Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

THỰC TRẠNG VỀ ĐỔI MỚI NỘI DUNG CỦA KẾ HOẠCH HOÁ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY VÀ CÁC KIẾN NGHỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.65 KB, 8 trang )

THỰC TRẠNG VỀ ĐỔI MỚI NỘI DUNG CỦA KẾ HOẠCH HOÁ Ở VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY VÀ CÁC KIẾN NGHỊ
I. THỰC TRẠNG VỀ ĐỔI MỚI
1. Về các quan điểm, đường lối và các chính sách phát triển
Đại hội VI Đảng cộng sản Việt Nam tháng 12 năm 1986 là mốc lịch sử có
tính chất bước ngoặt trên con đường đổi mới toàn diện và sâu sắc ở Việt Nam.
Trong đó có sự đổi mới về các quan điểm kinh tế.
a. Về định hướng xã hội chủ nghĩa Đại hội đã xác định thì phải đi qua, thực
hiện, hoàn thành nhiều nhiệm vụ cũng như nhiều các giai đoạn khác nhau. Đại hội
cũng xác định thực trạng của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn đầu của quá
trình đi lên chủ nghĩa xã hội, do đó xác định nhiệm vụ của công nghiệp hoá là :
Từng bước xây dựng, thực hiện làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất. Luôn luôn tạo động lực thúc đẩy cho lực lượng sản
xuất phát trỉên; Điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư theo hướng tập trung các nguồn lực
vào thực hiện ba chương trình mục tiêu về lương thực, thực phẩm, hàng tiều dùng
và hàng xuất khẩu;Khẳng định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu thực hiện nền
kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước.
b. Về cơ chế quản lý và chính sách, thực hiện đổi mới cơ chế quản lý kinh
tế, thực hiện cơ chế mới là: “cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh
doanh xã hội chủ nghĩa, đúng với nguyên tắc tập trung dân chủ”( văn kiện đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ 6,.Nxb sự thật, HN 1987, tr65). Để cụ thể hoá cơ chế
mới, thể chế hoá nghị quyết 217 của hội đồng bộ trưởng trong hội nghị lần 3( 8-
1987 ) quy định rõ về quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ
sở quốc doanh, quy định rõ những chính sách đổi mới về kế hoạch hoá và hạch
toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa của các đơn vị đó. Lần đầu tiên luật đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam được ban hành 12/1987. Trong qúa trình thực hiện không
ngừng được sửa đổi và bổ sung cho phù hợp với những đòi hỏi của sự phát triển,
tạo ra môi trường “ hấp dẫn” cho các nhà đầu tư từ nước ngoài.
c. Về kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu nhập
khẩu. Phát triển, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật với bên ngoài, áp


dụng rộng rãi các hình thức hợp tác- liên kết với các nước trên thế giới đa dạng hoá
thị trường và hoạt động theo quan điểm mở cửa từng bước hội nhập kinh tế khu
vực và thế giới. Trên nguyên tắc bảo đảm độc lập, chủ quyền dân tộc, an ninh quốc
gia và cùng có lợi.
Đại hội VII (6/1991) của Đảng lại tiếp tục khẳng định và hoàn thiện thêm
đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra trong đó nhấn mạnh vào việc đẩy mạnh phát
triển cơ cấu ngành và vùng dẫn đến chuyển dịch cơ cấu ngành và vùng; tiếp tục
xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và đổi mới quản lý kinh tế ( tiếp
tục đổi mới, bổ xung và đồng bộ hoá hệ thống luật pháp- luật pháp kinh tế ). Nâng
cao chất lượng của kế hoạch hoá nền kinh tế, kế hoạch phải lấy thị trường làm căn
cứ , đối tượng quan trọng nhất.
Đại hội VIII (12/1996) tiếp tục khẳng định lại đường lối do Đại hội VII đã
xác định. Trong đó nhấn mạnh vào việc thực hiện nền kinh tế mở và từng bước hội
nhập quốc tế.
2. Dự báo phát triển kinh tế – xã hội
a. Khái niệm: Dự báo là sự phán đoán có căn cứ khoa học về những trạng
thái có thể đạt tới trong tương lai của đối tượng được dự báo hoặc về những cách
thức và thời hạn đạt được những mục tiêu- kết quả nhất định. Dự báo mang tính
chất xác suất nhưng đáng tin cậy (ở đây chúng ta không đi sâu vào nghiên cứu về
dự báo mà chỉ đề cập tới dự báo với tư cách phục vụ cho mục đích của bài viết
này).
b. Mối quan hệ giữa dự báo và kế hoạch hoá
Thực chất của kế hoạch hoá là các quá trình xẩy ra trong tương lai, vì vậy có
thể nói dự báo là linh hồn của kế hoạch hoá. Dự báo có mặt trong các khâu của
quá trình kế hoạch hoá như: dự báo dài hạn về kinh tế – xã hội ( 10 đến 20 năm),
dự báo dài hạn để phục vụ cho việc xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển
kinh tế – xã hội, cũng như việc xây dựng và thực hiện các quy hoạch phát triển; dự
báo trung hạn về phát triển kinh tế – xã hội (5 năm) nhằm phục vụ cho việc xây
dựng và thực hiện các kế hoạch phát triển; dự báo ngắn hạn phát triển kinh tế – xã
hội (dự báo hàng năm, quý, tháng) phục vụ cho việc xây dựng và thực hiện các kế

hoạch hàng năm cũng như việc xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án phát
triển.
3. Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội :
Trước những năm 1990 thì Việt Nam chưa có chiến lược phát triển kinh tế –
xã hội . trong quy trình kế hoạch hoá ở nền kinh tế tập trung chúng ta xây dựng,
thực hiện kế hoạch dài hạn. sau khi đổi mới, cụ thể là sau năm 1990, nội dung của
kế hoạch hoá được phát triển cả về chiều sâu lẫn chiều rộng. Trong quy trình kế
hoạch hoá thì kế hoạch dài han được thay bằng chiến lược phát triển kinh tế – xã
hội. So với kế hoạch dài hạn thì chiến lược phát triển mang tính toàn diện hơn, linh
hoạt hơn, mềm dẻo hơn và tính định hướng cao hơn. Tuy vậy chúng ta mới chỉ có
chiến lược phát triển chung – toàn bộ cho nền. Chưa có chiến lược phát triển từng
ngành cụ thể, từng lĩnh vực cụ thể,…Hơn nữa trong xây dựng chiến lược chúng ta
còn chưa coi trọng công tác dự báo phát triển. Cho tới nay chúng ta đang thực hiện
nghiên cứu xây dựng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2001 – 2010.
Thực tế cho thấy xem nhẹ, hoặc không có chiến lược phát triển đôi khi chúng ta
phải trả giá rất nặng cụ thể như những năm qua do chưa có chiến lược toàn diện
phát triển về giáo dục đào tạo đã dẫn đến tình trạng như hiện nay là “ thừa thầy,
thiếu thợ”,….
4. quy hoạch phát triển : Thực chất của quy hoạch phát triển là xây dựng
khung vĩ mô về mặt không gian, bố trí không gian. Làm căn cứ cho các kế hoạch,
chương trình- dự án phát triển. ở Việt Nam ta từ 1990 tới nay chúng ta đã triển khai
lập quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2010 của 8 vùng kinh tế
đó là : vùng Đông bắc, vùng Tây bắc, vùng Đồng băng Sông Hồng, vùng Bắc trung
Bộ, vùng duyên hải Miền Trung, vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam Bộ, vùng
Đồng Bằng Sông cửu Long và 3 vùng kinh tế trọng điểm là vùng phát triển kinh tế
trọng điểm phía Bắc gồm Hà Nôị – Hải Phòng – Hạ Long; vùng phát triển kinh tế
trọng điểm phía Nam gồm Thành Phố Hồ Chí Minh - Đồng Nai – Vũng Tỗu; vùng
phát triển kinh tế trọng điểm Miền Trung gồm Thừa Thiên Huế - Đà Nẵng – Quảng
Ngãi. Bên cạnh đó tất cả các tỉnh - thành phố trong cả nước đều triển khai nghiên
cứu quy hoạch tổng thể tới năm 2010. Hỗu hết các quy hoạch này đều được xây

dựng dựa trên chiến lược hướng về xuất khẩu, tìm ra và phát huy lợi thế của từng
vùng, liên kết giữa các vùng. Trong những năm qua quy hoạch của chúng ta còn
những hạn chế là: chưa coi trọng công tác dự báo, chưa bao quát hết các biến động
do thiên tai và các yếu tố bên ngoài, đặt mục tiêu tăng trưởng không khả thi ( quá
cao so với khả năng đạt được ), các quy hoạch giưa các tỉnh, thành phố thường
chưa ăn khớp với nhau, việc xác định các mục tiêu ưu tiên còn chưa thực hiện
được,….
5. Kế hoạch phát triển 5 năm và hàng năm
ở đây xin được đề cập tới kế hoạch sau khi đổi mới (sau 1986)
• Phạm vi của kế hoạch được mở rộng, không chỉ bao quát các doanh nghiệp Nhà
nước mà còn bao quát các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác như
kinh tế tư nhân, kinh tế tiểu chủ,…
• Nội dung được mở rộng hơn, không chỉ bao gồm các vấn đề về kinh tế mà còn
bao hàm những vấn đề về xã hội, môi trường như giải quyết các vấn đề về việc
làm, nước sạch nông thôn,…
• Các mục tiêu của kế hoạch 5 năm được thể hiện trong nhiệm vụ của kế hoạch
hàng năm thông qua các chương trình quốc gia như chương trình quốc gia xoá đói
giảm nghèo, chương trình quốc gia về dân số,…
• Các chỉ tiêu: Giảm dần và đi đến xoá bỏ các chỉ tiêu pháp lệnh cũng như các chỉ
tiêu hiện vật. Tăng dần các chỉ tiêu giá trị, các chỉ tiêu về mặt xã hội, môi trường,
…Cụ thể là tới năm 1995 tất cả các chỉ tiêu pháp lệnh đã bị xoá bỏ, trong kế hoạch
5 năm 1991 – 1995 chuyển từ kế hoạch phát triển kinh tế sang kế hoạch phát triển
kinh tế – xã hội. Đặc biệt là trong kế hoạch 1996 – 2000 nhấn mạnh vào các mục
tiêu xã hội xoá đói giảm nghèo.
• Tăng cường tập trung xây dựng các cân đối vĩ mô của nền kinh tế như cân đối
ngân sách, cân đối xuất nhập khẩu,…Xây dựng kế hoạch phát triển các ngành, kế
hoạch giải pháp như kế hoạch huy động vốn, kế hoạch nguồn lao động,…
6. Các chương trình quốc gia (chương trình dài hạn)
Việc xây dựng các chương trình quốc gia được thực hiện cùng với việc xây
dựng các kế hoạch (kế hoạch 5 năm và kế hoạch hàng năm). chương trình quốc gia

gồm hệ thống các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đồng bộ về kinh tế – xã hội , khoa
học công nghệ, môi trường, thể chế chính sách nhằm tổ chức thực hiện một – một
số mục tiêu đã được xác định trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Trong kế
hoạch 5 năm 1996 – 2000 chúng ta xác định 11 chương trình kinh tế – xã hội , sau
2 năm triển khai thực hiện . Đảng và Nhà nước thấy rằng cần phải tập trung hơn

×