Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Tài liệu Báo cáo tốt nghiệp: Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng ngoại thương Hà Nội ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (586.73 KB, 64 trang )

TRƯỜNG ………………….
KHOA……………………….
----------
Báo cáo tốt nghiệp
Đề tài:


Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ
xuất nhập khẩu tại Ngân hàng ngoại thương Hà Nội

MỤC LỤC
L I M UỜ ỞĐẦ ...................................................................................................2
CH NG IƯƠ ......................................................................................................5
M T S V N C B N V TÀI TR CHO XU T NH P KH U C A Ộ Ố Ấ ĐỀ Ơ Ả Ề Ợ Ấ Ậ Ẩ Ủ
NGÂN HÀNG TH NG M I. ƯƠ Ạ .......................................................................5
1. M t s v n c b n v ho t ng xu t nh p kh u ộ ố ấ đề ơ ả ề ạ độ ấ ậ ẩ .....................5
1. 1. S c n thi t c a ho t ng xu t nh p kh u. ự ầ ế ủ ạ độ ấ ậ ẩ ................................5
CH NG IIƯƠ ..................................................................................................25
TH C TR NG HO T NG TÀI TR XU T NH P KH U T I NGÂN Ự Ạ Ạ ĐỘ Ợ Ấ Ậ Ẩ Ạ
HÀNG NGO I TH NG HÀ N I.Ạ ƯƠ Ộ ..............................................................25
1. Khái quát v NHNT H N iề à ộ ...............................................................25
1.1. Quá trình hình th nh v phát tri n c a NHNT H N ià à ể ủ à ộ ...............25
- Th nh t: N ng l c cho vay c a Ngân h ng ứ ấ ă ự ủ à .......................................42
- Th ba: Ch p h nh th l tín d ng v quy trình nghi p vứ ấ à ể ệ ụ à ệ ụ............43
CH NG IIIƯƠ .................................................................................................49
GI I PHÁP VÀ KI N NGH M R NG T N D NG XU T NH P KH U Ả Ế Ị Ở Ộ Í Ụ Ấ Ậ Ẩ
T I NHNT HÀ N IẠ Ộ ........................................................................................49
1 nh h ng ho t ng n m 2003 c a NHNT H n iĐị ướ ạ độ ă ủ à ộ ......................49
1.1. nh h ng chungĐị ướ ..........................................................................49
K T LU NẾ Ậ .....................................................................................................63
TÀI LI U THAM KH OỆ Ả ................................................................................64


LỜI MỞ ĐẦU
Lý luận cũng như thực tiễn phát triển kinh tế thế giới đã cho thấy hoạt động xuất
nhập khẩu là một trong những lĩnh vực trung tâm quan trọng nhất trong toàn bộ các hoạt
động kinh tế của nhiều quốc gia. Hoạt động xuất nhập khẩu đã góp phần đáng kể vào việc
tăng nguồn thu ngân sách, đặc biệt là thu ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán giải quyết
công ăn việc làm cho người dân, thúc đẩy nhanh quá trình tăng trưởng và phát triển kinh
tế, nâng cao vị thế của đất nước trong nền kinh tế toàn cầu.
Việt Nam từ nền kinh tế lạc hậu và kém phát triển chuyển sang xây dựng nền kinh
tế thị trường thì việc mở rộng buôn bán, quan hệ với nước ngoài là hết sức cần thiết. Sau
khi nhận thức được những sai lầm trong đường lối kinh tế, Đảng và Nhà nước ta quyết
tâm thực hiện công cuộc đổi mới theo hướng "mở cửa" nền kinh tế hướng mạnh về xuất
khẩu, không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác toàn diện với các nước trên thế giới, phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà

2

nước. Nhờ vậy, hoạt động ngoại thương nói chung và hoạt động XNK nói riêng của Việt
Nam trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu đáng kể và ngày càng khẳng định
vị trí của mình trong toàn bộ nền kinh tế.
Để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh XNK cần phải nâng cao chất lượng và đa
dạng hoá các mặt hàng, muốn vậy phải có sự đầu tư thích đáng cho quá trình sản xuất,
kinh doanh như đổi mới công nghệ, máy móc, trang thiết bị. Nhưng trên thực tế, vốn của
các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trên lĩnh vực này còn ít ỏi, không thể giúp cho các
doanh nghiệp tự đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng. Xuất phát từ thực tế này và để
đạt được mục tiêu của Đảng và Nhà nước đề ra thì cần có sự đầu tư của NHTM, đặc biệt
là NHNT với tư cách là trung tâm cung ứng vốn, hỗ trợ đắc lực cho lĩnh vực XNK của
nền kinh tế.
Hoạt động tín dụng tài trợ XNK là một hoạt động hết sức phức tạp, chứa đựng
nhiều rủi ro. Nó không chỉ chịu tác động của chính sách kinh tế trong nước mà còn chịu
sự điều chỉnh của nhiều quy phạm, nguồn luật khác nhau và bị ảnh hưởng mạnh theo sự

biến động của thị trường quốc tế. Do đó, hoạt động kinh doanh của NHNT trong việc tài
trợ tín dụng đối với các doanh nghiệp XNK ngày càng trở nên phong phú và đòi hỏi phải
được nghiên cứu hoàn thiện cả về nội dung lẫn hình thức.
Qua một thời gian ngắn đi thực tế tại NHNT Hà Nội một Chi nhánh đóng vai trò
rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của hệ thống NHNT Việt Nam em nhận thấy
việc nghiên cứu một cách có hệ thống nội dung và biện pháp nhằm tháo gỡ những vướng
mắc, tồn tại của công tác tín dụng tài trợ XNK, tiến tới mở rộng và phát triển công tác
này cho phù hợp với yêu cầu mới của nền kinh tế thị trường là vấn đề bức xúc có ý nghĩa
thực tiễn đối với quá trình phát triển kinh tế nước nhà.
Từ nhận thức đó cùng với kiến thức được trang bị qua 4 năm học ở trường Đại
học Kinh tế Quốc dân, đặc biệt được sự hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo Phạm Hồng
Vân và các thầy cô trong trường cũng như sự chỉ bảo tận tình của anh chị phòng Tín dụng
Chi nhánh NHNT Hà Nội, em xin mạnh dạn chọn đề tài: "Giải pháp mở rộng hoạt động
tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng ngoại thương Hà Nội".
Về hình thức, bài viết này được trình bày theo kết cấu sau:
Chương I: Một số vấn đề cơ bản về tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng
thương mại
Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại NHNT Hà
Nội

3

Chương III: Giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng tín dụng xuất nhập khẩu tại
NHNT Hà Nội
Trên cơ sở phân tích hoạt động tín dụng tài trợ XNK của NHNT Hà Nội trong 3
năm, (2000, 2001, 2002) đề tài tập trung vào tình hình và kinh nghiệm thực tế của hoạt
động này để từ đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm góp phần hoàn thiện hoạt động tín
dụng XNK tại Chi nhánh. Song do kiến thức còn hạn chế, bài viết không tránh khỏi
những thiếu sót nhất định, em rất mong được sự chỉ dạy của thầy cô giáo và góp ý của
các bạn để bài viết được hoàn thiện tốt hơn.

Nhân đây, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo Phạm Hồng Vân người
đã tận tình giúp đỡ em trong việc chọn đề tài, hướng dẫn phương hướng triển khai đề tài
và tổng kết các kết quả nghiên cứu một cách có hệ thống.
Em cũng xin chân thành cảm ơn các cô chú, anh chị tại NHNT Hà Nội, đặc biệt là
phòng Tín dụng đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cũng như chỉ bảo hướng dẫn em hoàn
thành đề tài này.
Hà Nội, tháng 4/2003
Sinh viên
Lê Tuấn Anh

4

CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÀI TRỢ CHO
XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI.
1. Một số vấn đề cơ bản về hoạt động xuất nhập
khẩu
1. 1. Sự cần thiết của hoạt động xuất nhập khẩu.
Bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển kinh tế không thể chỉ dựa vào nền sản
xuất trong nước mà còn phải quan hệ với các nước bên ngoài. Do có sự khác nhau về điều
kiện tự nhiên như tài nguyên, khí hậu... mà mỗi quốc gia có thế mạnh trong việc sản xuất
một số mặt hàng nhất định.
Để đạt được hiệu quả kinh tế đồng thời đáp ứng được nhu cầu ngày càng đa dạng
ở trong nước, các quốc gia đều mong muốn có được những sản phẩm chất lượng cao với
giá rẻ hơn từ các nước khác đồng thời mở rộng được thị trường tiêu thụ đối với các sản
phẩm thế mạnh của mình. Chính từ mong muốn đó đã làm nảy sinh hoạt động thương
mại quốc tế.
Hoạt động thương mại quốc tế thông qua mối quan hệ rộng rãi vượt ra ngoài biên
giới quốc gia sẽ là cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với nền kinh tế bên ngoài, đồng

thời tạo ra động lực thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế ở mỗi khu vực và trên toàn thế
giới.
Thương mại quốc tế được cấu thành bởi hai bộ phận cơ bản xuất khẩu và nhập
khẩu. Do vậy, xác định được vai trò quan trọng cũng như có sự quan tâm thích đáng đến
hoạt động XNK là nhiệm vụ hàng đầu của hoạt động thương mại quốc tế.
Đối với Việt Nam, ngoài những đặc điểm nêu trên chúng ta còn có những nét đặc
thù riêng đó là nền kinh tế có xuất phát điểm thấp, cơ sở hạ tầng kĩ thuật lạc hậu, công
nghệ thủ công... đang rất cần được đổi mới, bên cạnh đó tiềm lực xuất khẩu lại lớn nhưng
chưa được khai thác hiệu quả. Tất cả những điều này cho thấy hoạt động XNK đối với
nước ta càng quan trọng hơn.
Vai trò của XNK đối với sự phát triển kinh tế được thể hiện qua một số khía cạnh
cơ bản sau:
* Xuất khẩu

5

- Xuất khẩu đem lại nguồn thu ngoại tệ chủ yếu cho đất nước tạo điều kiện đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
- Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Thông qua việc đẩy mạnh xuất khẩu, Nhà nước sẽ khuyến khích các ngành, nghề phát
triển bởi họ phần nào có được thị trường tiêu thụ ổn định và mở rộng hơn. Đồng thời, sự
cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế sẽ tạo cho các nhà sản xuất sự năng động và
sáng tạo trong kinh doanh, sự quan tâm đúng đắn đến việc nâng cao hiệu quả quản lí, đổi
mới công nghệ cũng như nâng cao chất lượng của sản phẩm.
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho việc nhập khẩu có thể diễn ra thuận lợi hơn nhờ
nguồn ngoại tệ thu được và mối quan hệ quốc tế mà nó tạo ra.
* Nhập khẩu
Song song với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu cũng đóng một vai trò vô cùng quan
trọng trong nền kinh tế. Cụ thể:
- Nhập khẩu tạo ra hàng hoá bổ sung cho hàng hoá thiếu hụt trong nước và thay

thế những sản phẩm trong nước không sản xuất được hay sản xuất với chi phí cao hơn để
đáp ứng nhu cầu sản xuất tiêu dùng nội địa một cách tốt nhất, từ đó tạo sự ổn định về
cung-cầu trong nước và cao hơn là sự ổn định kinh tế vĩ mô.
- Nhập khẩu có tác động đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng kĩ thuật, đổi
mới công nghệ tạo tiền đề thuận lợi cho sản xuất.
- Ngoài ra, nhập khẩu còn có vai trò thúc đẩy xuất khẩu thông qua việc cung cấp các
nguyên vật liệu, máy móc thiết bị đầu vào cho xuất khẩu cũng như góp phần định hướng sản
phẩm, định hướng thị trường cho xuất khẩu.
Cuối cùng, một vai trò hết sức quan trọng của cả xuất và nhập khẩu đối với sự
phát triển kinh tế-xã hội đó là tạo công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân và mở
rộng hợp tác quốc tế.
1. 2. Nhu cầu tài trợ xuất nhập khẩu.
Như đã nói trên, trong nền kinh tế mở các doanh nghiệp luôn phải đối đầu với sự
cạnh tranh gay gắt. Họ không chỉ phải cạnh tranh với các nhà sản xuất trong nước mà còn
phải cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài. Để chiến thắng trong cạnh tranh, ngoài việc
cần thiết phải có sự hỗ trợ của Nhà nước như sự ưu đãi về thuế, sự điều chỉnh tỉ giá hối
đoái phù hợp... các doanh nghiệp còn cần phải có một tiềm lực tài chính mạnh để thực

6

hiện các hoạt động như đổi mới dây chuyền công nghệ, mua sắm máy móc hiện đại, mua
sắm nguyên vật liệu, cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành... Song trên
thực tế do khả năng tài chính có hạn nên hầu hết các doanh nghiệp đều cần có sự hỗ trợ từ
bên ngoài.
Nhu cầu tài trợ cho hoạt động XNK nảy sinh từ những đòi hỏi đó và nó gắn liền
với các giai đoạn của hoạt động này.
Do hoạt động thương mại quốc tế hiện nay là rất đa dạng và vì thế cũng hết sức
phức tạp (nó bao gồm nhiều mối quan hệ như: thương mại giữa các nước phát triển,
thương mại giữa các nước đang phát triển, thương mại giữa các nước phát triển và đang
phát triển... ) nên để phù hợp với điều kiện Việt Nam cũng như với đề tài nghiên cứu, ở

đây tôi chỉ xin đề cập đến hoạt động thương mại quốc tế giữa các nước phát triển và đang
phát triển.
- Xuất khẩu hàng hoá từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển chủ
yếu là hàng hoá tư liệu sản xuất như máy móc thiết bị, kỹ thuật, công nghệ. Đây là những
hàng hoá mà để hoàn thành hoạt động xuất khẩu cần phải trải qua nhiều giai đoạn khác
nhau từ phân tích nhu cầu, kí kết hợp đồng, sản xuất cung ứng, lắp ráp chạy thử... đến
thanh toán tiền hàng. Nhu cầu tài trợ thường để đáp ứng các chi phí cho quảng cáo, thiết
kế mẫu mã, sản xuất và cung cấp công trình.
- Xuất khẩu hàng hoá từ các nước đang phát triển sang các nước phát triển chủ
yếu là các mặt như nông, lâm, thuỷ hải sản, hàng thô hay mới qua sơ chế... Và nhu cầu tài
trợ thường là để thu mua chế biến xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu vốn tạm thời.
Để có cái nhìn tổng quát về nhu cầu tài trợ nảy sinh trong hoạt động XNK ta sẽ
xem xét nhu cầu tài trợ của các nhà xuất khẩu và nhập khẩu hình thành trong cùng một
hoạt động XNK hàng hoá máy móc, thiết bị kĩ thuật, công nghệ.
* Nhu cầu tài trợ cho xuất khẩu
Việc thực hiện hoạt động xuất khẩu hàng hoá máy móc thiết bị thường kéo dài từ
nhiều tháng cho tới vài năm, do đó thông thường nhu cầu tài trợ thường nảy sinh ở nhiều
giai đoạn khác nhau. Cụ thể:
+- Giai đoạn phân tích nhu cầu, thiết kế, tìm kiếm khách hàng, đại diện tại các
hội chợ, đàm phán sơ bộ, lập kế hoạch: Để hoàn thành tốt giai đoạn này các chuyên gia
phải thực hiện các chuyến đi dài ngày và tiến hành nhiều cuộc đàm phán, phải làm ra
hàng mẫu và mô hình để trưng bày, giới thiệu. Sau đó họ còn phải hoàn tất các tài liệu

7

thiết kế và tính toán chính xác cho đàm phán hợp đồng. Chi phí cho những hoạt động này
không phải nhỏ, đặc biệt với các cơ sở kinh doanh tiềm lực tài chính còn hạn hẹp.
- Giai đoạn ký kết hợp đồng: Trong trường hợp nhà xuất khẩu chưa có uy tín cao ở
nước ngoài, đối tác có thể yêu cầu một bảo đảm giao hàng hoặc bảo đảm hoàn thành công
trình. Đảm bảo này sẽ có hiệu lực nếu việc giao hàng hoặc hoàn thành công trình không

đúng như thoả thuận.
Trường hợp khác, nếu nhà xuất khẩu cần tiền đặt cọc mà nhà nhập khẩu là người
nước ngoài đang gặp khó khăn về tài chính, nhà xuất khẩu có thể đề nghị ngân hàng của
mình cung cấp tín dụng tương đương với số tiền đặt cọc và nhà nhập khẩu có nghĩa vụ
chi trả cho khoản tín dụng đó
- Giai đoạn chuẩn bị sản xuất: Sau khi đã kí hợp đồng, nhà xuất khẩu sẽ tiến hành
chuẩn bị sản xuất. Nhất là việc xây dựng các công trình lớn như, nhà máy, xí nghiệp...
việc này thường đi kèm với chi phí lớn vượt quá mức đặt cọc.
- Giai đoạn sản xuất: Mặc dù đã có những thoả thuận về việc thanh toán tiếp
theo của người mua, trong thời gian này thường nảy sinh các nhu cầu tài chính cao về vật
tư và chi phí liên quan khác vượt qua các khoản thanh toán giữa chừng.
- Giai đoạn cung ứng: Ngay cả trong giai đoạn cung ứng cũng có thể nảy sinh
các chi phí cần được tài trợ như chi phí vận tải, bảo hiểm... tuỳ theo điều kiện cung ứng.
- Giai đoạn lắp ráp, chạy thử, bàn giao công trình: Sau khi hàng hoá được giao
tới địa điểm qui định, nhà xuất khẩu còn cần chi phí cho lắp ráp chạy thử cho tới khi
được người mua thu nhận và chấp nhận thanh toán.
- Giai đoạn bảo hành: Trong giai đoạn này người mua có quyền yêu cầu được
bảo hành ở ngân hàng của nhà xuất khẩu trước khi thanh toán.
- Giai đoạn thanh toán: Hiện nay, để việc cung cấp hàng hoá xuất khẩu được
thuận lợi người xuất khẩu thường phải dành cho người mua một ưu đãi thanh toán trong
nhiều năm mà người xuất khẩu và ngân hàng của họ có thể chấp nhận được. Trong thời
gian chờ được thanh toán nhà xuất khẩu thường có nhu cầu được tài trợ để đảm bảo vốn
cho quá trình tái sản xuất tiếp theo.
* Nhu cầu tài trợ nhập khẩu
Với hoạt động nhập khẩu, nếu như nhà xuất khẩu có nhu cầu tài trợ để đẩy mạnh
hoạt động bán hàng thì các nhà nhập khẩu cũng nảy sinh nhu cầu tài trợ để mua hàng khi

8

khả năng tài chính không đáp ứng được. Vì vậy về phía nhà nhập khẩu cũng hình thành

nhu cầu tài trợ trên nhiều mặt.
- Giai đoạn trước khi kí kết hợp đồng: Ở giai đoạn này các nhà nhập khẩu cần
có những chi phí cho việc thuê các chuyên gia phân tích chính xác nhu cầu của mình để
tiến hành đấu thầu một cách phù hợp.
- Giai đoạn sau khi kí kết hợp đồng: Sau khi kí kết được hợp đồng, nhà nhập
khẩu cần được tài trợ để đặt cọc, tạm ứng cho nhà xuất khẩu... .
- Giai đoạn sản xuất và hoàn thành công trình: Trong giai đoạn này nhà nhập
khẩu có thể phải thực hiện những khoản thanh toán giữa chừng cho nhà xuất khẩu hay tài
trợ cho các công việc ở điạ phương để chuẩn bị cho đầu tư.
- Giai đoạn cung ứng và vận chuyển hàng hoá: Tuỳ theo điều kiện cung ứng
hàng hoá có thể nảy sinh nhiều phí tổn về vận chuyển và bảo hiểm đối với các nhà nhập
khẩu.
- Nhận hàng hoá: Nếu tiến hành thanh toán cung ứng hàng hoá khi xuất trình
chứng từ (có thư tín dụng kèm theo hoặc theo điều kiện D/P) thì thường nhà nhập khẩu
chỉ có thể nhận được hàng khi giá trị trên hoá đơn đã ghi rõ hoặc có thể tài trợ được.
- Xử lí tiếp, bán tiếp, tài trợ tiêu thụ: Đối với hàng hoá chủ định bán tiếp thì nhà
nhập khẩu còn có nhu cầu tài trợ giữa chừng cho khoảng thời gian từ khi nhập hàng về tới
khi hàng hoá được tiêu thụ.
Nếu sản phẩm là những dây chuyền công nghệ để sản xuất thì nhà nhập khẩu sẽ
có nhu cầu được tài trợ cho giai đoạn từ khi sản xuất sản phẩm mới tới khi tiêu thụ được
các sản phẩm làm ra và thu được tiền hàng.
Qua việc xem xét nhu cầu tài trợ cho XNK ở trên ta có thể khẳng định rằng hoạt
động kinh doanh XNK có một nhu cầu tài trợ rất lớn. Vậy thì để đáp ứng cho nhu cầu đó
có những nguồn tài trợ nào. Dưới đây là một số nguồn tài trợ thường dùng cho XNK.


9

1.3. Các nguồn tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Hoạt động XNK là một trong những hoạt động kinh tế cơ bản, do vậy nó cũng

được tài trợ từ rất nhiều nguồn khác nhau. Trong đó, những nguồn tài trợ thường được sử
dụng là:
* Tín dụng thương mại (hay tín dụng nhà cung cấp): là nguồn tài trợ được thực
hiện thông qua hình thức mua bán chịu hàng hoá, dịch vụ với các công cụ chủ yêú là kỳ
phiếu và hối phiếu. Đây là nguồn tài trợ ngắn hạn được ưa dùng vì dễ thực hiện, khả năng
chuyển thành tiền mặt cao (thông qua chiết khấu tại các ngân hàng), linh hoạt về thời
hạn. Tuy nhiên, các công cụ như hối phiếu thường được sử dụng trên cơ sở có ngân hàng
đứng ra chấp nhận hay bảo đảm.
* Vốn tự có: Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp khác nhau mà vốn tự có có thể là
vốn Ngân sách cấp, vốn cổ phần của các sáng lập viên công ty cổ phần hay vốn của chủ
doanh nghiệp tư nhân.
Vốn tự có chủ yếu bao gồm vốn khi thành lập doanh nghiệp như nói trên và phần
lợi nhuận để lại + khấu hao. Sử dụng vốn tự có doanh nghiệp có thể giảm được hệ số nợ,
tạo sự chủ động trong kinh doanh. Tuy vậy, nguồn tài trợ này có hạn chế là qui mô không
lớn và nhiều khi chi phí cơ hội của việc giữ lại lợi nhuận cao.
* Phát hành cổ phiếu: Với các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay họ có thể
phát hành cổ phiếu công ty để huy động nguồn vốn trung và dài hạn. Hình thức này có ưu
điểm là doanh nghiệp có được sự chủ động trong việc huy động và sử dụng vốn, giảm
được nguy cơ phá sản khi gặp khó khăn (vì có thể không phải phân chia lợi tức cổ phần
hoặc có thể hoãn trả lợi tức khi bị lỗ hoặc không có nhiều lãi) hay làm tăng vốn chủ sở
hữu, giảm hệ số nợ của doanh nghiệp... Tuy nhiên, chỉ có các doanh nghiệp thỏa mãn
những điều kiện nhất định mới được sử dụng hình thức này. Với nước ta, do thị trường
tài chính còn chưa phát triển nên hình thức tài trợ này còn ít được sử dụng hoặc nếu có sử
dụng thì hiệu quả chưa cao.
* Phát hành trái phiếu công ty: Đây cũng là một hình thức tài trợ khá phổ biến
trong nền kinh tế thị trường gần như cổ phiếu.
Trái phiếu là một giấy chứng nhận nợ của doanh nghiệp. Sử dụng phát hành trái
phiếu doanh nghiệp có thể huy động vốn cho hoạt động kinh doanh mà không dẫn đến
phải chia quyền kiểm soát doanh nghiệp như khi sử dụng cổ phiếu thường. Tuy nhiên, với
trái phiếu doanh nghiệp thường phải trả lợi tức cố định cho dù hoạt động kinh doanh có


10

lãi hay không. Điều này dễ làm tăng khả năng phá sản đối với doanh nghiệp khi gặp khó
khăn về tài chính. Ngoài ra, với thị trường tài chính chưa phát triển như đã nói trên thì
hình thức này cũng khó phát huy tốt được ưu thế của nó.
* Tín dụng ngân hàng: Ngân hàng có thể tài trợ cho các doanh nghiệp thông qua
nhiều hình thức và với những mục đích sử dụng khác nhau như: cho vay ngắn hạn theo
hạn mức tín dụng, cho vay theo hợp đồng, cho vay có đảm bảo... để thu mua dự trữ, sản
xuất, nhập khẩu nguyên vật liệu, đáp ứng nhu cầu vốn lưu động. Hoặc cho vay dài hạn để
đầu tư dự án, mua sắm máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ... Tuỳ vào từng doanh
nghiệp mà Ngân hàng có thể áp dụng những hình thức nhất định sao cho thuận lợi với cả
hai bên. Một đặc điểm khá nổi bật của tín dụng ngân hàng là có khả năng linh hoạt về lãi
suất cũng như thời hạn.
* Các nguồn tài trợ khác: Ngoài các nguồn tài trợ trên các doanh nghiệp XNK
còn có thể được tài trợ bằng các nguồn như đầu tư nước ngoài, vay nợ viện trợ của nước
ngoài, hỗ trợ của Chính phủ... Hiện nay các nguồn này thường cũng được sử dụng thông
qua các Ngân hàng.
Như vậy, nguồn tài trợ cho XNK rất đa dạng nhưng trong đó nguồn tín dụng ngân
hàng nhờ có những ưu thế riêng nên vẫn nắm giữ một vị trí đặ c biệt đối với sự phát triễn
của đất nước nói chung vá hoạt động XNK nói riêng


11

2. Tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu.
2.1. Khái niệm, Vai trò của tín dụng ngân hàng
2.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng nói chung là một phạm trù kinh tế được rất nhiều nhà kinh tế học đề cập
đến và do đó cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về tín dụng. Tuy nhiên, theo cách hiểu

chung nhất thì: tín dụng là một quan hệ xã hội giữa người cho vay và người đi vay, giữa
họ có mối liên hệ với nhau thông qua sự vận động của giá trị vốn tín dụng được biểu hiện
dưới hình thái tiền tệ hoặc hiện vật.
Trên cơ sở đó ta có thể hiểu “ Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng
tiền tệ giữa một bên là ngân hàng, một tổ chức chuyên doanh trên lĩnh vực tiền tệ với
một bên là các tổ chức, đơn vị kinh tế-xã hội, các cơ quan Nhà nước và các tầng lớp
dân cư ”.
Tín dụng ngân hàng ra đời và ngày càng phát triển mạnh mẽ, nhờ có khả năng đáp
ứng tốt mọi nhu cầu đa dạng về vốn của nền kinh tế mà nó đã không ngừng được mở
rộng sang tất cả các ngành, lĩnh vực khác nhau trong đó có hoạt động XNK, nó đã trở
thành một nguồn tài trợ không thể thiếu đối với hoạt động XNK của các quốc gia. Sự
tham gia hỗ trợ của các ngân hàng cho hoạt động XNK có tác động tích cực không chỉ về
mặt tài chính mà còn về cả việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế.
2.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu.
Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động XNK được thể hiện qua các mặt
sau:
- Thứ nhất, giống như các nguồn tài trợ khác tín dụng ngân hàng là một nguồn
vốn quan trọng đối với các doanh nghiệp XNK để thu mua dự trữ, sản xuất, tiêu thụ hàng
hoá, mua sắm máy móc thiết bị... phục vụ cho quá trình sản xuất cũng như tái sản xuất
của doanh nghiệp.
- Thứ hai, tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp trên thị trường.
Kinh doanh có hiệu quả là yêu cầu của hạch toán kinh tế đồng thời cũng là một
trong những điều kiện cung cấp tín dụng của ngân hàng. Do đó, tín dụng ngân hàng thúc
đẩy các doanh nghiệp quan tâm hơn đến hiệu quả kinh doanh, nâng cao mức doanh lợi.
Bên cạnh đó, với khả năng linh hoạt về thời hạn và lãi suất của tín dụng ngân hàng sẽ

12

khuyến khích sự chủ động và sáng tạo của các doanh nghiệp trong việc sử dụng vốn sao

cho phù hợp với nhu cầu về vốn trong mỗi thời kỳ khác nhau.
- Thứ ba, tín dụng ngân hàng thúc đẩy hoạt dộng XNK diễn ra thuận lợi và nhanh
chóng hơn.
- Thứ tư, xuất phát từ tính rủi ro trong hoạt động kinh doanh XNK cao và do việc
thiếu hiểu biết lẫn nhau giữa người mua và người bán sự có mặt của ngân hàng sẽ là một
đảm bảo cho cả hai bên, nhà xuất khẩu sẽ hạn chế được những rủi ro không thanh toán
khi ngân hàng đứng ra đảm bảo cung cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu và ngược lại nhờ
nguồn tín dụng của ngân hàng nhà nhập khẩu thực hiện được những nhập khẩu quan
trọng trong khi khả năng tài chính của họ chưa đáp ứng được.
- Thứ năm, ngân hàng là một đầu mối tiếp nhận các nguồn tài trợ của nước ngoài
cho hoạt động XNK. Bởi vì hiện nay phần lớn các nguồn tài trợ của các tổ chức tài chính-
tiền tệ quốc tế cho một quốc gia nào đó được thực hiện qua các ngân hàng nước sở tại.
Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động XNK càng có ý nghĩa hơn khi
ngân hàng thực hiện các chính sách của Nhà nước, trong đó có chính sách hướng về xuất
khẩu và thay thế nhập khẩu. Ngân hàng sẽ cung cấp cho các nhà XNK những khoản tín
dụng lớn với lãi xuất ưu đãi mà nhờ đó họ có thể giải quyết vấn đề thiếu vốn trong hoạt
động kinh doanh của mình.


13

2.2. Các hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại.
Thương mại quốc tế bao gồm những mối quan hệ rất đa dạng, phức tạp. Với tư
cách là trung gian tài chính, ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo cho
hoạt động XNK diễn ra liên tục nhanh chóng, thuận lợi cho cả nhà xuất khẩu và nhà nhập
khẩu. Dựa trên các tiêu chí ta có thể chia tín dụng XNK ra thành các hình thức như sau:
2.2.1. Cho vay trong khuôn khổ thanh toán bằng L/C
Thư tín dụng (L/C) là một văn bản pháp lý trong đó một ngân hàng cam kết sẽ trả
một số tiền nhất định cho nhà xuất khẩu hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát
trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh

toán phù hợp với quy định đề ra trong thư tín dụng.
* Đối với L/C trong thanh toán hàng nhập khẩu
- Cho vay ký quỹ L/C
Ký quỹ là một quy định của ngân hàng phát sinh trong trường hợp khách hàng
xin được bảo lãnh, khách sẽ phải nộp một khoản tiền nhất định vào tài khoản của họ tại
ngân hàng mà họ xin được bảo lãnh và khoản tiền đó se được phong toả cho đến khi
nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng chấm dứt. Thông thường khoản tiền này được tính tỷ
lệ với giá trị hợp đồng mà khách hàng xin được bảo lãnh. Trong trường hợp thiếu sự tin
cậy hoặc thương vụ tiềm ẩn rủi ro cao ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng ký quỹ 100%
giá trị hợp đồng. Đối với những khách hàng đáng tin cậy hoặc có quan hệ thường xuyên
thì ngân hàng có thể chấp nhận mức ký quỹ thấp hơn so với giá trị họp đồng.
Thông thường mức ký quỹ L/C phụ thuộc vào các yếu tố sau.
+ Khả năng thanh toán của khách hàng.
+ Đối tượng khách hàng
+ Loại L/C: L/C trả chậm thì mức ký quỹ thấp, loại L/C trả ngay thì bắt
buộc mức ký quỹ cao hơn.
+ Loại hàng hoá nhập khẩu, khả năng tiêu thụ.
Trên cơ sở các yếu tố trên, ngân hàng sẽ quyết định mức ký quỹ, nếu như khách
hàng không có đủ số dư trên tài khoản thì phải tiến hành làm đơn xin vay ngoại tệ ký quỹ
L/C.
- Cho vay thanh toán hàng nhập khẩu hoặc tài trợ thanh toán toàn bộ chứng từ
giao hàng.

14

Theo hình thức này khách hàng phải lập phương án sản xuất kinh doanh mang
tính khả thi cho lô hàng nhập về phục vụ sản xuất kinh doanh. Đồng thời khách hàng phải
lên kế hoách tài chính nhằm xác định khả năng thanh toán khi đến thời điểm thanh toán
dự kiến, xác định khoản thiếu hụt với ngân hàng tài trợ. Trên cơ sở xem xét và phân tích
kế hoạch và phản ánh của khách hàng, ngân hàng sẽ ra quyết định tài trợ và xác định mức

ngân hàng chấp nhận tài trợ.
* Đối với L/C trong thanh toán hàng xuất khẩu
- Cho vay thực hiện hàng xuất khẩu theo L/C đã mở trên cơ sở L/C đã được chấp
nhận do ngân hàng mở L/C phát hành theo yêu cầu của nhà nhập khẩu. Ngân hàng có thể
cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu để tiêu thụ sản phẩm và có thể thực hiện nghĩa vụ hợp
đồng.
- Cho vay chiết khấu hoặc ứng trước tiền hàng xuất khẩu:
Để đáp ứng nhu cầu vốn, nhà xuất khẩu sau khi giao hàng xong có thể thương
lượng với ngân hàng thực hiện chiết khấu bộ chứng từ hoặc ứng trước tiền cho mình
trước khi bộ chứng từ được thanh toán.


15

2.2.2. Cho vay trong khuôn khổ phương thức nhờ thu kèm chứng từ
- Nhờ thu đi trong thanh toán hàng xuất khẩu: Ngân hàng cho vay thu mua, sản
xuất hàng xuất khẩu, chiết khấu hoặc ứng trước bộ chứng từ hàng xuất khẩu.
- Nhờ thu đến trong thanh toán hàng nhập khẩu: Ngân hàng tiếp nhận chứng từ từ
ngân hàng nước ngoài, xuất trình hối phiếu đòi tiền nhà nhập khẩu. Nếu nhà nhập khẩu
không đủ khả năng thanh toán, thì cần phải có sự tài trợ của ngân hàng cho vay thanh
toán hàng nhập khẩu.
2.2.3. Cho vay trên cơ sở hối phiếu
Trong kinh doanh ngoại thương hối phiếu đóng vai trò rất quan trọng, trên cơ sở
hối phiếu ngân hàng có các hình thức cho vay sau:
* Chiết khấu hối phiếu
Chiết khấu hối phiếu là một loại tín dụng ngân hàng cung cấp cho khách hàng
dưới hình thức mua lại hối phiếu trước khi nó đến hạn thanh toán, tức là ngân hàng mua
lại khoản nợ phải đòi. Chiết khấu hối phiếu tạo điều kiện cho nhà xuất khẩu nhận được
tiền sớm hơn nhằm đáp ứng được nhu cầu về vốn đối với khoản tín dụng cung ứng hàng
mà anh ta cấp cho nhà nhập khẩu.

Cơ sở để xác định khối lượng tín dụng này là giá trị của hối phiếu sau khi đã trừ
đi giá trị chiết khấu và lệ phí nhờ thu mà ngân hàng chiết khấu hưởng. Các ngân hàng sẽ
xác định khối lượng tín dụng cấp ra(giá trị chiết khấu) theo công thức sau:
T
ck
= M(1-L
ck
* t/3600) - P
Trong đó:
Tck: Giá trị chiết khấu
M: Mệnh giá hối phiếu
Lck: Lãi suất chiết khấu
t: Thời hạn chiết khấu(ngày)
P: lệ phí
Có 2 hình thức chiết khấu:
- Chiết khấu miễn truy đòi

16

Ngân hàng mua lại bộ chứng từ của người xuất khẩu, giá mua sẽ thấp hơn giá trị
bộ chứng từ, do ngân hàng tính trừ lại chi phí chiết khấu và thời gian cần thiết trung bình
để đòi tiền nhà nhạap khẩu nước ngoài. Chiết khấu miễn truy đòi có nghĩa là người xuất
khẩu bán hãn bộ chứng từ cho ngân hàng, nhạn tiền và không còn trách nhiệm hoàn trả,
trách nhiệm thu tiền và quyền sữ dụng số tiền thu được hoàn toàn thuộc về ngân hàng. ở
Việt Nam các ngân hàng ít sữ dụng hình thức chiết khấu này vì nó tiềm ẩn nhiều rủi ro
cho ngân hàng.
- Chiết khấu được phép truy đòi
Cũng tương tự như hình thức trên nhưng trách nhiệm thanh toán hối phiếu vẩn
còn đối với người chiết khấu hối phiếu(nhà xuất khẩu ) và giá trị chiết khấu cao hơn.
- Chấp nhận hối phiếu:

Tín dụng chấp nhận hối phiếu là khoản tín dụng mà ngân hàng ký chấp nhận hối
phiếu. Người vay khoản tín dụng này chính là nhà nhập khẩu và khoản vay chỉ là một
hình thức, một sự đảm bảo về tài chính. Thực chất ngân hàng chưa phải xuất tiền thực sự
cho người vay. Tuy nhiên khi đến hạn, nếu nhà nhập khẩu không đủ khả năng thanh toán
thì người cho vay (ngân hàng) - người đứng ra chấp nhận hối phiếu phải trả nợ thay.
Tín dụng chấp nhận hối phiếu xảy ra trong trường hợp bên bán thiếu tin tưởng
khả năng thanh toán của bên mua. Họ có thể đề nghị bên mua yêu cầu một ngân hàng
đứng ra chấp nhận trả tiền hối phiếu do bên bán ký phát. Nếu ngân hàng đồng ý, điều đó
cũng có nghĩa là ngân hàng đã chấp nhận một khoản tín dụng cho bên mua để họ thanh
toán cho bên bán khi hối phiếu đến hạn.
Đối với ngân hàng, kể từ khi ký chấp nhận trả tiền hối phiếu cũng chính là thời
điểm bắt đầu gánh chịu rủi ro nếu như bên mua không có tiền thanh toán cho bên bán khi
hối phiếu đến hạn thanh toán.
Đương nhiên nếu đến hạn thanh toán hối phiếu, bên mua có đủ tiền thì ngân hàng
thực sự không phải ứng tiền ra. Như vậy, khoản tín dụng này chỉ là hình thức, là một sự
đảm bảo về tài chính. Trong trường hợp này, ngân hàng sẽ chỉ nhận được một khoản phí
chấp nhận, khoản tiền bù đắp cho chi phí gánh chịu rủi ro tín dụng mà thôi.
2.2.4. Một số hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu khác
* Bao thanh toán toàn phần và bao thanh toán từng phần

17

- Bao thanh toán toàn phần (factoring): là một hình thức tài trợ chính trong hoạt
động xuất khẩu. Đó là hoạt động mua bán những khoản thanh toán chưa tới hạn và ngắn
hạn từ những hoạt động xuất khẩu, cung ứng hàng hoá dịch vụ.
Khác với hoạt động mua bán lại chứng từ thanh toán ở phần trên, hoạt động
factoring chỉ sử dụng cho những hoạt động xuất khẩu thường xuyên theo định kỳ, theo
hợp đồng ngắn hạn và cho nhiều nhà xuất khẩu khác nhau trong cùng một nước hoặc
nhiều nước trong cùng một thời điểm. Chỉ có những khoản thanh toán đáp ứng những
điều kiện sau mới được phép mua bán:

+ Những khoản mua bán phải tồn tại một cách hợp pháp, phải có đủ tư
cách pháp lý độc lập với quyền một người thứ ba.
+ Hàng hoá đã được cung ứng đầy đủ và đảm bảo chất lượng cho những
khoản thanh toán này.
+ Thời hạn thanh toán này tối đa là 180 ngày.
+ Không có quyền cấm chuyển nhượng các khoản thanh toán này của
người nhập khẩu hoặc nước nhập khẩu.
- Bao thanh toán từng phần (forfaiting): cũng là nghiệp vụ mua bán những khoản
thanh toán chưa tới thời hạn như factaring nhưng khác ở một số điểm sau:
+ Forfaiting chỉ bao những khoản thanh toán cụ thể riêng lẻ trong toàn bộ quá
trình XNK dài hạn và cho từng đối tượng nhập khẩu riêng.
+ Thời hạn thanh toán của factoring tối đa là 6 tháng trong khi thời hạn
đối với forfaiting là 6 tháng đến 10 năm. Forfaiting được coi là hình thức tín dụng trung
và dài hạn.
+ Factaring phục vụ cho những hoạt động XNK không sử dụng tới tín dụng
chứng từ còn forfaiting lại dựa vào chúng và sự bảo đảm của ngân hàng.
* Tín dụng thuê mua
Thuê mua là hình thức tài trợ vốn, ra đời ở Mỹ vào năm 1952, sau đó nhanh
chóng thâm nhập vào Châu Âu đầu những năm 1960 và dần dần hiện nay đang được các
nước trên thế giới áp dụng.
Thuê mua là hình thức thuê tài sản dài hạn mà trong thời gian đó người cho thuê
chuyển giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho người đi thuê sử dụng. Người thuê có
trách nhiệm thanh toán tiền thuê trong suốt thời gian thuê và khi kết thúc thời hạn họ có
thể được quyền sở hữu tài sản thuê hoặc được mua lại tài sản thuê hay là được quyền thuê
tiếp. Điều này tuỳ thuộc vào thoả thuận của hai bên khi ký hợp đồng thuê. Có hai loại
hình thức thuê mua. Đó là: cho thuê vận hành và cho thuê tài chính.

18

- Cho thuê tai chính: là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho

thuê máy móc, thiết bị và các động sản khác. Bên đi thuê được chuyển quyền sở hữu hoặc
tiếp tục thuê khi kết thúc thời hạn thuê.
- Cho thuê vận hành: bên đi thuê thuê máy móc, thiết bị trong thời gian ngắn để
sử dụng vào mục đích tạm thời. Mọi rủi ro và lợi ích đem lại đối với quyền sở hữu tài sản
cho thuê vẫn thuộc người cho thuê.
So với hình thức cho vay truyền thống, hình thức thuê mua này có những ưu điểm
sau:
+ Các doanh nghiệp sẽ không phải bỏ tiền mua thiết bị ngay lập tức mà trả
tiền thuê thiết bị theo định kỳ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động hơn về vốn
để tập trung cho sản xuất. Hình thức này có ý nghĩa nhất đối với doanh nghiệp không đủ
vốn nhưng vẫn có thể đi thuê thiết bị thiết bị để sản xuất và dùng một phần lợi thu được
từ sản xuất để trả tiền thuê định kỳ.
+ So với đi vay ngân hàng, việc thế chấp để được thuê máy móc thiết bị
đơn giản hơn nhiều do thiết bị thuê thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê trong suốt thừoi
gian thuê, nên khi bên thuê không trả được nợ, bên cho thuê có thể lấy lại toàn bộ tài sản
cho thuê. Ngày nay các ngân hàng thường lập công ty tài chính riêng để hỗ trợ vốn cho
các doanh nghiệp và làm phong phú thêm hoạt động của mình.
* Tài trợ bảo lãnh và tái bảo lãnh
Trong thương mại quốc tế, rủi ro là một yếu tố luôn luôn xuất hiện trong các
thương vụ khác nhau (rủi ro thanh toán, rủi ro không thực hiện hợp đồng). Từ đó nảy sinh
nhu cầu bảo lãnh để hạn chế rủi ro.
Trong mua bán quốc tế, đôi khi nhà xuất khẩu không nắm chắc được khả năng tài
chính để thanh toán và mức độ tín nhiệm của nhà nhập khẩu. Do vậy, nhà xuất khẩu sẽ yêu
cầu nhà nhập khẩu phải có một tổ chức thường là ngân hàng đứng ra bảo lãnh thanh toán.
Ngược lại, do không biết rõ hoặc không tin tưởng nhau, nhà nhập khẩu có thể yêu cầu nhà
xuất khẩu có ngân hàng đứng ra bảo lãnh giao hàng hoặc bảo lãnh thực hiện hợp đồng.
Ngân hàng nhận bảo lãnh theo yêu cầu của khách hàng, dùng để vay vốn nước
ngoài dưới hình thức tín dụng thương mại hoặc tín dụng tài chính. Trách nhiệm của ngân
hàng bảo lãnh là đảm bảo thi hành đúng cam kết với nước ngoài trong trường hợp người
xin bảo lãnh không thực hiện đủ nghiệp vụ nào đó với nước bên ngoài.

Bảo lãnh cũng có nhiều hình thức khác nhau:
+ Mở thư tín dụng trả chậm
+ Ký bảo lãnh hay ký chấp nhận trên các hối phiếu

19

+ Phát hành thư bảo lãnh với người nước ngoài
+ Lập giấy cam kết trả nợ với nước ngoài... .
Các lợi thế của các bên liên quan trong nghiệp vụ này
- Đối với nhà nhập khẩu (bên được bảo lãnh): được hưởng một khoản vốn của
bên xuất khẩu mà không phải trả lãi (thực chất có thể giá bán đã tính lãi rồi) chi trả một
khoản phí cho người bảo lãnh.
- Đối với nhà xuất khẩu: hoàn toàn yên tâm rằng đến hạn sẽ được thanh toán nợ.
Nếu cần tiền, nhà xuất khẩu cũng có thể đem bộ chứng từ chiết khấu tại một ngân hàng
khác để đáp ứng nhu cầu vốn của mình.
- Đối với ngân hàng bảo lãnh: với bất kì ngân hàng nào, khi tiến hành bảo lãnh,
nghĩa là được sự tín nhiệm, được sự tin tưởng về phía bên xuất khẩu, bên nhập khẩu. Khi
bảo lãnh cho khách hàng, ngân hàng chỉ cho vay trừu tượng nghĩa là ngân hàng không bỏ
ra một khoản vốn nào cả, mà chỉ lấy uy tín, danh dự của ngân hàng ra cho vay, làm cơ sở
cho vay.
Thủ tục bảo lãnh cho vay ngắn hạn theo phương thức cho vay thông thường nghĩa là
khi bảo lãnh cho khách hàng thì khách hàng phải có mục đích xin vay, có khả năng thanh
toán và có tài sản thế chấp. Khi đến hạn, nếu nhà nhập khẩu không có đủ khả năng thanh
toán, thì cần phải làm thủ tục xin vay tại ngân hàng. Như vậy, mục đích bảo lãnh đã được
thực hiện, nghĩa là ngân hàng bảo lãnh muốn khách hàng của mình vay nhằm thu thêm được
một khoản lãi, có khách hàng mới về mặt tín dụng và chi phí bảo lãnh.

3. Rủi ro trong tín dụng tài trợ XNK của ngân hàng thương mại
Rủi ro trong hoạt động tín dụng tài trợ XNK là một dạng rủi ro trong hoạt động của
ngân hàng thương mại. Đó là những biến cố bất thường, không mong đợi xảy ra, dẫn đến tổn

thất cho ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường với xu hướng toàn cầu hoá ngày càng rõ rệt
và quan hệ thương mại quốc tế ngày càng được mở rộng thì đồng thời hoạt động XNK cũng
đồng thời cũng phát triển với quy mô ngày càng lớn. Điều này đóng vai trò quan trọng trong
việc phát huy lợi thế của các quốc gia trong quan hệ kinh tế đối ngoại với các quốc gia khác.
Tuy nhiên, cùng với sự gia tăng của hoạt động XNK thì vai trò của ngân hàng trong việc hỗ
trợ cho các doanh nghiệp trong hoạt động XNK ngày càng lớn, và cũng do vậy những rủi ro
với các ngân hàng cũng ngày càng lớn hơn. những rủi ro tín dụng tài trợ XNK là rất đa dạng
và khó quản lý. Bởi vì khác với hoat động tín dụng thông thường, hoạt động tín dụng tài trợ
XNK chịu tác động của nhiều yếu tố ngẫu nhiên, bất ngờ khó nắm bắt như: tình hình kinh tế,
chính trị trên thế giới, các cuộc khủng hoảng kinh tế chính trị ảnh hưởng rất lớn đến các quan

20

hệ kinh tế đối ngoại, tác động trực tiếp đến tâm lý, nhu cầu cũng như nguồn cùn cấp các mặt
hàng nhập khẩu. Bên cạnh đó, các yếu tố liên quan đến tỷ giá, yếu tố thời vụ cũng ảnh hưởng
đến giá trị hàng hoá XNK, qua đó tác động xấu đến hoạt động của doanh nghiệp và ảnh
hưởng đến lợi ích của ngân hàng, dẫn tới tổn thất cho ngân hàng và nền kinh tế.
Như chúng ta đã biết,trong quan hệ XNk thường luôn có một phía đối tác nước ngoài,
và như vậy, các doanh nghiệp kinh doanh XNK trong nước cũng như ngân hàng tài trợ rất
khó nắm bát được tất cả các thông tin cần thiết về đối tác một cách chính xác. Do đó, khả
năng xảy ra rủi ro đã xảy ra thì tổn thất không thể tránh khỏi đối với doanh nghiệp cũng như
ngân hàng. Mặc dù, về nguyên tắc trong hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và đơn vị được
tài trợ luôn có những điều khoản quy định roc ràng quyền hạn của ngân hàng cũng như trách
nhiệm của doanh nghiệp, các điều khoản này nhằm đảm bảo khả năng trả nợ của doanh
nghiệp và sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả. Đông thời đơn vị được tài trợ cũng luôn
phải có tài sản thế chấp đảm bảo khoản vay. Tuy nhiên, những tài sản thế chấp này lại chính
là lô hàng đó. Thậm chí ngay cả khi hợp đồng XNK hàng hoá của doanh nghiệp là hoàn hảo
và doanh nghiệp thực hiện hợp đồng một cách suôn sẻ thì rủi ro vẫn có thể xảy ra do sự vi
phạn các điều khoản trong hợp đồng tín dụng, ngay cả khi các đơn vị được tài trợ hoàn toàn
có khả năng thực hiện các cam kết đó.

Xét một cách tổng thể, ta có thể thấy rằng, rủi ro trong tín dụng tài trợ XNK cũng
giống ngư của tín dụng ngân hàng nói chung nó luôn là một yếu tố bất lợi, tiềm ẩn có thể xảy
ra bất cứ lúc nào, với hậu quả không thể lường trước được. Vị vậy, đòi hỏi các ngân hàng
phải tìm ra biện pháp phòng ngừa, hạn chế tối đa rủi ro và thiệt hại có thể xảy ra. Muốn vậy
các ngân hàng phải têưjc hiện có hiệu quả trong việc tìm hiểu thông tin về đối tác, về thị
trường, về dự báo và đưa ra các biện pháp phòng ngừa rủi ro.
Các biện pháp phải được thiết lập một cách đồng bộ và phải được thưc hiện một cách
nghiêm túc và có sự hỗ trợ của các cơ quan chức năng chuyên trách. Có như vậy mới có thể
thực hiện tốt được công tác phòng ngừa ruỉ ro, hạn chế tối đa tổn thất, thúc đẩy sự phát triển
của hoạt động XNK nhằm tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước, đổi mới công nghệ, thúc đẩy
nền kinh tế phát triển.

4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của
ngân hàng thương mại ở Việt Nam
Do việc cho vay có liên quan chặt chẽ đến cả ngân hàng và khách hàng mà nó
phục vụ, các chính sách cho vay phải được phác hoạ một cách cẩn thận sau khi đã xem

21

xét nhiều yếu tố. Sau đây là một số yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến tín dụng tài trợ
XNK của NHTM.
4.1. Chủ trương chính sách phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước
Các hoạt động kinh tế nói chung và XNK nói riêng chịu tác động rất lớn bởi chính sách
chủ trương đường lối phát triển kinh tế của Nhà nước.
- Về mặt tích cực: chính sách vĩ mô của Nhà nước có thể tạo điều kiện cho vay
XNK của ngân hàng được mở rộng và phát triển. Nếu Nhà nước dùng chính sách tiền tệ
mở rộng thì NHTM được cấp thêm vốn dự trữ, khả năng cho vay của ngân hàng sẽ gia
tăng. Các ngân hàng có thể có chính sách cho vay tự do hơn. Chính sách lãi suất linh
hoạt, lãi suất thực dương luôn là đòn bẩy thúc đẩy hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Hoạt động tín dụng tài trợ XNK chủ yếu diễn ra theo hình thức cho vay bằng ngoại tệ. Vì

vậy nếu Nhà nước cho phép tập trung ngoại tệ vào ngân hàng, quản lý ngoại tệ một cách
chặt chẽ thì ngân hàng sẽ có nhiều nguồn ngoại tệ đáp ứng nhu cầu nhập máy móc, thiết
bị, nguyên liệu của nhà nhập khẩu.
- Về mặt tiêu cực: Chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước có thể gây ra nhiều rủi
ro cho hoạt động tín dụng XNK của ngân hàng. Nếu Nhà nước không có chiến lược
hướng về xuất khẩu thì hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp XNK rất hạn chế. Từ
đó dẫn đến hoạt động cho vay của ngân hàng sẽ ít đi lợi nhuận của ngân hàng sẽ giảm
xuống. Khi Nhà nước áp đặt một hàng rào thuế quan, phi thuế quan thì nó sẽ dẫn đến tăng
giá của một số loại hàng nhập khẩu, lượng hàng nhập khẩu giảm dẫn đến nhu cầu vay
vốn giảm.
Ngoài ra, việc thay đổi nhỏ trong chính sách lãi suất, tỷ giá hối đoái cũng tác động
không ít đến hoạt động tín dụng tài trợ XNK của Ngân hàng. Môi trường pháp không ổn
định, cơ chế chính sách hay thay đổi làm ảnh hưởng đến chiến lược kinh doanh của
doanh nghiệp, làm đảo lộn chính sách tín dụng của từng ngân hàng. Đây chính là nguyên
nhân gây ra rủi ro tín dụng cho các NHTM.
4.2. Môi trường kinh tế chính trị, xã hội trong và ngoài nước
Đất nước, khu vực mà có nền kinh tế bị rơi vào khủng hoảng hoặc luôn luôn bị
chao đảo, biến động mạnh về kinh tế, chính trị dễ dẫn đến hoạt động tín dụng của Ngân
hàng bị thu hẹp. Ngược lại, nếu kinh tế ổn định sẽ dẫn đến chính sách cho vay tự do hơn.
Thực tiễn cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 ở khu vực Đông Nam Á đã chứng
minh điều đó. Tất cả hoạt động của các ngành các lĩnh vực của các quốc gia trong khu
vực, đặc biệt hoạt động của hệ thống ngân hàng đã bị ảnh hưởng sâu sắc. Hàng loạt ngân

22

hàng của Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia bị tàn phá do không thu lại được các khoản nợ,
không cho vay được để bù đắp chi phí khi nhu cầu tín dụng của khu vực giảm.
Tình hình chính trị xã hội chiến tranh cũng như thiên tia, dịch hoạ cũng là một
trong những nguyên nhân gây ra rủi ro bất khả kháng đối với các khoản cho vay của
Ngân hàng.


4.3. Khả năng ý thức thanh toán của doanh nghiệp XNK
Nhu cầu tín dụng của ngân hàng là yếu tố quyết định đến hoạt động tín dụng ngân
hàng được mở rộng hay thu hẹp. Song nếu có nhu cầu vay vốn để nhập máy móc thiết bị
từ nước ngoài để sản xuất hàng xuất khẩu nhưng khả năng hoàn trả của doanh nghiệp
không cao thì ngân hàng cũng sẽ không cho vay. Mặt khác, khi ngân hàng cấp vốn cho
vay các doanh nghiệp XNK, nhưng vì một nguyên nhân nào đó các ngân hàng này gặp rủi
ro trong quá trình hoạt động kinh doanh (bị huỷ bỏ hợp đồng, hàng bị mất cắp giảm giá
trị... ) làm cho họ không thu hồi đủ vốn để trả lại các khoản vay cho ngân hàng. Đối với
ngân hàng khi mà có quá nhiều khách hàng đến hạn trả mà khôn có khả năng thanh toán
hoặc cố ý chây ỳ thiếu ý thức tôn trọng các điều khoản thoả thuận trong hợp đồng tín
dụng thì ngân hàng sẽ mất khả năng thanh toán của mình thậm chí ngân hàng còn rơi vào
tình trạng phá sản.
Tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và của doanh nghiệp
hoạt động XNK nói riêng với thái độ ý thức thanh toán của doanh nghiệp sẽ thúc đẩy hay
kìm hãm hoạt động tín dụng của ngân hàng.
4.4. Năng lực cho vay của ngân hàng
Khả năng huy động vốn của năng lực cho vay phụ thuộc vào vốn tự có của ngân
hàng. Do đó nếu doanh nghiệp kinh doanh XNK có nhu cầu vốn lớn, trong khi nguồn vốn
của ngân hàng nhỏ thì sẽ không thoả mãn yêu cầu của doanh nghiệp. Tín dụng XNK của
NHTM gắn liền với nguồn vốn ngoại tệ. Do đó làm thế nào để huy động đủ ngoại tệ đáp
ứng nhu cầu vay của doanh nghiệp nhập khẩu đang là vấn đề lớn đối với nhiều NHTM.
4.5. Các nhân tố khác
Trình độ quản lý kinh doanh, quản lý vốn cũng như trình độ chuyên môn của đội
ngũ nhân viên tín dụng không phải là không có ý nghĩa đối với hoạt động cho vay XNK
của ngân hàng. Với một đội ngũ nhân viên có kinh nghiệm, có trình độ trong thẩm định
dự án, xem xét đơn vay vốn của khách hàng thì chất lượng tín dụng sẽ cao và ngược lại.

23


Bên cạnh đó, hoạt động tín dụng tài trợ XNK của NHTM cũng luôn phải đối mặt với
rủi ro lãi suất hay tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái luôn luôn biến động, sự biến động này có
thể diễn ra hàng ngày. Nếu tỷ giá hối đoái hợp lý sẽ khuyến khích cả nhập khẩu và xuất khẩu,
tạo điều kiện cho nền kinh tế nói chung và hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói riêng sẽ
phát triển.
Hoạt động cho vay của ngân hàng chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau. Có
nhân tố tác động tích cực khuyến khích mở rộng hoạt động cho vay. Song cũng có không
ít những nhân tố kìm hãm, gây rủi ro cho hoạt động này của ngân hàng. Các ngân hàng
khi cấp tín dụng cho doanh nghiệp XNK phải lường trước mọi rủi ro có thể xảy ra trong
hoạt động ngoại thương để từ đó có những quyết định đúng đắn, kịp thời, đạt hiệu quả
kinh tế cao nhất.

24

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÀI TRỢ XUẤT
NHẬP KHẨU TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI
THƯƠNG HÀ NỘI.
1. Khái quát về NHNT Hà Nội
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của NHNT
Hà Nội
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Chi nhánh TP Hà Nội (gọi tắt là NHNT Hà
Nội) được thành lập theo quyết định số 177/QĐ/NH ngày 22 tháng 12 năm 1984 của Tổng
giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (nay là Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam), chính thức đi vào hoạt động từ 01/ 03/1985 theo sự quản lý và phân công của
NHNT Việt Nam.
NHNT Hà Nội là một tổ chức tài chính có tư cách pháp nhân, thực hiện hạch toán kế
toán và kinh tế thống nhất trong hệ thống NHNT Việt Nam, hoạt động theo nguyên tắc tự
chủ về tài chính, đảm bảo và phát triển vốn, tự bù đắp chi phí và tự chịu rủi ro.
NHNT Hà Nội là ngân hàng trực thuộc và là Chi nhánh cấp I trong hệ thống NHNT

Việt Nam, cùng với NHNT TP. Hồ Chí Minh, Bà Rịa- Vũng Tàu được xếp loại doanh
nghiệp hạng I
1.2. Cơ cấu tổ chức của NHNT Hà Nội
Cơ cấu tổ chức của NHNT hà nội được trình bày theo sơ đồ sau

25

×