Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Những nhân tố tác động đến sự điều chỉnh chính sách của nhật bản dưới thời thủ tướng yukio hatoyama doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.88 KB, 35 trang )

MỤC LỤC
A- PHẦN MỞ ĐẦU.
1. Lý do chọn đề tài.
2. Lịch sử vấn đề.
3. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu.
4. Phạm vi nghiên cứu.
5. Bố cục của đề tài.
B- PHẦN NỘI DUNG.
Chương 1: Những nhân tố tác động đến sự điều chỉnh chính sách của Nhật
Bản dưới thời thủ tướng Yukio Hatoyama.
1.1.

Tình hình thế giới và Nhật Bản.

1.1.1. Tình hình thế giới.
1.1.2. Tình hình Nhật Bản
1.2.

Về việc đảng dân chủ thắng cử và ông Yukio Hatoyama lên làm thủ
tướng.

1.2.2. Đảng Dân chủ (JDP)
1.2.3. Thủ tướng Yukio Hatoyama
1.2.4. Chiến thắng của đảng dân chủ và thách thức phía trước.
Chương 2: Đường lối đối nội, đối ngoại của chính phủ Yukio Hatoyama.
2.1.

Chính sách đối nội.

2.2.


Chính sách đối ngoại

2.2.1. Khác biệt giữa LDP và DPJ về quan hệ đồng minh với Mỹ
2.2.2. Hướng về Châu Á.
2.2.3. Đối với Việt Nam.

1


Chương3 : Một số đánh giá nhận xét về chính sách của Nhật Bản dưới thời
Đảng Dân chủ.
3.1. Một số kết quả ban đầu và hạn chế.
3.1.1. Kết quả.
3.1.2. Hạn chế.
3.2. Dư luận của thế giới và Nhật Bản.
3.2.1. Dư luận Thế giới.
3.2.2. Dư luận Nhật Bản.
C- PHẦN KẾT LUẬN.
D- DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.

2


A- MỞ ĐẦU
1. Ly do chọn đề tài.
Nhật Bản một quốc gia hải đảo có diện tích tổng cộng là 377.834 cây số
vuông. Đất đai của Nhật Bản là một dãy đảo trải theo hình vịng cung bên cạnh
phía đơng của đại lục châu Á. Dài 3.800 cây số từ 20 độ vĩ bắc với các đảo cực
nam Okinawa tới 45 độ vĩ bắc với phần trên cùng của đảo Hokkaido.
Dân số Nhật Bản ước tính khoảng 127.4 triệu người, phần lớn là đồng nhất về

ngơn ngữ và văn hóa, ngoại trừ thiểu số cơng nhân nước ngồi. Là cường quốc
kinh tế lớn thứ ba thế giới và tiến sát tới những tiến bộ to lớn nhất trong nền văn
minh nhân loại . “sự thần kì về kinh tế” cùng với những thành tựu to lớn trong các
lĩnh vực văn hóa, xã hội của Nhật Bản hiện đại đã thu hút sự chú y và quan tâm
không những của các nhà nghiên cứu mà Nhât Bản còn trở thành đối tượng nghiên
cứu của nhiều học giả trên thế giới…
Cuộc bầu cử hạ viện mang tính lịch sử của Nhật Bản vào ngày 30/08/2009 đã
kết thúc bằng việc đảng đối lập chiếm số ghế áp đảo ở hạ viện để lại cho liên minh
cầm quyền chỉ còn 140 ghế trên tổng số 480 ghế đã mở ra một đề tài nghiên cứu vô
cùng mới mẻ và rộng lớn cho công tác nghiên cứu lịch sử thế giới.
Việt Nam và Nhật Bản là hai nước có nhiều nét tương đồng về mặt văn hóa. Từ
khi quan hệ ngoại giao giữu hai nước được thiết lập (21/09/1973) đến nay, đã hơn
30 năm gặp khơng ít khó khăn trở ngại song quan hệ giữu hai nước đã có những
bước phát triển vững chắc trên tất cả các lĩnh vực và hiện nay Việt Nam và Nhật
Bản đã đẩy quan hệ hợp tác lên là đối tác chiến lược.
Trong số các nước trên thế giới, Nhật Bản là nước có nhiều thành cơng lớn
trong chính sách đối nội , đối ngoại, chính sách phát triển kinh tế…lại có quan hệ
lâu đời với Việt Nam do đó việc đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu các chính sách của
Nhật Bản sẽ là những kinh nghiệm qúy bấu cho Việt Nam trong tiến trình hội nhập
khu vực và thế giới, mặt khác Việt Nam cũng đang trong thời kì điều chỉnh cải
3


cách các chính sách. Vì vậy những kinh nghiệm của Nhật Bản là những bài học
tham khảo có y nghĩa cho công cuộc đổi mới của chúng ta.
Từ những ý nghĩa khoa học và thực tiến đó đồng thời trên cơ sở tiếp thu các bài
viết của các học giả trong và ngoài nước đặc biệt là được sự hướng dẫn tận tình của
thầy giáo PGS- TS: Nguyễn Cơng Khanh nên tơi đã chọn “ Tìm hiểu những chính
sách mới của Nhật Bản dưới thời đảng Dân Chủ” làm đề tài tiểu luận của mình.
Do năng lực có hạn lại bước đầu tập dượt nghiên cứu khoa học nên đề tài của tơi

khơng tránh khỏi những thiếu sót, mong được quy thầy cơ và bạn bè góp y.
2. Lịch sử vấn đề.
Xoay quanh vấn đề tìm hiểu các chính sách mới của Nhật Bản đã có rất nhiều
các bài viết bài nghiên cứu của các học giả, các nhà nghiên cứu trong và ngồi
nước đăng trên các tạp chí, các trang thông tin xã hội, các báo điện tử…như:
Bài viết giới thiệu về đất nước Nhật Bản đăng trên Google.com.
Bài viết “Cơn động đất chính trị ở Nhật Bản” của tác giả Mạnh Khuê đăng trên
trang Vietnam.net.
Bài viết “Nhật Bản: Đảng Dân chủ giành thắng lợi” của VOV News.
Bài viết “Đảng Dân chủ Nhật Bản trước những thách thức khổng lồ” của tác giả
Tú Anh đăng trên Google.com.
Bài viết “Thủ tướng Yukio Hatoyama và Đảng Dân chủ” đăng trên Google.com.
Và một số bài viết đăng trên tạp chí cộng sản….tuy nhiên những bài viết này
chưa đề cập đến một cách đầy đủ về các chính sách của Nhật Bản thời Đảng Dân
chủ mà chỉ đề cập đến một khía cạnh nào đó.

4


3. Phạm vi nghiên cứu.
Đây là đề tài tiểu luận khoa học nghiên cứu về các chính sách mới của nhật bản
dưới thời thủ tướng Yukio Hatoyama, những khó khăn thách thức mà chính phủ
mới gặp phải và những nhận định, đánh giá của dư luân thế giới, dư luận Nhật
Bản…
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu.
Đây là một đề tài còn tương đối là mới mẻ, tác giả lại khơng có điều kiện tiếp
xúc với các tài liệu bằng tiếng nước ngoài nên khi thực hiện đề tài này tác giả
tham khảo các bài viết trên các tập chi, trên các trang thông tin xã hội, các trang
thông tin thời sự, các báo điện tử…
Để thực hiện đề tài này chúng tôi đã tuân thủ phương pháp khoa học trong đó

phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và phương pháp logic là những
phương pháp cơ bản được vận dungjtrong quá trình nghiên cứu đề tài. Ngồi ra đề
tài cịn sử dụng các phương pháp chuyên ngành như: phương pháp mô tả, phương
pháp liên hệ, phương pháp so sánh, điều tra để sử lí tư liệu chính sác, đảm bảo tính
khoa học của q trình phân tích, đánh giá các sự kiện lịch sử.
5. Bố cục của đề tài.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bố cục của đề tài được chia làm ba chương .
Chương 1: Những nhân tố tác động đến sự điều chỉnh chính sách của Nhật
Bản dưới thời thủ tướng Yukio Hatoyama.
Chương 2: Đường lối đối nội, đối ngoại của chính phủ Yukio Hatoyama.
Chương3 : Một số đánh giá nhận xét về chính sách của Nhật Bản dưới thời
thủ tướng Yukio Hatoyama kết quả ban đầu và hạn chế.

5


B- NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ ĐIỂU CHỈNH
CHÍNH SÁCH CỦA NHẬT BẢN DƯỚI THỜI THỦ TƯỚNG
YUKIO HATOYAMA.
1.1.

Tình hình thế giới và Nhật Bản.

1.1.2. Tình hình thế giới.
Nếu gọi năm 2008 là “năm của các cuộc khủng hoảng” – về an ninh, kinh tế,
lương thực, môi trường…, thì năm 2009 có thể được gọi là “năm của những nỗ lực
ngoại giao” – những nỗ lực để giải quyết các cuộc khủng hoảng này.
Đề cập đến kỳ vọng 2009, người ta thường nhắc đến sự kết thúc một phần xung
đột Trung Đông (không chỉ giữa Israel với Palestine mà còn giữa Israel với Syria

và việc Lebanon); rằng cục diện chính trị bất ổn Thái Lan được gỡ rối; rằng Ấn Độ
và Pakistan cùng bắt tay chống khủng bố chứ không phải “đụng trán” nhau côm
cốp; rằng vấn đề hạt nhân được tháo ngòi; rằng bang giao Nga - phương Tây trở
nên nồng ấm.
Mặc dù kinh tế thế giới những tháng cuối năm 2009 có dấu hiệu phục hồi, vẫn
chưa thể nói khủng hoảng đã kết thúc vì tình trạng thất nghiệp, nợ cơng và rủi ro
trong lĩnh vực tài chính vẫn tồn tại. Năm 2009, khủng hoảng tài chính ảnh hưởng
đến mọi mặt của xã hội, có những nơi, những lúc dẫn đến những hậu quả khó
lường về chính trị, an ninh và ổn định xã hội. Từ khủng hoảng kinh tế đến khủng
hoảng việc làm, khủng hoảng an ninh xã hội, khủng hoảng lịng tin khơng là bao
xa. Tổ chức Lao động Thế giới (ILO) ngày 7/12 cho biết, kể từ tháng 10/2008 đến
nay, đã có thêm 20 triệu lao động trên thế giới bị mất việc làm. Mặc dù đã có
những dấu hiệu phục hồi của kinh tế thế giới, tuy nhiên, cuộc khủng hoảng việc
làm vẫn chưa kết thúc. Trước thực trạng này, ILO kêu gọi các quốc gia trên thế giới
tiếp tục những biện pháp hỗ trợ về việc làm. Để vực dậy nền kinh tế quốc gia, các
6


chính phủ đã áp dụng một loạt các biện pháp kích thích kinh tế, trong đó những gói
cứu trợ hàng nghìn tỉ USD đã được tung ra, phục hồi khả năng vay bằng cách cắt
giảm lãi suất, cứu các ngân hàng, các quỹ trong thị trường tiền tệ và các thể chế tài
chính bằng các khoản tiền cho vay khẩn cấp...
Những lá phiếu nào đáng chú ý trong năm 2009
Ngoài cuộc bầu cử Ấn Độ, tại khu vực châu Á, lá phiếu được quan tâm nhiều
trong năm 2009 sẽ là cuộc bầu cử tại Nhật. Ichiro Ozawa – vốn là chánh thư ký
đảng (đương quyền) Dân chủ Tự do (LDP) nhưng sau đó “đào tẩu” sang đảng đối
lập Dân chủ Nhật Bản (DPJ) – từng tuyên bố hạ gục LDP dù việc đó mất bao lâu
thời gian. Và thời điểm chín mùi đó sẽ đến trong cuộc bầu cử trong năm 2009, ở
bối cảnh LDP của Thủ tướng đương nhiệm Taro Aso đang rối như tơ vò.
Cần nhắc lại, LDP là đảng chính trị lớn nhất Nhật, từng lãnh đạo Nhật gần như

suốt từ khi thành lập năm 1955 đến nay. Tuy nhiên, trong cuộc bầu cử 2007, LDP
bị đánh bại và mất đa số ghế trong Thượng viện lần đầu tiên trong lịch sử khiến
Thủ tướng Shinzo Abe phải từ chức và được thay bằng Yasuo Fukuda rồi tiếp tục
được thay bằng Taro Aso…
Tại khu vực Mỹ Latin, lá phiếu đáng chú ý nhất là cuộc bầu cử Chile với khả
năng liên minh trung tả Concertación có thể mất quyền. Một số nước khác tại khu
vực này cũng sẽ bầu tổng thống trong năm 2009. Tại Uruguay, đảng đương quyền
Mặt trận mở rộng có thể chiến thắng nhiệm kỳ hai; tương tự đảng Cách mạng Dân
chủ đương quyền ở Panama...
1.1.2. Tình hình Nhật Bản.
Nhật Bản có diện tích tổng cộng là 377.834 km². Đất đai của Nhật Bản là một
dãy hải đảo trải theo hình vịng cung bên cạnh phía Đơng của lục địa Châu Á, dài
3.800 km. Địa hình chủ yếu là đồi núi (71%). Có nhiều núi nguồn gốc núi lửa, một
số ngọn vẫn còn hoạt động, tiêu biểu là núi Phú Sĩ (Fujisan) (3.776 m).

7


 Chính trị Nhật Bản
Nhật Bản là một trong các nước theo hệ thống quân chủ lập hiến, trong đó Thủ
tướng là người nắm quyền cao nhất về các phương diện quản lý quốc gia và chịu
sự giám sát của hai viện quốc hội cùng tịa Hiến pháp có thẩm quyền ngăn chặn
các quyết định vi hiến của chính phủ. Được xây dựng dựa trên hình mẫu của
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland và một số nước phương Tây khác sau
này. Theo hệ thống pháp luật thế giới hiện hành, Nhật Bản được xếp vào các nước
có nền dân chủ đầy đủ (ưu việt nhất)
 Kinh tế.
Nhật Bản là nước rất nghèo nàn về tài nguyên ngoại trừ gỗ và hải sản, trong khi
dân số thì q đơng, phần lớn nguyên nhiên liệu phải nhập khẩu, kinh tế bị tàn phá
kiệt quệ trong chiến tranh, nhưng với các chính sách phù hợp, kinh tế Nhật Bản đã

nhanh chóng phục hồi (1945-1954) phát triển cao độ (1955-1973)khiến cho thế
giới hết sức kinh ngạc. Người ta gọi đó là "Thần kì Nhật Bản". Từ 1974 đến nay
tốc độ phát triển tuy chậm lại, song Nhật Bản tiếp tục là một nước có nền kinh tế
lớn đứng thứ hai trên thế giới (chỉ đứng sau Hoa Kỳ), GDP trên đầu người là
36.217 USD (1989). Cán cân thương mại dư thừa và dự trữ ngoại tệ đứng hàng đầu
thế giới, nên nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài rất nhiều, là nước cho vay, viện trợ
tái thiết và phát triển lớn nhất thế giới. Nhật Bản có nhiều tập đồn tài chính, ngân
hàng đứng hàng đầu thế giới. Đơn vị tiền tệ là: đồng yên Nhật.
Sau khi bong bóng kinh tế tan từ cuối những năm 1990, Nhật Bản đã trải qua
thời kỳ tồi tệ nhất sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Trong một thời gian dài
LDP lên cầm quyền nhưng vẫn chưa thay đổi được tình cảnh u ám của nền kinh tế,
sự nhẫn nại của người Nhật dường như đã cạn. Trong bối cảnh này, bất kể là đảng
nào lên cầm quyền, những trọng điểm của chính sách đều phải đặt kinh tế và dân
sinh lên hàng đầu. Vì thế mà LDP đã nhấn mạnh “bảo vệ cuộc sống nhân dân,

8


người bảo vệ Nhật Bản chính là LDP”. Cịn DPJ lại nhấn mạnh rằng, phải thúc đẩy
một nền chính trị với “cuộc sống nhân dân là số 1”. Nhu cầu bức thiết của nền kinh
tế đã ấp ủ nhu cầu thay đổi chính trị.
Trong cương lĩnh tranh cử của mình LDP hứa sẽ đưa kinh tế Nhật phục hồi tăng
trưởng 2% trước tháng 3/2011, tạo ra 2 triệu việc làm mới trong 3 năm và tăng thu
nhập sau thuế của các hộ gia đình lên 1 triệu yên (10.505 USD) trong 10 năm.
Kinh tế hiện nay là mối quan tâm lớn nhất của các cử tri Nhật. Tỷ lệ thất nghiệp đã
ở mức cao nhất trong 6 năm qua và tình trạng giảm phát lại ám ảnh nền kinh tế
Nhật.
Đó là lý do tại sao cả hai đảng lớn của Nhật đều tập trung hứa hẹn thúc đẩy thu
nhập hộ gia đình. Tuy nhiên, trước sức ép của các khoản trợ cấp do thực hiện các
chính sách xã hội ngày càng tăng, nhất là khi dân số Nhật ngày càng già đi, LDP

cho biết sẽ tăng mức thuế tiêu dùng 5% một khi kinh tế phục hồi, điều này sẽ gây
phản ứng tiêu cực với địa vị cầm quyền của LDP.
Về đối ngoại và an ninh, dư luận cho rằng, so sánh với LDP, đảng đối lập có lẽ
có thể xử lý tốt hơn và có mối quan hệ tốt hơn với các nước lân bang và Mỹ. Do
phải chịu đựng hai mối đe dọa từ vấn đề hạt nhân Triều Tiên và khủng hoảng tài
chính quốc tế, gần đây LDP đã đưa ra chính sách đối ngoại thiết thực, tun bố sẽ
khơng chạy theo Mỹ và cịn cam kết phát triển quan hệ với các nước châu Á.
Nhưng đối với Nhật, sự phụ thuộc vào Mỹ vẫn sẽ là nội dung hạt nhân ngoại giao
toàn cầu. Cho dù đảng Dân chủ có lên nắm quyền, thì sự cám dỗ từ chiếc ơ bảo hộ
hạt nhân cũng khiến cho chính sách ngoại giao thân Mỹ không thể thay đổi trong
một sớm một chiều.
Một cuộc thăm dị mới được cơng bố cuối tháng 7, 36,2 % số người được hỏi
cho biết sẽ bầu cho DPJ, nhiều gấp hơn hai lần so với số cử tri ủng hộ LDP (15,6
%). Đối với cá nhân hai lãnh đạo LDP và DPJ, 45% số người được hỏi cho rằng
9


Chủ tịch DPJ Yukio Hatoyama là người thích hợp nhất để điều hành đất nước,
trong khi con số ủng hộ dành cho Thủ tướng Taro Aso chỉ là 25%.
Nếu DPJ chiến thắng sẽ đặt dấu chấm hết cho quyền lực chính trị mà LDP đã
nắm giữ suốt từ năm 1955 đến nay. Nhưng dù đảng nào lên cầm quyền, việc đưa
Nhật Bản ra khỏi cuộc khủng hoảng kép hiện nay vẫn không thể thực hiện trong
một sớm một chiều.
1.2.

Về việc Đảng Dân chủ thắng cử và ông Yukio Hatoyama lên làm thủ
tướng.

1.2.1. Đảng Dân chủ (JDP)
Thành lập ngày 28 tháng 9 năm 1996, thành phần chủ yếu gồm các nghị sĩ tách

ra từ Đảng Xã hội và Đảng Sakigake. Tháng 4 năm 1998, Đảng Dân chủ sát nhập
thêm Tân đảng ái hữu và liên hiệp cải cách dân chủ, thành lập Đảng Dân chủ mới,
trở thành đảng đối lập lớn nhất. Hiện nay, đảng này có 113/480 ghế tại Hạ viện và
82 ghế tại Thượng viện. Ngày 5 tháng 10 năm 2003, Đảng Dân chủ đã sáp nhập
với Đảng Tự do thành Đảng Dân chủ với 204 nghị sĩ trong đó có 136 Hạ Nghị sĩ.
Chủ tịch Đảng Dân chủ mới là ông Okada Kazuya. Sau cuộc bầu cử thượng viện
ngày 29 tháng 7 năm 2007, Đảng Dân chủ trở thành đảng lớn nhất trong thượng
viện.
1.2.2. Thủ tướng Yukio Hatoyama
Hatoyama Yukio (Nhật: Hatoyama Yukio, Cưu Sơn Do Kỉ Phu) (sinh ngày 11
tháng 2 năm 1947) là Chủ tịch Đảng Dân chủ (Nhật Bản) và là đại biểu của khu
bầu cử số 9 ở Hokkaido trong Hạ viện Nhật Bản. Sau khi đảng của ông giành thắng
lợi áp đảo trong cuộc bầu cử Hạ viện vào cuối tháng 8 năm 2009, ông Hatoyama
trở thành Thủ tướng Nhật Bản từ ngày 16 tháng 9.
 Xuất thân

10


Hatoyama Yukio xuất thân trong một gia đình danh giá. Ông nội của ông là
Hatoyama Ichiro, Thủ tướng Nhật Bản thời kỳ 1954-1956 và là một trong người
sáng lập ra Đảng Dân chủ Tự do. Ơng ngoại của ơng là Ishibashi Shujiro, người
sáng lập Công ty Bridgestone. Cha của ông, Hatoyama Iichiro từng là Bộ trưởng
Bộ Ngoại giao. Người anh trai của ơng, Hatoyama Kunio, cũng là một chính trị giá
nổi tiếng ở Nhật Bản và là Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong nội các của Abe Shinzo và
Fukuda Yasuo, Bộ trưởng Bộ Tổng hợp trong nội các của Aso Taro cho đến ngày
12 tháng 6 năm 2009.
Trước khi trở thành chính trị gia, Hatoyama Yukio từng là giảng viên của Đại
học Cơng nghệ Tokyo và Đại học Senshu. Ơng học đại học ở Đại học Tokyo và lấy
bằng tiến sỹ cơ khí tại Đại học Stanford.

Hatoyama Yukio là một tín đồ Thiên chúa giáo.
 Sự nghiệp chính trị
Năm 1986, Hatoyama với tư cách là đại diện của Đảng Dân chủ Tự do trở thành
nghị sĩ Hạ nghị viện. Năm 1993, Hatoyama cùng một số đảng viên khác của đảng
này rút khỏi đảng và thành lập Shinto Sakigake. Sau đó, đến năm 1996, Hatoyama
cùng Kan Naoto rút khỏi Shinto Sakigake để thành lập Đảng Dân chủ. Cuộc vận
động thành lập đảng mới tốn hàng tỷ yên nhưng được mẹ của Hatoyama tài trợ.
Năm 1999, Hatoyama trở thành Chủ tịch Đảng Dân chủ và là lãnh đạo phe đối
lập trong Quốc hội. Năm 2002, ông từ chức do những rắc rối xung quanh việc sáp
nhập Đảng Dân chủ với Đảng Tự do. Ông làm Tổng Thư ký Đảng Dân chủ cho
đến khi quay trở lại làm Chủ tịch Đảng vào tháng 5 năm 2009.
1.2.3. Chiến thắng của Đảng Dân Chủ và thách thức phía trước.
Có thể nói, kết quả cuộc bầu cử ngày 30-8 hồn tồn khơng bất ngờ bởi trước
sự kiện này, các cuộc thăm dò dư luận đều cho thấy, LDP sẽ thua cuộc và buộc
phải trao cho Đảng đối lập DPJ trọng trách chèo lái “con thuyền” đất nước. Theo

11


nhiều nhà bình luận quốc tế, “cơn địa chấn” thay đổi quyền lực trên chính trường
Nhật Bản bắt nguồn từ một số lý do sau:
Thứ nhất, sau hơn nửa thế kỷ LDP nắm quyền gần như liên tục (từ 1955 đến
nay), hơn lúc nào hết, tâm lý cử tri Nhật Bản mong muốn có sự thay đổi mạnh mẽ
trong đời sống chính trị, xã hội. Nhiều cử tri Nhật Bản chưa hẳn ủng hộ DPJ vì
những cam kết mạnh mẽ của họ mà đơn giản là muốn trao cho DPJ một cơ hội để
tạo ra sự khác biệt nào đó so với LDP “già nua”, tiến hành kiểu chính trị “tập trung
quan liêu”. Nắm được điều này, DPJ trong quá trình vận động tranh cử ln nhấn
mạnh vào các chính sách đổi mới mà người dân kỳ vọng. Ngay khi cử tri bắt đầu
bỏ phiếu, DPJ tuyên bố: “Chúng tôi sẽ thay đổi Nhật Bản”. Ngày 30-8, phát biểu
tại một cuộc họp báo ở Thủ đô Tô-ky-ô, ông Ha-tô-y-a-ma, Chủ tịch Đảng DPJ,

Thủ tướng tới đây của Chính phủ Nhật Bản, cũng nhắc lại thơng điệp “thay đổi”:
“Cử tri nói rằng chúng tơi phải thay đổi cách thức làm chính trị tại Nhật Bản”.
Thứ hai, cử tri Nhật Bản đã quá mệt mỏi, thất vọng và mất kiên nhẫn với sự
điều hành yếu kém, ì ạch, cùng các chính sách thất bại của LDP về kinh tế, chính
trị. Trong thời kỳ cầm quyền giai đoạn 2001-2006, cựu Thủ tướng Kôi-du-mi đã
đưa ra chính sách kiểu chủ nghĩa nguyên lý thị trường, khiến khoảng cách giàu nghèo trong xã hội ngày càng lớn, hệ thống chăm sóc y tế, điều dưỡng xuất hiện
nhiều “lỗ thủng”… Các thủ tướng thuộc Đảng LDP sau đó là Sin-zơ-a-bê, Fu-kuda và T.A-so tiếp tục rơi vào “vết xe đổ”, cải cách nửa chừng các chính sách dang
dở trên. Thực tế một năm qua, LDP rất lúng túng trong việc giải quyết cuộc suy
thoái kinh tế trầm trọng nhất kể từ chiến tranh thế giới lần hai, cũng như các vấn đề
nan giải khác như nợ quốc gia ngày càng tăng (lên tới 64,1 tỉ USD), dân số ngày
càng già, tỷ lệ thất nghiệp cao kỷ lục (5,7 % vào tháng 7-2009)... Dưới sự điều
hành của LDP, hiện có khoảng 10 triệu người Nhật bản thu nhập dưới 16.000 ơ-rô/
năm, khiến Nhật Bản từ chỗ đứng thứ 4 trên thế giới về thu nhập GDP/đầu người
tụt xuống vị trí thứ 19.
12


Trước cuộc bầu cử Hạ viện, uy tín của LDP giảm sút nghiêm trọng vì bất ổn,
mâu thuẫn nội bộ; đảng này liên tiếp thất bại tại các cuộc bầu cử địa phương, trong
đó có cuộc bầu cử Hội đồng thành phố Tô-ky-ô, khiến Thủ tướng T.A-so buộc phải
tổ chức tổng tuyển cử trước thời hạn. Chỉ trong vài năm gần đây, LDP phải thay tới
3 Chủ tịch, chứng tỏ vị thế đi xuống của họ.
Con số hơn 70% cử tri đi bỏ phiếu, cao hơn mức 67,5% năm 2005 cho thấy
người Nhật Bản thực sự quan tâm hơn tới tương lai đất nước, trước lo ngại về một
tương lai xã hội bất ổn.
Thứ ba, trong chiến dịch tranh cử, DPJ giành được sự ủng hộ của nhiều tầng
lớp dân chúng trong xã hội, từ thành thị đến nông thôn, bởi cương lĩnh “khơn khéo,
kiên trì” xốy vào các chính sách phục vụ đời sống của người dân hơn là vì quyền
lợi của các doanh nghiệp. Trong khi chỉ trích LDP hoang phí tiền, làm tổn hại
mạng lưới an sinh xã hội, DPJ hứa hẹn cắt giảm các khoản chi tiêu cơng lãng phí

và tập trung kích thích tiêu dùng cá nhân. Chính phủ mới dưới sự điều hành của
DPJ cũng chủ trương “phân phối của cải nhiều hơn cho người dân”, với việc bãi bỏ
các khoản lộ phí, giảm giá năng lượng; trợ cấp cho các gia đình ni con nhỏ, hỗ
trợ nông dân; cải cách hệ thống lương hưu; tăng cường phúc lợi xã hội và các giải
pháp tạo thêm việc làm... Đây đều là các vấn đề cử tri Nhật Bản hết sức quan tâm.
 Thách thức phía trước
Lên nắm quyền, DPJ phá vỡ thế bế tắc trong Quốc hội Nhật Bản, nơi Hạ viện
thuộc kiểm soát của LDP, cịn Thượng viện thuộc quyền kiểm sốt của đảng đối lập
và các đồng minh từ năm 2007. Tuy nhiên, các nhà phân tích chính trị cho rằng,
thời gian tới, chính phủ của DPJ sẽ phải đối mặt với một số thách thức lớn, gồm:
Một là, thách thức do DPJ thiếu kinh nghiệm quản lý, điều hành đất nước.
Trong lịch sử, Đảng này mới chỉ lên nắm quyền một thời gian ngắn, khoảng 10
tháng từ giữa năm 1993. Do vậy, DPJ sẽ rất khó khăn để xoay chuyển nhanh chóng
hàng loạt vấn đề phức tạp tại Nhật Bản, đặc biệt là tìm đường đưa nền kinh tế lớn
13


thứ hai thế giới phục hồi, ngăn chặn giảm phát và cải cách nền hành chính cồng
kềnh, quan liêu. Hơn nữa, DPJ cịn bị chỉ trích là chưa có kế hoạch kinh tế cụ thể
mà mới dừng lại ở những cam kết và định hướng chung chung.
Hai là, thách thức từ việc giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ DPJ và liên minh.
Thành lập ngày 28-9-1996, thành phần chủ yếu của DPJ gồm các nghị sĩ tách ra từ
Đảng Xã hội và Đảng Sa-ki-ga-ke. Tháng 4-1998, DPJ sáp nhập thêm Tân đảng ái
hữu và Liên hiệp cải cách dân chủ, thành lập Đảng Dân chủ mới, trở thành đảng
đối lập lớn nhất Nhật Bản. Đến tháng 10-2003, DPJ lại sáp nhập với Đảng Tự do
thành Đảng Dân chủ. Chính sự đa dạng trong thành phần thành viên DPJ như trên
khiến nội bộ DPJ có nhiều quan điểm, tư tưởng khác nhau. Hiện DPJ đang tìm
cách thành lập liên minh cầm quyền với 2 đảng đối lập khác là đảng Dân chủ xã
hội (SDP) và Đảng Quốc dân mới (PNP). Tuy nhiên, nếu khơng tạo ra được sự hịa
hợp, nhượng bộ nhằm đạt được sự đồng tâm nhất trí về các chiến lược chính trị kinh tế - xã hội, chính phủ liên minh do DPJ tạo dựng rất dễ sụp đổ.

Ba là, thách thức từ việc tìm nguồn chi ổn định để thực hiện các kế hoạch cải
cách lớn như DPJ đã cam kết trong cương lĩnh tranh cử. Trên thực tế, tăng chi cho
các vấn đề an ninh, xã hội…cần tới 3,5 % GDP của Nhật Bản. Điều này sẽ khiến
ngân sách của Nhật Bản thâm hụt trầm trọng hơn. Hiện Nhật Bản đang là quốc gia
có mức cơng nợ lớn nhất thế giới (chiếm 175% tổng thu nhập quốc dân).
Bốn là, thách thức trong chính sách đối ngoại. Từng chỉ trích LDP quá phụ
thuộc Mỹ, giờ đây DPJ sẽ phải rất khéo léo tìm cách xây dựng thế đứng ngoại giao
độc lập hơn nhưng lại không làm căng thẳng mối quan hệ đồng minh thân cận với
Mỹ. Bên cạnh đó, chính phủ do DPJ dẫn dắt cịn phải vừa biết cách tranh thủ, vừa
đối phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc, Ấn Độ trong khu vực.
Có thể nói, việc DPJ thắng cử là “cơn động đất” trên chính trường Nhật Bản.
Nhưng khả năng DPJ giải quyết được những “cội rễ” đã ăn sâu vào xã hội Nhật

14


Bản và thành công trong việc xây dựng những điều mới mẻ hồn tồn thì chỉ có
thời gian mới mang lại câu trả lời chính xác.

15


CHƯƠNG 2: ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NỘI, ĐỐI NGOẠI CỦA CHÍNH
PHỦ YUKIO HATOYAMA.
2.1. Chính sách đối nội.
Đảng Dân chủ đối lập (DPJ) ở Nhật Bản đã giành chiến thắng vang dội và sẽ
lên nắm quyền ở xứ sở hoa anh đào. DPJ đang tìm cách thành lập liên minh cầm
quyền với hai đảng đối lập khác là đảng Dân chủ Xã hội (SDP) và đảng Quốc dân
Mới (PNP). Do tổng số ghế tại Hạ viện của ba đảng là 318 và chưa đủ để liên minh
cầm quyền này chiếm đa số 2/3 ghế trong Hạ viện Nhật Bản, nên không loại trừ

khả năng DPJ sẽ thương lượng với một số đảng khác, trong đó có Đảng của bạn
(YP) của cựu Quốc vụ khanh phụ trách chính sách tài chính và cải cách hành chính
Yoshimi Watanabe trong nội các của cựu Thủ tướng Yasuo Fukuda thành lập đầu
tháng 8/2009, để lập chính phủ liên minh. Phiên họp đặc biệt của Quốc hội để bầu
Thủ tướng Nhật Bản mới có thể diễn ra vào trung tuần tháng 9 (14-20/9).
Nhưng dù như thế nào, đời sống chính trị (và kinh tế, xã hội) Nhật Bản sẽ bước
vào giai đoạn mới: chấm dứt thời đại LDP độc tơn, hình thành cục diện hai đảng:
một trung tả (DPJ), một trung hữu (LDP).
Chính sách đối nội, của chính phủ mới có gì khác biệt chính quyền tiền nhiệm?
Năm nguyên tắc đối nội
DPJ đưa ra 5 nguyên tắc chính về đối nội, với trọng tâm là xây dựng một chính
phủ do các chính trị gia chứ khơng phải các quan chức làm việc trong các cơ quan
nhà nước lãnh đạo. Trong cương lĩnh tranh cử, DPJ cam kết xem xét lại ngân sách
một cách toàn diện nhằm cắt giảm các khoản chi tiêu lãng phí và bảo đảm nguồn
lực để tài trợ cho việc thực hiện các cam kết chính sách; xây dựng hệ thống trợ cấp

16


hàng tháng cho các gia đình ni con nhỏ; bồi thường thiệt hại về thu nhập cho các
hộ gia đình sản xuất nơng-lâm-ngư nghiệp; khơng thu phí đường cao tốc.
DPJ đặc biệt lấy lòng cử tri bằng một lời hứa rất hấp dẫn: trợ cấp tiền hằng tháng
cho trẻ em. Bằng việc trao 26.000 yên (tương đương 275 USD) mỗi tháng cho mỗi
gia đình có con nhỏ đang học phổ thông, DPJ hy vọng sẽ giảm bớt gánh nặng cho
các bậc phụ huynh và khuyến khích nhiều phụ nữ sinh con ở đất nước mà dân số
già là một trong những mối đe dọa dài hạn và nghiêm trọng nhất. Các cặp vợ
chồng sẽ được nhận tổng cộng 350.000 yên (3.700 USD) cho mỗi đứa con họ sinh
ra.
Cương lĩnh đối nội cũng bao gồm 5 kế hoạch chính sách chủ yếu sẽ được thực
hiện dưới chính quyền của ơng Hatoyama, trong đó đưa ra các biện pháp cụ thể mà

chính phủ do DPJ lãnh đạo sẽ thực hiện để chuyển quyền lực từ các quan chức làm
việc trong các cơ quan nhà nước sang các chính trị gia. Trong 5 kế hoạch này, có
kế hoạch bổ nhiệm hơn 100 nghị sĩ quốc hội giữ các chức vụ ở các bộ và cơ quan,
qua đó giúp họ giữ vai trị trung tâm trong việc soạn thảo, điều chỉnh và quyết định
về các chính sách. Ngồi ra, cương lĩnh của DPJ cũng kêu gọi thành lập Cục Chiến
lược Quốc gia thuộc sự chỉ đạo trực tiếp của thủ tướng. Thủ tướng sẽ giữ vai trị
quyết định về các chính sách liên quan đến ngân sách và ngoại giao.
2.2. Chính sách đối ngoại
2.2.1. Khác biệt giữa LDP và DPJ về quan hệ đồng minh với Mỹ
Cương lĩnh tranh cử của LDP coi quan hệ đồng minh Nhật - Mỹ là nền tảng cho
chính sách đối ngoại Nhật Bản. Đảng cầm quyền đặt mục tiêu duy trì quan điểm
ngoại giao thời hậu chiến của Nhật Bản, theo đó Nhật Bản sẽ hợp tác với Mỹ để
giải quyết các vấn đề đối ngoại và an ninh.

17


Một số người tin rằng việc tăng cường quan hệ với Mỹ sẽ đem lại hồ bình và
ổn định cho Nhật Bản, khu vực châu Á Thái Bình Dương và cho cả thế giới.
Đáng chú ý, cương lĩnh tranh cử của LDP nhấn mạnh phải tăng cường hợp tác
chống khủng bố và hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo. Bên cạnh đó, cương lĩnh
cho biết việc tái bố trí các lực lượng Mỹ ở Nhật Bản sẽ được tiến hành một cách
kiên định. Chính phủ Nhật Bản cam kết chịu các chi phí liên quan lên tới 1.000 tỷ
yên, đồng thời cam kết giảm gánh nặng cho các chính quyền địa phương có các
căn cứ quân sự của Mỹ, trong đó có tỉnh Okinawa.
Theo cương lĩnh tranh cử này, chính phủ của LDP sẽ thực hiện các biện pháp an
ninh quốc gia cần thiết để đảm bảo đánh chặn các tên lửa hướng về phía Mỹ và bảo
vệ các tàu thuyền của Mỹ tham gia lá chắn tên lửa.
Mặc dù lời lẽ trong bản cương lĩnh tranh cử của LDP vẫn còn mơ hồ nhưng bản
cương lĩnh này cũng đề cập tới khả năng thay đổi cách diễn giải Hiến pháp của

chính phủ Nhật Bản liên quan tới quyền phòng thủ tập thể, một vấn đề vẫn chưa
được giải quyết.
Về phần mình, cương lĩnh tranh cử của DPJ nhấn mạnh sự khác biệt với LDP về
quan điểm liên quan tới quan hệ đồng minh Nhật - Mỹ, trong đó DPJ đề xuất xây
dựng quan hệ đồng minh bình đẳng hơn giữa hai nước. Cương lĩnh đề cập việc
DPJ sẽ đề xuất sử đổi Hiệp định về Quy chế các lực lượng Mỹ tại Nhật Bản liên
quan tới việc dẫn độ các nghi can hình sự thuộc quân đội Mỹ đang đóng ở Nhật
Bản và các vấn đề khác. Nhiều người cho rằng hiệp định này bất lợi cho Nhật Bản.
Cương lĩnh tranh cử của DPJ cũng đi xa khi đề cập tới việc xem xét lại kế
hoạch tái bố trí các lực lượng Mỹ ở Nhật Bản và chức năng của các căn cứ quân sự
của Mỹ tại đó. Hiệp định này chưa từng được xem xét lại kể từ khi Nhật - Mỹ ký
kết văn bản này vào năm 1960.

18


Mặt khác, cương lĩnh của DPJ khẳng định rằng Nhật Bản sẽ hồn thành trách
nhiệm của mình thơng qua việc chia sẻ các vai trò với Mỹ nhằm xây dựng một mối
quan hệ bình đẳng hơn với Mỹ.
Tuy nhiên, cương lĩnh của đảng đối lập này không đề cập tới việc hỗ trợ tái
thiết cho Afghanistan, một vấn đề gây quan ngại cho Mỹ và không đề cập tới các ý
tưởng cụ thể về việc xem xét lại kế hoạch tái bố trí các lực lượng Mỹ ở Nhật Bản.
Về sứ mệnh tiếp nhiên liệu của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản cho các
chiến dịch chống khủng bố của lực lượng đồng minh do Mỹ dẫn đầu ở Ấn Độ
Dương, chủ tịch DPJ Yukio Hatoyama đã tuyên bố rõ ràng rằng sẽ không gia hạn
sứ mệnh này khi nó kết thúc vào tháng 1/2010.
Một phần đáng chú ý trong cương lĩnh tranh cử của DPJ chính là ý tưởng thiết lập
Cộng đồng Đông Á. DPJ nhấn mạnh ý tưởng này như một cách để tăng cường
quan hệ với các nước láng giềng ở châu Á và cân nhắc lại chính sách đối ngoại của
Nhật Bản, vốn vẫn đặt trọng tâm vào đồng minh Nhật - Mỹ.

2.2.2. Hướng về Châu Á.
Đảng cầm quyền mới có vẻ muốn thay đổi nhiều trong chính sách ngoại giao
đối với khu vực, coi châu Á là điểm đầu tiên trong chính sách ngoại giao ba điểm
mà đảng đã đưa ra từ ngày khởi động cuộc tranh cử giành quyền lực từ năm 2005.
"Hợp tác với các nước châu Á trong bối cảnh cộng đồng quốc tế, hợp tác khung
với vùng châu Á Thái Bình Dương trong năng lượng, thương mại và các vấn đề
môi trường," văn bản này hoạch định hướng hoạt động cho tân chính phủ. Các hoạt
động trong ngoại giao của DPJ về cơ bản có thể coi là dựa trên một khung lý
thuyết từng được Tổng thư ký Katsuya Okada xây dựng từ năm 2005 với tơn chỉ
"Sống hịa hợp với châu Á và thế giới."

19


Một định hướng lớn trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản thời Hatoyama là
“trở về châu Á” sau nhiều thập kỷ thực hiện chính sách cơng nghiệp hóa theo
hướng “Ra khỏi châu Á, đi vào châu Âu” tương đối thành công. Giờ đây, Thủ
tướng Hatoyama mong muốn biến Nhật Bản thành “cầu nối” giữa phương Đông và
phương Tây, giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển. Mới đây, ông
Hatoyama đã chủ động đề xuất sáng kiến thành lập Cộng đồng Đông Á như là một
tổ chức khu vực mở, có thể cho cả các nước ở khu vực khác tham gia. Ông
Hatoyama cũng đang chuẩn bị tổ chức một hội nghị cấp cao Nhật Bản và năm
nước lưu vực sông Mê Kông (Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam)
lần thứ nhất vào tháng 11 tới.
 Cộng đồng Đông Á
Bản chiến lược của Katsuya Okada (người được dự kiến làm đổng lý văn phòng
thủ tướng) cũng chỉ rõ hạn chế trong quá khứ về chiến lược ngoại giao của Nhật
Bản là do phụ thuộc vào Hoa Kỳ, cho nên không thể giúp xây dựng một trật tự
vùng cho châu Á, cũng không thể cải tổ các định chế quốc tế. "Chính phủ mới của
Nhật Bản sẽ nuôi dưỡng sự tin cậy qua lại với các nước láng giềng để quảng bá

Cộng đồng Đông Á," tập sách nêu rõ trong chương 5.
Thực ra, nội dung của chính sách đó chú trọng đến mối quan hệ bộ ba Nhật Bản
- Hàn Quốc - Trung Quốc, được đặt ra như mục tiêu ngoại giao đầu tiên cho tân
chính phủ, còn những nước như Việt Nam, Campuchia, Indonesia và Philippines sẽ
được "hợp tác" thông qua nguồn vốn vay tài trợ phát triển ODA.
Hệ tư tưởng Cộng đồng Đông Á đang được ba nước Nhật Bản, Hàn Quốc và
Trung Quốc xây dựng với những sắc thái riêng, phục vụ cho mục tiêu quốc gia
riêng của mình. "Quyền lực mềm" của Nhật Bản mới chỉ là học thuyết, trong khi
"Làn sóng Hàn" qua phim truyền hình và nhạc pop thì đã xâm nhập vào cuộc sống
20


của ngay chính người dân Nhật, và "Ngoại giao cơng cộng" của Trung Quốc thì đã
định hình từ nhiều năm qua, phần nào áp đảo các diễn đàn mạng ở Á châu. Trong
tư tưởng Đông Á về mặt học thuật thì đại học Waseda của Nhật Bản có vẻ nổi bật
hơn, như qua bộ sách gây nhiều ảnh hưởng "A New East Asia - Toward A Regional
Community", tổng kết quá trình 5 năm nghiên cứu và xây dựng hệ thống lý thuyết
cho khu vực từ góc nhìn Bắc Đơng Á, được Đại học quốc gia Singapore ủng hộ và
xuất bản năm 2007. "...Cộng đồng Đông Á sẽ trở thành nhân vật quan trọng trên
trường quốc tế như một quyền lực quốc tế đáng tin cậy, nhờ vào sự lãnh đạo của
Nhật Bản và sự tác động tích cực của Trung Quốc vào các sự vụ trong vùng...,"
sách lược nêu rõ.
2.2.3. Đối với Việt Nam.
Về cơ bản, DPJ sẽ không thay đổi chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với
Việt Nam bởi vì Việt Nam vẫn có vị trí địa chính trị mang tính chiến lược ở khu
vực Đơng Nam Á nói chung và Đơng Á nói riêng. Tuy nhiên, việc DPJ dự kiến sẽ
rà soát lại tổng thể các khoản chi trong ngân sách có thể ảnh hưởng tới việc Nhật
Bản cấp ODA cho Việt Nam, nhất là khi đảng này vẫn cịn lúng túng trong việc tìm
các nguồn tài trợ cho việc thực hiện các cam kết tranh cử của mình.
Suốt nhiều năm qua DPJ đã liên tục có các cuộc gặp với giới lãnh đạo Việt

Nam, như bộ trưởng Bộ kế hoạch đầu tư Võ Hồng Phúc và tổng bí thư Nơng Đức
Mạnh, mà phía đại diện DPJ luôn là nhân vật đang chuẩn bị lên làm thủ tướng
Nhật Bản, Yukio Hatoyama.
Hệ thống lý thuyết xã hội - nhân văn ở Việt Nam hiện cũng đang ảnh hưởng
nhiều từ ngành Khu vực học của Nhật Bản qua các mối quan hệ chuyên gia, mà
một số đang nghiên cứu lại quá trình ảnh hưởng của tư tưởng Đại Á của Nhật vào

21


Việt Nam trong nửa đầu của thế kỷ 20, hoặc đang thực hiện các dự án phát triển
vùng.
Quan hệ ngoại giao Nhật Bản – Việt Nam


Ngày lập quan hệ ngoại giao: 21/9/1973



Năm 1992, Nhật Bản quyết định mở lại viện trợ cho Việt Nam. Quan hệ
giữa Việt Nam-Nhật Bản phát triển nhanh chóng trên nhiều lĩnh vực và đã
bước sang giai đoạn mới về chất và đi vào chiều sâu. Các mối quan hệ kinh
tế chính trị, giao lưu văn hóa khơng ngừng được mở rộng; đã hình thành
khn khổ quan hệ ở tầm vĩ mô; sự hiểu biết giữa hai nước khơng ngừng
được tăng lên.

 Về chính trị.
Hàng năm đều có các cuộc gặp cấp cao. Thủ tướng Nhật Bản thăm Việt Nam 4
lần (Tomiichi Murayama 8/1994, Ryutaro Hashimoto 1/1997, Keizo Obuchi
12/1998, Junichiro Koizumi 4/02.) Ngoại trưởng Nhật thăm chính thức 2 lần (1996

và 2004). Thủ tướng Việt Nam thăm Nhật bản 6 lần (1993, 1999, 2001, 2003 - 2
lần - và 6/2004). Từ 1993 đến nay, Tổng Bí thư (2 lần vào 1995 và 2002), Chủ tịch
Quốc hội và Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam cũng đã thăm Nhật Bản. Năm 2002,
Lãnh đạo cấp cao hai nước thống nhất xây dựng quan hệ Việt Nam-Nhật Bản theo
phương châm "đối tác tin cậy, ổn định lâu dài". Trong chuyến thăm Việt Nam
7/2004 của Ngoại trưởng Nhật Bản, hai bên đã ký Tuyên bố chung "Vươn tới tầm
cao mới của đối tác bền vững". Hai bên đã tạo dựng được cơ chế đối thoại ở nhiều
cấp. Ngồi đối thoại chính trị định kỳ ở cấp Thứ trưởng Ngoại giao (từ năm 1993),
hai bên cũng đã xây dựng được cơ chế đối thoại kinh tế, an ninh và quốc phòng.
Hai bên đã trao đổi tùy viên quân sự, mở Tổng lãnh sự quán ở Thành phố Hồ Chí

22


Minh ở Việt Nam và Osaka ở Nhật Bản. Nhật Bản ủng hộ đường lối đổi mới, mở
cửa của Việt Nam; hỗ trợ Việt Nam hội nhập vào khu vực và thế giới (vào APEC,
WTO, ASEM, ARF, vận động OECD giúp Việt Nam về kỹ thuật...); coi trọng quan
hệ với Việt Nam, lấy lợi ích và mục tiêu lâu dài làm trọng. Việt Nam ủng hộ Nhật
làm thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc mở rộng, và vận
động Nhật ủng hộ Việt Nam ứng cử làm thành viên không thường trực Hội đồng
Bảo an Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2008-2009.
 Quan hệ kinh tế.
Nhật Bản là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam.
 Về mậu dịch.
Nhật Bản là bạn hàng số 1 của Việt. Kim ngạch 2 chiều năm 2003 đạt 5,9 tỷ
USD. Hai nước đã dành cho nhau thuế suất tối huệ quốc từ 1999.
 Đầu tư trực tiếp.
Đến tháng 11/2003 có 354 dự án với số vốn đăng ký 4,47 tỷ $. Trong số 62
nước vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam, Nhật đứng thứ 3 sau Singapore
và Đài Loan về số vốn đăng ký nhưng đứng đầu về kim ngạch đầu tư đã đi vào

thực hiện (3,7 tỷ $). 11 tháng đầu năm 2003, Nhật đứng thứ 5 trong số các nước và
vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với số vốn 78 triệu USD, giảm 35% so với
cùng kỳ năm 2002. Hai nước đã ký kết Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư
tháng 11/2003. Tháng 12/03 hai bên đã thoả thuận Sáng kiến chung nhằm cải thiện
môi trường đầu tư tại Việt Nam.

23


 Về ODA.
Nhật Bản là nước tài trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam, từ 1992-2003 đạt khoảng
8,7 tỷ USD, chiếm khoảng 30% tổng khối lượng ODA của cộng đồng quốc tế cam
kết dành cho Việt Nam, trong đó viện trợ khơng hồn lại khoảng 1,2 tỷ USD. Từ
năm 2001, Nhật Bản cắt giảm 10% ngân sách ODA nhưng vẫn giữ và tăng kim
ngạch ODA cho Việt Nam. Năm 2003, mặc dù cắt giảm 5,8% ODA cho các nước
nói chung, nhưng ODA cho Việt Nam vẫn là 91,7 tỷ yên, giảm khoảng 1.2% so với
năm 2002.
Hai bên đã thoả thuận chương trình viện trợ lâu dài của Nhật Bản cho Việt Nam
nhằm vào 5 lĩnh vực chính là: phát triển nguồn nhân lực và xây dựng thể chế; xây
dựng và cải tạo các cơng trình giao thơng và điện lực; phát triển nông nghiệp và
xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn; phát triển giáo dục đào tạo và y tế; bảo vệ môi
trường. Ngày 2/6/04, Nhật Bản đã công bố chính sách viện trợ ODA mới cho Việt
Nam với 3 mục tiêu chính: Thúc đẩy tăng trưởng, cải thiện đời sống - xã hội, hoàn
thiện cơ cấu.
 Về hợp tác lao động.
Từ năm 1992 đến nay, Việt Nam đã cử 16 ngàn tu nghiệp sinh Việt Nam sang
Nhật. Nhật là một thị trường tiềm năng cho lao động Việt nam trong 5-10 năm tới.
Tuy nhiên mấy năm gần đây nổi lên vấn đề lao động Việt Nam bỏ trốn tại Nhật (tỷ
lệ bỏ trốn năm 2002 là 24,7%, cao nhất trong các nước cử lao động sang Nhật) gây
khó khăn cho việc hợp tác lao động.


24


 Về văn hóa giáo dục.
Hai nước đang triển khai các chương trình đào tạo con người, chương trình
thanh niên ASEAN (100 người/năm) và trao đổi các đồn văn hóa, những người
người tình nguyện, chun gia. Hàng năm Chính phủ Nhật viện trợ cho Việt Nam
từ 1 đến 2 dự án viện trợ văn hố khơng hồn lại như thiết bị học ngoại ngữ, thiết
bị bảo quản tư liệu Viện Hán-Nơm, Bảo tàng Lịch sử, xưởng phim hoạt hình. Về
giáo dục, Chính phủ Nhật Bản nhận khoảng trên 100 học sinh sinh viên Việt Nam
sang Nhật Bản đào tạo hàng năm. Ngồi ra cịn có nhiều học sinh du học tự túc.
Tổng số lưu học sinh Việt Nam ở Nhật hiện nay khoảng hơn 1000 người. Trong 5
năm (1994-1999), Chính phủ Nhật đã viện trợ 9,5 tỉ yên để xây dựng 195 trường
tiểu học ở các tỉnh miền núi và vùng ven biển hay bị thiên tai.
 Về du lịch.
Nhật Bản cũng là một thị trường được chú trọng để phát triển du lịch Việt Nam.
Năm 2002 đã có 280 ngàn. Do ảnh hưởng của SARS, du lịch Nhật Bản vào Việt
nam trong năm 2003 giảm sút. Tuy nhiên, cơ hội và tiềm năng thúc đẩy hợp tác du
lịch giữa hai nước còn rất lớn. Từ tháng 1/2004, Việt Nam đã chính thức đơn
phương miễn thị thực cho người Nhật Bản đi du lịch và kinh doanh vào Việt Nam
trong vòng 15 ngày và gần đây nhất từ 1/7/2004, Việt Nam đã quyết định miễn thị
thực nhập cảnh ngắn hạn cho công dân Nhật. Đây là thuận lợi lớn để thúc đẩy du
lịch Nhật Bản vào Việt Nam. Từ ngày 1/5/2005, Việt Nam và Nhật Bản song
phương miễn thị thực hộ chiếu ngoại giao, hộ chiếu công vụ.

25



×