Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Thuyết Âm dương – Ngũ hành với đời sống người Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.61 KB, 28 trang )

Mối liên hệ giữa thuyết Âm dương –Ngũ hành với đời sống người Việt Nam
hiện nay

Contents
Contents..........................................................................................1
A. MỞ ĐẦU......................................................................................2
1. Đặt vấn đề...............................................................................2
2. Đối tượng nghiên cứu..............................................................3
3. Phương pháp nghiên cứu.........................................................3
B. NỘI DUNG...................................................................................3
Chương 1 Nội dung cơ bản của thuyết âm dương – ngũ hành........3
1.1. Nguồn gốc ra đời thuyết âm dương – ngũ hành...................3
1.1.1.Khởi đầu học Thuyết âm dương - ngũ hành....................3
1.1.2. sự ra đời của Thuyết âm dương - ngũ hành...................4
1.2. Những tư tưởng chính của thuyết âm dương – ngũ hành.....5
1.2.1.Thuyết âm dương............................................................5
1.2.2. Thuyết ngũ hành............................................................7
Chương 2: Mối liên hệ giữa Thuyết âm dương- ngũ hành trong đời
sống người Việt Nam.......................................................................9
2.1 Đời sống văn hóa, tâm linh của người Việt............................9
2.2. Áp dụng thuyết âm dương ngũ hành vào điều trị bệnh và
ẩm thực người Việt....................................................................10
2.2.1 Các phương pháp trị bệnh áp dụng thuyết âm dương
ngũ hành................................................................................10
2.2.2 Thuyết âm dương - ngũ hành trong ẩm thực người việt
...............................................................................................14
2.3. Đánh giá.............................................................................19
2.3.1. Những tác động tích cực của học thuyết Âm dương Ngũ hành tới đời sống văn hóa tâm linh ở Việt Nam..............19


2.3.2. Những tác động tiêu cực của thuyết Âm dương - Ngũ


hành tới đời sống văn hóa tâm linh ở người Việt Nam...........22
Chương 3: Giải pháp.....................................................................24
3.1. Nhóm giải pháp phát huy những giá trị tích cực................24
3.2. Nhóm giải pháp hạn chế ảnh hƣởng tiêu cực.....................24
C. KẾT LUẬN..................................................................................26
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................27

A. MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Triết học Phương Đông là một trong những nền tảng triết học ra đời sớm và
phát triển từ lâu, nhưng bản thân triết học Phương Đông mang một màu sắc riêng,
đóng góp quan trọng vào triết học nhân loại. Trong đề tài này chúng ta sẽ bàn về
một đề tài triết học quan trọng của Phương Đông là Thuyết âm dương – ngũ hành.
Đây là một học thuyết quan trọng của Phương Đông được ra đời từ rất sớm nhưng
với những đóng góp của nó cho nền triết học nó vẫn đang được nghiên cứu và
khám phá với một hệ thống tri thức đồ sộ mà ảnh hưởng của nó khơng cịn hạn hẹp
ở phương đơng mà trên tồn nhân loại.
Việt Nam là một nước có nền văn hóa phát triển khá sớm ln tiếp thu, trắc
lọc những tin hoa của nhân loại. Qua hơn 4000 năm văn hiến, nước ta chịu ảnh
hưởng nặng nề của của bọn ngoại ban xâm lấn đã làm cho nước ta điêu tàn nhưng
khơng vì thế mà trình độ, văn hóa của nước ta bị tuột hậu. Những tư tưởng lớn như
Thuyết âm dương - ngũ hành đã được các nhà triết học nước ta tiếp thu và phát huy
vào cuộc sống như một phần đời sống văn hóa tin thần. Những tư tưởng lớn của
Thuyết âm dương – ngũ hành còn được tiếp thu, chọn lộc sao cho phù hợp với điều


kiện Việt Nam để đưa vào điều trị bệnh bằng các bài thuốc đơn giản nhưng lại có
hiệu quả cao lại gần gủi dễ tìm. Vì vậy thuyết âm dương – ngũ hành có một vai trị
quan trọng trong đời sống người Việt nam. Để làm rỏ hơn vấn đề này chúng ta
cùng tìm hiểu chủ đề “Mối liên hệ của thuyết âm dương – ngũ hành trong đời

sống người Việt Nam” để có cái nhìn bao qt hơn về tầm ảnh hưởng của học
thuyết với con người Việt Nam.
2. Đối tượng nghiên cứu
Trong qua trình nghiên cứu đề tài em đã tiến hành tìm hiểu ảnh hưởng của
Thuyết âm dương – ngũ hành đối với văn hóa người Việt Nam, những phương
pháp chữa bệnh bằng đông y và cách thức giữ gìn sức khỏe bằng các món ăn của
người Việt nam đặt biệt là khu vực miền Tây nước ta dựa vào triết lý âm dương
ngũ hành.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Để làm rõ nội dung, mục đích của đề tài em đã kết hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu như phân tích và tổng hợp, thống kê và điều tra xã hội học, phương
pháp lịch sử…
B. NỘI DUNG
Chương 1 Nội dung cơ bản của thuyết âm dương – ngũ hành
1.1. Nguồn gốc ra đời thuyết âm dương – ngũ hành
1.1.1.Khởi đầu học Thuyết âm dương - ngũ hành
Trong quá trình phát triển của người Phương đông con người đã biết tích
lũy số liệu, ghi chép thời gian, địa điểm, khí hậu… nhận biết được các biến đổi tốt
xấu. Từ những ghi chép đó con người tiến hành so sánh phân loại đúc kết thành các
kinh nghiệm để hình thành nên nhận thức về sự vật. Họ nhận gọi sự thể hiện của
vạn vật là “Tượng”. Họ nhận thấy vạn vật ln có sự đối lập nhau và từ đó phân


chia ra làm hai loại “âm” và “dương”. Dương là những tượng có thuộc tính nóng,
sáng, đực…; âm là những tượng có thuộc tính lạnh, tối, cái…
Dần dần nhận thức của con người ngày một hoàn thiện hơn hai mặt đối lập
âm và dương khơng cịn đủ để giải thích thới giới người ta lại tiến hành phân loại
sự vật theo quá trình từ sinh ra đến mất đi của vạn vât theo 5 năm bước gọi là “ngũ
hành”. Mỗi bước có tác động qua lại lẫn nhau người ta gọi chúng là ngũ hành
tương sinh, ngũ hành tương khắc, ngũ hành tương chế, ngũ hành tương hóa.

Tuy đây chỉ là buổi đầu của học thức nhân loại nhưng Thuyết âm dương ngũ hành đã là một công cụ sắc bén để nhận thức thới giới từ lúc sự vật sinh ra đến
khi mất đi, từ nhận thức bằng cảm giác đến tư duy. Tuy chưa thật sự hoàn chỉnh
nhưng nó đã tạo ra một tri thức khổng lồ, huyền diệu mà đến ngày nay các nhà triết
học Phương đông và Phương tây vẫn đang nghiên cứu.
1.1.2. sự ra đời của Thuyết âm dương - ngũ hành
Cho đến nay nguồn góc chính xác về thời gian và người đã đặc nền tảng cho
Thuyết âm dương - ngũ hành vẫn chưa được xác định, có rất nhiều ý kiến bàn về
sự ra đời của Thuyết âm dương - ngũ hành nó được đề cập trong nhiều quyển sách
cổ như hoàng đê nội kinh, địa chí chỉ mong, thiên văn chí… một trong những cuốn
được nghiên cứu nhiều nhất về học thuyết này là cuốn kinh dịch.
Tương truyền, Phục Hy (2852 trước CN) nhìn thấy bức đồ bình trên lưng
con long mã trên sơng Hồng Hà mà hiểu được lẽ biến hóa của vũ trụ, mới đem lẽ
đó vạch thành nét. Đầu tiên vạch một nét liền (-) tức "vạch lề" để làm phù hiệu cho
khí dương và một nét đứt (--) là vạch chẵn để làm phù hiệu cho khí âm. Hai vạch
(-), (--) là hai phù hiệu cổ xưa nhất của người Trung Quốc, nó bao trùm mọi
nguyên lý của vũ trụ, khơng vật gì khơng được tạo thành bởi âm dương, khơng vật
gì khơng được chuyển hóa bởi âm dương biến đổi cho nhau. Các học giả từ thời
thượng cổ đã nhận thấy những quy luật vận động của tự nhiên bằng trực quan, cảm
tính của mình và ký thác những nhận thức vào hai vạch (--) (-) và tạo nên sức sống


cho hai vạch đó. Dịch quan niệm vũ trụ, vạn vật ln vận động và biến hóa khơng
ngừng, do sự giao cảm của âm dương mà ra, đồng thời coi âm dương là hai mặt đối
lập với nhau nhưng cùng tồn tại trong một thể thống nhất trong mọi sự vật từ vi mô
đến vĩ mô, từ một sự vật cụ thể đến toàn thể vũ trụ. Lúc đầu chỉ có 8 quẻ, mỗi quẻ
có 3 vạch liền hoăc đứt, chưa có chữ nghĩa gì hết. Sau đó Chu Văn Dườn đem bát
quái dịch thành 64 quái càng về sau có nhiều nhà triết học phân tích thêm cho
thuyết này nên thuyết này càng phong phú thêm và trở thành bộ sách được nhiều
người nghiên cứu nhất cho Thuyết âm dương - ngũ hành.
Sự ra đời của Thuyết âm dương - ngũ hành đánh dấu một bước tiến trong tri

thức lồi người về nhận thức thới giới, thốt khỏi sự khống chế của tư tưởng thần
thành là nguồn gốc sự vật. Có thể coi đây là nguồn cội của quan điểm duy vật biện
chứng của Phương đơng vì sự vật được cấu thành từ vật chất có sự biến đổi từ lúc
hình thành đến lúc mất đi thể hiện quy luật mâu thuẩn và sự biến đổi không ngừng
của sự vật. Nghiên cứu Thuyết âm dương - ngũ hành giúp ta nhận thức sâu hơn về
những trí trị tư tưởng triêt học và giá trị tích cưc mà nó mang lại.
1.2. Những tư tưởng chính của thuyết âm dương – ngũ hành
1.2.1.Thuyết âm dương
Theo lý thuyết trong Kinh dịch thì bản nguyên của vũ trụ là thái cực, thái cực là
nguyên nhân đầu tiên, là lý của muôn vật
- Thái cực sinh lưỡng nghi (hai nữa) là âm và dương
- Lưỡng nghi sinh tứ tượng là thái âm, thái dương, thiếu âm, thiếu dương
- Tứ tượng sinh bát quái (tám quẻ)


Như vậy, Thuyết đã quan niệm vũ trụ, vạn vật đều có bản thể động. Trong
thái cực, thiếu dương vận động đến thái dương thì trong lịng thái dương lại nảy
sinh thiếu âm, thiếu âm vận động đến thái âm thì trong lịng thái âm lại nảy sinh
thiếu dương. Cứ như thế, âm dương biến hoá liên tục, tạo thành vịng biến hóa
khơng bao giờ ngừng nghỉ. Vì thế, các nhà làm Dịch mới gọi tác phẩm của mình là
Kinh dịch. Ở Kinh dịch âm dương được quan nệm là những mặt, những hiện tượng
đối lập. Như trong tự nhiên: sáng - tối, trời - đất, đông - tây, trong xã hội: quân tử tiểu nhân, chồng - vợ, vua - tôi... Qua các hiện tượng tự nhiên, xã hội, các tác giả
trong Kinh dịch đã bước đầu phát hiện được những mặt đối lập tồn tại trong các
hiện tượng đó và khẳng định vật nào cũng ơm chứa âm dương trong nó: "vạn vật
hữu nhất thái cực" (vạn vật, vật nào cũng có một thái cực, thái cực là ầm dương).


Nhìn chung, tồn bộ Kinh dịch đều lấy âm dương làm nền tảng cho học thuyết của
mình.
1.2.2. Thuyết ngũ hành

Khi nhận thức con người tiến bộ hai bộ phận âm – dương khơng cịn đủ để
giải thích thới giới vũ trụ, với nhận thức cịn mộc mạc đã hình thành nên thuyết
ngũ hành.
Theo thuyết này thì mọi vật đều được cấu thành từ năm yếu tố khởi thủy là :
KIM, MỘC, THỦY, HỎA, THỔ.
Mọi vận biến đổi vô cùng nhưng đều có thể quy về năm yếu tố trên như:
Kim thì cứng, trắng, khơ, phương tây.
Thủy thì tượng trưng đen, mặn, phương bắc.
Mộc thì tượng trưng xám, chua, phía đơng.
Hỏa thì tượng trưng đỏ, phía nam.
Thổ thì tượng trưng vàng, chính giữa.
Tinh thần cơ bản của thuyết ngũ hành bao gồm hai phương diện giúp đỡ
nhau gọi là tương sinh và chống lại nhau gọi là tương khắc. Trên cơ sở sinh và
khắc lại thêm hiện tượng chế hoá, tương thừa, tương vũ. Tương sinh, tương khắc,
chế hoá, tương thừa, tương vũ biểu thị mọi sự biến hoá phức tạp của sự vật.
Luật tương sinh: Tương sinh có nghĩa là giúp đỡ nhau để sinh trưởng. Đem
ngũ hành liên hệ với nhau thì thấy 5 hành có quan hệ xúc tiến lẫn nhau, nương tựa
lẫn nhau.
Theo luật tương sinh thì thuỷ sinh mộc, mộc sinh hoả, hoả sinh thổ, thổ sinh
kim, kim sinh thuỷ, thuỷ lại sinh mộc và cứ như vậy tiếp diễn mãi. Thúc đẩy sự
phát triển không bao giờ ngừng. Trong luật tương sinh của ngũ hành cịn bao hàm
ý nữa là hành nào cũng có quan hệ vệ hai phương diện: Cái sinh ra nó và cái nó
sinh ra, tức là quan hệ mẫu tử. Ví dụ kim sinh thuỷ thì kim là mẹ của thuỷ, thuỷ lại
sinh ra mộc vậy mộc là con của Thuỷ.


Trong quan hệ tương sinh lại có quan hệ tương khắc để biều hiện cái ý thăng
bằng, giữ gìn lẫn nhau. Luật tương khắc: Tương khắc có nghĩa là ức chế và thắng
nhau. Trong qui luật tương khắc thì mộc khắc thổ, thổ lại khắc thuỷ, thuỷ lại khắc
hoả, hoả lại khắc kim, kim khắc mộc, và mộc khắc thổ và cứ như vậu lại tiếp diễn

mái.

Trong tình trạng bình thường, sự tưong khắc có tác dụng duy trì sự thăng
bằng, nhưng nếu tương khắc thái quá thì làm cho sự biến hố trở lại khác thường.
Trong tương khắc, mơĩ hành cũng lại có hai quan hệ:Giữa cái thắng nó và
cái nó thắng. Ví dụ mộc thì nó khắc thổ, nhưng lại bị kim khắc nó. Hiện tượng
tương khắc khơng tồn tại đơn độc; trong tương khắc đã có ngụ ý tương sinh, do đó
vạn vật tồn tại và phát triển.
Luật chế hóa: Chế hố là chế ức và sinh hoá phối hợp với nhau. Trong chế
hoá bao gồm cả hiện tượng tương sinh và tương khắc. Hai hiện tượng này gắn liền
với nhau.
Lẽ tạo hố khơng thể khơng có sinh mà cũng khơng thể khơng có khắc.
Khơng có sinh thì khơng có đâu mà nảy nở; khơng có khắc thì phát triển quá độ sẽ


có hại. Cần phải có sinh trong khắc, có khắc trong sinh mới vận hành liên tục,
tương phản, tương thành với nhau.
Quy luật chế hoá ngũ hành là:
Mộc khắc thổ, thổ sinh kim, kim khắc mộc.
Hoả khắc kim, kim sinh thuỷ, thuỷ khắc hoả.
Thổ khắc thuỷ, thuỷ sinh mộc, mộckhắc thổ.
Kim khắc mộc, mộc sinh hoả, hoả khắc kim.
Thuỷ khắc hoả, hoả sinh thổ, thổ khắc thuỷ.
Luật chế hoá là một khâu trọng yếu trong thuyết ngũ hành. Nó biểu thị sự
cân bằng tất nhiên phải thấy trong vạn vật. Nếu có hiện tượng sinh khắc thái q
hoặc khơng đủ thì sẽ xảy ra sự biến hố khác thường. Coi bảng dưới đây chúng ta
thấy mỗi hành đều có mối liên hệ bốn mặt. Cái sinh ra nó, cái nó sinh ra, cái khắc
nó và cái bị nó khắc.
=> Học thuyết Âm dương đã nói rõ sự vật, hiện tượng trong thế giới khách
quan với hai mặt đối lập thống nhất đó là Âm và Dương. Âm dương là quy luật

chung của vũ trụ, là kỷ cương của vạn vật, là khởi đầu của sự sinh trưởng biến hố.
Nhưng nó sẽ gặp khó khăn khi lý giải sự biến hố, phức tạp của vật chất. Khi đó nó
phải dùng thuyết Ngũ hành để giải thích. Vì vậy, kết hợp học thuyết Âm dương và
Ngũ hành mới có thể giải thích mọi hiện tượng tự nhiên và xã hội một cách hợp lý.
Chương 2: Mối liên hệ giữa Thuyết âm dương- ngũ hành trong đời sống người
Việt Nam
2.1 Đời sống văn hóa, tâm linh của người Việt
Tuy con người Việt Nam đang sống trong cuộc sống hiện đại với nhiều kỉ
thuật tiên tiến, khoa học tiến bộ nhưng đời sống tâm linh của con người khơng vì
thế mà kém năng động. Cụ thể là các chùa mộc lên ngày càng nhiều (chúng tơi
khơng nhắc đến các đạo giáo khác vì giới hạn của đề tài tập chung vào thuyết âm


dương – ngũ hành) quy mô ngày càng lớn, ngay cả những đơ thị phát triển thì phần
văn hóa tâm linh của người Việt vẫn được chú trọng. Vào nhừng ngày rằng (14, 15
hàng tháng) nhất là những rằng lớn như rằm tháng giêng, tháng 5, tháng 12 số lượt
người đi viếng chùa rất lớn chen lấn để có chổ thấp hương cầu an cho gia đình và
nguyện cầu những điều tốt đẹp.
Có thể khẳng định: Xu hướng hiện nay của đời sống văn hóa tâm linh nói
chung và tín ngưỡng tơn giáo phát triển và lan rộng nó ăn sâu vào mọi ngõ ngách
đời sống người dân. Đời sống văn hóa tâm linh của người dân Việt Nam có vẻ
ngược dịng với xu hướng văn hóa tâm linh hiện nay trên phạm vi toàn cầu – ngày
càng tăng “tục hóa đời tu” để hội nhập vào cuộc sống, bớt hẳn những nghi lễ rườm
rà, kể cả giảm đi “ơn kêu gọi” (các nhà tu trống vắng, các linh mục ít cam chịu khổ
hạnh,...). Niềm tin của họ được hình thành trên cơ sở tự nguyện hiến dâng để hữu
ích cho xã hội mang đậm tính nhân bản và có sức thuyết phục hơn. Thì những biểu
hiện đời sống văn hóa tâm linh của nước ta như đã nêu trên lại có vẻ trái ngược.
Thuyết Âm dương - Ngũ hành đã có một ý nghĩa quan trọng, tác động
khơng nhỏ tới đời sống văn hóa tâm linh con người Việt Nam. Dưới góc độ tư duy
khoa học, chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác xít học thuyết Âm dương - Ngũ hành

đã tác động tới đời sống văn hóa tâm linh Việt Nam
2.2. Áp dụng thuyết âm dương ngũ hành vào điều trị bệnh và ẩm thực người
Việt
2.2.1 Các phương pháp trị bệnh áp dụng thuyết âm dương ngũ hành
* Sự quy nạp vào ngũ hành trong thiên nhiên và trong cơ thể con người
Trong y học, học thuyết ngũ hành được ứng dụng để quan sát quy nạp và nêu
lên sự tương quan trong hoạt động sinh lý các tạng phủ, để chẩn đốn bệnh tật, để
tìm tính năng và tác dụng thuốc, để tiến hành công tác bào chế thuốc men.

Hiện

Ngũ hành


tượng
Mộc
Vật chất Gỗ, cây
Màu sắc Xanh
Vị
Chua
Mùa
Xn

Hoả
Lửa
Đỏ
Đắng
Hạ

Phương


Đơng

Nam

Tạng

Can

Phủ

Đởm

Tâm
Tiểu

Ngũ thể

Cân

Mạch

Thịt

Da lơng

Ngũ qn
Tình chí

Mắt

Giận

Lưỡi
Mừng

Miệng
Lo

Mũi
Buồn

trưởng

Thổ
Kim
Đất
Kim loại
Vàng
Trắng
Ngọt
Cay
Cuối hạ
Thu
Trung
Tây
ương
Tỳ
Phế
Đại
Vị

trường

Thuỷ
Nước
Đen
Mặn
Đơng
Bắc
Thận
Bàng
quang
Xương,
tuỷ
Tai
Sợ

Nếu đem đồ hình Thái cực, áp dụng vào khn mặt, nhìn từ sau ra trước, ta
thấy:
- Trán thuộc Tâm.
- Cằm thuộc Thận.
- Má bên trái thuộc Can.
- Má bên phải thuộc Phế.
- Mũi thuộc Tỳ (trung ương).
Việc phân chia này giúp ích rất nhiều trong việc chẩn bệnh.
Thí dụ: Nhìn thấy dấu hiệu báo bệnh ở vùng cằm có thể nghĩ đến bệnh lý ở
thận, hoặc vùng trán có dấu hiệu báo bệnh có thể nghĩ đến rối loạn ở tâm...
- Nếu xếp đồ hình dọc theo cơ thể con người ta thấy:
- Từ ngực trở lên thuộc Tâm.
- Từ thắt lưng xuống thuộc Thận.
- Nửa bên trái thuộc Can.



- Nửa bên phải thuộc Phế.
- Bụng thuộc Tỳ.
Sự phân chia này giúp rất nhiều, trong việc chẩn bệnh: Thí dụ:
- Có nhiều người chỉ cảm thấy lạnh nửa bên người hoặc nửa phần cơ thể
như: bên phải lạnh, bên trái nóng hoặc trên nóng dưới lạnh...
- Những người liệt nửa bên trái, thường kèm theo đau nửa đầu, chảy nước
mắt sống... (những biểu hiện của Can)... Liệt nửa phải thường kèm theo nói khó
khăn, khó đi cầu (những biểu hiện của Phế, Đại trường)...
* Ngũ hành và điều trị
Trong việc điều trị, cần nắm vững quy luật Sinh Khắc của Ngũ hành thì việc
trị liệu mới đạt được hiệu quả cao.
- Tương sinh
Cần nhớ nguyên tắc: "Hư bổ mẫu, Thực tả tử".
Hư bổ mẫu: Trong trường hợp Thổ sinh Kim thì Thổ là mẹ (mẫu) và Kim là
con (Tử). Trong trường hợp bệnh mạn tính, hư chứng, Tạng phủ bị bệnh lâu ngày,
không đủ sức tự phục hồi được, cần nhờ 1 nguồn cung cấp khác giúp nó phục hồi.
Muốn thế, cách hay nhất là nhớ ngay chính cái sinh ra nó, tức bổ cho mẹ nó để mẹ
nó giúp cho nó.
Thí dụ: Người bệnh Lao Phổi lâu ngày (Phế hư lao).
Trên nguyên tắc, bệnh ở Phế, Phế suy, sẽ được điều trị ở Phế, tức là bổ Phế,
tuy nhiên vì bệnh lâu ngày, Phế kém chức năng, khơng đủ sức tự phục hồi, do đó,
cần áp dụng nguyên tắc: "Hư bổ mẫu". Tỳ Thổ sinh Phế Kim, do đó phải bổ Tỳ
Thổ. Thực tế lâm sàng cho thấy, trong việc điều trị lao phổi, ngoài việc dùng thuốc
diệt trùng, ăn uống bồi dưỡng tốt sẽ giúp việc điều trị lao phổi phục hồi nhanh hơn.
Đây là ý nghĩa mà người xưa thường đề cập đến: "Dĩ thổ sinh Kim".
Trong châm cứu có 2 cách áp dụng nguyên tắc Hư bổ mẫu:



- Có thể dùng ngay 1 đường kinh để bổ. Thí dụ, Phế Kim suy, có thể bổ
huyệt Thái un vì Thái uyên là Thổ huyệt của Phế Kinh.
- Nếu dùng huyệt khác kinh thì Phế kinh suy, bổ ở kinh Tỳ vì Tỳ Thổ sinh
Phế Kim.
Theo báo cáo nước ngoài, Dược sĩ Carlos Miyares Cao đại học tổng hợp La
Habana (Cuba) từ năm 1971 đã chiết xuất từ Nhau thai nhi 1 chất có khả năng kích
thích sự phát triển các tế bào sinh sắc tố của da tên là Melagenia để trị bệnh Bạch
biến (vitiligo) còn gọi là Lang ben rất có hiệu quả. (Nhau thai nhi, thuộc thổ, bệnh
ở da liên hệ đến Phế Kim, ở đây áp dụng nguyên tắc Thổ sinh Kim).
Thực Tả Tử: Theo nguyên tắc này, thay vì tả trực tiếp Tạng phủ hoặc kinh
bệnh, thì lại điều trị ở Tạng phủ hoặc Kinh được nó sinh. Mộc sinh hỏa thì thay vì
tả Mộc lại tả Hỏa.
Thí dụ: Chứng Cao Huyết Áp do Can Dương vượng.
Theo ngũ hành, Can Mộc sinh Tâm hỏa, khi điều trị, điều chỉnh ở Tâm (an
thần).
Trong châm cứu, thay vì Tả Huyệt Đại Đơn (Mộc huyệt của can) lại Tả
huyệt Hành gian (Hỏa huyệt của Can).
- Tương khắc
Dùng quy luật tương khắc để điều chỉnh rối loạn giữa các hành.
Thí dụ: Người bệnh xuất huyết.
Huyết màu đỏ thuộc Hỏa, có thể dùng những vị thuốc màu đen (hoặc sao
cháy thành than) như Cỏ mực, Trắc bá... để chữa, vì màu đen thuộc Thủy, Thủy
khắc Hỏa.
Với những kinh nghiệm từ xưa, thêm vào tiến bộ khoa học kỉ thuật ngày nay
y học cổ truyền Đông Y dựa vào thuyết âm dương ngũ hành đã trở nên một bộ
phận quan trọng trong hệ thống y dược Việt nam. Hầu hết các trạm y tế huyện đều
có một phịng khám bênh Đông y chuyên cấp phát thuốc cho bệnh nhân, một số


bệnh phổ biến như đau nhức xương, dạ dày, nhức đầu kinh niên… các bệnh này

thường là bệnh dễ gặp ở người cao tuổi họ thấy rằng nếu uống thuốc Tây chỉ giảm
được trong một thời gian ngắn lại tiếp tục tái phát, lại có nhiều tác dụng phụ như
làm vàng da, lờn thuốc, nóng bức… nên họ thường chuyển sang dùng đơng dược
vì các loại thuốc này ngồi tác dụng chữa bệnh thâm niên nó ít gây tác dụng phụ rẻ
tiền, dễ kiếm rất phù hợp với thể trạng của nhiều người.
Các bác sĩ Đông y ngày nay cũng qua trường lớp, cách bắt mạch kê đơn
cũng khoa học hơn. Sự kết hợp giữa y học cổ truyền và y học hiện đại làm cho các
trung tâm Đông y ngày càng có huy tính lớn đối với người dân Việt nam. Nếu các
bệnh cấp bách như cấp cứu, tai biến, ngộ độc… thì các bệnh viện là lựa chọn hàng
đầu của người dân thì các bệnh người lớn tuổi bệnh khó trị dai dẵn thì Đơng y
chiếm ưu thế hơn hẳn. Thêm vào đó, các thầy thuốc Đơng y thường xuyên mở các
đợt cấp phát thuốc và khám bệnh miễn phí cho người dân, các thầy thuốc dựa vào
tâm sinh lý, điều kiện của từng địa phương mà đưa ra các phương pháp điều trị
hiệu quả cộng thêm các dược liệu của đơng y có thể tìm thấy từ các thảo mộc trong
địa phương hoặc có thể trồng tại nhà nên dược liệu khá phong phú cho các bài
thuốc.
Tuy thuyết âm dương - ngũ hành hình thành từ thời gian rất lâu trước đây
nhưng trước các triết lý phù hợp, có tính khoa học nên khi đưa vào điều trị bệnh nó
đã mang lại hiệu quả cao phù hợp với điều kiện của người Việt nam về tâm sinh lý,
các thảo dược cũng dễ tìm đã tạo nên ưu thế, tin tưởng của người dân so với các
phương pháp điều trị hiện đại ngày nay.
2.2.2 Thuyết âm dương - ngũ hành trong ẩm thực người việt
Mang màu sắc văn hóa nơng nghiệp lúa nước, cư dân người Việt có nền ẩm
thực vô cùng phong phú không chỉ ở số lượng các món ăn mà cả ở sắc thái văn hóa
giao tiếp ứng xử qua ẩm thực. Từ bao đời nay, người Việt đã biết kết hợp hài hòa


các nguyên liệu để tạo ra các món ăn có lợi tốt nhất cho sực khỏe. Đó chính là triết
lý âm dương ngũ hành trong văn hóa ẩm thực.
Người xưa thường nói “có thực mới vực được đạo”. Trong các nhu cầu của

con người: thực, y, cư, hành, khang, lạc,… thì Thực (ăn) đứng đầu. Mọi hành vi
của con người đều được ghép với ăn: ăn uống, ăn mặc, ăn học, ăn nói, ăn ở, ăn
chơi, ăn ngủ, ăn nằm,…Đặc biệt người Việt Nam đặc biệt chú trọng đến quan hệ
biện chứng âm dương trong ẩm thực, bao gồm 3 mặt quan hệ hết sức mật thiết với
nhau, đó là: bảo đảm hài hòa âm dương của thức ăn; bảo đảm sự quân bình âm
dương trong cơ thể và bảo đảm sự cân bằng âm dương giữa con người với mơi
trường tự nhiên.
Thứ nhất, bảo đảm hài hịa Âm Dương của thức ăn. Để tạo nên các món ăn
có sự cân bằng Âm Dương , người Việt phân biệt năm mức Âm Dương của thức
ăn theo Ngũ Hành, bao gồm: Hàn (lạnh, âm nhiều, hành thủy), Nhiệt (nóng, dương
nhiều, hành hỏa), Ơn (ấm, dương ít, hành mộc), Lương (mát, âm ít, hành kim),
Bình (trung tính, hành thổ).
Khi chế biến thức ăn, phải tuân thủ nghiêm ngặt luật Âm Dương bù trừ và
chuyển hóa khi kết hợp các loại lương thực, thực phẩm, gia vị với nhau tạo thành
các món ăn có sự cân bằng âm – dương, thủy – hỏa. Có như vậy, thức ăn mới có
lợi cho sức khỏe và ngon miệng. Chẳng hạn: rau răm là nhiệt (dương) được ăn với
trứng lộn là hàn (âm) thì ngon miệng, dễ tiêu hóa. Hoặc gừng là thứ gia vị nhiệt
(dương) có tác dụng thanh hàn, giải cảm, khi nấu kèm với các loại thực phẩm như:
cá, rau cải (kho cá, canh rau cải) là thực phẩm có tính hàn thì ăn rất thơm, ngon.
Thứ hai, bảo đảm sự quân bình Âm Dương trong cơ thể. Người Việt Nam
sử dụng thức ăn như là các vị thuốc để trị bệnh. Theo quan niệm của người Việt
Nam thì mọi bệnh tật sinh ra là do cơ thể bị mất quân bình Âm Dương , thức ăn
chính là vị thuốc để điều chỉnh sự mất quân bình Âm Dương ấy, giúp cơ thể khỏi
bệnh. Vì vậy, nếu người bệnh ốm do quá âm cần phải ăn đồ ăn dương (đau bụng


lạnh, uống nước gừng sẽ khỏi); ngược lại nếu người bệnh ốm do quá dương thì cần
phải ăn đồ ăn âm (bệnh kiết lị, ăn trứng gà rang với lá mơ)…
Thứ ba, bảo đảm sự quân bình Âm Dương giữa con người và mơi trường.
Người Việt Nam có tập qn ăn uống theo vùng khí hậu và theo mùa. Chẳng hạn,

mùa hè nóng (nhiệt – hành hỏa) nên ăn các loại thức ăn hàn, lương (mát), có nước
(âm – hành Thủy), có vị chua (âm) thì vừa dễ ăn, vừa dễ tiêu hóa, vừa giải nhiệt.
Mùa đơng lạnh (hàn – âm) thì nên ăn các loại thức ăn khơ, nhiều mỡ (dương), như
các món xào, rán, kho…
Ví dụ: trong đám cưới, vợ chồng trẻ thường tặng cho nhau một nắm đất và
một nắm muối, như lời thề nguyền gắn bó với nhau và câu ca dao: “Gừng cay muối
mặn xin đừng quên nhau”. Để cho tình cảm vợ chồng gắn bó, ăn đời ở kiếp với
nhau, ngày cưới người ta cịn làm bánh phu thê : hình trịn, bọc trong khn hình
vng (dương trong âm). Bánh có ruột dừa trắng, nhân đậu vàng, rắc vừng đen,
khuôn lá xanh, buộc lạt đỏ – đó là biểu tượng của triết lý Âm Dương – Ngũ Hành,
biểu tượng cho sự vẹn tồn, hịa hợp của đất trời và con người.
Các món ăn cịn thể hiện được vị : mặn, ngọt, chua, cay, đắng; Ngũ sắc:
Trắng, đen, xanh, đỏ, vàng. Để thỏa mãn 5 giác quan khi ăn: mũi ngửi mùi thơm,
mắt thấy được màu sắc, tai thấy được tiếng nhai, lưỡi nếm được mùi vị, và tay cầm
và cảm nhận. Nó liên quan tới hoạt động của ngũ tạng (tâm, can, tỳ, phế, thận),
điều hịa lục phủ ngũ tạng.
Các món ăn ngày tết của mỗi miền dù khác nhau đến đâu cũng không thốt
khỏi mơ hình canh - rau - mặn. Miền Bắc ăn nhiều chất béo để giữ ấm. Tết rất lạnh,
nên mới có món thịt đơng. Sự khác biệt của món ăn các vùng chịu ảnh hưởng của
phong thổ, vị trí địa lý. Chịu ảnh hưởng của gió biển, gió núi, khí hậu khắc nghiệt,
các sản vật miền Trung khơng thể phong phú bằng hai miền Bắc, Nam. Vì vậy, các
món ăn có nhiều vị cay, mặn (ăn mặn có thể do tính tằn tiện, cịn ăn cay để chống
lại cái lạnh cũng như kháng lại mùi tanh của cá). Trong khi đó, món ăn ngày tết của


miền Nam nhiều cá, thịt, cây trái. Khi chế biến, món gì cũng được cắt to, thái dày.
Chẳng hạn, món thịt kho ngày tết bao giờ cũng thái vuông lớn thay vì thái lát mỏng
như ngày thường. Từ mâm ngũ quả của miền Bắc vào đến miền Nam đã trở thành
"mũ quả", với hoa tươi, trái ngọt phương Nam. Người Nam còn sắp trái cây theo
kiểu chơi chữ, như cầu vừa đủ xài với quả mãng cầu, dừa (vừa), đu đủ, xồi (xài).

"Văn hóa cuốn" cũng là đặc trưng của món ăn ngày Tết Nam Bộ.
Bánh chưng là sản phẩm lâu đời của nền văn minh nông nghiệp lúa nước.
Bánh chưng vừa bình dị, thân thiết với người Việt Nam, vừa thể hiện tính tư duy
sâu sắc của người xưa và thấm đượm triết lý âm dương, tam tài và ngũ hành. Bánh
chưng được làm từ sản phẩm nông nghiệp trồng trọt và chăn ni đó là: gạo nếp,
đậu xanh, thịt heo, gia vị (thảo quả, hạt tiêu, muối). Tất cả những thứ ấy được gói
lại bằng lá dong hay lá chuối vuông vức và được cột bằng dây lạt mềm mại buộc
chặt.
Bánh chưng trong ngày tết tuy đơn giản như thế nhưng thể hiện tính tư duy
sâu sắc của người xưa. Khi cắt bánh chưng ra, một tổng thể 5 màu sắc thật hấp dẫn:
Màu vàng ngà của nhân đậu bùi thoảng hương thơm, màu đỏ hồng của thịt heo
chín, màu trắng ngần của nếp dẻo thơm, màu xanh biếc của lá dong hay lá chuối và
chấm đen của thảo quả, hạt tiêu. Từ trong ra ngoài của chiếc bánh thể hiện triết lý
âm dương, tam tài, ngũ hành. Năm màu sắc ấy tượng trưng cho ngũ hành trong
triết lý phương Đông. Thủy (màu đen), hỏa (màu đỏ), mộc (màu xanh), kim (màu
trắng), thổ (màu vàng). Ngũ hành tương sinh tương khắc hài hòa bổ trợ cho nhau
trong tổng thể vuông vức ấy.
Màu vàng ứng với hành thổ trong thế đất vuông nằm ở trung tâm, tượng
trưng cho con người. Trong chiếc bánh, hạt đậu vàng được đặt ở giữa làm nhân,
bên cạnh thịt lợn đỏ hồng. Đây là hai cặp phạm trù âm dương hòa quyện vào nhau
(hạt đậu: là sản phẩm từ thực vật, thể hiện văn hóa trọng tình, là âm; thịt heo: sản
phẩm từ động vật, thể hiện văn hóa trọng động, là dương), chúng bổ trợ cho nhau


trong quá trình phát triển. Ngay trong đời sống thực vật và động vật đã có sự
nương dựa vào nhau và chuyển hóa cho nhau. Thực vật là nguồn sống của động vật
và ngược lại, chất thải của động vật lại là nguồn dinh dưỡng cho thực vật hấp thụ
phát triển.
Bánh chưng còn thể hiện triết lý âm dương trong cách bố trí hình thể và nhân
chiếc bánh. Bánh chưng hình vng (là âm), bên trong nhân bánh hình trịn (là

dương). Cùng bao bọc của nhân đậu, thịt heo (âm – dương) là màu trắng của nếp.
Nếp – đậu – thịt heo (âm – dương – âm, thực vật – động vật – thực vật) tạo thành
tam tài. Tam tài với 3 cặp phạm trù âm – dương: nếp – thịt heo (âm – dương), đậu
– thịt heo (âm – dương), nếp – đậu (âm – dương, nếp được trồng dưới nước là âm,
đậu trồng trên cạn là dương).
Trong ăn uống, không chỉ biết ăn hợp thời tiết, đúng mùa, người Việt sành ăn
còn phải biết chọn đúng bộ phận có giá trị nhất để ăn “đầu cá chép, mép cá trôi,
môi cá mè, lườn cá trắm”; phải chọn đúng trạng thái thực phẩm có giá trị “tơm nấu
sống, bống để ươn”; đúng thời điểm có giá trị “cơm chín tới, cải vồng non, gà ghẹ
ổ” thì ăn mới ngon.
Ngồi ra, còn phải chọn thức ăn đang ở dạng âm dương cân bằng, là thức ăn
ngon, giàu chất dinh dưỡng như: trứng lộn, giá, nhộng, đuông, cốm,… Người xưa
cho rằng: “Cốm hóa vàng, chim cu ra ràng, cà cuống trứng” là ngon nhất…
Triết lý Âm Dương – Ngũ Hành còn được thể hiện cả trong đồ uống, hút.
Trong bữa ăn, người Việt Nam xưa không uống bia, cũng không uống “rượu Tây”,
“rượu Tây” là phù hợp với người xứ lạnh. Thức ăn Việt Nam phải dùng chung với
rượu Việt Nam nấu từ gạo nếp mới ngon. Khi uống rượu, các cụ đốt lên một bình
hương trầm thơm, mặc áo the, khăn đóng ngồi trên sập gụ, trước mặt là một đĩa
thức ăn ngon, rượu được rót ra chén hạt mít hay chén mắt trâu, vừa ăn vừa bàn
chuyện văn thơ, thế sự… một cách ăn uống thật tao nhã.


Trong chế biến thức ăn, người Việt đều chú ý đến mối quan hệ Âm Dương,
Ngũ Hành và ngay cả việc sắp xếp không gian cho bữa ăn, thời gian cũng đều được
chú ý, tùy thuộc vào điều kiện khí hậu mỗi vùng, tính chất của thực phẩm…Tuy
nhiên như đã nói quy luật Âm Dương hay Ngũ Hành khơng phải là một phép tốn
cố định, một vật có thể vừa âm vừa dương, vừa sinh vừa khắc. Vì vậy việc áp dụng
cho bất kỳ một hiện tượng nào cũng chỉ mang tính chất cơ sở tương đối. Bởi cịn
phụ thuộc rất nhiều yếu tố, đặc biệt là việc am hiểu những đặc trưng, quy luật vận
hành của Âm Dương, Ngũ Hành.

Bữa ăn truyền thống của người Việt Nam là sản phẩm của truyền thống nơng
nghiệp lúa nước, nó chứa đựng những tư duy, triết lý sâu sắc trong việc nhận thức
về vũ trụ. Người Việt Nam đã biết vận dụng những nguyên lý ấy để làm cho bữa ăn
của mình đa dạng, giàu dinh dưỡng, có ích đối với sức khỏe. Tùy vào con người
(chủ thể), không gian và cả thời gian mà họ có cách chế biến khác nhau phù hợp,
trong đó yếu tố Âm Dương, Ngũ Hành được đảm bảo. Ngày nay, khi khoa học
công nghệ hiện đại phát triển, song bữa ăn của người Việt vẫn lưu giữ được những
nét truyền thống và được bạn bè quốc tế đánh giá cao. Việc vận dụng những
nguyên lý của Âm Dương- Ngũ Hành trong việc chế biến thức ăn là điều cần thiết,
để đảm bảo cho sức khỏe.
2.3. Đánh giá
2.3.1. Những tác động tích cực của học thuyết Âm dương - Ngũ hành tới
đời sống văn hóa tâm linh ở Việt Nam
Đời sống tâm linh dường như là một nhu cầu tất yếu đời sống tinh thần của
con người. Nhu cầu này giúp con người xoa dịu nỗi đau trần thế, vượt qua những
khó khăn thử thách nghiệt ngã của cuộc đời về mặt tinh thần. Khi gặp nỗi đau,
niềm bất hạnh, bất kỳ ai cũng có nhu cầu được chia sẻ, vượt qua được những khó
khăn, thử thách và những lúc rơi vào tình huống như vậy, có lẽ rất nhiều người sẽ
hướng về thế giới tâm linh để cầu mong một sự che chở vỗ về, dù họ biết chẳng có


một phép mầu, chẳng có một ơng bụt, vị thần nào cả giữ cuộc sống trần thế. Những
nỗi đau quá sức chịu đựng của con người nhỏ bé, yếu đuối và mong manh thường
xảy ra trong cuộc đời. Một người mẹ chứng kiến đứa con của mình gặp khó khăn
trong cuộc sống, một người vợ mất chồng, một nhà kinh doanh thất bại... Họ sẽ
làm gì nếu khơng hướng về đời sống tâm linh để được tiếp thêm nguồn sức mạnh
tinh thần, để được an ủi. Dù khoa học công nghệ có tiến bộ đến đâu đi nữa thì
những tai nạn bất ngờ, những căn bệnh nan y vẫn cứ xẩy ra và cướp đi cuộc sống
của nhiều người vô tội. Chính những lúc như vậy con người tìm đến ông thầy, bà
cô, những vị thần mong giải thoát. Từ tâm lý ấy, trong đời sống tâm linh đã có

nhiều hoạt động trên cơ sở học thuyết Âm dương - Ngũ hành. Đặc biệt học thuyết Ngũ hành người Việt Nam đã vận dụng vào xem bói – hình thức cụ thể nhất trong
đời sống tâm linh. Mỗi người tương ứng với một hành gắn với mỗi hành là các quẻ
bói. Dựa vào đó thầy bói sẽ đưa ra những lời tiên đoán số mệnh, tiên đoán hiện tại,
tương lai với mong muốn đưa con người tìm thấy một cuộc sống bình n, hạnh
phúc, thốt khỏi tai ương, hoạn nạn.
Đặc biệt đời sống tâm linh còn thể hiện rõ nét ở sự hài hòa giữa vận dụng Âm
- Dương trong ý chí, tinh thần người Việt. Cha ơng ta đã dạy: “Có chí thì nên”,
“thất bại là mẹ thành cơng”,... Do đó, người Việt Nam bên cạnh tính chất thơng
minh, tài cao họ còn phải chăm chỉ tu dưỡng đạo đức, học hỏi kiến thức xã hội.
Các câu dạy trong phật giáo đã dạy con người lối sống đạo đức dung hòa các
mối quan hệ phải biết tu dưỡng bản thân làm việc thiện để có được một con người
tốt có ích cho xã hội, chính là sự hài hịa các yếu tố quy luật của cuộc sống giữa cái
riêng với cái chung, con người với xã hội phù hợp với các yếu tố tiến bộ của triết
học Mác. Như vậy, chính đời sống tâm linh đã giúp cuộc sống con người trở nên
hài hịa, giúp con người ln có ý chí vươn lên để hồn thiện bản thân trở thành
người có ích cho gia đình, xã hội. Những lời khun gắn với tâm lí, tình cảm giúp
con người tránh khỏi tai ương, khó khăn cũng như giúp họ xoa dịu nỗi đau trong


cuộc sống. Đó chính là cân bằng Âm - Dương giúp con người thốt khỏi khủng
hoảng, cân bằng hài hịa cuộc sống.
Ở Việt Nam hiện nay, đời sống tâm linh đã đi tới mọi ngõ ngách cuộc sống
người dân nó ăn sâu vào tiềm thức, máu thịt của họ. Nhìn một cách tổng quát
người dân đi lễ chùa, nhà thờ, thờ cúng tổ tiên thậm chỉ trong bói đều mang giá trị
“văn hóa” tâm linh. Chẳng hạn như trong phong tục thờ cúng tổ tiên - biểu hiện cụ
thể đời sống tâm linh người Việt Nam đều thể hiện sự thành kính đối với tổ tiên,
cầu mong tổ tiên phù hộ cho gia đình, con cái hiếu thảo, xa lánh điều ác, hay trong
việc đi lễ chùa, nhà thờ vào các ngày lễ rằm đều cũng vì mục đích hướng thiện.
Kinh thánh đã dạy: “Ai làm việc thiện sẽ sống lại để được sống còn ai làm điều ác
sẽ sống lại để nhận án phạt”. Phật giáo cũng dạy: “Thiện khơng chỉ là chuẩn mực

đạo đức cần có, mà cịn là phương tiện để giải thốt”.
Thêm vào đó, người Việt đặc biệt chú trọng vấn đề “phong thủy”. “Phong”
và “thủy” là hai yếu tố quan trọng nhất tạo thành tạo thành vi khí hậu của một ngơi
nhà. Phong là gió (thuộc dương); thủy là nước, tĩnh hơn, thuộc âm. Trong nhà, nếu
có gió quá nhiều hoặc nước tù quá đọng đều khơng tốt. Người ta vẫn xây dựng các
bình phong để lái gió hoặc dựng hịn non bộ để điều thủy (âm dương điều hịa) là
vậy. Ngồi ra, tất cả các chi tiết của ngôi nhà được liên kết với nhau bằng “mộng”.
“Mộng” là cách ghép theo nguyên lý âm dương, nghĩa là: Phần lồi ra của bộ phận
này phải khớp với chỗ lõm tương ứng của bộ phận khác. Kỹ thuật này tạo nên sự
liên kết rất chắc chắn mà vẫn linh động giúp tháo dỡ dễ dàng. Khi cần cố định các
chi tiết của ngơi nhà thì dùng đing tre vng tra vào các lỗ trịn (âm – dương). Khi
lợp nhà, người Việt dùng ngói âm dương: Viên sấp, viên ngửa khác với ngói ống
Trung Hoa. Trong hình thức kiến trúc thường coi trọng bên trái và số lẻ. Tất cả đều
từ triết lý âm dương mà ra.
Phong thủy còn được chú trọng ở rất nhiều lĩnh vực trong đời sống người
việt như tục xong đất đã cho thấy được ảnh hưởng của thuyết ngũ hành là sự vận


dụng của quy luật tương sanh trong ngũ hành, theo tục này kể từ thời điểm giao
thừa người đầu tiên đến nhà gia chủ là người rất quan trọng quyết định sự thịnh
vượn, sức khỏe của gia chủ nên người khách này thường được gia chủ xem tuổi
trước, mạng, tướng, cách ăn mặc để nhờ người hợp với mình tới xong đất. nếu gia
chủ mạng Hỏa nên chọn người mệnh Mộc, Chủ mệnh Thủy nên chọn người mệnh
Kim theo theo luât tương sanh; xem tuổi mạng để cưới vợ, gã chồng theo đó hai
người yêu nhau trước khi cưới gia đình hai bên phải xem tuổi, mạng để xem có
hợp khơng rồi mới cho phép cưới như mạng hỏa thì khắc thủy không tốt… tuy
nhiên phong tục này ngày càng được xem nhẹ hơn vì quan trọng nhất trong hơn
nhân ngày nay là tình u đơi lứa, đạo đức và vẽ đẹp tâm hồn việc xem tuổi chỉ
cịn mang tính chất tham khảo để ngày cưới được trọn vẹn hơn.
Có thể khẳng định rằng, những giá trị văn hóa đời sống tâm linh là bền vững

và có những ý nghĩa tích cực. Đó là những giá trị chúng ta phải nhận thức sâu sắc
và đầy đủ để phát huy tính tích cực, đẩy mạnh đời sống tinh thần, phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc của người dân tộc Việt nam.
2.3.2. Những tác động tiêu cực của thuyết Âm dương - Ngũ hành tới đời
sống văn hóa tâm linh ở người Việt Nam.
Trong một thời gian gần đây , một thực tế khơng thể phủ nhận đó là sự xuất
hiện nhiều hiện tượng văn hóa tâm linh lệch lạc. Một bộ phận người Việt Nam đã
tiếp thu học thuyết Âm dương ngũ hành 1 chiều, phiến diện dẫn đến chỗ đã truyền
bá những tư tưởng sai lầm, làm phức tạp, thần bí hóa một học thuyết vốn có nhiều
điểm tích cực của nó. Một số tín đồ tơn giáo chưa hiểu được giáo lý đã bị các phần
tử xấu lợi dụng để trục lợi, tuyên truyền các quan điểm sai trái, ngày một xa rời các
triết lý tích cực của tơn giáo mình. Đa số các phần tử này tun truyền quan điểm
mê tín để kiếm tiền tạo ra mổi trường sùng bái cá nhân tạo qui tính cá nhân sai
khiến người khác làm theo mục đích bất chính của bản than. Hậu quả của những
tín đồ này có thể mất đi tiền bạc, hạnh phúc gia đình thậm chí tính mạng của họ;


bằng chứng là đã có rất nhiều người đã mất mạng khi chữa bệnh bằng bùa, phép
gia đình ly tán, sức khỏe người bệnh thì ngày càng cạn kiệt.
Nguy hiểm hơn, các cá nhân tổ chức lợi dụng sự đời sống tâm linh, tín
ngưỡng làm lệch lạc, chống lại đường lối của Đảng, nhà nước, làm cho con người
lãng quên các mối quan hệ xã hội - đạo đức tôn giáo chỉ chú trọng đến việc hoàn
thiện đạo đức cá nhân mà quên đi lợi ích cộng đồng, rồi khuyên con người nhẫn
nhục cuộc sống nô lệ, sợ hãi thiên nhiên…. Một điều đáng buồn là những nơi linh
thiêng nhất lại là môi trường thuận lợi cho kẻ xấu lợi dụng “làm địa bàn thu lợi
nhuận”,là nơi con người thưc hiện những hành vi thiếu văn hóa. Nhiều ngơi chùa,
nhà thờ, miếu mạo mọc lên phát ra những thông tin hư ảo như thần linh xuất hiện,
cứu người này, cứu người kia rồi ban phát độ trì. Khơng biết từ đâu mọc ra những
ông thầy xem tướng số, giải nạn những ơng “thầy bói xem voi” này đã vận dụng
học thuyết Âm dương - Ngũ hành đưa ra những quẻ bói ứng với mỗi quẻ là tính

cách, tướng số, nói chuyện với người âm…. và cứ thế người dân tuyệt đối tin theo,
thậm chí họ có thể bán hết tài sản trong nhà để đi thầy, theo thầy.
Rõ ràng, nếu nhìn nhận vấn đề tâm linh, tín ngưỡng bằng cặp mắt duy vật
tầm thường bằng lối tư duy siêu hình máy móc thì dẫn đến những sai lầm nguy
hiểm có thể dẫn tới 2 khuynh hướng: Một mặt thổi phồng tuyệt đối hóa vai trị của
đời sống tâm linh. Mặt khác, cũng đáng sợ và nguy hiểm đó là dương cao ngọn cờ
duy vật lại bỏ quên tính biện chứng đã vội vàng quy kết rằng, tất cả những gì thuộc
về đời sống tâm linh đều đồng nghĩa chủ duy tâm, đều gắn với mê tín dị đoan do
đó phải tiết kiệm, phải xóa bỏ. Đã có thời kỳ người ta rầm rộ đập phá đình chùa,
miếu mạo và việc làm đó đồng nghĩa với việc xóa bỏ tàn tích chủ nghĩa duy tân, dị
đoan của phong kiến cổ hủ.


Chương 3: Giải pháp
3.1. Nhóm giải pháp phát huy những giá trị tích cực
Để xây dựng đời sống văn hóa mới cho người Việt, một nền văn hóa tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc trên cơ sở phát huy những giá trị tích cực của học thuyết Âm
dương, Ngũ hành, theo chúng tơi cần phải có những giải pháp thiết thực và cụ thể.
Thứ nhất, phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền để nhân dân hiểu được những giá
trị tích cực của học thuyết Âm dương, Ngũ hành, qua đó nâng cao lịng tự hào về
những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc của cha ơng, từ đó tự giác tham gia các
hoạt động văn hóa cộng đồng. Thứ hai, phải bảo tồn, gìn giữ và phát huy những giá
trị văn hóa của học thuyết Âm dương, Ngũ hành trong đời sống tinh thần người
Việt: phong tục, tín ngưỡng, nghệ thuật, lối sống... giữ gìn bản 19 sắc văn hóa dân
tộc, đấu tranh với sự xâm nhập của văn hóa ngoại lai, phản tiến bộ
3.2. Nhóm giải pháp hạn chế ảnh hƣởng tiêu cực
Bên cạnh các giải pháp nhằm phát huy các giá trị tích cực của học thuyết
Âm dương, Ngũ hành thì việc xây dựng các giải pháp để hạn chế những ảnh hưởng
tiêu cực của học thuyết này cũng như phát huy giá trị văn hóa tinh thần, bản sắc
văn hóa dân tộc, chống lại lối sống thực dụng, mê tín, lợi dụng tơn giáo để “bòn

rút” tiền của dân làm đời sống nhân dân “mê muội” là nhiệm vụ cấp thiết, lâu dài.
Thứ nhất, phải nâng cao dân trí, nâng cao trình độ nhận thức nhân dân; tích
cực xây dựng chuẩn mực nếp sống đạo đức, đời sống tinh thần mới trên cơ sở đấu
tranh việc lợi dụng học thuyết Âm dương, Ngũ hành để truyền bá tệ nạn mê tín dị
đoan trong đời sống văn hóa tinh thần nhân dân
Thứ hai, kế thừa những giá trị tích cực học thuyết Âm dương, Ngũ Hành và
văn hóa truyền thống dân tộc, tiếp thu các giá trị tinh hoa văn hóa nhân loại.
Một là, kế thừa có tính phê phán, chọn lọc. Trong học thuyết Âm dương,
Ngũ hành và văn hóa truyền thống có những mặt giá trị và phi giá trị. Chính vì vậy,
phải nhận thức rõ và xác định cho đúng những giá trị văn hóa truyền thống Việt


Nam đích thực. Với những nét giá trị truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc, đã
được kiểm nghiệm, đánh giá của lịch sử, thời gian, được cộng đồng thừa nhận thì
cần kế thừa và phát huy. Trái lại, đối với những mặt lạc hậu, lỗi thời, cản trở sự tiến
bộ thì phải khắc phục hoặc kiên quyết loại bỏ. Ví dụ như: các hình thức bói tốn,
gieo quẻ âm dương, tư tưởng tiểu nông (cục bộ địa phương “phép vua thua lệ
làng”, bình quân chủ nghĩa…).
Hai là, kế thừa phải gắn với quá trình xây dựng xã hội mới, nền văn hóa mới
và con người mới. Việc kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong
bối cảnh tồn cầu hóa ở nước ta vừa có tính cấp bách, trước mắt, vừa mang tính
chiến lược, lâu dài nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
dậm đà bản sắc dân tộc, góp phần xây dựng nhân cách con người Việt Nam phù
hợp với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, để văn hóa thực sự là nền tảng, là động lực
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Ba là, kế thừa và phát huy bản sắc dân tộc, các giá trị văn hóa truyền thống
gắn với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn kết
với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc cái hay, cái tiến bộ trong văn
hóa các dân tộc khác. Giao lưu văn hóa như là một tất yếu khách quan bởi chính
nhờ giao lưu hội nhập mà bản sắc văn hóa dân tộc được bổ sung những yếu tố

ngoại lai để làm phong phú bản sắc của mình. Đồng thời, qua đó, cũng góp phần
làm phong phú văn hóa thế giới khi chính các nền văn hóa ngoại lai cũng tiếp nhận
những giá trị tinh hoa văn hóa Việt Nam.
Bốn là, kế thừa, bảo tồn các giá trị học thuyết Âm dương, Ngũ hành và văn
hóa truyền thống một cách tích cực, chống thái độ bảo thủ . Kế thừa, bảo tồn các
giá trị học thuyết Âm dương, Ngũ Hành và văn hóa truyền thống là việc cần làm
nhưng không sa vào bảo thủ khi đề cao quá văn hóa dân tộc truyền thống mà coi
nhẹ và không 21 chịu tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới.. Trong khơng gian của đời
sống văn hóa phương Đơng nói riêng, việc nhận diện tư tưởng bảo thủ, trông chờ,


×