng Việt. Đồng thời, đề tài này có thể sẽ giúp người Việt có ý thức hơn nữa trong việc sử
dụng từ Hán Việt, cũng như có thể diễn đạt ngơn ngữ một cách hợp lý và hiệu quả hơn trong
đời sống hằng ngày.
3. Tính mới và sáng tạo
Trên cơ sở kế thừa những kết quả của các nhà ngôn ngữ học đi trước, chúng tôi phát
triển thêm về việc khảo cứu về những từ Hán Việt thay đổi cách sử dụng và đưa ra các bảng
thống kê cụ thể cho các nhóm từ đó. Từ đó, cơng trình này có thể cho người đọc có cái nhìn
cụ thể hơn về những từ Hán Việt thay đổi cách sử dụng. Trong đó, chúng tơi chỉ rõ cả về việc
thay đổi nghĩa lẫn việc thay đổi về vỏ ngữ âm dẫn đến việc thay đổi nghĩa.
4. Kết quả nghiên cứu
Qua quá trình khảo sát từ Hán Việt thay đổi cách sử dụng, chúng tôi đã nghiên cứu về
ba phần như sau: Thứ nhất: là phần giới thiệu khái quát về từ Hán Việt cũng như quá trình du
nhập của từ Hán Việt vào Việt Nam và vai trị của chúng trong hệ thống ngơn ngữ Việt. Thứ
hai: là phần thống kê và phân loại nhóm từ chuyển đổi nghĩa. Thứ ba: là phần nghiên cứu về
xu hướng sử dụng từ Hán Việt của người Việt hiện nay và chỉ ra những lỗi sai về cấu tạo.
Phần thứ nhất: cũng là phần chương 1 trong phần nội dung chính của nghiên cứu. Ở
phần này, giới thiệu khái quát về từ Hán Việt cũng như quá trình du nhập của từ Hán Việt vào



Việt Nam và vai trò của chúng trong hệ thống ngôn ngữ Việt.
Từ Hán Việt là những từ gốc Hán thâm nhập vào Việt Nam bằng cả con đường chiến
tranh (cưỡng bức) lẫn con đường hồ bình (giao lưu văn hoá). Trước khi chữ Quốc ngữ ra
đời, người Việt phải dùng chữ Hán để viết nhưng đọc theo âm Việt. Và nhà nước phong kiến
Việt Nam đã sử dụng chữ Hán trong các trong các văn bản hành chính quốc gia trong suốt
quá trình tồn tại. Người Việt mượn chữ Hán của Trung Quốc chủ yếu ở thời cổ đại, điển hình
nhất là thời Đường- Tống.
Về thuật ngữ “từ Hán Việt”, từ trước đến nay, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học đã đưa
ra nhiều định nghĩa khác nhau. Họ đã có nhiều bài viết để trực tiếp hoặc gián tiếp đưa ra nhận
định riêng của mình về khái niệm của từ Hán.
Nguyễn Tài Cẩn đã căn cứ vào cứ liệu lịch sử, khảo cổ... để đưa ra những nguyên nhân
dẫn đến sự tiếp xúc lâu dài, liên tục và sâu rộng của tiếng Hán đến tiếng Việt như sau:
Thứ nhất: nhân tố về mặt chính trị;
Thứ hai: nhân tố về mặt xã hội;
Thứ ba: nhân tố về mặt văn hóa;
Q trình du nhập được chia ra làm hai giai đoạn và lấy thế kỷ X làm cột mốc để đánh
dấu sự phân chia đó.
Khi nhắc đến vai trị của Từ hán Việt thì Đặng Đức Siêu đã nói như sau: “Trong thực
tế sử dụng, từ Hán Việt cũng có thể có những biến động nhất định về các mặt mang tính chất
tự nhiên, tự phát nhưng về căn bản, việc hiểu và dùng từ Hán Việt cần phải dựa trên việc quy
phạm hóa, chuẩn hóa đúc kết từ những nhận thức khoa học và tập quán sử dụng của hàng
ngàn thế hệ người bản địa. Trong đó nổi bật lên vai trò dẫn đường của những nhân tài song
ngữ Việt Hán của những tác giả tiêu biểu đã sáng tác ra biết bao nhiêu tác phẩm mẫu mực
thuộc đủ mọi loại thể, phản ánh một cách sinh động mọi lĩnh vực hoạt động của đất nước,
của đời sống xã hội từ xưa đến nay. Những tác phẩm đã bộc lộ rõ sức mạnh của văn hóa Việt
Nam, đã thể hiện hoàn hảo sự phong phú, tinh tế, uyển chuyển, trong sáng của tiếng Việt mà
trong đó có phần đóng góp khơng nhỏ của lớp từ Hán Việt [15, tr. 97].
Như vậy, có thể thấy được rằng Hán Việt đóng vai trị chủ đạo trong ngơn ngữ Việt và
đặc biệt là trong các văn bản chính luận, khoa học... làm cho văn bản có tính trang trọng hơn.

Ngay cả trong các hoàn cảnh giao tiếp trang trọng, người Việt vẫn có xu hướng sử dụng từ
Hán Việt.
Phần thứ hai: cũng là phần chương 2 trong nội dung nghiên cứu của đề tài. Ở chương


này, chúng tơi chỉ ra những ngun nhân có sự chuyển đổi nghĩa trong quá trình sử dụng từ
Hán Việt như sau:
Thứ nhất: Do tư duy liên tưởng của người Việt.
Thứ hai: Do yếu tố văn hóa của người Việt.
Thứ ba: Do có nhu cầu sử dụng từ ngữ đơn giản, nên người Việt có thói quen rút gọn
những từ ngữ (đa số là ngữ) Hán thành những từ ngắn gọn.
Thứ tư: Do nhân tố xã hội luôn tác động mạnh mẽ dẫn đến có sự thay đổi nghĩa của từ
Hán Việt.
Sau khi khảo sát, chúng tơi thống kê có tất cả 456/7485 từ, chiếm 6.09%. Nhóm từ Hán
Việt thay đổi nghĩa so với nghĩa gốc này có thể lại chia thành các tiểu loại như sau:
Loại thứ nhất: Từ Hán Việt có nghĩa khác.
Loại thứ hai: Từ Hán Việt có nghĩa thu hẹp hoặc mở rộng so với nghĩa gốc.
Loại thứ ba: Từ Hán Việt có cách dùng khác.
Phần thứ ba: cũng là phần chương 3 trong nội dung nghiên cứu của đề tài. Ở chương
này, chúng tôi chỉ ra xu hướng sử dụng từ Hán Việt của người Việt hiện nay và chỉ ra những
lỗi sai về cấu tạo.
Người Việt sử dụng từ Hán Việt theo ba xu hướng chính. Thứ nhất là sự nỗ lực chính
thống hóa trong sử dụng; thứ hai là việc tạo ra từ mang yếu tố Hán Việt mới theo nhu cầu
thực tế; và cuối cùng là việc chấp nhận sự chuyển nghĩa.
Như vậy, chúng ta có thể thấy được việc dùng sai từ Hán Việt có ảnh hưởng rất lớn đến
sự phát triển chung của tiếng Việt. Do vậy, Nguyễn Văn Khang nhận định: “Trong giai đoạn
hiện nay, cần có một quy định thống nhất về cách tiếp nhận và sử dụng từ ngoại lai theo
hướng Việt hóa”. Điều đó có nghĩa là chúng ta cần có những biện pháp để có thể khắc phục
dần cũng như xóa hẳn những vấn đề bất cập còn tồn tại trong việc sử dụng tiếng Việt nói
chung và trong việc sử dụng từ Hán Việt nói riêng để tiếng Việt được vận hành và phát triển

theo hướng ngày càng hợp lý hơn, khoa học hơn, trong sáng hơn.
5. Đóng góp về mặt kinh tế - xã hội, giáo dục và đào tạo, an ninh, quốc phòng và
khả năng áp dụng của đề tài
Đề tài nghiên cứu sẽ cho chúng ta biết được sơ lược về nguồn gốc của sự du nhập của
tiếng Hán vào Việt Nam và vai trò của tiếng Hán đối với sự phát triển ngơn ngữ tiếng Việt,
ngun nhân có sự chuyển đổi nghĩa, phân loại các từ Hán Việt chuyển đổi nghĩa đó, xu
hướng sử dụng từ Hán Việt của người Việt và các vấn đề bất cập khi dùng từ Hán Việt hiện


nay.
Cơng trình này có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho bản thân hoặc cho các sinh viên
khác khi tiến hành đọc văn bản hoặc soạn thảo văn bản (như giáo án, bài luận...), trong quá
trình học tập hiện tại cũng như trong quá trình giảng dạy trong tương lai. Hơn nữa, mọi người
có thể biết được từ Hán Việt nào mắc lỗi dùng từ chưa thoả đáng, từ nào là từ được “Việt
hóa” cho phù hợp với ngơn ngữ Việt mà thận trọng hơn trong việc sử dụng từ Hán Việt, đặc
biệt là khi sử dụng từ Hán Việt ở các phương tiện thông tin truyền thông, trong các văn bản
chính luận, khoa học, hành chính (là những văn bản sử dụng nhiều từ Hán Việt).
Ngày 15 tháng 05 năm 2015
Sinh viên chịu trách nhiệm chính
thực hiện đề tài
(ký, họ và tên)
PhạmThị DiễmThúy
Nhận xét của người hướng dẫn về những đóng góp khoa học của sinh viên thực

hiện đề tài:
NỘI DUNG NHẬN XÉT
Trong lớp văn hoá giao lưu với Trung Hoa và khu vực (giữa thế kỷ II TCN đến giữa thế
kỷ XIX), văn hoá Việt Nam đã tiếp nhận phần nhiều từ văn hoá Trung Hoa, trong đó có ngơn
ngữ Trung Quốc. Chính vì thế, từ Hán Việt đã chiếm một khối lượng rất lớn trong kho từ
vựng tiếng Việt. Tuy nhiên, để phù hợp với thói quen sử dụng ngôn ngữ cũng như phù hợp

với lối tư duy của mình, người Việt đã sử dụng nhóm từ Hán Việt này một cách khá linh
động. Từ đó, một số từ đã được thay đổi cách sử dụng,


bao gồm: thay đổi nghĩa, thêm thu hẹp nghĩa, thay đổi từ để
diễn đạt cùng khái niệm; thậm chí là tạo ra những từ mới dựa trên
các yếu tố Hán Việt trước đó.

Nhưng, cho đến hiện nay, nhóm từ thay đổi cách sử dụng này vẫn chưa được thống
kê một cách chính xác và có sự phân loại một cách cụ thể. Do vậy, đề tài NCKH “Khảo
sát nhóm từ Hán Việt thay đổi cách sử dụng” của sinh viên Phạm Thị Diễm Thuý có một ý
nghĩa nhất định khi đã kịp thời tiến hành khảo sát một cách nghiêm túc đối với nhóm từ
này.
Tuy nhiên, trong q trình nhận diện từ Hán Việt cũng như nhóm từ Hán Việt thay
đổi cách sử dụng, tác giả vẫn cịn bỏ sót từ. Ngồi ra, cách diễn đạt đơi khi cịn khá mơ hồ,
cấu trúc ngữ pháp ở một số câu vẫn cịn chưa sáng rõ, những điều này có thể gây nên hiện
tượng hiểu nhầm cho người đọc.
Nhìn chung, đây là cơng trình rất có chất lượng, có đóng góp cụ thể về lý luận và
thực tiễn. Đề tài đáp ứng đầy đủ yêu cầu của một đề tài nghiên cứu khoa học, có thể dùng
làm tài liệu tham khảo về lĩnh vực ngôn ngữ.
2. Đề nghị

Được bảo vệ: 0

Không được bảo vệ: □
Bình Dương, ngày 4 tháng 5 năm 2015

XÁC NHẬN CỦA LÃNH ĐẠOGIẢNG
KHOAVIÊN HƯỚNG DẪN
(ký, họ và tên)

(Ký và ghi rõ họ tên)

Trần Duy Khương


UBND TỈNH BÌNH DƯƠNG

CỘNG HỊA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

THƠNG TIN VỀ SINH VIÊN
CHỊU TRÁCH NHIỆM CHÍNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
I. SƠ LƯỢC VỀ SINH VIÊN:
Ảnh 4x6

Họ và tên: Phạm Thị Diễm Thúy
Sinh ngày: 15 tháng 10 năm 1992
Nơi sinh: TT. KrơngNăng, H. KrơngNăng, T. ĐăkLăk.
Lớp: D12NV03

Khóa: 2012 - 2016

Khoa: Ngữ Văn
Địa chỉ liên hệ: Khu phố 2, Phường Thạnh Lộc, Quận 12, TP. HCM.
Điệnthoại:
* Năm thứ 1:0169.941.4697
Email: nhuanlieu@yahoo. com.vn

Ngành
học:
Sư phạm Ngữ Văn
Khoa: Khoa học Xã hội và Nhân văn
* Năm
thứ 2:
II. Q
TRÌNH
HỌC TẬP
Kết
quảhọc:
xếp Sư
loạiphạm
học tập:
Ngành
NgữTrung
Văn Bình Khá Khoa: Ngữ Văn

tích:
Kếtlược
quả thành
xếp loại
học tập: Khá
Sơ lược thành tích:
* Năm thứ 3:
Ngành học: Sư phạm Ngữ Văn

Khoa: Ngữ Văn

Kết quả xếp loại học tập (học kỳ I): Khá

Sơ lược thành tích:
Ngày 15 tháng 05 năm 2015
XÁC NHẬN CỦA LÃNH ĐẠO KHOA
(ký, họ và tên)

Sinh viên chịu trách nhiệm chính
thực hiện đề tài
(ký, họ và tên)

Phạm Thị Diễm
Thúy


CỘNG
HÒA
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ
DẦU
MỘT
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
KHOA NGỮ VĂN

Bình Dương, ngày 15 tháng 05 năm 2015
Kính gửi:
Tên tơi là: Phạm Thị Diễm Thúy

Ban tổ chức Giải thưởng “Tài năng
khoa học trẻ Đại học Thủ Dầu Một”
Sinh ngày 15 tháng 10 năm 1992


Sinh viên năm thứ: 3/Tổng số năm đào tạo: 4 năm.
Lớp, khoa : D12NV03, Khoa Ngữ Văn.
Ngành học : Sư Phạm Ngữ Văn.
Thông tin cá nhân của sinh viên chịu trách nhiệm chính:
Địa chỉ liên hệ: Khu phố 2, Phường Thạnh Lộc, Quận 12, Tp. HCM.
Số điện thoại (di động): 01699414697
Địa chỉ email: nhuanlieu@yahoo. com.vn
Tơi làm đơn này kính đề nghị Ban tổ chức cho tôi được gửi đề tài nghiên cứu khoa
học để tham gia xét Giải thưởng “Tài năng khoa học trẻ Đại học Thủ Dầu Một” năm
2015.
Tên đề tài: Sự chuyển nghĩa và thay đổi cách sử dụng của nhóm từ ghép Hán Việt
so với từ gốc Hán
Tôi xin cam đoan đây là đề tài do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của Thạc sĩ Trần
Duy Khương; đề tài này chưa được trao bất kỳ một giải thưởng nào khác tại thời
điểm nộp hồ sơ và không phải là luận văn, đồ án tốt nghiệp.
Nếu sai, tôi xin chịu trách nhiệm trước khoa và Nhà trường.
XÁC NHẬN
CỦA
LÃNH
Người
làm
đơn ĐẠO KHOA

họtrách
và tên)
(Sinh viên(ký,
chịu
nhiệm chính thực hiện đề tài c Ký và ghi rõ họ tên)



MỤC LỤC

Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................ 1
2. Mục tiêu đề tài............................................................................................................. 1
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu................1
3.1. Đối tượng nghiên cứu....................................................................................1
3.2. Phạm vi nghiên cứu...................................................................................... 2
3.3. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 2
4. Lịch sử vấn đề ............................................................................................................. 2
5. Sản phẩm và khả năng ứng dụng ................................................................................ 4
6. Bố cục và nội dung của đề tài ...................................................................................... 5
Chương 1: Khái quát về từ Hán Việt trong quá trình phát triển của tiếng Việt ............ 6
1.1.
Khái quát về từ Hán Việt ................................................................................. 7
1.2.
Quá trình du nhập của tiếng Hán vào Việt Nam ............................................ 13
1.3.
Vai trò của tiếng Hán đối với sự phát triển ngôn ngữ Việt ............................. 17
1.4.
Tiểu kết ......................................................................................................... 22
Chương 2: Nhóm từ Hán Việt có sự chuyển đổi nghĩa so với nghĩa gốc Hán ............. 23
2.1.
Ngun nhân có sự chuyển đổi nghĩa trong q trình sử dụng từ Hán............ 23
2.2.
Phân loại các nhóm từ Hán Việt thay đổi nghĩa ............................................ 25
2.2.1. Từ Hán Việt có nghĩa thu hẹp hoặc mở rộng so với nghĩa gốc ............... 26
2.2.2. Từ Hán Việt có nghĩa khác ..................................................................... 28
2.3.

Tiểu kết ......................................................................................................... 62
Chương 3: Cách dùng từ Hán Việt của người Việt hiện nay....................................... 64
3.1.
Xu hướng sử dụng từ Hán Việt trong đời sống người Việt............................. 64
3.1.1. Nỗ lực chính thống hóa trong sử dụng ..................................................... 65
3.1.2. Tạo ra từ mang yếu tố Hán Việt mới theo nhu cầu thực tế ...................... 66
3.1.3. Sử dụng song hành từ Hán Việt nguyên bản và từ Hán Việt có cách dùng
khác..................................................................................................................... 88
3.1.4. Chấp nhận sự chuyển nghĩa .................................................................. 112
3.2. Các vấn đề bất cập về nghĩa khi sử dụng từ Hán Việt ....................................... 113
3.3.
Các lỗi sai về cấu tạo từ .............................................................................. 115
3.3.1. Dùng từ bất thoả do không phân biệt được từ Hán Việt và từ thuần Việt 115
3.3.2. Dùng từ bất thoả do cách tạo từ mới không theo nguyên tắc cấu tạo .....119
3.4.
Ảnh hưởng của những từ Hán Việt thay đổi cách sử dụng ...........................125
3.5.
Tiểu kết ........................................................................................................126
KẾT LUẬN .............................................................................................................128
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................131


DANH MỤC BẢNG BIỂU
STT
1
2
3

Tên bảng
Bảng 2.2.1. Từ Hán Việt có nghĩa thu hẹp hoặc mở rộng so

với nghĩa gốc

Trang
26

Bảng 2.2.2. Từ Hán Việt có nghĩa khác

29

Bảng 3.1.2.1. Từ Hán Việt cấu tạo mới từ hai yếu tố Hán

67

Bảng 3.1.2.2. Từ Hán Việt cấu tạo mới từ một yếu tố Hán và
4

một yếu tố Việt

74

5

Bảng 3.I.2.3. Từ Hán Việt rút gọn

77

6

Bảng 3.I.2.4. Từ Hán Việt dùng hợp lý


81

7

Bảng 3.1.4. Từ Hán Việt có cách dùng khác

85

8

Bảng 3.3.2. Từ Hán Việt dùng sai

112

9

Bảng 3.3.3. Từ Hán Việt sai cấu trúc

116


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ở Việt Nam hiện nay, trên các phương diện khác nhau của đời sống, người Việt
vẫn thường dùng từ Hán Việt. Trong những lĩnh vực cần diễn đạt ngôn ngữ một cách
khoa học, chặt chẽ, chính xác như trong nghiên cứu khoa học, giáo dục, quân sự, chính
trị hay văn chương, người Việt thích dùng những từ Hán Việt để tạo nên tính trang
trọng, hàn lâm cho văn bản. Nhưng để hiểu rõ hoặc sử dụng đúng với nghĩa nguyên bản
từ nguyên học thì khơng phải ai cũng làm được. Cho nên, chúng tôi chọn đề tài này
nhằm tăng thêm vốn từ Hán Việt cho mình cũng như thơng qua đó có thể giúp cho mọi

người hiểu hơn về nghĩa của từ Hán Việt và có cách sử dụng cho thật hợp lý và hiệu
quả.

2. Mục tiêu đề tài
Thông qua việc xác định những từ Hán Việt có sự thay đổi cách sử dụng, chúng
tơi muốn tìm hiểu những từ Hán Việt được sử dụng trong đời sống hằng ngày có nghĩa
gốc là gì và việc sử dụng nghĩa từ Hán Việt của người Việt như thế có hợp lý hay
khơng. Từ đó, chúng tôi cố gắng chỉ ra những cách dùng từ chưa thoả đáng để không
làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt. Đồng thời, đề tài này có thể sẽ giúp chúng ta có
ý thức hơn nữa trong việc sử dụng từ Hán Việt, cũng như có thể diễn đạt ngôn ngữ một
cách hợp lý và hiệu quả hơn trong đời sống hằng ngày.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là từ Hán Việt có sự thay đổi cách sử dụng, tức là
những từ có cách sử dụng về nghĩa/ hoặc vỏ ngữ âm không giống với từ gốc, hoặc là
những từ mới do người Việt tạo ra. Tuy nhiên, chúng tôi chỉ tiến hành khảo sát sự thay
đổi cách sử dụng đối với từ ghép, bởi vì từ đơn đơn là dạng từ có cách vận hành linh
hoạt, có thể dùng độc lập như một từ thuần Việt nên khó có thể xác định sự thay đổi
cách sử dụng như là những từ ở dạng ghép. Do đó, đối tượng được khảo sát trong cơng
trình này là những từ Hán Việt ở dạng ghép và có sự thay đổi cách sử dụng. Trong q
trình sử dụng, có khá nhiều từ mang hình thức của từ Hán Việt được sử dụng chưa thật
sự hợp lý, chưa diễn đạt đúng ý nghĩa hoặc có những từ ngữ được sử dụng với những
nét nghĩa khác hoặc thay đổi hồn tồn nghĩa vốn có ban đầu của nó.
1


3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong đề tài này, chúng tôi tiến hành khảo sát tất cả các từ Hán Việt có sự chuyển
đổi ghĩa so với nghĩa gốc của từ Hán được thể hiện trong từ điển Việt Hán (chúng tôi

dựa trên cơ sở từ quyển Từ điển Việt Hán hiện đại của tác giả Trương Văn Giới và Lê
Khắc Kiều Lục (2006, Nhà Xuất Bản Lao Động). Ngoài ra, chúng tơi cịn khảo sát thêm
những từ Hán Việt bị dùng chưa thỏa đáng mà không được các phương tiện thơng tin
chính thống đề cập đến (tức những từ Hán Việt cá biệt trong thực tế sử dụng của người
Việt hiện nay). Đối với chương 3, chúng tôi chỉ đưa ra các trường hợp dùng từ Hán Việt
có sự chuyển đổi cách sử dụng được xét trên cơ sở lý thuyết và tiến hành khảo sát trên
từ quyển Từ điển Việt Hán hiện đại của tác giả Trương Văn Giới và Lê Khắc Kiều Lục
chứ không khảo sát thực tế.

3.3. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nội dung nghiên cứu, chúng tôi chủ yếu dựa trên phương pháp so
sánh lịch đại và đồng đại. Cụ thể là so sánh từ Hán Việt được giải thích nghĩa trong từ
điển Việt Hán có trùng khớp với từ Hán Việt trong từ điển Hán Việt hay khơng mà phân
loại các từ ấy.
Ngồi ra, chúng tơi cịn sử dụng phương pháp phân tích (đối với việc xem xét
nghĩa của từ Hán Việt chuyển đổi nghĩa); phương pháp nghiên cứu liên ngành giữa kiến
thức ngôn ngữ học với kiến thức văn hoá học (xem xét các nguyên nhân tạo ra sự thay
đổi nghĩa ở một số từ Hán Việt so với từ Hán nguyên bản, hoặc dùng để giải thích sự
sáng tạo ra những từ có hình thức Hán Việt mới khơng đúng phương thức cấu tạo...).

4. Lịch sử vấn đề
Hiện nay, có khá nhiều cơng trình nghiên cứu về lịch sử phát triển của tiếng Việt,
đặc biệt là các cơng trình nghiên cứu về từ Hán Việt. Vì từ Hán Việt là những từ gốc
Hán thâm nhập vào Việt Nam bằng cả con đường chiến tranh (cưỡng bức) lẫn con
đường hồ bình (giao lưu văn hoá), đồng thời được người Việt sử dụng làm công cụ
giao tiếp quan trọng trong hơn một ngàn năm nên có rất nhiều vấn đề nảy sinh trong khi
sử dụng. Vì thế, các học giả từ lâu đã có những cơng trình nghiên cứu về vấn đề này với
mục đích là giúp cho người Việt sử dụng từ Hán Việt một cách chính xác và có hiệu
quả. “Từ Hán Việt ngoài tư cách là đối tượng nghiên cứu của khoa học ngôn ngữ (trực
tiếp là của bộ môn từ vựng học), nó cịn là một hiện tượng thường đụng chạm tới trong

giao tiếp hàng ngày. Việc dùng từ Hán Việt như thế nào được gọi là đúng, thế nào là sai
hồn tồn khơng phải là vấn đề đơn giản. Vì những lẽ đó, trong mấy năm gần đây, báo
2


Văn nghệ của Hội nhà văn đã dành nhiều trang đăng tải ý kiến của các học giả, các
nhà nghiên cứu và bạn đọc về vấn đề này. Tuy nhiên, cho đến nay, việc quan niệm thế
nào là đúng, thế nào là sai trong cách dùng từ Hán Việt, cũng như việc định ra một giải
pháp nhằm khắc phục tình trạng sử dụng tùy tiện loại từ này hiện vẫn cịn nan giải.
Tình hình đó cho thấy tính phức tạp của vấn đề, đồng thời cũng phản ánh những yêu
cầu cấp bách của xã hội” [6].
Tác giả Vũ Cao Phan cũng có một bài viết về vấn đề từ Hán Việt với đề tài “Thử
đề xuất một giải pháp” (22, tr. 21), trong đó, ơng cho rằng: “nếu như khơng có giải
pháp cho vấn đề trên thì tình hình dùng từ Hán Việt sẽ ngày càng bừa bãi”. Và ông
cũng đã viết “Mặc dù được sử dụng nhiều và phát triển ngày càng phong phú trong
ngôn ngữ Việt, về mặt chính thức từ Hán-Việt vẫn bị coi là thứ từ vay mượn”. Và một
khái niệm được các nhà ngôn ngữ học đưa ra là “Từ Hán Việt là các từ mà người Việt
mượn từ tiếng Hán, nhưng được đọc theo cách của người Việt Nam”. Điều này cho
chúng ta thấy được từ Hán Việt tuy được sử dụng phổ biến nhưng vẫn không phải là
bản ngữ nên chúng ta cần hiểu rõ nghĩa từ nguyên của nó mà có cách sử dụng cho thật
hợp lý.
Ngồi ra cịn có các cơng trình như: “Chữ Hán của Người Việt” của Vũ Tuấn Sán,
nói về trường hợp Việt hóa từ Hán theo cách đọc và hiểu nghĩa và trường hợp chữ viết
theo thể “thảo” nhưng theo cách riêng của người Việt; “Có nên dạy chữ Hán ở trường
phổ thông” của tác giả Vũ Văn Dân (trao đổi với giáo sư Nguyễn Đình Chú trên mục
Bình luận văn nghệ ngày 11 tháng 10). Sau đó là bài viết của tác giả Trần Thanh Tuấn
cũng có bài viết trao đổi với tác giả Vũ Văn Dân về vấn đề này. Cả hai bài đều nói về
vai trò của việc học chữ Hán trong nỗ lực nâng cao chất lượng dạy học ngữ văn phổ
thông; bài báo của tác giả Hồ Xuân Tuyên với đề tài “Về một số từ Hán Việt hay bị phê
phán dùng sai” (in trong tạp chí Ngơn ngữ và đời sống số 1 + 2 năm 2012) cũng đề cập

đến vấn đề sử dụng sai một số từ Hán Việt. Tác giả Hồ Xuân Tuyên nhận định rằng:
“Một số từ Hán Việt đã được người Việt thay đổi trật tự các yếu tố cấu tạo từ, biến đổi
âm và chuyển nghĩa để Việt hóa chúng chứ chưa hẳn đã dùng sai”và đưa ra hai trường
hợp sử dụng từ Hán Việt bị “phê phán” dùng sai là: phát âm sai (viết sai) hay cách đổi
trật tự, biến âm, chuyển nghĩa để Việt hóa và lỗi lặp (hoặc yếu tố dư) trong các kết hợp
đồng nghĩa giữa yếu tố Hán và Việt hay yếu tố Hán đã được Việt hóa [18, tr. 9 - 11].
Những trường hợp đó theo tác giả Hồ Xuân Tun thì “khơng hồn tồn cho rằng tất
cả những từ Hán Việt bị phê phán dùng sai đều phải được coi là dùng đúng hết. Trong
3


số ấy, có một số từ theo q trình lịch sử, người Việt đã “thuần hóa” chúng theo quy
luật ngơn ngữ của mình. Số khác nằm trong trường hợp dùng sai cần lưu ý” [18, tr. 12].
Từ cơng trình này chúng ta có thể thấy được cái nhìn sơ lược về sự nhận định đúng sai
của việc dùng từ Hán Việt, khi phán xét cần căn cứ vào nhiều yếu tố chứ khơng nên
nhìn phiến diện, một chiều mà đánh giá.
Những cơng trình này phần nào nêu lên được thực trạng sử dụng từ Hán Việt cuả
người Việt hiện nay. Ngồi ra, đây cịn là đề tài được sinh viên ngành Ngôn ngữ hoặc
ngành Ngữ văn Trung Quốc chọn làm đề tài nghiên cứu, ví dụ như đề tài “Phân tích sự
khác biệt về nghĩa của từ Hán Việt và từ tiếng Hán tương ứng cùng những ứng dụng
trong giảng dạy từ vựng tiếng Hán” của sinh viên Trần Thị Tố Nga. Đề tài này đã chỉ ra
được sự khác biệt về nghĩa của từ Hán Việt và từ tiếng Hán tương ứng. Hơn nữa, sinh
viên Trần Thị Tố Nga đã đưa ra được phương pháp giảng dạy từ vựng tiếng Hán để có
phương pháp giảng dạy tiếng Hán tốt hơn.
Tuy nhiên, những cơng trình này phần lớn đều chỉ khái quát được sơ lược về
nhóm từ Hán Việt sai biệt nghĩa mà vẫn chưa có bảng thống kê cụ thể về các từ Hán
Việt đó. Tiếp nối những cơng trình nghiên cứu của các học giả đi trước, chúng tơi chọn
đề tài “Khảo sát nhóm từ Hán Việt thay đổi cách sử dụng” làm đề tài nghiên cứu của
mình. Chúng tơi hy vọng rằng cơng trình nghiên cứu này sẽ góp phần bổ sung thêm cho
những cơng trình trên để từ đó có thể thấy được một cái nhìn tổng quát hơn về thực tế

sử dụng từ Hán Việt và có cách sử dụng hợp lý hơn và góp phần làm cho tiếng Việt
ngày càng giàu đẹp hơn.

5. Sản phẩm và khả năng ứng dụng
Đề tài nghiên cứu sẽ cho chúng ta biết được sơ lược về nguồn gốc của sự du nhập
của tiếng Hán vào Việt Nam và vai trò của tiếng Hán đối với sự phát triển ngơn ngữ
tiếng Việt, ngun nhân có sự thay đổi cách sử dụng, phân loại các từ Hán Việt thay đổi
cách sử dụng, xu hướng sử dụng từ Hán Việt của người Việt và các vấn đề bất cập khi
dùng từ Hán Việt hiện nay.
Cơng trình này có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho bản thân hoặc cho các sinh
viên khác khi tiến hành đọc văn bản hoặc soạn thảo văn bản (như giáo án, bài luận...)
trong quá trình học tập hiện tại cũng như trong quá trình giảng dạy trong tương lai. Hơn
nữa, mọi người có thể biết được từ Hán Việt nào mắc lỗi dùng từ chưa thoả đáng, từ nào
là từ được “Việt hóa” cho phù hợp với ngôn ngữ Việt mà thận trọng hơn trong việc sử
dụng từ Hán Việt, đặc biệt là khi sử dụng từ Hán Việt ở các phương tiện thông tin
4


truyền thơng, trong các văn bản chính luận, khoa học, hành chính (là những văn bản sử
dụng nhiều từ Hán Việt).

6. Bố cục và nội dung của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của cơng trình sẽ được trình bày
trong ba chương:
- Chương 1: Khái quát về từ Hán Việt trong quá trình phát triển của tiếng Việt.
Nội dung chương này nhằm giới thiệu sơ lược về nguồn gốc của sự du nhập của tiếng
Hán vào Việt Nam và vai trò của tiếng Hán đối với sự phát triển ngôn ngữ tiếng Việt.
- Chương 2: Nhóm từ Hán Việt có sự chuyển đổi nghĩa. Nội dung chương này,
nhằm tìm hiểu ngun nhân có sự sai biệt nghĩa, khảo sát, thống kê và phân loại từ Hán
Việt các từ Hán Việt chuyển đổi cách sử dụng.

- Chương 3: Cách dùng từ Hán Việt của người Việt hiện nay. Nội dung chương
này sẽ tìm hiểu xu hướng sử dụng từ Hán Việt của người Việt và các lỗi sai khi dùng từ
Hán Việt hiện nay.

5


Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ TỪ HÁN VIỆT TRONG QUÁ TRÌNH
PHÁT TRIỂN CỦA TIẾNG VIỆT
Cho đến nay, vấn đề nguồn gốc dân tộc Việt Nam vẫn còn một số tranh luận, do
vậy, vấn đề về nguồn gốc tiếng Việt cũng khó có thể khẳng định một cách chính xác. về
nguồn gốc tiếng Việt, trước đây ít có nhà nghiên cứu nào nhắc đến, mãi cho đến gần đây
mới có một số học giả đã đi sâu tìm hiểu về vấn đề này như: Lê Ngọc Trụ, Đào Trọng
Đủ. Học giả Henri Maspéro có nhận định tương đối hợp lý và thực tế hơn: “Tiếng Việt
Nam ngày nay là kết quả trại lẫn của nhiều thứ tiếng” [22, tr. 15].
Hiện nay, có nhiều học giả đưa ra các học thuyết khác nhau về từ Hán Việt. Tuy
chưa đi đến được những kết luận dứt khốt, thỏa đáng, nhưng trong tình hình nghiên cứu
hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu đang hướng sự tìm tịi suy nghĩ vào một hệ thống ngơn
ngữ rộng lớn, hình thành từ xa xưa, hoạt động trên một địa bàn rộng, bao trùm cả bán
đảo Đông Dương và những miền lân cận, được gọi là hệ ngôn ngữ Nam Á, bao gồm
nhiều nhóm ngơn ngữ như: Mơn - Khmer, Việt - Mường, Thái...
Theo Phan Ngọc trong cuốn Tiếp xúc ngơn ngữ ở Đơng Nam Á thì: Như nhiều
người đã biết, bức tranh ngôn ngữ Đông Nam Á hiện nay rất đa dạng và việc tiếp xúc
ngôn ngữ liên tục diễn ra chằng chéo làm cho nhà nghiên cứu như bước vào một mê
cung khó tìm được lối ra. Việc sắp xếp các ngơn ngữ theo dịng họ hết sức không rõ
ràng. Gần một thế kỷ nay, người ta cứ tranh cãi mà khơng đi đến những kết luận dứt
khốt về một hiện tượng khá phổ biến: có một số ngôn ngữ không sắp xếp vào đâu cho
thỏa đáng. Tiếng Việt thuộc dịng Mơn - Khmer hay Tày - Thái? Nhóm Mèo - Dao thuộc
dịng Tạng hay Nam Á? [12, tr. 84] và “Người ta dễ nhận ra cơ chế tiếng Việt thuộc

dịng ngơn ngữ Tày - Thái đó là ngơn ngữ đơn tiết, có thanh điệu” [12, tr. 96].
Việc vay mượn tiếng nước ngoài để làm giàu tiếng nước mình thì bất cứ dân tộc
nào trên thế giới đều có. Ở Việt Nam cũng như thế, người Việt đã vay mượn tiếng nước
ngoài để làm giàu cho tiếng Việt như: Pháp, Anh, Nga... đặc biệt là tiếng Hán. Khi từ
Hán được du nhập vào Việt Nam, người Việt đã Việt hóa những từ Hán đó để ngày nay,
chúng ta gọi những từ đó là từ Hán Việt.
Cùng với tiếng Việt, tiếng Hán cũng là một ngôn ngữ đơn tiết và có thanh điệu
nên sự tiếp xúc ngơn ngữ dễ dàng xảy ra và hiện tượng vay mượn cũng là một điều
khơng đáng ngạc nhiên. Có rất nhiều từ thơng dụng mà chúng ta cho rằng là đó từ thuần


Việt, thực ra chúng cũng mang gốc Hán: “ông”, “bà”, “cha”, “mẹ”, “bác”, “chú”,
“thím”, “dì”, “áo”, “quần”, “ghế”...

1.1. Khái qt về từ Hán Việ t
Từ Hán Việt là những từ gốc Hán thâm nhập vào Việt Nam bằng cả con đường
chiến tranh (cưỡng bức) lẫn con đường hồ bình (giao lưu văn hố). Từ TK I trước cơng
ngun, người Hán đã đặt quyền thống trị trên đất Giao Châu và chính thức chấm dứt sự
đơ hộ ấy là vào thế kỷ X sau công nguyên. Trong suốt khoảng một ngàn năm này, một
khối lượng lớn từ gốc Hán đã được du nhập vào trong vốn từ của người Việt. Hơn nữa,
từ sau khi độc lập vào năm 938 đến giữa thế kỷ XIX (thời kỳ bắt đầu tiếp nhận văn hố
phương Tây), Việt Nam vẫn ln học tập những thành tựu văn minh Trung Hoa, đặc biệt
là về lĩnh vực chính trị, văn học nghệ thuật. Như vậy, trong khoảng hai ngàn năm ấy, yếu
tố Hán vẫn thường trực tác động đến văn hố Việt, trong đó, lớp từ gốc Hán (được người
Việt đọc theo khẩu âm Việt, gọi là từ Hán Việt) là một minh chứng điển hình. Và một
điều tất yếu xảy ra là từ thuần Việt và từ Hán Việt cùng tồn tại trong hệ thống tiếng Việt.
Trước khi chữ Quốc ngữ ra đời, người Việt phải dùng chữ Hán để viết nhưng đọc
theo kiểu khẩu âm Việt (chữ Nôm cũng dựa vào chữ Hán nhưng phức tạp hơn và chưa
được chuẩn hóa nên vẫn chưa có đủ cơ hội để được trở thành dạng chữ viết phổ cập
trong tồn xã hội). Vì vậy, nhà nước phong kiến Việt Nam đã sử dụng chữ Hán trong các

văn bản hành chính quốc gia trong suốt q trình tồn tại.
Theo Đặng Đức Siêu (trong cuốn “Dạy và học từ Hán Việt ở trường Phổ thơng”)
thì “Từ Hán Việt là một thực thể vừa quen vừa lạ”. Và ông đã giải thích như sau:
“Trước hết, là quen bởi vì các vỏ ngữ âm của nó đã được Việt hóa đến cao độ
nên khơng xa lạ gì với ngữ cảm, với cảm quan thính giác của người Việt chúng ta. Cịn
lạ, chủ yếu là do kết cấu ngữ nghĩa của từ Hán Việt. Những từ như: cứu cánh, bình sinh,
tỏa chiết, nhân thân, trầm kha... chẳng hạn, tuy cũng thường xuyên xuất hiện trong lời
nói, trên văn bản, nhưng chẳng phải là dễ hiểu đối với tất cả mọi người” [15, tr. 4 - 5].
Như vậy, để chúng ta có thể hiểu rõ hơn về từ Hán Việt và có thể sử dụng một
cách hiệu quả thì trước hết, chúng ta sẽ đi tìm hiểu về Hán tự. Thứ nhất: về thể chữ,
Hán tự là dạng chữ viết tượng hình được người Trung Hoa sử dụng nhiều thế kỷ; và hiện
nay còn được phổ biến rất rộng rãi. Thứ hai: về dạng chữ, trên cơ bản, cho đến hiện nay
có hai dạng chữ: giản thể (sử dụng ở Trung Quốc đại lục, trừ Quảng Đông) và phồn thể
hay giản thể (sử dụng ở Đài Loan). Riêng ở Việt Nam, vì sau cuộc vận động Ngũ Tứ
1919, chữ giản thể mới bắt đầu xuất hiện, trong khi Việt Nam lại dần dần chuyển hướng


giao lưu từ văn hoá Trung Hoa sang văn hoá phương Tây nên các học giả ít người biết
lối giản thể. Có nghĩa là, trong khi văn chương Trung Hoa đã thay đổi rất nhiều với lối
văn bạch thoại thì chúng ta vẫn sử dụng với lối văn cổ điển và chủ yếu những từ Hán đời
Đường. Những từ Hán này được phát âm theo lối riêng của người Việt nên được gọi là
từ Hán Việt; cách đọc những từ ấy được Nguyễn Tài Cẩn gọi là “cách đọc Hán Việt”.
Người Việt mượn chữ Hán của Trung Quốc chủ yếu ở thời cổ đại, điển hình nhất
là thời Đường- Tống. Chữ Hán thời này có thể chữ phức tạp (chữ phồn thể), lối hành
văn cũng mang tính sách vở (dùng nhiều từ có nghĩa trừu tượng, khó hiểu, mang tính
chất bác học cao). Do hoàn cảnh lịch sử xã hội lúc ấy mà chữ Hán ở giai đoạn này có sự
xâm nhập và ảnh hưởng lớn đến các nước lân cận như Nhật Bản, Triều Tiên và Việt
Nam. Chữ Hán khi xâm nhập vào các nước đã được biến đổi về âm đọc theo phong
ngơn của nước đó và các tổ chức quan phương dùng làm văn tự chính thống của mỗi
nước. Ở Việt Nam, trong suốt thời kỳ phong kiến, người Việt đã sử dụng chữ Hán làm

văn tự chính thống của mình. Đồng thời, nhằm thể hiện sự độc lập tự chủ, một số thành
phần trí thức Việt đã dùng chữ Hán để chế ra chữ Nôm.
về thuật ngữ “từ Hán Việt”, từ trước đến nay, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học
đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau. Họ đã có nhiều bài viết để trực tiếp hoặc gián tiếp
đưa ra nhận định riêng của mình về khái niệm của từ Hán.
Theo đó, chúng ta thường hay nhầm lẫn giữa “từ Hán Việt” và “tiếng Hán Việt”.
Như vậy, “Từ là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có nghĩa hồn chỉnh và cấu tạo ổn định,
dùng để đặt câu” [9, tr. 1072]. Và khi người Việt phát âm các âm tiết để tạo nên chuỗi
lời nói trong một hoàn cảnh giao tiếp cụ thể, đơn vị được dùng trong chuỗi lời nói là
“tiếng”. “Tiếng là giọng nói riêng của một người hay cách phát âm của một vùng nào
đó” [9, tr. 987]. Như vậy, giữa “từ Hán Việt” và “tiếng Hán Việt” có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau.
Năm 1972, trong cơng trình Văn phạm Việt Nam (Giản dị và thực dụng), Bùi Đức
Tịnh đã nêu một cách hiểu đơn giản về tiếng Hán Việt như sau: “Có thể định nghĩa một
cách giản dị rằng tiếng Hán Việt là những tiếng Hán phát âm theo lối Việt. Ban đầu nó
là những chữ Hán mà khi học trong sách Trung Hoa, các nhà tri thức nước ta đọc trại
đi theo giọng Việt...” [23, tr. 10].
Năm 1979, trong chuyên luận về tiếng Việt lịch sử với tiêu đề là Nguồn gốc
và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, Nguyễn Tài Cẩn đã nêu lên tầm quan trọng
của từ Hán Việt và những điều kiện lịch sử, văn hoá cho quá trình hình thành tên gọi,


cách đọc từ Hán Việt. Theo Nguyễn Tài Cẩn thì “Chữ Hán (hay còn gọi là chữ Nho)
vốn là một nền văn tự do người Hán sáng tạo ra cách đây khoảng trên 3000 năm, khi
người Hán đang cịn đóng khung địa bàn cư trú của mình trong vùng đất thuộc lưu vực
sơng Hồng Hà và sơng Vị” và “Cách đọc Hán Việt thường được giải thích là lối đọc
chữ Hán riêng của Việt Nam, người Việt chuyên dùng khi đọc các văn bản tiếng Hán”
[3, tr. 18]. Như vậy, qua cơng trình của mình, Nguyễn Tài Cẩn chỉ đưa ra một số ý kiến
về chữ Hán và cách đọc Hán Việt của người Việt nhưng cũng chưa đưa ra định nghĩa cụ
thể về từ Hán Việt.

Năm 1998, Nguyễn Như Ý trong Từ điển giải thích thuật ngữ ngơn ngữ học đã
cho rằng: “Từ tiếng Việt có nguồn gốc từ tiếng Hán, được nhập vào hệ thống từ vựng
tiếng Việt, chịu sự chi phối của các quy luật ngữ âm, ngữ pháp và ngữ nghĩa của tiếng
Việt, còn gọi là từ Việt gốc Hán” [23, tr. 369].
Tác giả Lê Ngọc Trụ trong Tầm nguyên từ điển cũng đã đưa ra định nghĩa sau:
“Tiếng Hán Việt là tiếng Hán phát âm theo lối Việt. Ban đầu đó là những chữ Hán mà
khi đọc sách Trung Hoa các nhà trí thức ta đọc trại đi theo giọng Việt” [22, tr. 15].
Nhà Từ vựng học Nguyễn Thiện Giáp trong Giáo trình Từ vựng học tiếng Việt
(bản in năm 1998) cũng khẳng định: “Các từ ngữ gốc Hán đọc theo âm Hán Việt, gọi tắt
là từ Hán Việt” [7, tr. 241 -242].
Xuất phát từ quan điểm lịch sử, Lê Đình Khẩn trong bài Từ vựng gốc Hán trong
tiếng Việt cũng thống nhất với quan điểm của Nguyễn Như Ý, ông khẳng định: “Từ Hán
Việt là lớp từ Hán mà tiếng Việt vay mượn từ đời Đường và dựa trên cơ sở âm đọc ở
Trường An là âm đọc chính thời bấy giờ...” [11, tr. 60].
Tuy nhiên, không phải mọi từ mượn từ Hán đều là từ Hán Việt. Từ Hán Việt nói
ở đây là từ mượn gốc Hán và được đọc theo cách phát âm của người Việt. Như vậy là,
những từ mượn từ tiếng Hán trước đời Đường như: buồng, buồn, ngà, đìa, chém... và
những từ mượn theo con đường khẩu ngữ như: tài xế, mì chính, vằn thắn. khơn g được
coi là từ Hán Việt [1, tr. 36].
Một số nhà ngôn ngữ học Việt Nam coi âm Hán-Việt chỉ là âm chữ Hán vào thời
nhà Đường, đọc theo quy luật ngữ âm tiếng Việt. Do q trình tiếp xúc giữa hai ngơn
ngữ Hán và Việt bắt đầu từ lâu, và tiếng Hán đã được du nhập vào Việt Nam từ khi nhà
Hán xâm chiếm Việt Nam, cho nên ở Việt Nam đã xuất hiện một lớp từ gọi là “từ Hán
Việt”. Tuy nhiên, quá trình tiếp nhận các từ ngữ tiếng Hán giai đoạn đầu chỉ diễn ra một
cách lẻ tẻ, không có tính hệ thống và chủ yếu bằng đường khẩu ngữ. Đến giai đoạn nhà


Đường thì tiếng Hán được du nhập một cách có hệ thống, với số lượng lớn và chủ yếu
thông qua con đường sách vở. Theo quan điểm này thì phiên âm Hán- Việt là cách thức
đọc tiếng Hán theo âm tiếng Hán thời nhà Đường qua đường sách vở, được những người

Việt sử dụng chữ Hán đặt ra, Việt hóa ít nhiều cho phù hợp với hệ thống ngữ âm của
tiếng Việt vào thời kỳ đó. Theo Henri Maspéro, Benhard Kalgren, Torosu Mineyra, âm
Hán Việt mà chúng ta biết đến là ngôn ngữ Tràng An thế kỷ IX - X, vào thời kỳ cuối
Đường. Đây là giai đoạn hình thành cách đọc Hán Việt có hệ thống. Cũng theo quan
điểm này, những từ Hán được du nhập từ giai đoạn trước hay các từ Hán cổ không được
đọc theo âm Hán Việt (đời Đường) mà theo âm Hán cổ, và đã được Việt hóa tương đối,
hoặc là để làm phong phú nguồn từ vựng cho tiếng Việt cổ dùng trong dân gian.
Theo Nguyễn Thiện Giáp (trong Từ vựng học Tiếng Việt ) thì: “Tiếng Việt và
tiếng Hán đều là những ngơn ngữ có lịch sử lâu đời. Trong q trình tiếp xúc giữa hai
ngôn ngữ, tiếng Việt đã tiếp nhận một khối lượng rất lớn của tiếng Hán để làm giàu
thêm kho từ ngữ của mình. Hiện tượng tiếp nhận này diễn ra không giống nhau trong
các thời kỳ. Nếu hiện tượng tiếp nhận từ ngữ Hán của tiếng Việt ở giai đoạn đầu chỉ có
tính lẻ tẻ, rời rạc, chủ yếu bằng con đường khẩu ngữ qua sự tiếp xúc trực tiếp của người
Việt với người Hán thì đến đời Đường. Tiếng Việt đã tiếp nhận các từ ngữ Hán một cách
có hệ thống bằng con đường sách vở” [7, tr. 241 - 242].
Do bị ngàn năm Bắc thuộc nên Việt Nam chịu ảnh hưởng rất nhiều về ngôn ngữ
Trung Hoa. Theo Nguyễn Văn Khang thì: “Tuy chưa có (và rất khó) thống kê chính xác
nhưng có thể khẳng định rằng vốn từ mượn Hán chiếm từ 60 - 70% vốn từ tiếng Việt
hiện nay” [10, tr. 387]. Tiếng Hán Việt được hình thành do giới bình dân trực tiếp giao
thiệp với người Trung Hoa và do giới Nho học trí thức mượn kinh điển sách vở Trung
Hoa, đọc chữ Hán theo phương pháp “phiên thiết” ghi trong tự điển Trung Hoa bằng
giọng Việt Nam thành tiếng Hán Việt [22, tr. 15 - 16].
Trong việc mượn tiếng nước ngoài thì người Việt đã “Việt hóa” tiếng của họ để
phù hợp với ngôn phong và cách phát âm của người Việt trong giao tiếp cũng như trong
sáng tác văn học. Chẳng hạn như: “tua bin” (turbin), “tắc xi” (taxi), “rin” (jean),... là
những từ ngoại lai nhưng người Việt đã “Việt hóa” chúng thành những từ có cách đọc
phù hợp với cách phát âm của người Việt. Việc mượn tiếng Trung Hoa để làm giàu tiếng
Việt cũng không ngoại lệ, nên ngày nay mới có hai phạm trù “tiếng Hán Việt và Hán
Việt -Việt hóa”. Một bộ phận của từ Hán Việt là mượn cả âm lẫn nghĩa và một bộ phận
nữa chỉ mượn âm thanh sau đó “Việt hóa” chúng đi thành tiếng Việt.



Nguyên nhân mà kho từ vựng tiếng Việt có rất nhiều từ Hán Việt là do thời gian
tiếp xúc của tiếng Việt và tiếng Hán rất lâu dài. Hơn nữa, tuy trong lúc đó, Việt Nam đã
có một dạng chữ viết riêng nhưng chỉ ở dạng sơ khai (chữ nòng nọc), loại chữ này chưa
mang tính hệ thống, chưa sử dụng phổ biến cho nên người Việt đã vay mượn chữ Hán để
sử dụng trong các văn bản hành chính cũng như trong sinh hoạt hằng ngày. Tuy nhiên,
trong quá trình vay mượn, người Việt đã khơng đọc đúng âm Hán mà đọc nó theo
phương thức phát âm/ theo khẩu âm của người Việt, từ đó biến từ Hán thành từ Hán Việt. Đó chính là q trình vay mượn từ Hán và biến chúng thành từ Hán Việt.
Trước tiên là Việt hóa về mặt ngữ âm: từ Hán chuyển thành từ Hán - Việt, được
đọc theo âm Việt (thường gọi là âm Hán - Việt) phù hợp với quy luật ngữ âm của người
Việt.
Hồng Phê đã từng nói: “Khi ta mượn một tiếng nước ngồi, thì với một ý nghĩa
nào đó, chúng ta đã tạo thành một từ mới của ta: từ tiếng Việt này sẽ có một đời sống
riêng của nó” [25]. Cho nên, từ Hán Việt có nhiều thay đổi về mặt kết cấu so với từ gốc
Hán. Dễ thấy nhất là xu hướng rút gọn hàng loạt từ ghép thành từ đơn: văn (văn chương,
văn học), chế (chế biến, chế tạo), lệnh (mệnh lệnh), đảm (đảm đương), hạn (kỳ hạn),
điệu (yểu điệu),... Ngoài việc rút gọn, người Việt còn phát triển thành từ ghép Việt Nam
theo công thức: “từ Việt + từ Hán” hoặc “từ Hán + từ Việt”. Theo đó, có rất nhiều từ mới
được xuất hiện như: cảm mến, bao gồm, bày biện, bình bầu, biến đổi, bồi đắp, kỳ lạ,
sống động... Ngay cả những từ ghép mang gốc Hán hoàn toàn, khi trở thành từ Hán Việt thì cũng có thể bị chuyển hốn vị trí. Thí dụ về sự chuyển hốn vị trí như thế có rất
nhiều: náo nhiệt (Hán: nhiệt náo), di chuyển (chuyển di), tố cáo (cáo tố), phóng thích
(thích phóng), tướng mạo (mạo tướng), cứu vãn (vãn cứu), quyền lợi (lợi quyền), tiến cử
(cử tiến), tang thương (thương tang)... Dĩ nhiên, khơng phải từ ghép nào cũng có thể
thay đổi vị trí. Điều này thường xảy ra trong trường hợp từ ghép được cấu tạo bởi hai từ
đơn âm đồng nghĩa [26]. Hoặc thay đổi các yếu tố tổ thành, như: “an nhiên vơ sự” (Hán)
thành “bình n vơ sự” (Việt), “an phận thủ kỷ” (Hán) thành “an phận thủ thường”
(Việt), “khởi tử hoàn sinh” (Hán) thành “cải tử hoàn sinh” (Việt), “dĩ thực vi thiên”
(Hán) thành “dĩ thực vi tiên” (Việt), “cửu tử nhất sinh” (Hán) thành “thập tử nhất sinh”,
“nhất cử lưỡng đắc” (Hán) thành “nhất cử lưỡng tiện”... [15, tr. 79].

Đa số từ Hán-Việt có âm Hán-Việt chuẩn được người Việt sử dụng như từ thuần
Việt mà khi nhắc đến từ Hán Việt đó thì chúng ta đều có thể hiểu được nghĩa của nó mà
khơng cần phải suy nghĩ như: “lịch sử” (Ễỉ), “văn hóa” (Ẵíb), “khán giả”«o, “độc giả”


(ao, “ngơn ngữ”
Ngồi ra, cịn có một số thuật ngữ liên quan, như từ Hán Việt cổ, từ Hán Việt Việt
hoá. Từ Hán Việt cổ là những từ được du nhập vào Việt Nam tương đối sớm nên còn
mang nhiều nét âm vận của tiếng Trung Quốc trước đời Đường, như: “mùi” (O, “buông”
(O, “múa” (O, “muộn” (O, “cởi” (O, “khoe” (Ọ... Bên cạnh đó, từ Hán Việt Việt hố là
khái niệm dùng để chỉ một bộ phận từ Hán - Việt du nhập vào Việt Nam tương đối sớm
lại bị ảnh hưởng của tiếng bản địa, khiến cho âm đọc của chúng bị thay đổi để phù hợp
với lối phát âm của người Việt, như: “gần” (xuất phát từ chữ cận M), “giường” (xuất
phát từ chữ “sàng”O, “mùa” (xuất phát từ chữ “vụ” M), “dầu” (xuất phát từ chữ
“do”Ẻ)... Đặc biệt, một số vùng miền cịn có hiện tượng một bộ phận từ Hán Việt bị
“Việt hóa” theo âm địa phương như: “nhơn” (A), “đờn” (^), “lịnh” (O, “hớn” (£)...

1.2. Quá trình du nhập c ủa tiế ng Hán vào Vi ệ t Nam
Chữ Hán (hay còn gọi là chữ Nho), vốn là văn tự do người Hán sáng tạo ra cách
nay trên 3000 năm (thời Ân Thương). Ban đầu nó chỉ dùng để phục vụ riêng cho người
Hán và các tầng lớp trên trong khu vực đã bị Hán hóa sớm: ghi chép những chuyện liên
quan đến bói tốn (giáp cốt văn tự), ghi chép lời nói cử những nhân vật nổi tiếng thời
thượng cổ (Kinh Thư), ghi chép thơ ca dân gian (Kinh Thi), ghi chép các huyền thoại mà
người Hán nghe được trong vùng (huyền thoại về Tam Hoàng, Ngũ Đế, Nữ Oa...). Tiến
lên một bước nữa, nó dùng làm cơng cụ để bàn bạc về triết học, thảo luận về chính trị
(Luận ngữ, Mạnh tử, Trang tử, Tả truyện...) cũng như để sáng tác văn học (Sở từ). Sau
đó, cùng với việc mở rộng địa bàn cư trú của người Hán, chữ Hán cũng dần dần được
truyền ra tồn vùng. Nó vượt sơng Dương Tử, đi vào đất Ngô, đất Việt. Đến khoảng đầu
Công nguyên, một mặt nó tiếp tục đi xa hơn về phía Nam đi vào tận khu vực Giao Châu,
một mặt nó lan tràn lên phía Đơng Bắc đi vào đất Choson (nay là nước Triều Tiên). Sau

đó vài thế kỷ, xuất phát từ vùng bờ biển miền Đơng Trung Quốc, nó lại tràn sang đến hai
vương quốc Beakje, Silla nằm ở phía Nam Choson. Xa hơn nữa về phía Đơng, nó đã
vượt biển lan tràn sang đến quần đảo Nhật Bản. Như vậy, chúng ta có thể thấy được rằng
sức ảnh hưởng của chữ Hán ra các vùng lãnh thổ lân cận là rất lớn [3, tr. 16].
Để hình thành một kho từ vựng Hán Việt lớn như hiện nay (theo Nguyễn Văn
Khang thì có khoảng 70%) thì phải nói đến sự tiếp xúc của tiếng Việt với tiếng Hán.


Theo Nguyễn Tài Cẩn viết trong cuốn Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán
Việt thì “Trong mối quan hệ giữa hai ngơn ngữ thì sự ảnh hưởng của tiếng Hán sang
tiếng Việt đã lưu lại vết tích rõ rệt. Trong q trình đó thì sự lan truyền theo con đường
thẳng là chủ đạo và chiếm tỉ lệ cao. Đối với việc vay mượn thì bộ phận gồm các yếu tố
mượn thông qua cách đọc Hán Việt là bộ phận lớn hơn và có hệ thống hơn cả” [3, tr. 33
- 34].
Những mối quan hệ giữa cư dân miền Bắc Việt Nam và cư dân Hán đã có thể bắt
đầu hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp, từ ngay trong thời kỳ thượng cổ, khi chưa có sự phân
hóa thành những ngôn ngữ riêng biệt như: Việt, Mường, Chứt. Nhưng nói đến sự tiếp
xúc giữa người Hán và người Việt để tạo nên sự ảnh hưởng lớn của tiếng Hán đến tiếng
Việt thì phải bắt đầu từ khi Triệu Đà đem quân sang xâm lược Âu Lạc (- 179) và nhất là
từ lúc nhà Hán đặt nền đô hộ ở Giao Chỉ, Cửu Chân (- 111). Chỉ đến năm 905, khi họ
Khúc dấy nghiệp và nhất là năm 938, khi Ngơ Quyền đại thắng qn Nam Hán, thì sự
tiếp xúc ngôn ngữ này ngày càng yếu dần (chủ yếu là tiếp xúc qua nhóm sứ thần của hai
nước, qua việc trí thức Việt học văn chương của Trung (Quốc... mà khơng cịn diễn ra ồ
ạt như lúc trước).
Theo đó, Nguyễn Tài Cẩn đã căn cứ vào cứ liệu lịch sử, khảo cổ... để đưa ra
những nguyên nhân dẫn đến sự tiếp xúc lâu dài, liên tục và sâu rộng của tiếng Hán đến
tiếng Việt như sau:
Thứ nhất: nhân tố về mặt chính trị;
Thứ hai: nhân tố về mặt xã hội;
Thứ ba: nhân tố về mặt văn hóa;

* Về mặt chính trị:

Thời kỳ từ năm 179 (hoặc 111) trước Cơng Ngun đến 905 (hoặc 938) sau Cơng
Ngun có thể coi là thời kỳ thống trị của phong kiến phương Bắc. Với sự thất bại của
nhà nước Âu Lạc trước tấn công của Triệu Đà, đất Giao Châu đã rơi vào một giai đoạn
lịch sử với sự thiết lập chính quyền phong kiến ngoại xâm. Sau cuộc khởi nghĩa của Hai
Bà Trưng, mở đầu bằng chính sách thống trị của Mã Viện, là sự thắt chặt của chế độ
quận huyện, và của chính sách khai thác thuộc địa của Đơng Hán, Tam Quốc, Lục Triều.
Cuối cùng, sau khi nhà nước Vạn Xuân do Lí Bí thành lập bị thất bại, sự thống trị của
Tùy Đường trở nên ngày càng gay gắt, nhất là giai đoạn thống trị của Cao Biền [3, tr.
35]. Thông qua ba chặng đường như ở trên, chúng ta có thể thấy được rằng bộ máy
thống trị của thực dân phong kiến phương Bắc lúc mới hình thành vẫn chưa có tác dụng


chiều sâu, nhưng càng về sau thì càng chặt chẽ hơn, không những ở vùng trung du, đồng
bằng gần trung tâm mà còn cả ở những miền biên viễn. Từ đó, chính quyền Trung Quốc
đã chia bộ máy thống trị ra thành quận huyện và đến đời Đường thì chia ra thành hương,
xã, tiểu xã để dễ dàng hơn trong việc quản lý. Như vậy, khi chia nhỏ bộ máy nhà nước
để cai trị thì từ Hán Việt cũng được đưa vào để người Hán thực hiện chính sách của
mình, ví dụ như việc ban hành các sắc lệnh bằng Hán tự. Và từ đó hình thành một lớp từ
Hán Việt mang tính chất chính trị như: “phủ dỗn”, “tri phủ”, “bệ hạ”, “tể tướng”, “tấu
chương”, “sớ văn”...
* Về mặt xã hội:

Với sự hỗ trợ của bộ máy chính quyền ngày càng thắt chặt như trên thì người
Hán đã dần dần thâm nhập vào các mặt hoạt động quan trọng của xã hội Việt Nam. Một
lực lượng người Hán đáng kể có ảnh hưởng đến xã hội Việt Nam lúc bấy giờ là những
“kiều nhân” sang sinh cơ lập nghiệp ở Giao Chỉ. Tầng lớp “kiều nhân” này có lý do để
lập nghiệp ở Việt Nam: kẻ thì sang theo bà con; kẻ thì sang để lánh nạn, khi ở ngay
chính quốc khơng n; có kẻ lại sang vì phạm tội, nhà nước bắt đi tù đày chuộc tội; có

kẻ lại sang chỉ vì nghe đồn Giao Châu là đất yên ổn, dễ làm ăn, sinh sống... ngoài ra, lại
cũng có những kiều nhân vốn là quan chức, sau khi thôi làm quan, ở lại sinh cơ lập
nghiệp [3, tr. 38].
Nhưng lực lượng người Hán khơng chỉ có thế mà cịn có cả một đội ngũ binh lính
với số lượng hết sức lớn, bao gồm cả đội quân thường trực, những đội quân kéo sang
dẹp các cuộc khởi nghĩa, những đội quân tham gia những sự trừng phạt chém giết lẫn
nhau trong tầng lớp thống trị. Ngồi binh lính, lại cịn có một số lượng đáng kể dân
thường Trung Hoa bị đưa sang di dân, và những người Hán này sống lẫn với người Việt
Nam trong mọi hoạt động xã hội. Như vậy, một điều tất yếu xảy ra là sự tiếp xúc chặt
chẽ và lâu dài giữa ngôn ngữ Hán và Việt [3, tr. 39].
* Về mặt văn hóa:

Khi xâm lược Việt Nam, người Trung Quốc đã thực hiện chính sách đồng hóa về
văn hóa. Một quốc gia dân tộc tồn tại khi giữ được nền văn hóa và một khi khơng cịn
giữ được văn hóa cũng đồng nghĩa với việc mất nước. Như vậy, để truyền văn hóa Hán
cho người Việt thì người Trung Hoa đã thực hiện một chính sách vơ cùng quan trọng:
đưa văn tự Hán vào Việt Nam. Ngoài ra, sự ra đời của tầng lớp quyền quý người Việt và
sự truyền bá nền văn hóa Hán trong tồn vùng cũng đã góp phần tun truyền cho ngôn
ngữ, văn tự Hán [3, tr. 39].


×